Tài liệu hướng dẫn học tập Thương mại quốc tế

pdf 210 trang phuongnguyen 2260
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu hướng dẫn học tập Thương mại quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftai_lieu_huong_dan_hoc_tap_thuong_mai_quoc_te.pdf

Nội dung text: Tài liệu hướng dẫn học tập Thương mại quốc tế

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN HỌC TẬP THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ Biên soạn: ThS. ĐINH THỊ LIÊN TS. ĐOÀN THỊ MỸ HẠNH THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2009
  2. MỤC LỤC Trang Phần mở đầu Giới thiệu môn học thương mại quốc tế . . . . . . . . . . . . . . . 3 Bài 1: Khái quát về thương mại quốc tế. . . . . . . . . . . . . . . . 7 Phần 1: Các lý thuyết về thương mại quốc tế Bài 2: Các lý thuyết cổ điển về thương mại quốc tế . . . . . . 20 Bài 3: Lý thuyết chi phí cơ hội gia tăng . . . . . . . . . . . . . . . . 50 Bài 4: Các lý thuyết hiện đại khác. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 79 Phần 2: Các công cụ và chính sách thương mại quốc tế Bài 5: Thuế quan. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 109 Bài 6: Hàng rào phi thuế quan. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 125 Bài 7: Các chính sách thương mại quốc tế . . . . . . . . . . . . . . 145 Phần 3: Các xu hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá Bài 8: Xu hướng toàn cầu hoá. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 168 Bài 9: Xu hướng khu vực hoá. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 192 Tóm tắt toàn môn học. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 206 Tài liệu tham khảo . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 209 1
  3. PHẦN MỞ ĐẦU: GIỚI THIỆU MÔN HỌC THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ I. KHÁI QUÁT VỀ NỘI DUNG MÔN HỌC: Thuật ngữ “thương mại quốc tế” ngày nay rất thường xuyên xuất hiện trên báo, đài; trên các văn bản của các cơ quan nhà nước hoặc của các doanh nghiệp. Vì thế chắc hẳn các bạn không chỉ một lần nghe nói đến “thương mại quốc tế”. Vậy “thương mại quốc tế” là như thế nào, có gì khác với thương mại trong nước? Tầm quan trọng của nó đối với mỗi quốc gia và nền kinh tế thế giới như thế nào? Vì sao các quốc gia lại tiến hành giao thương với nhau trong khi họ đều có thể tự sản xuất được các mặt hàng mà đối tác thương mại của mình làm ra ? Các lý thuyết thương mại quốc tế được giới thiệu trong môn học này một cách có hệ thống đi từ cổ điển đến hiện đại sẽ giúp các bạn lý giải được những điều đó. Môn học này cũng giới thiệu các chính sách thương mại, các định chế kinh tế thế giới đang hoạt động cũng như tình hình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Do đó sau khi học môn này các bạn sẽ có cái nhìn toàn diện hơn về hoạt động thương mại quốc tế. Sau khi đã nắm được những vấn đề cơ bản về thương mại quốc tế, các bạn sẽ lý giải dễ dàng hơn các sự việc đang diễn ra hằng ngày trong nền kinh tế liên quan đến hoạt động giao thương giữa các quốc gia. Nhờ vậy các bạn sẽ thấy lý thú hơn với các thông tin về thương 2
  4. mại quốc tế mà các bạn tiếp nhận được trên các phương tiện truyền thông đại chúng. II. MỤC TIÊU CỦA MÔN HỌC: Môn học này cung cấp những kiến thức nền tảng để sau khi học xong các bạn sẽ có khả năng: - Giải thích được vì sao phát sinh mậu dịch giữa các quốc gia, biết được mô thức thương mại quốc tế thường được áp dụng như thế nào và lợi ích của nó ra sao. - Hiểu được những vấn đề cơ bản về môi trường hoạt động của thương mại quốc tế (kể cả môi trường sản xuất và môi trường tài chính có liên quan) và biết được các chính sách thương mại quốc tế mà các quốc gia thường áp dụng để có thể đạt được lợi ích kinh tế tối đa. - Hiểu rõ các xu hướng phát triển chính của thương mại quốc tế ngày nay, nhận thức được lợi ích của vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế và liên hệ với trường hợp Việt Nam. III. YÊU CẦU CỦA MÔN HỌC: Môn thương mại quốc tế là một học phần 45 tiết (3 tín chỉ), gồm 35 tiết lý thuyết và 10 tiết bài tập. Để học tốt môn này bạn cần trang bị trước những kiến thức về: - Toán căn bản: đại số và hình học căn bản. - Kinh tế học: vi mô và vĩ mô. 3
  5. - Kinh tế – xã hội: những thông tin liên quan đến hoạt động giao thương giữa các quốc gia, hoạt động của các định chế kinh tế thế giới. IV. CẤU TRÚC MÔN HỌC: Nội dung môn học được thiết kế thành 9 bài, mỗi bài ứng với một buổi học 5 tiết, theo trình tự như sau: Phần mở đầu Giới thiệu môn học. Bài 1: Khái quát về thương mại quốc tế. Phần 1: Các lý thuyết về thương mại quốc tế. Bài 2: Các lý thuyết cổ điển. Bài 3: Lý thuyết chi phí cơ hội. Bài 4: Các lý thuyết hiện đại khác. Phần 2: Các công cụ và chính sách thương mại quốc tế. Bài 5: Thuế quan. Bài 6: Hàng rào phi thuế quan. Bài 7: Bảo hộ mậu dịch và tự do hoá thương mại. Phần 3: Các xu hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá. 4
  6. Bài 8: Toàn cầu hoá. Bài 9: Khu vực hoá. Tóm tắt toàn môn học. V. TÀI LIỆU THAM KHẢO: Môn học này có nhiều sách của tác giả trong và ngoài nước, các bạn có thể tham khảo bất kỳ cuốn sách nào có tựa đề “Kinh tế quốc tế” hoặc “Thương mại quốc tế”. Các bạn cũng có thể đọc các cuốn sách bằng tiếng Anh có tựa đề “International Economics” của bất kỳ tác giả nào. Tuy nhiên, Tài liệu hướng dẫn học tập môn Thương mại quốc tế này sẽ giúp các bạn dễ dàng hơn rất nhiều khi mới bắt đầu tìm hiểu về Thương Mại Quốc Tế vì là tài liệu được biên soạn dành cho những người tự học. VI. CÁCH HỌC VÀ DÙNG TÀI LIỆU THAM KHẢO: Cuốn “Hướng dẫn học môn Thương mại quốc tế” có nội dung được chia thành 9 bài, mỗi bài có thời lượng 5 tiết. Trong mỗi bài đều có phần giới thiệu mục tiêu, yêu cầu của bài nhằm giúp bạn học tập dễ dàng và hiệu quả hơn. Phần câu hỏi và bài tập có hướng dẫn trả lời giúp bạn tự xác định mức độ tiếp thu bài học của mình. Ngoài ra các bạn cũng nên vào Internet để tìm thêm tài liệu tham khảo nhằm cập nhật thông tin thường xuyên trong lĩnh vực thương mại quốc tế. Những thông tin này giúp bạn hiểu sâu hơn nội dung môn học qua các sự kiện diễn ra trong thực tế cuộc sống. 5
  7. Cuối cùng các bạn đừng quên rằng môn học này còn có giảng viên trực tiếp hướng dẫn trong 15 tiết. Nếu các bạn đã đọc tài liệu trước khi đến dự buổi hướng dẫn thì bạn sẽ thấy môn học này không quá khó và sau đó các bạn có thể trao đổi với giảng viên bằng Email nếu vẫn còn điều gì chưa rõ. Chắc chắn bạn sẽ thành công như mong đợi nếu bạn tổ chức việc học của mình đúng theo hướng dẫn. 6
  8. BÀI 1: KHÁI QUÁT VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ Bài 1 giới thiệu với các bạn khái niệm thương mại quốc tế, vai trò của thương mại quốc tế đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia, các lý thuyết và khái niệm căn bản trong thương mại quốc tế. Do đó, bài này giúp các bạn có cái nhìn tổng quan về hoạt động thương mại quốc tế. I. MỤC TIÊU: Học xong bài này các bạn sẽ có cái nhìn toàn diện về hoạt động thương mại quốc tế trên cơ sở phân tích tác động của thương mại quốc tế đến nền kinh tế mỗi quốc gia và các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động thương mại quốc tế. Do đó sau khi học xong bài này các bạn phải: - Biết được thương mại quốc tế là gì và có những đặc điểm chính như thế nào. - Biết được những nhân tố tác động đến thương mại quốc tế. - Vai trò của thương mại quốc tế trong sự phát triển nền kinh tế quốc gia. - Phân biệt được lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh. 7
  9. II. NỘI DUNG CHÍNH: 1. Khái niệm thương mại quốc tế: Thương mại quốc tế có thể được hiểu một cách đơn giản là hành vi mua bán liên quốc gia, có thể là mua bán qua biên giới hoặc mua bán tại chỗ với người nước ngoài. Ví dụ: Việt Nam xuất khẩu gạo sang Nam Phi; Nhật nhập khẩu lao động từ Malaysia, các công ty Mỹ thuê các doanh nghiệp Việt Nam làm gia công hàng may mặc 2. Hàng hóa trong thương mại quốc tế: Có thể được chia thành 3 loại: a. Sản phẩm hàng hóa hữu hình, như: nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, lương thực thực phẩm, các loại hàng tiêu dùng. Đây là bộ phận chủ yếu và giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Hoạt động mua bán các loại hàng hoá này được gọi là thương mại hàng hóa. b. Sản phẩm hàng hóa vô hình, như: các bí quyết công nghệ, bằng sáng chế phát minh, phần mềm máy tính, các bảng thiết kế kỹ thuật, các dịch vụ lắp ráp thiết bị máy móc, dịch vụ du lịch. Đây là bộ phận có tỷ trọng ngày càng gia tăng phù hợp với sự bùng nổ của cách mạng khoa học kỹ thuật và việc phát triển các ngành dịch vụ trong nền kinh 8
  10. tế. Hoạt động mua bán các đối tượng này được gọi là thương mại dịch vụ. c. Gia công quốc tế: đây là hình thức cần thiết trong điều kiện phát triển của phân công lao động quốc tế và do sự khác biệt về điều kiện tái sản xuất giữa các quốc gia. Có 2 loại hình gia công chủ yếu: d. Gia công thuê cho nước ngoài: khi trình độ phát triển của một quốc gia còn thấp, thiếu vốn, công nghệ, thiếu thị trường thì các doanh nghiệp thường nhận gia công cho nước ngoài. e. Thuê nước ngoài gia công: khi quốc gia đã đạt tới một trình độ phát triển nhất định thì sẽ áp dụng hình thức này. 3. Phương tiện thanh toán trong thương mại quốc tế: Một vấn đề đặt ra cho thương mại quốc tế là khi các bên giao thương với nhau thì họ sẽ tiến hành thanh toán như thế nào. Thực ra thì giá trị của mỗi thương vụ đều được tính bằng một loại tiền tệ nhất định, mà đó sẽ là ngoại tệ đối với ít nhất một trong các bên tham gia mua bán. Chẳng hạn như Indonésia nhập dầu từ Venezuela và sẽ thanh toán cho nước này bằng đôla Mỹ. Trong thương vụ này, đồng tiền thanh toán (USD) đều là ngoại tệ đối với cả hai bên mua và bán. Ở một trường hợp khác, Nhật xuất khẩu ô tô sang Việt Nam và nhận thanh toán bằng Yên Nhật, khi đó đồng tiền thanh toán là nội tệ đối với Nhật nhưng lại là ngoại tệ đối với Việt Nam. Hiển nhiên là bên nhận được tiền hàng bằng ngoại tệ cần phải chuyển đổi số ngoại tệ đó sang nội tệ để chi tiêu trong nước. Ngược lại, bên phải trả tiền hàng nhập khẩu bằng ngoại tệ cũng cần đổi nội tệ ra ngoại tệ để thanh toán. 9
  11. Do vậy, thương mại quốc tế tất yếu đi kèm với việc trao đổi các đồng tiền với nhau. Việc trao đổi này được diễn ra ở một thị trường được gọi là thị trường ngoại hối. Nhưng không phải bất cứ đồng tiền nào cũng được tham gia vào thương mại quốc tế. Để được chấp nhận là đồng tiền thanh toán trong các thương vụ xuyên biên, đồng tiền đó phải có khả năng chuyển đổi cao và thường phải được hậu thuẫn bởi một nền kinh tế mạnh chẳng hạn như USD của Mỹ, JPY của Nhật hay EUR của Liên minh châu Âu Như vậy có thể thấy, hoạt động thương mại quốc tế không chỉ là việc trao đổi hàng hóa, dịch vụ giữa các quốc gia với nhau mà còn liên quan đến việc trao đổi tiền tệ vì đồng tiền thanh toán thường là ngoại tệ đối với ít nhất một trong các bên. Đến đây chúng ta đã có thể rút ra được một số đặc điểm chính của thương mại quốc tế như sau: a. Quy mô lớn, tăng trưởng nhanh: trao đổi hàng hóa, dịch vụ hay thực hiện gia công không còn giới hạn trong phạm vi một quốc gia và phát triển không ngừng cùng với xu hướng gia tăng mở cửa nền kinh tế của các nước. b. Các nước công nghiệp phát triển giữ vai trò thống trị trong hoạt động thương mại quốc tế. c. Vị thế của các nước đang phát triển cũng ngày càng trở nên quan trọng hơn. d. Thương mại quốc tế ngày càng phát triển phức tạp hơn, thể hiện qua việc xuất hiện nhiều phương thức kinh doanh mới như: thương mại điện tử, mua bán nợ thương mại, cho thuê tài chính và liên kết chặt chẽ hơn, nhưng cạnh tranh cũng khốc liệt hơn. 10
  12. e. Nhiều tồn tại gây tranh cãi: bảo hộ mậu dịch, phân biệt đối xử (gây thiệt hại cho các nước nghèo). f. Sự phối hợp chính sách thương mại đa phương ngày càng đa dạng – các xu hướng toàn cầu hóa và khu vực hóa là không thể đảo ngược. 4. Tầm quan trọng của thương mại quốc tế: Bất kỳ ai khi tiến hành giao dịch với nhau đều muốn đạt được một hay một số lợi ích nhất định. Bác nông dân có thể tự may quần áo và cô thợ may cũng trồng được lúa. Tuy nhiên, không vì thế mà cô thợ và bác nông dân lại vừa may quần áo, vừa trồng lúa để đáp ứng nhu cầu ăn, mặc của mình mà thay vào đó, họ sẽ thực hiện công việc mà mình có lợi thế và tiến hành trao đổi các sản phẩm mình làm được với nhau. Mở rộng vấn đề ra phạm vi giữa các quốc gia thì các bạn sẽ thấy được hoạt động thương mại quốc tế cũng diễn ra tương tự như vậy. Khi các quốc gia giao thương với nhau, họ luôn muốn tận dụng được lợi thế của mình và của đối tác để gia tăng lợi ích về mặt kinh tế. Một quốc gia thường sẽ xuất khẩu sản phẩm có lợi thế so sánh và nhập khẩu sản phẩm mình không có lợi thế so sánh. Cách làm này được gọi là mô thức thương mại quốc tế và nó chịu sự chi phối của các nhân tố sau: a. Sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên. Chính sự khác nhau này đã tạo ra những sản phẩm đặc thù của từng vùng. Tuỳ theo điều kiện mà quốc gia có lợi thế sản xuất ra một số loại sản phẩm. 11
  13. Ví dụ: Ở Việt Nam ruộng đất phì nhiêu phù hợp cho sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là lúa và nhờ vậy Việt Nam là nước xuất gạo đứng hàng thứ 2 thế giới. Pháp có nho, Cuba có mía, Brazil có cà phê. Để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng đa dạng và có hiệu quả nhất, các quốc gia cần tiến hành trao đổi với nhau. b. Sự khác biệt về năng suất lao động (do khác biệt về các yếu tố vốn, lao động, kỹ thuật công nghệ ). Ví dụ: Năng suất lao động của Việt Nam thấp vì là nước nông nghiệp có trình độ kỹ thuật còn lạc hậu, trong khi ở các nước tiên tiến, năng suất cao vì có kỹ thuật và công nghệ hiện đại. c. Lợi thế kinh tế nhờ quy mô bên trong (hiệu quả kinh tế nhờ quy mô của các đơn vị sản xuất) và quy mô bên ngoài (hiệu quả kinh tế nhờ quy mô của các ngành kinh tế). d. Sự khác biệt về nguồn lực kinh tế và việc sử dụng các yếu tố đó vào quá trình sản xuất những hàng hoá có chất lượng, chi phí khác nhau dẫn đến các quốc gia có được những lợi thế khác nhau. Như vậy, hoạt động thương mại giữa các quốc gia thực chất là quá trình phân phối, sử dụng tài nguyên giữa các chủ thể của nền kinh tế, giữa các quốc gia thông qua trao đổi hàng hoá, dịch vụ, nguồn lực kinh tế nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng đa dạng của cư dân trên toàn cầu. Bên cạnh đó, thương mại quốc tế còn giúp cho các bên tham gia nâng cao hiệu quả kinh tế trên cơ sở: - Phân công lao động quốc tế, có điều kiện để thực hiện toàn dụng nhân lực và sử dụng tiết kiệm tài nguyên kinh 12
  14. tế của quốc gia. Dựa vào lợi thế so sánh của mỗi quốc gia để chuyên môn hoá sản xuất sản phẩm có lợi thế so sánh, thực hiện được sự phân công lao động theo trình độ chuyên môn, sử dụng toàn lực sản xuất sản phẩm để trao đổi với quốc gia khác. - Chuyên môn hóa sản xuất sâu hơn (sản xuất ít mặt hàng), nên các doanh nghiệp có thể nâng cao hiệu quả nhờ quy mô. Các doanh nghiệp chỉ tập trung vào một số mặt hàng chuyên để sản xuất, càng sản xuất ra nhiều sản phẩm thì càng giảm được chi phí cố định tính trên 1 sản phẩm, nhờ vậy mà có lợi thế về quy mô. - Cân đối cung – cầu của nền kinh tế một cách có hiệu quả nhất. Giá cân bằng hình thành khi cung và cầu bằng nhau. Nếu sản phẩm làm ra chưa đáp ứng đủ nhu cầu thì có thể nhập khẩu và ngược lại sao cho bảo đảm thoả mãn cao nhất nhu cầu tiêu dùng. Tóm lại, thương mại quốc tế giữ vai trò quan trọng không chỉ đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia mà còn đối với cả thế giới. Tầm quan trọng đó thể hiện ở các mặt sau: - Hoạt động thương mại quốc tế giúp nâng cao vị thế kinh tế của quốc gia trên thế giới. - Quan hệ thương mại quốc tế là 1 trong 3 trụ cột của chính sách kinh tế đối ngoại (cùng với các quan hệ đầu tư quốc tế và tài chính quốc tế) góp phần thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa và duy trì sự phát triển bền vững của nền kinh tế. 13
  15. - Tăng doanh số bán hàng: nhờ phạm vi thị trường trên toàn thế giới nên số lượng người tiêu dùng nhiều hơn và sức mua đối với công ty cao hơn. - Xuất khẩu sản phẩm có lợi thế so sánh và nhập khẩu sản phẩm không có lợi thế so sánh: buôn bán đem lại nguồn lợi cho phép các nước xuất khẩu hàng hoá mà quá trình sản xuất sử dụng nhiều nguồn lực có sẵn dồi dào ở trong nước và nhập khẩu những hàng hoá mà quá trình sản xuất đòi hỏi nhiều nguồn lực ở trong nước khan hiếm. - Thu được nguồn tài nguyên của nước ngoài làm giảm chi phí sản xuất: Các nhà sản xuất và phân phối tìm thấy các sản phẩm, dịch vụ cũng như bộ phận cấu thành các sản phẩm hoàn tất được sản xuất ở nước ngoài có thể làm giảm chi phí cho họ. Điều này khiến cho tỷ suất lợi nhuận có thể tăng lên hoặc việc tiết kiệm chi phí có thể chuyển sang người tiêu thụ, như thế sẽ cho phép nhiều người tiêu thụ sản phẩm hơn. Các chiến lược như thế có thể cho phép công ty cải tiến chất lượng sản phẩm của họ hoặc ít nhất cũng làm cho họ khác với đối thủ cạnh tranh, như thế mới gia tăng được thị phần và lợi nhuận của công ty. - Tránh được sự biến động của doanh số bán và lợi nhuận: điều chỉnh thời gian của chu kỳ kinh doanh. Các công ty thường muốn tránh sự biến động bất thường của doanh số bán và lợi nhuận bằng cách bán hàng ra thị trường nước ngoài. Ví dụ: Hãng phim Lucasfilm đã có thể giảm bớt sự thất thường của doanh số bán hàng năm một ít, vì thời kỳ nghỉ hè (là lý do 14
  16. chính để trẻ em đi xem phim) khác nhau giữa Bắc và Nam bán cầu. Nhiều công ty khác lợi dụng thực tế để điều chỉnh về thời gian của chu kỳ kinh doanh sẽ không giống nhau giữa các quốc gia khác nhau mà giữ vững doanh số bán. Trong khi doanh số bán sẽ giảm đi ở một quốc gia đang bị suy thoái kinh tế, thì sẽ lại tăng lên ở một quốc gia khác đang ở thời kỳ phục hồi. Sau hết, bằng cách đạt được sự cung cấp cùng chủng loại sản phẩm hoặc các bộ phận từ các quốc gia khác nhau, một công ty cũng có thể tránh được hoàn toàn ảnh hưởng của biến động giá cả thất thường và sự thiếu hụt ở bất cứ quốc gia nào. 5. Sự phát triển của các lý thuyết về thương mại quốc tế: Giữa thế kỷ 18, nền kinh tế ở các nước Tây Âu có những thay đổi đáng kể như: - Từ một xã hội nông nghiệp đơn giản phát triển thành một xã hội kinh tế phức tạp, bao gồm nhiều ngành nghề khác nhau. - Công nghiệp phát triển nhờ vào cuộc cách mạng kỹ nghệ, đặc biệt là ở Anh, và vị trí tư sản công nghiệp trở nên rất quan trọng thay thế cho vị trí của thương nhân trước đây. - Mậu dịch từ nội bộ địa phương đã được mở rộng ra toàn quốc và toàn cầu, các mặt hàng xuất khẩu đa dạng hơn. - Hệ thống ngân hàng phát triển, hệ thống thương phiếu ra đời và bắt đầu phát hành tiền tệ. - Quốc gia đã mạnh, không cần dùng các biện pháp tăng cường quyền lực như giai đoạn trước mà chuyển vai trò 15
  17. đó vào tay cá nhân, vai trò của các doanh nghiệp được đề cao, họ có quyền tự quyết các vấn đề như sản xuất cái gì, bằng phương pháp nào và định giá ra sao, không còn phải chịu sự kiểm soát của chính quyền địa phương, của giáo hội hay quân đội như trước. Trong bối cảnh đó thì Adam Smith – một nhà kinh tế học người Anh – đã đưa ra một quan điểm mới về thương mại quốc tế. Ông cho rằng mọi hành vi kinh tế của mỗi cá nhân đều được sự dẫn dắt của một bàn tay vô hình, đó là tư lợi. Theo ông, mỗi người khi làm một việc gì thì chỉ nghĩ đến lợi ích cá nhân, nhưng khi thực hiện tốt mục đích tư lợi, người ta cũng đồng thời đáp ứng tốt lợi ích của tập thể và xã hội. Do vậy, chính quyền không cần phải can thiệp vào hoạt động của các doanh nghiệp và cá nhân, mà hãy để cho họ hoạt động tự do, khi họ hoạt động có hiệu quả thì nền kinh tế cũng sẽ tự động được điều tiết theo hướng tích cực. Đây chính là cơ sở để hình thành nên lý thuyết “lợi thế tuyệt đối”. Vậy, lợi thế tuyệt đối là gì? Đó là sự khác biệt tuyệt đối về năng suất lao động (cao hơn) hay chi phí lao động (thấp hơn) để làm ra cùng loại sản phẩm so với quốc gia giao thương. Ví dụ: trong cùng 1 giờ làm việc, nước Anh sản xuất được 5 mét vải nhưng Mỹ chỉ làm ra được 4 mét. Như vậy rõ ràng là Anh có năng suất lao động cao hơn nên Anh có lợi thế tuyệt đối so với Mỹ trong việc sản xuất vải. Hoặc để sản xuất được 1 giạ lúa mì trong 1 giờ, nước Anh phải cần 2 nhân công, trong khi Mỹ chỉ cần 1 người làm là đủ. Trong trường hợp này, Mỹ có lợi thế tuyệt đối so với Anh trong việc sản xuất lúa mì do chi phí lao động Mỹ bỏ ra thấp hơn Anh. 16
  18. Như vậy, một quốc gia có lợi thế tuyệt đối về sản phẩm nào sẽ tiến hành chuyên môn hóa sản xuất sản phẩm đó và trao đổi với quốc gia khác sản phẩm mà mình không có lợi thế tuyệt đối. Điều đó có nghĩa là theo lý thuyết này, các quốc gia chỉ có lợi trong giao thương quốc tế nếu có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất sản phẩm. Vậy, nếu có giao thương giữa một cường quốc kinh tế và một quốc gia có trình độ phát triển kém hơn thì quốc gia phát triển kém hơn có lợi gì hay không ? Lý thuyết lợi thế tuyệt đối không giải thích được điều này. Với lý thuyết “lợi thế so sánh”, David Ricardo đã trả lời được câu hỏi trên. Theo ông, một quốc gia không có lợi thế tuyệt đối vẫn có lợi khi giao thương với quốc gia khác nếu chuyên môn hóa sản xuất sản phẩm có lợi thế tuyệt đối so với sản phẩm còn lại ở trong nước. Đó chính là sản phẩm có lợi thế tương đối hay lợi thế so sánh so với thị trường thế giới. Để rõ hơn khái niệm lợi thế so sánh các bạn hãy xem ví dụ sau: Trong 1 giờ: - Mỹ có thể sản xuất được 6 giạ lúa mì hoặc 4 mét vải. - Anh chỉ sản xuất được 1 giạ lúa mì hoặc 2 mét vải. Như vậy, xét về lợi thế tuyệt đối thì Mỹ đều hơn Anh ở cả hai loại sản phẩm lúa mì (6 > 1) và vải (4 > 2). Tuy nhiên nếu xét về lợi thế so sánh thì: - Ở Mỹ, 6 giạ lúa mì đổi được 4 mét vải vì cùng hao phí 1 giờ lao động (tỷ lệ trao đổi là 3 giạ : 2 mét). - Ở Anh, 1 giạ lúa mì đổi được 2 mét vải (tỷ lệ là 1 giạ : 2 mét). 17
  19. Như vậy 2 mét vải ở Mỹ đổi được nhiều lúa mì hơn (3 giạ) so với ở Anh (1 giạ), do đó Mỹ có lợi thế so sánh về lúa mì. Mặt khác, 1 giạ lúa mì ở Anh sẽ đổi được 2 mét vải, trong khi ở Mỹ chỉ đổi được 2/3 mét vải nên Anh có lợi thế so sánh về vải. Tuy nhiên lý thuyết lợi thế so sánh vẫn có những hạn chế nhất định và đến năm 1936, Gottfried Haberler đã đưa ra lý thuyết chi phí cơ hội giải thích được một số hạn chế của lý thuyết lợi thế so sánh. Vậy, chi phí cơ hội là gì? Các bạn đã từng biết đến khái niệm này trong Kinh tế học. Chi phí cơ hội của một loại sản phẩm nào đó là số lượng sản phẩm loại khác mà người ta phải hy sinh để dành tài nguyên sản xuất thêm một đơn vị sản phẩm này. Trong mỗi nước thì chi phí cơ hội không đổi nhưng nó lại khác nhau giữa các quốc gia. Ví dụ: nếu không có mậu dịch thì Mỹ phải bỏ ra 2/3m vải để có đủ số tài nguyên sản xuất 1 giạ lúa mì. Như vậy chi phí cơ hội để sản xuất ra một giạ lúa mì là 2/3. Ở Anh chi phí sản xuất ra một giạ lúa mì là 2 (1 giạ = 2 m). Do đó, mỗi quốc gia cần phải: - Chuyên môn hóa sản xuất hoàn toàn vào các sản phẩm có chi phí cơ hội thấp hơn so với thị trường thế giới để xuất khẩu. - Đồng thời, nhập khẩu trở lại những sản phẩm có chi phí cơ hội cao hơn so với thị trường thế giới. Lý thuyết về thương mại quốc tế tiếp tục được các nhà kinh tế phát triển trên cơ sở của lý thuyết cổ điển và giải quyết những hạn chế của các lý thuyết này. Lý thuyết chuẩn giải quyết được hạn chế của lý thuyết Haberler là chi phí cơ hội gia tăng nên đường giới hạn khả năng 18
  20. sản xuất là đường cong chứ không phải là đường thẳng như trong lý thuyết Haberler. Thật vậy, trong thực tế, chi phí cơ hội thay đổi và càng tăng theo thời gian khi ta chuyên môn hoá sản xuất. Chi phí cơ hội tăng có nghĩa là quốc gia phải hy sinh ngày càng nhiều hơn sản phẩm này khi càng tăng sản xuất một đơn vị sản phẩm khác. 19
  21. TÓM TẮT BÀI 1 1. Thương mại quốc tế là hành vi mua bán liên quốc gia các hàng hoá hữu hình, vô hình và gia công quốc tế. 2. Mô thức thương mại quốc tế chịu sự chi phối của các yếu tố: khác biệt về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, khác biệt về năng suất lao động, lợi thế kinh tế nhờ quy mô bên trong và bên ngoài, khác biệt về nguồn lực kinh tế và việc sử dụng các yếu tố đó. 3. Thương mại quốc tế giúp nâng cao vị thế kinh tế của quốc gia, tăng doanh số bán, sử dụng được tài nguyên rẻ, tránh được sự biến động của doanh số bán. 4. Lý thuyết “lợi thế tuyệt đối” cho rằng các quốc gia chỉ có lợi trong giao thương quốc tế nếu có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất sản phẩm. 5. Lý thuyết “lợi thế so sánh” cho rằng một quốc gia không có lợi thế tuyệt đối vẫn có lợi khi giao thương với quốc gia khác nếu chuyên môn hóa sản xuất sản phẩm có lợi thế tuyệt đối so với sản phẩm còn lại ở trong nước tức là sản phẩm có lợi thế so sánh so với thị trường thế giới. 6. Lý thuyết chi phí cơ hội của Haberler cho rằng chi phí cơ hội là không đổi còn lý thuyết hiện đại thì cho rằng chi phí cơ hội gia tăng. 20
  22. CÂU HỎI 1. Hãy cho một vài ví dụ về hoạt động thương mại quốc tế mà bạn biết? 2. Thương mại quốc tế giữ vai trò như thế nào đối với các quốc gia trong quá trình phát triển kinh tế? 3. Lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh khác nhau như thế nào? 21
  23. HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI CÂU HỎI 1. Công ty Agifish xuất khẩu cá tra phi-lê sang Mỹ và thu về một khoản tiền bằng USD. Các du khách nước ngoài sang Việt Nam du lịch và trả bằng USD. Công ty dệt may Legamex nhận gia công quần áo cho một công ty của Trung Quốc thu về USD hoặc nhân dân tệ. 2. Thương mại quốc tế giữ vai trò quan trọng đối với các quốc gia trong quá trình phát triển kinh tế vì: - Giúp nâng cao vị thế kinh tế của quốc gia trên thế giới. - Quan hệ thương mại quốc tế là 1 trong 3 trụ cột của chính sách kinh tế đối ngoại. - Tăng doanh số bán hàng. - Xuất khẩu sản phẩm có lợi thế so sánh và nhập khẩu sản phẩm không có lợi thế so sánh. - Thu được nguồn tài nguyên của nước ngoài nên làm giảm chi phí sản xuất. - Tránh được sự biến động của doanh số bán và lợi nhuận. 3. Lý thuyết “lợi thế tuyệt đối” cho rằng các quốc gia chỉ có lợi trong giao thương quốc tế nếu có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất sản phẩm. Lý thuyết “lợi thế so sánh” cho rằng một quốc gia không có lợi thế tuyệt đối vẫn có lợi khi giao thương với quốc gia khác nếu chuyên môn hóa sản xuất sản phẩm có lợi thế tuyệt đối so với sản phẩm còn lại ở trong nước tức là sản phẩm có lợi thế so sánh so với thị trường thế giới. 22
  24. BÀI 2: CÁC LÝ THUYẾT CỔ ĐIỂN VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ Qua bài 1, các bạn đã biết được mục đích chính của các quốc gia khi tham gia thương mại quốc tế, các hình thức thương mại quốc tế, hoàn cảnh ra đời và quá trình phát triển của các lý thuyết cổ điển. Các bạn cũng đã biết các khái niệm về lợi thế tuyệt đối, lợi thế so sánh và chi phí cơ hội. Bài này giới thiệu các mô hình, giả thiết của mô hình và lợi ích của thương mại quốc tế theo quan điểm của các lý thuyết cổ điển. Vì thế nó sẽ giúp các bạn lý giải được nguồn gốc sâu xa của hoạt động thương mại quốc tế. I. MỤC TIÊU: Học xong bài này các bạn phải biết được: - Nội dung cơ bản của lý thuyết “bàn tay vô hình” và lý thuyết “lợi thế tuyệt đối” của Adam Smith. - Ưu, nhược điểm của lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo. - Lý thuyết chi phí cơ hội đã giải quyết được hạn chế của lý thuyết lợi thế so sánh như thế nào và ưu nhược điểm của lý thuyết này. 23
  25. II. NỘI DUNG CHÍNH: 1. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith: Trong lý thuyết lợi thế tuyệt đối, yêu cầu đối với mỗi quốc gia là phải xác định được sản phẩm mà mình có lợi thế tuyệt đối để: - Chuyên môn hóa sản xuất các loại sản phẩm có lợi thế tuyệt đối để xuất khẩu. - Đồng thời nhập khẩu trở lại những sản phẩm không có lợi thế tuyệt đối. Do đó tài nguyên quốc gia được khai thác có hiệu quả hơn, mỗi quốc gia sẽ tăng cường sử dụng các tài nguyên dồi dào trong nước để sản xuất sản phẩm đem trao đổi lấy sản phẩm mà để sản xuất nó phải dùng đến những tài nguyên khan hiếm hơn. Vì vậy các quốc gia giao thương đều có lợi hơn so với khi không có trao đổi mậu dịch quốc tế. Nếu không có mậu dịch, mỗi quốc gia phải tự mình sản xuất ra 2 loại sản phẩm cùng một lúc trong đó có cả sản phẩm phải dùng đến nguồn lực khan hiếm. Khi chuyên môn hóa thì lợi ích của cả hai nước đều tăng lên do đều tiêu dùng sản phẩm có lợi thế của mỗi nước. Ví dụ: Giả định năng suất lao động của hai quốc gia giao thương là Mỹ và Anh như trong bảng 2.1. Bảng 2.1: Năng suất lao động của Mỹ và Anh Sản phẩm Mỹ Anh Lúa mì (giạ/giờ) 6 1 Vải (m/giờ) 4 5 24
  26. Theo thuyết lợi thế tuyệt đối thì: - Mỹ có lợi thế tuyệt đối về lúa mì, năng suất gấp 6 lần (6/1) của Anh. - Anh có lợi thế tuyệt đối về vải, năng suất gấp 1,25 lần (5/4) của Mỹ. Như Mỹ sẽ chuyên môn hóa sản xuất lúa mì còn Anh sẽ chuyên môn hóa sản xuất vải và sau đó đem trao đổi cho nhau tức là Mỹ xuất lúa mì, nhập vải, còn Anh thì xuất vải, nhập lúa mì. Qua môn hóa sản xuất và trao đổi mậu dịch quốc tế, chẳng hạn với tỷ lệ 6 giạ = 6m thì kết quả như trong bảng 2.2. Bảng 2.2: Kết quả sau khi chuyên môn hoá và trao đổi mậu dịch Chuyên Sau khi Lợi ích Tự cung Thời gian môn hóa trao đổi tăng tự cấp sản xuất mậu dịch thêm Mỹ (2 giờ) 6giạ + 4m 12giạ 6giạ + 6m 2m Anh (6 giờ) 6giạ 30m 6giạ+24m 24m Thế giới 12giạ+4m 12giạ+30m 12giạ+30m 26m Mỹ tập trung sản xuất lúa mì được 12 giạ. Mỹ đổi 6 giạ lúa mì với Anh để lấy 6m vải thì Mỹ sẽ có lợi 2m vải vì trong nội địa Mỹ chỉ có thể đổi 6 giạ lúa mì với 4m. Anh chuyên môn hóa sản xuất vải được 30m và trao đổi 6m vải với Mỹ lấy 6 giạ lúa mì, Anh được lợi là 25
  27. 24m vải. Anh có lợi nhiều hơn Mỹ nhưng điều quan trọng hơn là cả hai đều có lợi từ thương mại và chuyên môn hóa sản xuất. Ưu điểm của lý thuyết lợi thế tuyệt đối là: - Nhận ra được tính ưu việt của chuyên môn hóa sản xuất và phân công lao động quốc tế. - Đặt quan hệ giao thương giữa các quốc gia trên cơ sở bình đẳng, các bên cùng có lợi. Tuy nhiên, lý thuyết lại chưa tính đến giá trị của hàng hóa mà chỉ trao đổi bình đẳng, xem 2 hàng hóa lúa mì và vải có giá trị ngang nhau. Mặt khác, nó cũng không giải thích được liệu có xảy ra trao đổi mậu dịch giữa một cường quốc kinh tế với một nước kém phát triển hơn hay không. Chẳng hạn như, so với Mỹ thì Việt Nam không có lợi thế tuyệt đối về mặt hàng nào cả nhưng thực tế thì trao đổi mậu dịch giữa Việt Nam và Mỹ vẫn diễn ra. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối không thể giải thích được hiện tượng này và D. Ricardo đã cho ra đời quy luật lợi thế so sánh khắc phục được hạn chế này của lý thuyết lợi thế tuyệt đối. 2. Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo: Các bạn nên lưu ý rằng khi nghiên cứu bất cứ lý thuyết nào thì cần phải đặt nó trong một số điều kiện định vì thực tế có nhiều yếu tố tác động qua lại với nhau rất phức tạp. Nếu không nghiên cứu trong điều kiện chuẩn thì rất khó tìm ra quy luật vận động của hiện tượng đang nghiên cứu. Do vậy, mô hình lý thuyết lợi thế so sánh được xây dựng trên cơ sở 6 giả thiết sau: 26
  28. a. Mô hình chỉ có 2 quốc gia và 2 loại sản phẩm. Trên thực tế có rất nhiều hàng hóa được trao đổi nhưng để đơn giản trong phân tích, mô hình chỉ có 2 sản phẩm và 2 quốc gia. b. Mậu dịch tự do – thị trường cạnh tranh hoàn toàn. Cũng như mô hình trước, các doanh nghiệp tự do hoạt động không có bất kỳ sự can thiệp nào của chính phủ. c. Lao động di chuyển tự do trong một quốc gia, nhưng không di chuyển trên phạm vi thế giới. Để bảo đảm năng suất cố định cho mỗi quốc gia, nếu không lao động sẽ chuyển dịch từ nơi có lương thấp sang nơi có lương cao thì mô hình rất khó phân tích. d. Không tính chi phí vận chuyển hàng hóa. e. Kỹ thuật sản xuất giữa 2 quốc gia giống nhau. Giả thiết là chất lượng sản phẩm của 2 quốc gia như nhau. f. Yếu tố đầu vào của 2 loại sản phẩm cũng giống nhau – theo lý thuyết tính giá trị bằng lao động. Chi phí sản xuất chỉ tính có một yếu tố duy nhất là lao động. Theo lý thuyết lợi thế so sánh thì một quốc gia dù không có lợi thế tuyệt đối trong cả 2 loại sản phẩm so với quốc gia kia nhưng vẫn có lợi khi tham gia trao đổi mậu dịch nếu chuyên môn hóa sản xuất sản phẩm có lợi thế tuyệt đối so với sản phẩm còn lại ở trong nước tức là sản phẩm mà quốc gia đó có lợi thế so sánh. Trong lý thuyết này, yêu cầu đặt ra đối với mỗi quốc gia là họ phải xác định được sản phẩm có lợi thế so sánh để: - Chuyên môn hóa sản xuất các loại sản phẩm có lợi thế so sánh để xuất khẩu. 27
  29. - Đồng thời, nhập khẩu trở lại những sản phẩm không có lợi thế so sánh. Bây giờ chúng ta tìm hiểu cụ hơn để thấy việc trao đổi giữa hai quốc gia diễn ra như thế nào và họ sẽ đạt được lợi ích ra sao. Giả định năng suất lao động hai quốc gia giao thương Mỹ và Anh như trong bảng 2.3. Bảng 2.3: Năng suất lao động của Mỹ và Anh Sản phẩm Mỹ Anh Lúa mì (giạ/giờ) 6 1 Vải (m/giờ) 4 2 Theo bảng 2.3 thì Anh không có lợi thế tuyệt đối so với Mỹ ở cả 2 sản phẩm. Tuy nhiên nếu so sánh giữa lúa mì và vải thì: - Mỹ có lợi thế so sánh về lúa mì vì năng suất lúa mì của Mỹ so với Anh lớn hơn năng suất vải của Mỹ so với Anh 6/1 > 4/2. - Anh có lợi thế so sánh về vải vì năng suất vải của Anh so với Mỹ lớn hơn năng suất lúa mì của Anh so với Mỹ 2/4 > 1/6. Qua chuyên môn hóa sản xuất và trao đổi mậu dịch quốc tế chẳng hạn như với tỷ lệ 6giạ = 6m thì kết quả như trong bảng 2.4. 28
  30. Bảng 2.4: Kết quả sau khi chuyên môn hoá và trao đổi mậu dịch Chuyên Sau khi Lợi ích Tự cung Thời gian môn hóa trao đổi tăng tự cấp sản xuất mậu dịch them Mỹ (2 giờ) 6giạ + 4m 12giạ 6giạ + 6m 2m Anh(6 giờ) 6giạ 12m 6giạ + 6m 6m Thế giới 12giạ+4m 12giạ+12m 12giạ+12m 8m Với 2 giờ sản xuất Mỹ có được 6 giạ lúa mì và 4 m vải, trong khi đó cùng thời gian 2 giờ, Anh chỉ sản xuất được 1 giạ lúa mì và 2 m vải, để tương đồng số lượng giạ lúa mì trao đổi với Mỹ thì Anh phải cần 6 giờ sản xuất 6 giạ lúa mì. Nếu mỗi nước chuyên môn hóa sản xuất sản phẩm để trao đổi, 2 giờ ở Mỹ sẽ sản xuất được giạ lúa mì, trong khi đó với 6 giờ Anh sản xuất được 12 m vải. Cả hai đem trao đổi với tỷ lệ 6 giạ = 6m, thì Mỹ có lợi thêm 2 m vải và Anh có lợi 6m vải, cả thế giới tăng lên được 8m vải. Khung trao đổi mậu dịch tương đối giữa 2 quốc gia: 4m < 6giạ < 12m. Mỹ sẽ chấp nhận trao đổi nếu như 6 giạ lúa mì đổi nhiều hơn 4m vải do nếu tự sản xuất, 1 giờ Mỹ có thể sản xuất được 4m vải thay vì 6 giạ lúa mì. Trong khi đó với 6 giờ, Anh chuyên môn hóa sản xuất được 12m vải, thời gian này có được là do Anh không sản xuất ra 6 giạ lúa mì. 29
  31. Có nghĩa là chi phí để sản xuất 12m là 6 giạ lúa mì, do vậy Anh sẽ sẵn sàng trao đổi nếu như 12m vải đổi được nhiều hơn 6 giạ lúa mì. Lợi ích từ mậu dịch theo các tỷ số trao đổi khác nhau trình bày trong bảng 2.5. Bảng 2.5: Lợi ích từ mậu dịch theo các tỷ số trao đổi Tỷ lệ trao đổI Mỹ Anh Thế giới Ghi chú 6giạ : 4m 0 8m 8m Ko MD 6giạ : 5m 1m 7m 8m 6giạ : 6m 2m 6m 8m 6giạ : 7m 3m 5m 8m 6giạ : 8m 4m 4m 8m lợi ích = 6giạ : 9m 5m 3m 8m 6giạ : 10m 6m 2m 8m 6giạ : 11m 7m 1m 8m 6giạ : 12m 8m 0m 8m Ko MD Rõ ràng, Mỹ không tiến hành mậu dịch với Anh khi đổi 6 giạ lấy 4m hoặc ít hơn vì điều này ngay nước Mỹ có thể làm được. Cũng tương tự như vậy, Anh sẽ không tiến hành mậu dịch với Mỹ nếu đổi 2m lấy 1 giạ hoặc ít hơn, quy đồng là đổi 6 giạ lấy 12m. Tỷ lệ trao đổi tăng dần lên, Mỹ có lợi ngày càng nhiều và Anh thì giảm xuống đến mức 6 giạ đổi 12m vải. Anh sẽ không trao đổi vì tự trong nước có thể sản xuất được. 30
  32. 3. Xác định lợi thế so sánh, mô hình thương mại quốc tế: Nếu trong một thời gian nhất định, quốc gia I (QGI) sản xuất được a1 sản phẩm A và b1 sản phẩm B, quốc gia II (QGII) sản xuất được a2 sản phẩm A và b2 sản phẩm B thì QGI sẽ xuất khẩu A và nhập a a a b khẩu B nếu 1 > 2 hay 1 > 1 và QGII sẽ xuất khẩu B, nhập khẩu A. b1 b2 a2 b2 a b Ngược lại, nếu 1 < 1 thì QGI sẽ nhập khẩu A, xuất khẩu B và QGII a2 b2 xuất khẩu A, nhập khẩu B. Các bạn lưu ý là nếu tính bằng chi phí thì phải đảo dấu các bất đẳng thức nêu trên. Nếu các bất đẳng thức trên là đẳng thức thì sẽ có trao đổi mậu dịch quốc tế. Ví dụ: Bây giờ thay vì 1 giờ Anh sản xuất được 1 giạ thì sản xuất được 3 giạ. Như vậy năng suất lao động của Anh đúng bằng 1/2 năng suất lao động của Mỹ ở cả 2 sản phẩm. Trong trường hợp này cả Anh và Mỹ đều không có lợi thế so sánh ở cả 2 sản phẩm nên cả hai đều không có lợi ích gì từ mậu dịch. Như trên đã khẳng định Mỹ chỉ đồng ý trao đổi khi nào 6 giạ lấy nhiều hơn 4m. Nhưng bây giờ Anh lại không sẵn sàng bỏ một số lớn hơn 4m để thu về 6 giạ từ Mỹ vì ngay trong nước, Anh đã có thể sản xuất được 6 giạ mà chỉ mất có 4m. Ở tình huống mới này mậu dịch sẽ không xảy ra. Do vậy, mậu dịch sẽ không xảy ra khi có một tỷ lệ về năng suất lao động hay chi phí sản xuất đối với nước kia ở cả hai sản phẩm. Lý thuyết này có ưu điểm là đã chứng minh được tất cả các quốc gia dù có lợi thế tuyệt đối hay không, đều có lợi khi giao thương 31
  33. với. Như ví dụ trên về trường hợp của Anh dù không có lợi thế tuyệt đối ở cả 2 sản phẩm nhưng cũng có lợi khi chuyên môn hoá và trao đổi mậu dịch. Tuy nhiên lý thuyết này vẫn còn những nhược điểm là: - Không giải thích được vì sao năng suất lao động hơn kém nhau giữa các quốc gia do trong chi phí sản xuất mới chỉ tính đến có một yếu tố duy nhất là lao động. Còn các yếu tố khác như vốn, kỹ thuật, đất đai và cả trình độ của người lao động thì không được đề cập đến. Do đó không thể tìm ra nguyên nhân tại sao năng suất lao động của nước này lại cao hoặc thấp hơn so với năng suất lao động của nước kia. - Các tính toán chỉ dựa trên cơ sở hàng đổi hàng. - Không xác định được giá cả tương đối của sản phẩm đem trao đổi giữa các quốc gia. 4. Những quan niệm sai lệch về lợi thế so sánh: a. Quan điểm 1: Chỉ khi nào nước của bạn có năng suất đủ cao để cạnh tranh quốc tế thì tự do mậu dịch mới có lợi. Lập luận này chủ yếu liên quan đến các nước chậm phát triển, ám chỉ rằng các nước nghèo nên tự tách khỏi nền kinh tế thế giới cho đến khi họ đủ mạnh để cạnh tranh. Để thấy được sai lầm trong cách lập luận này, chúng ta xem lại ví dụ trên. Anh không có lợi thế tuyệt đối cả 2 sản phẩm so với Mỹ nhưng khi trao đổi thương mại thì cả hai nước đều có lợi. Vấn đề là ở chỗ người ta cứ thường cho 32
  34. rằng khả năng xuất khẩu một loại hàng phụ thuộc vào lợi thế tuyệt đối về năng suất. Tuy nhiên, lợi thế tuyệt đối về năng suất của một ngành công nghiệp trong nước (so với nước khác) không phải là điều kiện cần và đủ để có lợi thế so sánh mà còn phải xét đến mức lương trong nước so với mức lương ở nước ngoài. Mức lương của một nước lại phụ thuộc vào năng suất tương đối trong các ngành công nghiệp của nước đó. Trong ví dụ trên, Anh kém hiệu quả hơn Mỹ trong việc sản xuất lúa mì và vải bởi vì năng suất chung thấp hơn, nhưng Anh lại trả lương thấp hơn Mỹ tới mức để cuối cùng có chi phí thấp hơn trong ngành sản xuất vải. Như vậy thì không nhất thiết phải có năng suất tuyệt đối cao hơn thì quốc gia mới có thể tham gia vào thương mại quốc tế. b. Quan điểm 2: Cạnh tranh của nước ngoài là không công bằng và có hại cho nước khác khi nó dựa trên tiền công thấp. Những người tin vào lập luận này cho rằng không nên buộc các ngành công nghiệp trong nước phải đối phó với các ngành công nghiệp nước ngoài kém hiệu quả hơn nhưng trả lương thấp hơn. Ví dụ trên đã thấy lập luận đó là sai lầm. Mỹ có năng suất lao động cao hơn Anh ở cả hai ngành công nghiệp và chi phí sản xuất lúa mì của Anh thấp hơn hoàn toàn là do mức lương của Anh thấp hơn nhiều. Tuy nhiên, vấn đề Anh có mức lương thấp hơn lại không có liên quan gì đến việc Mỹ có lợi từ thương mại. Cho dù năng suất sản xuất lúa mì của Anh thấp hơn do tiền công thấp đều không có ảnh hưởng gì. Toàn bộ vấn đề đối với Mỹ là ở chỗ xét theo lao động của mình, Mỹ 33
  35. sản xuất lúa mì và trao đổi lấy vải sẽ rẻ hơn là sản xuất vải ở trong nước. c. Quan điểm 3: Thương mại bóc lột và làm cho một nước nghèo đi nếu như nước đó sử dụng số lao động vào việc sản xuất hàng để xuất khẩu nhiều hơn số lao động các nước khác sử dụng để sản xuất hàng mà nó sẽ nhập (đổi lại số hàng xuất trên). Lập luận này có nguồn gốc từ tư tưởng macxit cho rằng chỉ có lao động tạo nên giá trị và có thiên hướng được các nhà chủ trương phân phối lại thu nhập từ nước giàu sang nước nghèo ở thế giới thứ 3 ủng hộ. Trong khi tư tưởng cho rằng một đất nước bị bóc lột nếu như hàng xuất của nó chứa nhiều lao động hơn so với hàng nhập có một vài khía cạnh đúng đắn, trao đổi không công bằng không có nghĩa là nước có tiền công lao động thấp sẽ bị thiệt hại do thương mại. Tuy nhiên, sự không công bằng về đầu vào lao động không có liên quan gì đến kết luận rằng Anh có lợi từ thương mại. Không nên so sánh lao động trong nước dùng để sản xuất hàng cho xuất khẩu với lao động nước ngoài dùng để sản xuất hàng mà nước bạn nhập vào. Nên so sánh số lao động nước bạn dùng để sản xuất hàng xuất khẩu với số lao động đáng ra phải dùng để sản xuất số hàng mà bạn sẽ phải nhập khẩu. Mỹ có được 6 giạ lúa mì từ một giờ lao động, trong khi phải mất 6 giờ lao động Anh mới sản xuất được 6 giạ lúa mì. Nếu như một nước khác có thể sản xuất số hàng nước bạn nhập khẩu với năng suất lao động cao hơn nhiều so với năng suất trong nước thì điều đó tốt cho họ, thực tế đó không làm giảm lợi ích thu được từ thương mại. 34
  36. Tuy đã khắc phục được nhược điểm của lý thuyết lợi thế tuyệt đối nhưng lý thuyết lợi thế so sánh cũng bộc lộ nhiều thiếu sót. Một vấn đề khá quan trọng của lý thuyết này đó là cách tính giá trị lao động không phù hợp với thực tế vì: - Lao động không phải là yếu tố chi phí duy nhất để sản xuất ra sản phẩm mà còn nhiều yếu tố khác như vốn, kỹ thuật, đất đai - Lao động không đồng nhất và không phải được sử dụng với cùng một tỷ lệ trong tất cả các loại sản phẩm. Tỷ lệ sử dụng lao động cũng không phải là cố định mà thay đổi phụ thuộc vào khả năng thay thế giữa lao động, vốn và các yếu tố khác trong quá trình sản xuất ra các loại sản phẩm. Lao động có sự khác nhau rất lớn về kinh nghiệm, trình độ tay nghề, năng suất lao động. Do đó, cần có cách giải thích khác về chi phí sản xuất toàn diện và phù hợp hơn. Vào năm 1936, Gottfried Haberler đã đưa ra lý thuyết chi phí cơ hội để giải thích quy luật lợi thế so sánh. 5. Lý thuyết chi phí cơ hội: Xác định lợi thế so sánh qua chi phí cơ hội. Giả thiết về năng suất lao động của hai quốc gia giao thương Mỹ và Anh như bảng 2.6. Bảng 2.6: Năng suất lao động của Mỹ và Anh Sản phẩm Mỹ Anh Lúa mì (giạ/giờ) 6 1 Vải (m/giờ) 4 2 35
  37. Xem bảng 2.6, ta : - Mỹ có lợi thế so sánh về lúa mì vì: 1 giạ = 4/6 = 2/3m (Mỹ) V (Anh), Anh có lợi thế so sánh vải. PLM PLM Sự khác nhau trong giá cả sản phẩm so sánh 2 quốc gia chính là biểu hiện của lợi thế so sánh và là cơ sở để tiến hành mậu dịch. 2 PLM Khung trao đổi là < < 2. 3 PV Phân tích lợi ích của mậu dịch: 36
  38. Nếu phí cơ hội không đổi thì đường giới hạn khả năng sản xuất là đường thẳng. Chuyên môn hoá và mậu dịch làm tăng khả năng tiêu dùng. Ví dụ: Khả năng sản xuất lúa mì và vải ở Mỹ và Anh như trong bảng 2.7. ảng 2.7: Khả năng sản xuất lúa mì và vải ở Mỹ và Anh Đơn vị tính: triệu giạ/m Mỹ Anh Lúa mì Vải Lúa mì Vải 180 0 60 0 150 20 50 20 120 40 40 40 90 60 30 60 60 80 20 80 30 100 10 100 0 120 0 120 Nếu tập trung toàn bộ yếu tố sản xuất để sản xuất lúa mì thì một năm Mỹ sẽ sản xuất được 180 triệu giạ lúa mì. Nếu chỉ tập trung sản xuất vải thì được 120 triệu mét. Còn ở giữa 2 thái cực đó tồn tại hàng loạt các khả năng khác. Nếu bớt đi 30 giạ Mỹ sẽ sản xuất thêm được 20m, tức là 30 giạ bằng 20m (chi phí cơ hội để sản xuất đơn vị lúa mì là 2/3). Như vậy chi phí cơ hội ở đây là không đổi nên đường giới hạn khả năng sản xuất là đường thẳng (xem hình 2.1). 37
  39. Điều này có nghĩa là với bất kỳ phối hợp nào, chi phí cơ hội để sản xuất thêm một đơn vị lúa mì đều bằng 2/3. Trong trường hợp với Anh cũng vậy, chi phí cơ hội để sản xuất một đơn vị lúa mì cũng không đổi và bằng 2 (1 giạ = 2m). Vải Vải 120 120 B’ 70 E 70 E’ 60 A• 40 40 20 A’ • 0 0 B 30 60 90 110 180 Lúa mì 20 40 50 Lúa mì a) Mỹ b) Anh Hình 2.1: Đường giới hạn khả năng sản xuất của Mỹ và Anh Khi không có mậu dịch, giả sử Mỹ chọn phối hợp sản lượng tại điểm A (90giạ và 60m) trên đường giới hạn sản xuất và Anh chọn phối hợp tại điểm A’ (40giạ và 40m). Khi mậu dịch mở ra, Mỹ sẽ chuyên môn hóa vào sản xuất lúa mì và phối hợp sản xuất và tiêu dùng sẽ ở điểm B (180 giạ và 0m) trên đường giới hạn khả năng sản xuất. Tương tự như vậy Anh sẽ chuyên môn hóa vào sản xuất vải và phối hợp sản xuất và tiêu dùng sẽ ở điểm B’ (0 giạ và 120m). 38
  40. 2 PLM Khung tỷ lệ trao đổi giữa 2 quốc gia là < < 2. Giả sử lấy 3 PV P LM = 1, Mỹ sẽ đổi 70 giạ lấy 70m vải với Anh. Bây giờ tiêu dùng của PV Mỹ đã chuyển sang điểm E (110 giạ và 70m) tiêu dùng của Anh chuyển đến điểm E’ (70 giạ và 50m). So sánh điểm E với điểm A và điểm E’ với điểm A’ thì rõ ràng tiêu dùng 2 nước đã tăng lên, cho thấy lợi ích mà mậu dịch mang lại do hai nước đã đi vào chuyên môn hoá sản xuất sản phẩm mà họ có lợi thế so sánh. Thật vậy tại điểm E, Mỹ đã tiêu dùng 110 giạ và 70m vải, so với điểm A thì Mỹ đã tiêu dùng nhiều hơn 20 giạ và 10m. Đối với Anh, tại điểm E’, Anh đã tăng tiêu dùng lên 30 giạ và 10m vải. Số lượng tiêu dùng gia tăng ở cả 2 sản phẩm vì tổng sản lượng gia tăng. Khi có mậu dịch, Mỹ chỉ sản xuất được 90 giạ và Anh là 40 giạ nên tổng cộng là 130 giạ. Nhờ chuyên môn hoá và mậu dịch, Mỹ đã sản xuất 180 giạ. Khi không có mậu dịch Mỹ chỉ sản xuất được 60m và Anh sản xuất được 40m, tổng cộng là 100m. Nhờ chuyên môn hoá và mậu dịch, Anh đã sản xuất ra 120m. Như vậy nhờ vào chuyên môn hoá, sản lượng đã gia tăng 50 giạ và 20m, làm cho tiêu dùng gia tăng ở mỗi quốc gia. Đây chính là lợi ích từ mậu dịch. Nếu không có mậu dịch Mỹ không thể chỉ chuyên môn hoá vào sản xuất lúa mì vì dân chúng cần phải có vải để may mặc và Anh thể chỉ chuyên môn hoá sản xuất vải vì dân chúng cần có lúa mì để ăn. Nhận xét về lý thuyết chi phí cơ hội: Lý thuyết chi phí cơ hội đã xem xét các yếu tố chi phí toàn diện hơn lý thuyết tính giá trị bằng lao động của Adam Smith và David 39
  41. Ricardo và có tính đến các yếu tố giá cả trong mậu dịch quốc tế. Tuy nhiên lý thuyết này vẫn còn một số hạn chế sau: - Luận điểm chi phí cơ hội không đổi không phù hợp với thực tế. Do đó, yêu cầu chuyên môn hóa sản xuất hoàn toàn cũng không phù hợp với thực tế – nhất là đối với các nước nhỏ phải chuyên môn hóa sản xuất hoàn toàn trong điều kiện không chi phối được giá cả thị trường thế giới sẽ gặp nhiều khó khăn, bất lợi. Ví dụ: Anh là nước nhỏ, để thoả mãn nhu cầu vải cho Mỹ, Anh chuyên môn hoá hoàn toàn vào sản xuất mặt hàng này. Tuy nhiên là một nước lớn, Mỹ vẫn phải tiếp tục sản xuất vải thì mới đáp ứng được nhu cầu của dân chúng. Nhưng nếu hai bên vẫn PLM 2 trao đổi với nhau theo tỷ lệ = do đây là tỷ lệ trao đổi trong PV 3 nước Mỹ và vì là quốc gia lớn nên Mỹ quyết định giá cả thì mọi lợi ích từ mậu dịch sẽ dồn hết về phía Anh. Bây giờ giả sử Anh là một nhỏ bằng nửa so với trước đây, sản xuất và tiêu dùng tại A’ (20 giạ và 20m) khi chưa có mậu dịch (xem hình 2.2). Trong khi đó Mỹ sản xuất và tiêu dùng tại điểm A (90 giạ P và 60m) khi chưa có mậu dịch. Vì LM = 2, Anh có lợi thế so sánh về PV vải nên chuyên môn hoá hoàn toàn vào vải, tại B’ (0 giạ và 60m), Mỹ vừa sản xuất lúa mì, vừa sản xuất vải, giả sử tại điểm B (120 giạ và 40m). Sau đó Anh trao đổi với Mỹ 20m để lấy 30 giạ và đạt tới điểm tiêu dùng E’ (30 giạ và 40m), nếu so với điểm A’, tiêu dùng của Anh đã tăng lên 10 giạ và 20m, đây cũng chính là lợi ích từ mậu dịch đối với Anh. Trong khi đó sau khi trao đổi với Anh 30 giạ lấy 20m, điểm 40
  42. tiêu dùng của Mỹ sẽ đạt tới điểm E (90 giạ và 60m). Điểm này hoàn toàn trùng với điểm A. Như vậy Mỹ không có lợi ích gì khi tiến hành mậu dịch với Anh. Trong trường hợp này, Mỹ và Anh không thể tiếp tục trao đổi PLM 2 theo tỷ giá cũ, tức = mà phải chuyển sang một tỷ lệ trao đổi PV 3 khác có lợi cho cả 2 bên. Vải Vải 120 B’ 60 E ≡ A 60 40 B 40 E’ 20 A’ 0 90 120 180 20 30 Lúa mì Hình 2.2: Đường giới hạn khả năng sản xuất của Mỹ và Anh Tuy nhiên tỷ lệ trao đổi mới này không do Anh quyết định vì Anh là một nước nhỏ không chi phối giá cả trên thị trường thế giới. Trách nhiệm đó sẽ thuộc về một nước lớn khác cũng sản xuất vải. Mỹ sẽ trao đổi với nước này và tỷ số trao đổi lúc đó được xác định do cân đối giữa cung và cầu của hai nước với nguyên hai bên cùng có lợi. Bây giờ Anh có thể gia nhập vào thị trường thế giới với tỷ lệ trao đổi mới này. Đây cũng là một thử thách lớn đối với những nước nhỏ khi tham gia vào mậu dịch thế giới. Muốn có lợi ích từ mậu dịch họ phải cạnh tranh với nước lớn mà điều này hết sức khó khăn. 41
  43. Như vậy là các bạn đã biết được ba lý thuyết cổ điển về thương mại quốc tế của ba nhà kinh tế học nổi tiếng – Adam Smith, David Ricardo và Gottfried Haberler. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối được xem là bước khởi đầu, đặt nền tảng cho lý luận về thương mại quốc tế. Trong lý thuyết này Adam Smith đã không giải thích được vì sao các nước hoàn toàn không có lợi thế tuyệt đối về một sản phẩm nào nhưng vẫn tham gia thương mại quốc tế. David Ricardo đã đưa ra lý thuyết lợi thế so sánh tính giá trị chỉ dựa vào lao động và đã giải thích được điều trên. Tuy lý thuyết của ông cũng còn hạn chế ở chỗ chỉ tính giá trị bằng lao động nên chưa phù hợp với thực tế. Haberler đã bổ sung vào cách xác định lợi thế so sánh bằng chi phí cơ hội và mô hình ông đưa ra là các quốc gia sẽ chuyên môn hóa sản xuất hoàn toàn vào các sản phẩm có chi phí cơ hội thấp hơn để xuất khẩu và nhập khẩu trở lại những sản phẩm có chi phí cơ hội cao hơn so với thị trường thế giới. Tuy vậy, lý thuyết này cũng còn hạn chế ở chỗ cho rằng chi phí cơ hội là không đổi ở các quốc gia nhưng trên thực tế thì không phải vậy. Nói chung, mỗi lý thuyết đều có những ưu và nhược điểm nhất định nhưng đều có vai trò to lớn trong quá trình phát triển lý thuyết thương mại quốc tế. 42
  44. TÓM TẮT BÀI 2 1. Lý thuyết bàn tay vô hình của Adam Smith cho rằng mọi hành vi kinh tế của mỗi cá nhân đều được dẫn dắt bởi một bàn tay vô hình là tư lợi. 2. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối dựa trên cơ sở khác biệt tuyệt đối về năng suất lao động hay về chi phí lao động để làm ra cùng loại sản phẩm so với quốc gia giao thương. 3. Lý thuyết lợi thế so sánh cho rằng một quốc gia không có lợi thế tuyệt đối nhưng vẫn có lợi thế so sánh. 4. Lý thuyết chi phí cơ hội của Haberler giải thích lợi thế so sánh bằng chi phí cơ hội và tính được giá cả của sản phẩm. Mặc dù đã tính toán chi phí một cách toàn diện hơn lý thuyết tính giá trị bằng lao động nhưng lý thuyết chi phí cơ hội vẫn còn bị hạn chế vì cho rằng chi phí cơ hội là không đổi và các quốc gia có thể chuyên môn hoá hoàn toàn vào sản phẩm có lợi thế. 43
  45. CÂU HỎI 1. Adam Smith muốn nói đến điều gì với cụm từ “bàn tay vô hình”? 2. Một quốc gia có lợi thế tuyệt đối so với quốc gia khác về một sản phẩm nào đó thì cũng sẽ luôn có lợi thế so sánh về sản phẩm đó. Đúng hay sai? 3. Cho số liệu về hao phí lao động để sản xuất ra 2 sản phẩm X và Y ở 2 quốc gia như sau: Quốc gia I II NSLĐ Sản lượng X/giờ 4 1 Sản lượng Y/giờ 3 2 Hãy xác định: a. Cơ sở mậu dịch cho 2 quốc gia. b. Mô hình mậu dịch. c. Khung tỷ lệ trao đổi giữa 2 quốc gia. d. Lợi ích mà mậu dịch quốc tế đem lại cho mỗi quốc gia. e. Nếu tỷ lệ trao đổi gần với tỷ lệ trao đổi ban đầu của QGI thì sẽ làm lợi cho quốc gia nào nhiều ? 4. Nguyên nhân nào làm cho một số nhà kinh tế đưa ra một số quan điểm sai lệch về lợi thế so sánh ? 5. Cho số liệu sau : 44
  46. Quốc gia I II X(giờ lao động/kg) 20 50 Y(giờ lao động/kg) 30 40 Biết rằng tổng tài nguyên lao động tại QGI là 60.000 giờ, QGII là 120.000giờ. a. Tính chi phí cơ hội của sản phẩm X, Y tại hai quốc gia. b. Vẽ đường giới hạn khả năng sản xuất của hai quốc gia. c. Giả sử khi chưa có giao thương, QGI tự cung tự cấp tại điểm A(1500X, 1000Y), QGII tại điểm B(1200X, 1500Y). Xác định hữu dụng từ thương mại của 2 quốc gia. 6. Ba lý thuyết cổ điển về thương mại quốc tế có quan hệ với nhau như thế nào? 45
  47. HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI CÂU HỎI 1. Adam Smith cho rằng mọi hành vi kinh tế của mỗi cá nhân do một bàn tay vô hình dẫn dắt, đó là tư lợi. Theo ông, mỗi người khi làm một việc gì thì chỉ nghĩ đến lợi ích cá nhân, nhưng khi thực hiện tốt mục đích tư lợi thì cũng đồng thời đóng góp vào lợi ích của tập thể và của xã hội. Do vậy, chính quyền nên để các doanh nghiệp và cá nhân hoạt động tự do vì khi họ hoạt động có hiệu quả thì nền kinh tế cũng sẽ tự động được điều chỉnh theo hướng tích cực. Đây chính là cơ sở để hình thành nên lý thuyết “lợi thế tuyệt đối”. 2. Sai. Vì không phải cứ có lợi thế tuyệt đối là có lợi thế so sánh. Xem ví dụ với bảng 2.3, các bạn sẽ thấy Mỹ có lợi thế tuyệt đối ở cả 2 sản phẩm lúa mì và vải nhưng Mỹ chỉ có lợi thế so sánh về lúa mì, còn Anh thì có lợi thế so sánh về vải. 3. a. Lợi thế tương đối vì QGI có lợi thế tuyệt đối về cả 2 sản phẩm so với QGII. b. Mô hình mậu dịch: QGI: 4X = 3Y QGII: 1X = 2Y, 4X = 8Y, chọn 1 trong 2 sản phẩm làm giá. c. Khung tỷ lệ trao đổi: 8Y > 4X > 3Y. d. Lợi ích của thương mại quốc tế: dựa vào sản phẩm có lợi thế để lập luận. 46
  48. Các tỷ lệ trao đổi Lợi ích của Lợi ích của có thể xảy ra QG I QGII 4X = 4Y 1Y 4Y 4X = 5Y 2Y 3Y 4X = 6Y 3Y 2Y 4X = 7Y 4Y 1Y e. Nếu tỷ lệ trao đổi gần với tỷ lệ trao đổi ban đầu của QGI thì làm lợi cho QGII nhiều hơn bởi vì đối với QGI, ngoại thương không có sự khác biệt lớn so với nội thương nhưng đối với QGII thì ngoại thương đã có sự khác biệt lớn so với nội thương. Do đó, QGII sẽ thu được lợi ích từ thương mại quốc tế nhiều hơn so với QGI. 4. Sở dĩ một số nhà kinh tế cho rằng: “Chỉ khi nào nước của bạn có năng suất đủ cao để cạnh tranh quốc tế thì tự do mậu dịch mới có lợi” là do họ đã lầm lẫn giữa lợi thế tuyệt đối và lợi thế tương đối. Một số nhà kinh tế còn cho rằng: “Cạnh tranh của nước ngoài là không công bằng và có hại cho nước khác khi nó dựa trên tiền công thấp” là do họ đã không tính đến việc tiền công thấp là do năng suất kém. Cuối cùng quan điểm: “Thương mại bóc lột và làm cho một nước nghèo đi nếu như nước đó sử dụng số lao động vào việc sản xuất hàng để xuất khẩu nhiều hơn số lao động các nước khác sử dụng để sản xuất hàng mà nó sẽ nhập” là do các nhà kinh tế đã so sánh lao 47
  49. động trong nước dùng để sản xuất hàng cho xuất khẩu với lao động nước ngoài dùng để sản xuất hàng mà nước họ nhập vào, trong khi đúng ra họ phải so sánh số lao động nước ngoài dùng để sản xuất hàng xuất khẩu với số lao động của nước họ đáng ra phải dùng để sản xuất số hàng mà họ sẽ phải nhập khẩu. 5. Chi phí cơ hội sản phẩm X, Y: Quốc gia I II Giá PX 2/3Y 5/4Y PY 3/2X 4/5X a. Vẽ đường giới hạn khả năng sản xuất. b. QGI xuất khẩu X, nhập Y. QGII xuất khẩu Y, nhập X. c. Chọn tỷ lệ và khối lượng mậu dịch, 600X = 600Y chẳng hạn. Có được lợi ích từ chuyên môn hoá và trao đổi mậu dịch. 6. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối chưa giải thích được hiện tượng mậu dịch xảy ra giữa một cường quốc có lợi thế tuyệt đối về cả 2 loại sản phẩm và một nước nhỏ không có lợi thế tuyệt đối ở sản phẩm nào cả. Lý thuyết lợi thế so sánh đã giải đáp được thắc mắc trên khi cho rằng: “một quốc gia không có lợi thế tuyệt đối nhưng vẫn có lợi khi tham gia trao đổi mậu dịch nếu chuyên môn hoá sản xuất sản phẩm có lợi thế so sánh”. Mặc dù David Ricardo đã có cái nhìn tiên tiến hơn Adam Smith nhưng lý thuyết lợi thế so sánh của ông cũng còn có hạn 48
  50. chế khi chỉ tính mỗi chi phí lao động là chi phí sản xuất duy nhất và trao đổi vẫn là hàng đổi hàng chứ chưa tính được giá cả của sản phẩm. Lý thuyết chi phí cơ hội của Haberler giải thích lợi thế so sánh bằng chi phí cơ hội và tính được giá cả của sản phẩm đã khắc phục được phần nào những hạn chế của lý thuyết lợi thế so sánh. Nói chung, 3 lý thuyết cổ điển về thương mại quốc tế đóng vai trò rất quan trọng trong lịch sử phát triển của lý thuyết thương mại quốc tế và chúng là nền tảng cho môi trường thương mại phát triển toàn cầu hiện nay. 49
  51. BÀI 3: LÝ THUYẾT CHI PHÍ CƠ HỘI GIA TĂNG Mỗi lý thuyết cổ điển có những ưu nhược điểm riêng, những hạn chế của lý thuyết trước làm động lực phát triển cho các lý thuyết sau. Bài này giới thiệu với các bạn một trong những lý thuyết hiện đại do nhiều nhà kinh tế cùng phát triển. Lý thuyết này cho rằng chi phí cơ hội có xu hướng tăng và vì thế đường giới hạn khả năng sản xuất là đường cong chứ không phải là đường thẳng như trong lý thuyết Haberler. I. MỤC TIÊU: Học xong bài này các bạn phải: - Biết được dạng và ý nghĩa của đường giới hạn khả năng sản xuất trong trường hợp chi phí cơ hội tăng, dạng và ý nghĩa của các đường bàng quan, đường cong ngoại thương. - Thiết lập được các đồ thị và dùng nó để phân tích lợi ích của thương mại quốc tế. - NỘI DUNG CHÍNH: 1. Chi phí cơ hội gia tăng: 50
  52. Trong bài trước các bạn đã được biết đường giới hạn khả năng sản xuất là đường thẳng do chi phí cơ hội không đổi. Tuy nhiên trong thực tế, càng chuyên môn hoá sản xuất thì chi phí cơ hội càng tăng. Chi phí cơ hội tăng có nghĩa là quốc gia phải hy sinh ngày càng nhiều hơn sản phẩm này để dành tài nguyên tăng sản xuất một đơn vị sản phẩm khác. Trong điều kiện tài nguyên kinh tế hữu hạn (chi phí khai thác ngày càng tăng), việc tập trung nguồn lực cho các sản phẩm có lợi thế so sánh làm tăng tương đối chi phí sản xuất của các sản phẩm này. Ví dụ: Khi chúng ta mới bắt đầu khai thác dầu mỏ thì chi phí thăm dò thấp do tài nguyên còn nhiều nên có thể dễ dàng tìm kiếm được mỏ dầu ở gần bờ. Đến khi các mỏ dầu này đã được khai thác hết, chúng ta phải đi thăm dò các mỏ dầu mới chi phí sẽ cao hơn do phải đi xa (tốn thời gian, chi phí vận chuyển). 2. Đường giới hạn khả năng sản xuất với chi phí cơ hội gia tăng: Quốc gia I Quốc gia II Có LTSS về sản phẩm X Có LTSS về sản phẩm Y Y Y 120 100 B’ 80 A 60 40 A’ B 20 0 10 30 50 70 90 110 130 X X Hình 3.1 : Đường giới hạn khả năng sản xuất 51
  53. Nếu các bạn còn nhớ về đường giới hạn khả năng sản xuất mà các bạn đã học trong Kinh tế học thì ở đây hai đường trong hình 3.1 cũng giống như vậy. Với mỗi 20X được sản xuất tăng thêm, quốc gia I phải hy sinh ngày càng nhiều Y hơn và với mỗi 20Y được sản xuất tăng thêm, quốc gia II phải hy sinh ngày càng nhiều X hơn. Đường giới hạn sản xuất là một đường cong, bề lõm hướng vào góc của trục tọa độ. Mức chi phí cơ hội gia tăng được gọi là tỷ lệ chuyển dịch biên (MRT) và được đo bằng độ dốc của đường tiếp tuyến với đường giới hạn khả năng sản xuất tại điểm sản xuất. Tỷ lệ chuyển dịch biên của sản phẩm Y sang X được biểu thị qua số lượng sản phẩm Y mà quốc gia cần phải giảm đi để dành nguồn lực sản xuất thêm một đơn vị sản phẩm X. Trên hình 3.1, MRT của quốc gia I tại điểm A bằng 1/4 có nghĩa là quốc gia I phải hy sinh 1/4 đơn vị sản phẩm Y để dành tài nguyên sản xuất thêm một đơn vị sản phẩm X. Nếu MRT = 1 tại điểm B thì quốc gia I phải giảm đi một đơn vị sản phẩm Y để sản xuất thêm một đơn vị sản phẩm X. Khi ngày càng sản xuất chuyên môn hoá thì càng phải sử dụng những loại tài nguyên mà chúng ngày càng ít thích hợp để sản xuất ra loại sản phẩm đó. Kết quả là quốc gia phải giảm đi ngày càng nhiều sản phẩm này để dành tài nguyên cho việc sản xuất thêm mỗi đơn vị của sản phẩm kia hay nói cách khác là chi phí cơ hội tăng. Ví dụ: Xã A có diện tích trồng lúa màu và nuôi tôm gần bằng nhau. Do nuôi tôm đạt hiệu quả cao hơn trồng lúa nên nông dân thi nhau đào ruộng lúa thành vuông tôm. Giai đoạn đầu thì họ 52
  54. chọn những ruộng lúa kém màu mỡ cho nên chi phí cho một kg tôm khá thấp, nhưng càng về sau thì họ đào cả những ruộng lúa màu mỡ cho năng suất cao, lúc này chi phí để sản xuất thêm một kg tôm tăng cao hơn nhiều so với ban đầu. Với 2 đường giới hạn khả năng sản xuất như hình 3.1, hai quốc gia có sự khác nhau về các yếu tố sản xuất và tài nguyên, cũng như kỹ thuật mà họ đã sử dụng trong quá trình sản xuất. Tức là đầu vào được sử dụng không cùng một tỷ lệ cố định hay cường độ trong sản xuất các sản phẩm khác nhau. Chính điều này đã làm cho mô hình mậu dịch thực tế hơn khi so với các đường giới hạn sản xuất là những đường thẳng với chi phí cơ hội không đổi. Bởi vì trong thực tế, giới hạn sản xuất của các quốc gia khác nhau là khác nhau, không có 2 quốc gia nào mà lại có các yếu tố đầu vào giống nhau hoàn toàn. 3. Đường bàng quan: Đường bàng quan tập hợp những phối hợp khác nhau về 2 loại sản phẩm mà người tiêu dùng đạt được mức thoả mãn như nhau. Vì thế người tiêu dùng có thái độ “bàng quan”, không phân biệt giữa 2 điểm bất kỳ trên cùng một đường bàng quan vì mặc dù phối hợp tiêu dùng khác nhau nhưng mức thỏa mãn bằng nhau. Tương tự như đường bàng quan hay đường đẳng ích mà các bạn đã học trong Kinh tế học vi mô, những đường nằm càng xa góc của trục toạ độ thể hiện mức thoả mãn càng lớn và ngược lại, những đường nằm càng gần góc của trục toạ độ biểu thị mức thoả mãn càng nhỏ. Chắc các bạn cũng còn nhớ các đường bàng quan có đặc điểm là: có độ dốc âm, lồi về phía góc của trục toạ độ và không giao nhau. 53
  55. Hình 3.2 cho thấy ba đường bàng quan đại chúng của QGI và QGII. Chúng khác nhau do thị hiếu hay sở thích của người tiêu dùng khác nhau ở 2 quốc gia. Điểm N và A là những điểm mà người tiêu dùng có mức thoả mãn như nhau vì chúng cùng nằm trên đường bàng quan I. Điểm T và H nằm trên đường II phía trên I nên mức thoả mãn cao hơn và điểm E có mức thỏa mãn cao hơn nữa. Tương tự như vậy đối với QGII mức độ thoả mãn của người tiêu dùng tại A’ và R’ là như nhau, cao hơn tại điểm H’ và cao hơn nữa là điểm E’. Quốc gia I: Xu hướng tiêu dùng: Quốc gia II: giảm X, tăng Y. Xu hướng tiêu dùng: Y Y giảm Y, tăng X. 100 100 T E 80 80 III H II 60 E’ 60 N A I 40 III’ 40 A’ H’ 20 20 T’ N’ II’ I’ ’ 10 30 50 70 90 110 XX 20 40 60 80 100 Hình 3.2: Đường bàng quan của 2 quốc gia Phối hợp tiêu dùng của mỗi quốc gia chuyển động trên mỗi đường cong và giữa các đường cong bàng quan khác nhau. Chẳng hạn tiêu dùng của QGI chuyển từ N đến A trên đường bàng quan I, sản phẩm X sẽ được tiêu dùng nhiều lên nhưng sản phẩm Y sẽ ít đi. Tại một điểm tiêu dùng, muốn giữ nguyên số lượng mặt hàng này và thêm số lượng mặt hàng kia, người tiêu dùng phải chuyển lên một đường bàng quan khác cao hơn vì khi đó mức thỏa mãn sẽ cao hơn. 54
  56. Đến đây các bạn hãy nhớ lại khái niệm tỷ lệ thay thế biên (MRS). Nó chính là độ dốc của đường bàng quan và biểu thị cho số lượng sản phẩm này phải giảm đi để thay thế bằng một đơn vị sản phẩm kia mà mức thỏa mãn vẫn không đổi. Trên hình 3.2, với quốc gia I, MRS của đường bàng quan I tại điểm N là lớn hơn so với MRS tại điểm A. Tương tự như vậy, với quốc gia II, MRS của đường bàng quan I’ tại điểm A’ lớn hơn so với MRS tại điểm N’. Các bạn hãy lưu ý là tỷ lệ chuyển dịch biên (MRT), biểu thị cho chi phí cơ hội trong sản xuất được đo bằng độ dốc của đường giới hạn sản xuất và tỷ lệ thay thế biên (MRS) trong tiêu dùng được đo bằng độ dốc của đường bàng quan đại chúng. 4. Phân tích lợi ích của thương mại quốc tế: a. Cân bằng nội địa có liên quan đến giá cả hàng hóa: Quốc gia 1: Quốc gia 2: Y Dựa vào chỉ số so Y (PA< PA’), có LTSS sánh giá cả sản ở Y. 70 phẩm tại điểm cân 70 bằng (PA < PA’), xác B’ 60 định LTSS ở X. 60 50 50 PA’ = PX/PY = 4 40 40 A 30 I 30 P = P /P = 1/4 20 A X Y 20 A’ 10 B 10 I’ 10 30 50 70 90 110 130 X 10 20 30 40 X Hình 3.3: Cân bằng nội địa có liên quan đến giá cả hàng hoá 55
  57. Nếu không có mậu dịch, một quốc gia đạt được cân bằng khi đường bàng quan cao nhất tiếp xúc với đường giới hạn sản xuất. Điểm này cho thấy cân bằng nội địa tại mức giá cả sản phẩm so sánh và biểu thị lợi thế so sánh của quốc gia. Như vậy khi không có mậu dịch, điểm cân bằng của QGI chính là điểm A – điểm tiếp xúc giữa đường bàng quan I và đường giới hạn sản xuất. Tức là tại điểm này QGI đạt lợi ích cực đại trong sản xuất và tiêu dùng. Tương tự như vậy QGII đạt được cân bằng tại điểm A’– điểm tiếp xúc giữa đường bàng quan I’ và đường giới hạn sản xuất. QGII đạt được lợi ích cực đại khi sản xuất và tiêu dùng tại điểm này. Như vậy nếu không có mậu dịch, giá cả sản phẩm so sánh cân bằng nội địa được xác định bởi độ dốc của đường tiếp tuyến chung của đường giới hạn sản xuất của quốc gia và đường bàng quan tại điểm cân bằng tức là tại điểm tự cung tự cấp. Giá cả sản phẩm so sánh cân bằng ở mỗi quốc gia là: PX - Quốc gia I : PA = = (65 – 60)/(50 – 30) = 1/4 PY PX - Quốc gia II : PA’ = = (60 – 40)/(80 – 75) = 4 PY Y Y 60 MRT MRT = 4 65 A 60 40 A’ 30 50 X 0 75 80 X Hình 3.4: Cách tính giá cân bằng 56
  58. Giá cả sản phẩm so sánh cân bằng khác nhau ở hai quốc gia do sự khác nhau về vị trí và hình dạng của đường giới hạn sản xuất và đường bàng quan đại chúng. Vì PA< PA’, QGI có lợi thế so sánh sản phẩm X, QGII có lợi thế P P so sánh sản phẩm Y : X (QGI) < X (QGII). PY PY Theo quy luật lợi thế so sánh, cả hai quốc gia sẽ cùng có lợi nếu quốc gia I chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu sản phẩm X để đổi lấy sản phẩm Y từ quốc gia II và quốc gia II chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu sản phẩm Y để đổi lấy sản phẩm X từ quốc gia I. Nếu không có trao đổi mậu dịch quốc tế, cân bằng nội địa có liên quan đến giá cả hàng hóa của một quốc gia xảy ra khi đường giới hạn khả năng sản xuất và đường bàng quan gần góc của trục tọa độ gặp nhau tại điểm mà MRT và MRS bằng nhau. Tại đó: - Lợi ích của sản xuất và tiêu dùng nội địa đạt đến cực đại. P - Chỉ số so sánh giá cả sản phẩm tại điểm cân bằng ( X ) PY bằng với độ dốc của các tiếp tuyến MRT và MRS. Mặc dù ở đây mới xét tới trường hợp tự cung tự cấp, tức là khi chưa có mậu dịch, giá cả sản phẩm so sánh cân bằng trong quốc gia đã được xác định dựa trên mối quan hệ cung cầu. Cung ở đây chính là đường giới hạn sản xuất của quốc gia và cầu là hệ thống những đường bàng quan thể hiện sự tiêu dùng của quốc gia. 5 Chi phí cơ hội gia tăng: 57
  59. a. Cơ sở của lợi ích khi có trao đổi mậu dịch: Vì có sự khác nhau trong giá cả sản phẩm so sánh giữa 2 quốc gia như là biểu hiện của lợi thế so sánh mà hai quốc gia tiến hành mậu dịch với nhau để cùng có lợi. Mỗi quốc gia sẽ chuyên môn hoá sản xuất sản phẩm mà họ có lợi thế so sánh và trao đổi một phần sản lượng của nó với quốc gia khác. Tuy nhiên vì mỗi quốc gia chuyên môn hoá vào sản xuất sản phẩm mà họ có lợi thế so sánh nên chi phí cơ hội tăng lên. Quá trình chuyên môn hoá sẽ tiếp tục cho đến khi nào giá cả sản phẩm so sánh của cả hai quốc gia trở nên bằng nhau thì mậu dịch đạt trạng thái cân bằng và cả hai quốc gia đều tiêu dùng nhiều hơn so với khi không có mậu dịch. Y Y 140 140 120 120 B’ 100 100 PB’ = 1 E 80 III 80 70 I 60 E’ III’ 60 A 40 40 B A’ I’ 20 C 20 PB = 1 0 0 10 30 50 70 90 110 130 X 20 40 60 80 X Hình 3.5: Cơ sở của lợi ích khi có trao đổi mậu dịch Bắt đầu từ điểm A là điểm cân bằng khi không có mậu dịch, QGI chuyên môn hoá sản xuất sản phẩm X và trượt trên đường giới hạn sản xuất xuống phía dưới, gánh chịu chi phí cơ hội tăng trong sản xuất sản phẩm X, thể hiện qua độ dốc của đường giới hạn khả năng 58
  60. sản xuất tăng lên. Bắt đầu từ điểm A’, QGII chuyên môn hoá sản xuất sản phẩm Y nên trượt theo đường giới hạn sản xuất chuyển lên phía trên, gánh chịu chi phí cơ hội tăng trong sản xuất sản phẩm Y, thể hiện qua độ dốc của đường giới hạn sản xuất giảm (giảm chi phí cơ hội của sản phẩm X, làm tăng chi phí cơ hội của sản phẩm Y). Quá trình chuyên môn hoá cứ tiếp tục đến khi giá sản phẩm so sánh trở nên cân bằng giữa hai quốc gia. Giá sản phẩm so sánh chung sẽ đạt được ở trong khoảng 1/4 và 4 là những giá cả sản phẩm so sánh trước khi có mậu dịch. Tại điểm này mậu dịch cân bằng PB = PB’ = 1. Khi có mậu dịch, sản xuất của QGI chuyển từ điểm A xuống điểm B trên đường giới hạn sản xuất. Tại đây QGI đổi 60X lấy 60Y từ QGII. QGI sẽ tiêu dùng tại điểm E (70X và 80Y) trên đường bàng quan III. Đó là mức thoả mãn cao nhất mà QGI có thể đạt được nhờ P mậu dịch với QGII theo tỷ lệ trao đổi X = 1. Nếu so sánh với trước PY khi có mậu dịch (điểm A) thì quốc gia I đã có lợi 20X và 20Y. Tương tự như vậy, sản xuất của QGII chuyển từ A’ lên B’ trên đường giới hạn khả năng sản xuất và trao đổi 60X lấy 60Y, đạt điểm tiêu dùng tại E’ (100X và 60Y) trên đường bàng quan III’, nếu so với trước khi có mậu dịch thì QGII có lợi 20X và 20Y. b. Tại sao PB = PB’ = 1? Nếu các bạn để ý sẽ thấy mậu dịch xảy ra khi trao đổi cùng một sản lượng sản phẩm X lấy một sản lượng sản phẩm Y tại giá cân bằng và bằng 1, lý do là khi PB = PB’ = 1, số lượng sản phẩm X mà QGI muốn xuất khẩu (60X) đúng bằng số lượng sản phẩm X mà QGII muốn nhập khẩu (60X). Tương tự, số lượng sản phẩm Y mà QGII 59
  61. muốn xuất khẩu (60Y) đúng bằng số lượng sản phẩm Y mà QGI muốn nhập khẩu (60Y). P Giả sử X = 2, QGI muốn xuất khẩu nhiều hơn sản phẩm X, PY trong khi đó QGII không muốn nhập khẩu X với giá cao như vậy. Do vậy, giá sản phẩm X giảm đi theo hướng về mức cân bằng ở 1. P Tương tự, X < 1, QGII mong nhập khẩu nhiều X, nhưng QGI PY không xuất khẩu với giá thấp như vậy nên giá sản phẩm X tăng lên. Do vậy bất cứ giá cả so sánh nào khác đều không phải là giá cả so sánh chung vì nó làm cho mậu dịch không cân đối. Trước đây khi nghiên cứu mô hình mậu dịch với chi phí cơ hội không đổi, cả hai quốc gia đều chuyên môn hoá hoàn toàn vào sản xuất sản phẩm mà họ có lợi thế so sánh (chỉ sản xuất ra một loại sản phẩm). Bây giờ với mô hình mậu dịch chi phí cơ hội tăng, hai nước không chuyên môn hóa hoàn toàn. Trong khi QGI sản xuất nhiều hơn sản phẩm X, họ tiếp tục sản xuất một ít sản phẩm Y. QGII vẫn tiếp tục sản xuất một ít sản phẩm X. Lý do: Nếu QGI chuyên môn hoá sản xuất sản phẩm X họ phải gánh chịu chi phí cơ hội tăng trong sản xuất sản phẩm đó, QGII gánh chịu chi phí cơ hội tăng trong khi chuyên môn hoá sản xuất sản phẩm Y. c. Các thành phần của lợi ích (từ trao đổi mậu dịch và chuyên môn hóa sản xuất) 60
  62. Giả sử rằng QGI không chuyên môn hoá sản xuất sản phẩm X khi mở cửa ra bên ngoài và tiếp tục sản xuất tại A. Với sản lượng sản xuất tại đó QGI có thể xuất khẩu 20X để đổi lấy 20Y theo giá cả thế giới hiện hành là Pw = 1. Sau khi trao đổi, tiêu dùng của quốc gia I đạt tới điểm T trên đường bàng quan II. Ở điểm này, mặc dù QGI bây giờ tiêu dùng ít sản phẩm X hơn nhưng tiêu dùng nhiều sản phẩm Y hơn và thoả mãn tiêu dùng nhiều hơn so với điểm A, vì tiêu dùng chuyển sang đường bàng quan khác, cao hơn. Sự dịch chuyển từ điểm A đến T trong tiêu dùng chính là lợi ích từ trao đổi. Y 120 Quốc gia 1 100 80 T E III 60 II A 40 PB = PW = 1 P = 1 20 W B 10 30 50 70 90 110 130 150 X Hình 3.6: Các thành phần của lợi ích Giả sử QGI chuyên môn hoá sản xuất không hoàn toàn sản phẩm X và sản xuất tại điểm B. QGI sẽ trao đổi 60X lấy 60Y với phần còn lại của thế giới PB = Pw = 1. Tiêu dùng đạt tới điểm E trên đường bàng quan III. Nếu so sánh với điểm T thì QGI đã tiêu dùng nhiều hơn. Do đó sự chuyển động từ điểm T đến E trong tiêu dùng chính là lợi ích từ chuyên môn hoá. 61
  63. d. Lợi ích từ mậu dịch quốc tế trên cơ sở thị hiếu tiêu dùng khác nhau. Giả sử hai quốc gia có đường giới hạn sản xuất như nhau, với chi phí cơ hội tăng lên, liệu 2 quốc gia có lợi ích khi trao đổi với nhau hay không? Trước khi có mậu dịch, điểm A chỉ sự cân bằng giữa sản xuất và tiêu dùng của QGI, điểm A’ tương tự ở QGII. III Giá cả so sánh của sản phẩm Y I E 180 P X ở QGI nhỏ hơn so với QGII 160 A nên QGI có lợi thế so sánh đối 140 B C với sản phẩm X, tương tự giá cả B PB = PB’ 120 so sánh của sản phẩm Y ở QGII 100 E nhỏ hơn so với QGI nên QGII C III’ 80 A 60 có lợi thế so sánh đối với sản P I’ phẩm Y. 0 20 40 60 80 100 120 140 X Hình 3.7 : Lợi ích của mậu dịch khi thị hiếu tiêu dùng khác nhau Khi mậu dịch mở ra, QGI sẽ chuyên môn hoá sản xuất sản phẩm X và chuyển xuống phía dưới theo đường giới hạn sản xuất. Trong khi QGII chuyên môn hoá sản xuất sản phẩm Y và chuyển lên phía trên theo đường giới hạn sản xuất. Quá trình chuyên môn hoá tiếp tục cho P đến khi X giống nhau ở cả hai quốc gia và lúc đó mậu dịch là cân PY đối. Điều này xảy ra tại điểm B, trùng với B’, trong đó PB = PB’ = 1. Bây giờ QGI sẽ trao đổi 60X lấy 60Y, tam giác mậu dịch BCE và cuối cùng tiêu dùng đạt tại điểm E trên đường bàng quan III so với điểm A là điểm trước khi có mậu dịch, QGI đã thu được lợi ích là 20X và 62
  64. 20Y. Tương tự QGII đổi 60Y lấy 60X với QGI (tam giác B’C’E’) và cuối cùng tiêu dùng đạt được điểm E’ trên đường bàng quan III’, QGII cũng thu được lợi ích 20X và 20Y nếu so với điểm A’ là điểm trước khi có mậu dịch. Như vậy nếu chỉ dựa vào sự khác nhau về thị hiếu hay sở thích của người tiêu dùng thì 2 quốc gia vẫn có lợi ích khi trao đổi với nhau mặc dù giới hạn khả năng sản xuất là hoàn toàn như nhau. Các bạn vừa biết được thế nào là chi phí cơ hội gia tăng làm cho đường giới hạn khả năng sản xuất là đường cong và việc chuyên môn hoá sản xuất không hoàn toàn. Hai quốc gia có thị hiếu tiêu dùng khác nhau khi trao đổi vẫn thu được lợi ích từ mậu dịch. Các kiến thức trên giúp ích cho các bạn rất nhiều để tiếp tục tìm hiểu về tỷ lệ mậu dịch. 6 Phân tích tỷ lệ mậu dịch: a. Phân tích cân bằng mậu dịch cục bộ: Hình 3.8a cho thấy khi không có mậu dịch, QGI sản xuất và tiêu dùng tại A với giá cả so sánh của sản phẩm X là P1. Trong khi đó ở hình 3.8c, QGII sản xuất và tiêu dùng tại A’ với giá cả so sánh sản phẩm X là P3. Khi mậu dịch mở ra, giá cả so sánh của sản phẩm X sẽ nằm ở giữa P1 và P3, nếu cả 2 quốc gia đều lớn. Ở mức giá cao hơn P1, QGI sẽ sản xuất nhiều sản phẩm hơn mức tiêu dùng để xuất khẩu. Mặt khác tại mức giá nhỏ hơn P3, quốc gia II sẽ cầu một khối lượng sản phẩm lớn hơn so với phần cung của nội địa và nhập khẩu phần chênh lệch đó từ QGI. 63
  65. Xem hình 3.8a các bạn thấy tại điểm A, cung sản phẩm X bằng cầu sản phẩm X, QGI không xuất khẩu sản phẩm X, điều này thể hiện tại điểm A* trên đường S là đường cung xuất khẩu của QGI trong hình 3.8b. Tương tự như vậy tại điểm A’, QGII không nhập khẩu sản phẩm X, thể hiện bằng điểm A” trên đường D ở hình 3.8b gọi là đường cầu nhập khẩu của QGII. Hình 3.8a cho thấy tại mức giá P2 đoạn BE cho biết khối lượng sản phẩm X mà QGI sẽ xuất khẩu. Phần đó đúng bằng đoạn B*E* ở hình 3.8b và điểm E* được xác định trên đường cung xuất khẩu của QGI. PX/PY PX/PY PX/PY SX A’’ P3 A’ SX S Xuất khẩu B* E* B’ P2 E’ B E Nhập khẩu P1 A* D DX A DX 0 0 0 a) X b) X c) X Hình 3.8: Phân tích cân bằng mậu dịch cục bộ Tại mức giá P2, khối lượng nhập khẩu sản phẩm X mà QGII có nhu cầu, đoạn B’E’ trên hình 3.8c bằng khối lượng xuất khẩu sản phẩm X mà QGI có thể cung, đoạn BE trên hình 3.8a. Như thế tại hình 3.8b đường cung xuất khẩu của QGI sẽ cắt đường cầu nhập khẩu của QGII tại E*. Rõ ràng với mức giá P2 mậu dịch sản phẩm X sẽ cân bằng tại E* và P2 chính là giá cả so sánh cân bằng của sản phẩm X. 64
  66. PX Ngoài ra hình 3.8b còn cho thấy khi > P2 tức là cung xuất PY P khẩu đã vượt cầu nhập khẩu nên giá cả so sánh của sản phẩm X ( X ) PY PX sẽ giảm xuống đến P2. Còn khi < P2, tức là cầu nhập khẩu vượt PY PX cung xuất khẩu nên lại tăng lên đến P2. Tương tự có thể xác định PY giá cả so sánh cân bằng đối với sản phẩm Y. P Với bất cứ giá cả so sánh nào của sản phẩm Y ( Y ) cao hơn PX điểm cân bằng, cung xuất khẩu sẽ vượt cầu nhập khẩu và giá cả so sánh sản phẩm Y sẽ giảm xuống cho đến mức cân bằng. Ngược lại tại P bất cứ điểm nào có Y thấp hơn điểm cân bằng, cầu nhập khẩu vượt PX cung xuất khẩu và giá cả so sánh sản phẩm Y sẽ tăng lên cho đến mức cân bằng. b. Đường cong ngoại thương đối với quốc gia có lợi thế so sánh về sản phẩm X. Đường cong ngoại thương cho biết bao nhiêu hàng xuất khẩu mà quốc gia đó sẵn sàng cung ứng để lấy một số lượng hàng nhập khẩu nào đó tùy theo giá cả quốc tế hay tỷ lệ mậu dịch. Khác với đường cầu thông thường chỉ diễn tả số lượng sản phẩm người tiêu dùng muốn mua tùy theo mức giá, đường cong ngoại thương cho biết số lượng sản phẩm mà cả người mua lẫn người sản xuất đều cầu tùy theo tỷ lệ mậu dịch mà họ trao đổi. Do đó đường cong ngoại thương của một quốc gia bao gồm cả số cung lẫn số cầu nên nó đại diện cho cả thị hiếu người tiêu dùng cũng như khả năng 65
  67. của người sản xuất. Đường cong ngoại thương của một quốc gia được xây dựng dựa trên đường giới hạn sản xuất, biểu đồ bàng quan và những giá cả so sánh khác của quốc gia đó. Trong hình 3.9a, bắt đầu từ điểm A, QGI không có mậu dịch, chuyển đến điểm B khi xuất hiện mậu dịch với giá cả sản phẩm so PX sánh PB = = 1. Tại đó quốc gia I sẽ đổi 60X lấy 60Y với QGII và PY đạt tới điểm E trên đường bàng quan III. Y Y Tuyến đề cung của III Quốc gia 1 (có LTSS 100 về sản phẩm X) II E 80 H PB = 1 80 I 70 60 60 A E PA = 1/4 PF = 1/2 45 G F 40 P = 1/2 F C 20 H 20 B PB = 1 PA = 1/4 G C X 10 30 50 70 90 110 130 0 20 40 60 X a) b) Hình 3.9: Đường cong ngoại thương của quốc gia I Tại F (PF = 1/2), sản xuất của QGI sẽ chuyển từ A đến F, tại đây QGI trao đổi 40X = 20Y, điểm tiêu dùng chuyển lên H trên đường bàng quan II. Tất cả các điểm ở hình 3.9a được biểu thị qua các điểm tương ứng ở hình 3.9b, ta có được đường cong ngoại thương của QGI, cho biết bao nhiêu sản phẩm X mà QGI sẵn sàng xuất khẩu để có được một lượng sản phẩm Y nhập khẩu với giá cả so sánh khác nhau. 66
  68. c. Đường cong ngoại thương của quốc gia có lợi thế về sản phẩm Y: Quá trình hình thành đường cong ngoại thương của quốc gia có lợi thế về sản phẩm Y cũng giống như quốc gia có lợi thế về sản phẩm X. Bắt đầu từ điểm A’ sản xuất của QGII sẽ chuyển đến điểm B’ khi PX có mậu dịch với giá cả so sánh PB’ = = 1. Tại điểm này, QGII sẽ PY đổi 60Y lấy 60X với QGI và tiêu dùng đến điểm E’ trên đường bàng quan III’. Tại F’ (PF’ = 2), sản xuất QGII chuyển từ A’ đến F’, tại đây QGII trao đổi 40Y = 20X từ QGI, điểm tiêu dùng chuyển lên H’ trên đường bàng quan II’. Tuyến đề cung của Y Y PB’ = 1 Quốc gia 2 (có LTSS PF’ = 2 về sản phẩm Y) P = 4 120 A’ 80 B’ PF’ = 2 PB’ = 1 PA’ = 4 100 60 80 F’ C’ E’ 60 C’ E’ III’ 40 G’ H’ G’ H’ 40 A ’ II’ 20 20 I’ 20 40 60 80 100 120 X 20 40 60 80 X a) b) Hình 3.10 : Đường cong ngoại thương của quốc gia 2 Tại B’ (PB’ = 1), trao đổi 60Y = 60X (điểm tiêu dùng chuyển lên E’ trên đường bàng quan III’, có lợi nhất), QGII sẵn sàng trao đổi tại điểm cân bằng mậu dịch này. 67
  69. Quĩ tích của những điểm có thể xảy ra trao đổi mậu dịch với tỷ lệ trao đổi khác nhau phụ thuộc vào chỉ số so sánh giá cả ở mỗi điểm (được qui chiếu ra như hình bên phải), là đường cong ngoại thương của QGII (có lợi thế so sánh về sản phẩm Y). d. Phân tích cân bằng mậu dịch tổng quát: Chúng ta đã biết bằng phân tích cân bằng cục bộ từng quốc gia đã xác định được đường cong ngoại thương. Điểm giao nhau của đường cong ngoại thương chính là giá cả sản phẩm so sánh cân bằng mà tại đó hai quốc gia giao thương với nhau. P Tại những điểm 2 đường đề cung không giao nhau, X không PY cân bằng, hành vi thương mại khác nhau : PX Tại mức PF = = 1/2 (tỷ lệ trao đổi 40X = 20Y), QGI giảm PY PX xuất khẩu X làm tăng PX và tăng dần lên điểm cân bằng. QGI xuất PY khẩu 40X làm tăng khối lượng nhập khẩu của QGII với giá cả thấp. Chính sự chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu sẽ đẩy giá so sánh P X tăng lên. Khi điều này xảy ra QGI sẽ sản xuất nhiều sản phẩm X PY hơn để xuất khẩu, tức là QGI sẽ chuyển lên phía trên đường cong ngoại thương của nó. Trong khi đó QGII phải giảm nhu cầu nhập khẩu vì giá cả đã tăng lên nên chuyển xuống phía dưới đường cong ngoại thương của nó. Điều này cứ thế tiếp tục cho đến khi nào cung và cầu trở nên cân bằng tại PB. Như vậy giá cả sản phẩm so sánh cân bằng PB của mậu dịch được xác định tại điểm giao nhau của 2 đường cong ngoại thương giữa QGI và QGII. 68
  70. P = P = 1 Y B B’ PF’ = 2 120 C’ E’ E QG II 100 PA’ = 4 G’ QG I 80 H’ PF = 1/2 60 H 40 PA = 1/4 20 G C 20 40 60 80 100 120 X Hình 3.11: Phân tích cân bằng mậu dịch tổng quát PX Tại mức PF’ = PY = 2 (tỷ lệ trao đổi 40Y = 20X), QGII giảm PX P xuất khẩu Y làm tăng PY và Y giảm dần xuống điểm cân bằng. Khi 2 đường cong ngoại thương gặp nhau, chỉ số so sánh giá cả cân bằng (PB = PB’ = 1), dẫn đến tỷ lệ trao đổi mậu dịch cân bằng (60X = 60Y), lợi ích của 2 quốc gia đạt cực đại (tại E và E’). Do đó, QGI sẵn sàng xuất khẩu 60X để nhập lại 60Y ; và QGII cũng sẵn sàng xuất khẩu 60Y để nhập lại 60X. e. Tỷ lệ mậu dịch: Trong mô hình đơn giản (2 quốc gia, 2 sản phẩm), tỷ lệ mậu dịch của một quốc gia là tỷ số giữa giá hàng xuất khẩu với giá hàng nhập khẩu. 69
  71. Trong thế giới có 2 quốc gia, tỷ lệ mậu dịch của QGII bằng nghịch đảo tỷ lệ mậu dịch của QGI. Xuất khẩu của quốc gia này là nhập khẩu của quốc gia kia. Trong mô hình kinh tế thế giới nhiều hơn 2 quốc gia và 2 sản phẩm, tỷ lệ mậu dịch là tỷ số giữa chỉ số giá hàng xuất khẩu với chỉ số giá hàng nhập khẩu (tính bằng %). PX =∑XiPi Chỉ số giá hàng xuất khẩu: Với Xi: tỷ lệ sản phẩm thứ i trong tổng giá trị xuất khẩu. Pi: giá sản phẩm thứ i. Chỉ số giá hàng nhập khẩu: PM=∑MiPi với Mi : tỷ lệ sản phẩm i trong tổng giá trị nhập khẩu. P N = X ×100% PM Tỷ lệ mậu dịch: Với N: tỷ lệ mậu dịch. Có 2 hướng tác động làm tăng tỷ lệ mậu dịch để làm tăng lợi ích quốc gia trong quan hệ thương mại quốc tế, đó là: - Làm cho nhịp độ tăng chỉ số giá hàng xuất khẩu nhanh hơn nhịp độ tăng chỉ số giá hàng nhập khẩu. - Kìm giữ cho nhịp độ giảm chỉ số giá hàng xuất khẩu chậm hơn nhịp độ giảm chỉ số giá hàng nhập khẩu. 70
  72. Một sự cải thiện tỷ lệ mậu dịch trong mỗi quốc gia thông thường được coi như là lợi ích đối với quốc gia đó, bởi vì giá cả mà quốc gia nhận được do xuất khẩu đã tăng lên tương đối so với giá cả mà họ bỏ ra để nhập khẩu. Ví dụ sau một thời gian tỷ lệ mậu dịch của QGI tăng từ 100 đến 130. Điều đó có nghĩa là giá cả xuất khẩu của QGI đã tăng lên 30% trong mối quan hệ với giá cả nhập khẩu. Mặt khác điều đó cũng có nghĩa là tỷ lệ mậu dịch của QGII đã giảm từ 100 xuống (100/130) × 100 = 75%, tức chỉ giảm 25%. Chúng ta không thể căn cứ vào tỷ lệ mậu dịch để đánh giá quốc gia này là tốt hơn hay xấu hơn quốc gia khác bởi vì sự thay đổi trong tỷ lệ mậu dịch là kết quả của nhiều tác động không những do chủ quan quốc gia mà còn do những điều kiện khách quan của thế giới. Do đó, không thể xác định được hiệu quả thực của mỗi quốc gia chỉ đơn giản nhìn vào sự thay đổi tỷ lệ mậu dịch của họ. 71
  73. TÓM TẮT BÀI 3 1. Tỷ lệ chuyển dịch biên (MRT) thể hiện mức chi phí cơ hội gia tăng, được đo bằng độ dốc tiếp tuyến của đường giới hạn khả năng sản xuất tại điểm sản xuất. 2. Đường giới hạn khả năng sản xuất của 2 quốc gia khác nhau do các yếu tố sản xuất, tài nguyên và kỹ thuật mà họ sử dụng trong quá trình sản xuất khác nhau. 3. Tỷ lệ thay thế biên (MRS) biểu thị số lượng sản phẩm này phải giảm đi để thay thế bằng một đơn vị sản phẩm kia mà mức thoả mãn tiêu dùng vẫn không đổi. Tỷ lệ này được đo bằng độ dốc tiếp tuyến của đường bàng quan tại điểm tiêu dùng. 4. Khi không có trao đổi mậu dịch quốc tế, cân bằng nội địa xảy ra có liên quan đến giá cả hàng hoá của một quốc gia khi đường giới hạn khả năng sản xuất và đường bàng quan gặp nhau tại một điểm mà độ dốc tiếp tuyến MRT và MRS trùng nhau. 5. Sau khi chuyên môn hoá và trao đổi, điểm tiêu dùng của cả 2 quốc gia nằm trên đường bàng quan cao nhất, tại đây MRT và MRS trùng nhau. 6. Giá cả trao đổi luôn bằng nhau và bằng 1. 7. Hai quốc gia có cùng một đường giới hạn khả năng sản xuất nhưng thị hiếu tiêu dùng khác nhau thì vẫn có lợi khi chuyên môn hoá và trao đổi sản phẩm. 72
  74. 8. Xác định lượng nhập và xuất khẩu của thế giới thông qua việc xác định số lượng sản phẩm quốc gia I muốn xuất khẩu phải bằng với lượng sản phẩm quốc gia II muốn nhập khẩu. 9. Đường cong ngoại thương cho biết những số lượng hàng mà một quốc gia muốn xuất khẩu để lấy những số lượng hàng nhập khẩu nào đó tuỳ theo giá cả quốc tế hay tỷ lệ mậu dịch. Hai đường cong ngoại thương của 2 quốc gia chỉ cắt nhau khi giá cả trao đổi bằng nhau và bằng 1. 10. Tỷ lệ mậu dịch của một quốc gia là tỷ số giữa giá hàng xuất khẩu với giá hàng nhập khẩu. 73
  75. CÂU HỎI 1. Tại sao chi phí cơ hội gia tăng thì phù hợp với thực tế hơn ? 2. Trên một hệ hai trục tọa độ, vẽ một đường bàng quan tiếp xúc với một đường giới hạn sản xuất rộng, phẳng, lõm từ gốc tọa độ. Trên một hệ hai trục tọa độ khác, vẽ một đường bàng quan tiếp xúc với một đường giới hạn sản xuất hẹp, nhọn, lõm từ gốc tọa độ. - Hãy vẽ đường giá cả sản phẩm so sánh cân bằng nội địa khi không có mậu dịch. - Hãy chỉ ra sản phẩm có lợi thế so sánh trong mỗi quốc gia. - Trong điều kiện nào thì hai quốc gia không có lợi thế so sánh? - Khi mậu dịch xảy ra, hãy chỉ ra hướng chuyên môn hoá (bằng mũi tên) trên đường giới hạn sản xuất của mỗi quốc gia. P - Giả sử tỷ lệ trao đổi X = 1, lợi ích của quốc gia sẽ tăng PY lên như thế nào ? 3. Trên 1 hệ hai trục toạ độ, trục hoành biểu thị sản phẩm X và trục tung biểu thị sản phẩm Y, vẽ đường giới hạn lõm từ gốc toạ độ: a. Hãy dùng các mũi tên để chỉ ra rằng quốc gia phải gánh chịu chi phí cơ hội tăng khi sản xuất nhiều sản phẩm X hơn (hay sản xuất nhiều sản phẩm Y hơn). 74
  76. b. Độ dốc của đường giới hạn sản xuất sẽ biến đổi như thế nào khi quốc gia sản xuất nhiều hơn sản phẩm X? Nhiều hơn sản phẩm Y? Những biến đổi đó phản ánh điều gì? 4. Về lý thuyết, tại sao chỉ số so sánh giá cả của các quốc gia bằng nhau và bằng 1 tại điểm cân bằng mậu dịch? 5. Cách thức và ý nghĩa của việc làm tăng tỷ lệ mậu dịch của quốc gia là gì? 75
  77. HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI CÂU HỎI 1. Chi phí cơ hội gia tăng theo thời gian thì phù hợp với thực tế hơn vì nguồn tài nguyên có hạn nên quốc gia phải hy sinh ngày càng nhiều hơn sản phẩm này để dành tài nguyên cho việc sản xuất thêm một đơn vị sản phẩm khác. Chẳng hạn như trong ngành dầu mỏ, chi phí khai thác càng về sau càng tăng do nguồn tài nguyên cạn kiệt dần nên phải thăm dò xa hơn. Lý do thứ hai là do sự phát triển của khoa học kỹ thuật sẽ làm cho các sản phẩm có lợi thế so sánh loại 2 trở thành sản phẩm có lợi thế so sánh loại 1 trong tương lai nên nếu càng hy sinh nhiều sản phẩm lợi thế so sánh loại 2 cho sản phẩm lợi thế so sánh loại 1 thì chi phí cơ hội càng tăng. 2. a. Vẽ hai đồ thị của QGI (có lợi thế so sánh về sản phẩm X), QGII (có lợi thế so sánh về sản phẩm Y), điểm cân bằng nội địa tại điểm mà sản xuất và tiêu dùng trong nước đạt cực đại, điểm này nằm trên đường giới hạn khả năng sản xuất và đường giá cả PA, đường PA vừa là đường MRT và MRS vì nó cũng là tiếp tuyến với đường bàng quan số I tại điểm tiêu dùng. b. Dựa vào hình dạng của đồ thị (trong trường hợp không biết rõ PA và PA’) ta thấy QGI có lợi thế so sánh về sản phẩm X, QGII có lợi thế so sánh về sản phẩm Y. c. Khi PA = PA’ d. Chuyên môn hoá sản xuất X ở QGI, Y ở QGII. e. So sánh 2 đường bàng quan I và III, I’ và III’ 76
  78. 3. a. Trong bài đã có sẵn sơ đồ : sản xuất ra cùng một lượng sản phẩm X phải hy sinh nhiều hơn sản phẩm Y đối với QGI (quốc gia có lợi thế so sánh về sản phẩm X), để sản xuất ra cùng một lượng sản phẩm Y, phải hy sinh nhiều sản phẩm X hơn đối với QGII (có lợi thế so sánh về sản phẩm Y). b. Quốc gia sản xuất nhiều sản phẩm X hơn thì đường giới hạn sản xuất sẽ đổ dồn về trục hoành biểu thị cho sản phẩm X. Đường giới hạn sản xuất của Quốc gia sản xuất nhiều sản phẩm Y thì đổ dồn về trục tung biểu thị sản phẩm Y. Điều này thể hiện lợi thế so sánh trong từng trường hợp với mỗi sản phẩm kết hợp với nhau thì lượng sản phẩm có lợi thế sẽ nhiều hơn so với sản phẩm không có lợi thế ở mỗi điểm sản xuất nằm trên đường giới hạn sản xuất. 4. Tại điểm này thì số lượng sản phẩm X mà quốc gia I muốn xuất khẩu bằng đúng với số lượng sản phẩm X mà quốc gia II muốn nhập khẩu. Nếu giá trao đổi không bằng nhau và không bằng 1 thì một trong hai quốc gia sẽ bị thiệt và quốc gia này sẽ không trao đổi mậu dịch. 5. Tỷ lệ mậu dịch của một quốc gia là tỷ số giữa giá cả hàng xuất khẩu với giá cả hàng nhập khẩu trong mô hình 2 quốc gia và 2 sản phẩm. Nếu mô hình gồm nhiều hơn 2 quốc gia và hơn 2 sản phẩm thì tỷ lệ mậu dịch là tỷ số giữa chỉ số giá hàng xuất khẩu với chỉ số giá hàng nhập khẩu. Có hai hướng tác động để làm tăng tỷ lệ mậu dịch là: 77
  79. - Làm cho nhịp độ tăng chỉ số giá hàng xuất khẩu nhanh hơn nhịp độ tăng chỉ số giá hàng nhập khẩu. - Kìm giữ cho nhịp độ giảm chỉ số giá hàng xuất khẩu chậm hơn nhịp độ giảm chỉ số giá hàng nhập khẩu. Cải thiện tỷ lệ mậu dịch đem lại lợi ích cho quốc gia vì giá hàng xuất khẩu đã tăng lên tương đối so với giá mà họ nhập khẩu. Nếu các bạn đã tự mình trả lời được các câu hỏi trên, các bạn sẽ dễ dàng tiếp cận bài 4 để tiếp tục tìm hiểu về các lý thuyết hiện đại khác. Nếu các bạn còn rất khó khăn để trả lời các câu hỏi trong bài này, các bạn hãy xem lại một lần nữa trước khi bước sang bài 4 vì bài này trang bị cho các bạn kiến thức nền để tìm hiểu các lý thuyết hiện đại khác. 78
  80. BÀI 4: CÁC LÝ THUYẾT HIỆN ĐẠI KHÁC Trong bài 3 các bạn đã biết nội dung của một trong những lý thuyết hiện đại là lý thuyết chi phí cơ hội gia tăng. Học bài này các bạn sẽ có cơ hội tìm hiểu các lý thuyết hiện đại khác làm phong phú kiến thức về thương mại quốc tế của mình. Đó là các lý thuyết H – O, H – O – S, lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp, lợi thế cạnh tranh của quốc gia. I. MỤC TIÊU: Bài này giúp các bạn: - Biết được những nội dung cơ bản của lợi thế cạnh tranh và phân biệt được lợi thế so sánh với lợi thế cạnh tranh. - Biết được nguyên nhân và cách thức di chuyển các nguồn lực kinh tế quốc tế. II. NỘI DUNG CHÍNH: 1. Lý thuyết H – O: a. Những giả thiết của Eli F. Heckscher và Bertil Ohlin: Lý thuyết H – O được Eli F. Heckscher và Bertil Ohlin xây dựng với các giả thuyết như sau: 79
  81. - Mô hình gồm 2 quốc gia I và II, 2 sản phẩm X và Y ; 2 yếu tố sản xuất là lao động (L) và vốn (K). - Hai quốc gia có trình độ kỹ thuật – công nghệ như nhau. Ý nghĩa của giả thiết này là cả hai quốc gia có nguồn tài sản cố định được sử dụng với cùng một trình độ, kỹ xảo. Nói một cách khác, bản chất của giả thiết này là nếu giá cả của các yếu tố sản xuất là giống nhau ở cả hai quốc gia thì các nhà sản xuất ở hai quốc gia sẽ sử dụng cùng một số lượng lao động và tư bản như nhau để sản xuất mỗi đơn vị sản phẩm. Tuy nhiên giá cả yếu tố thường là khác nhau trong mỗi quốc gia nên các nhà sản xuất sẽ sử dụng nhiều hơn yếu tố nào rẻ hơn để đạt được chi phí thấp nhất. - Sản phẩm X là sản phẩm thâm dụng lao động và sản phẩm Y là sản phẩm thâm dụng tư bản ở cả hai quốc gia. Giả thiết này có nghĩa là sản phẩm X đòi hỏi nhiều lao động hơn so với tư bản và ngược lại, để sản xuất ra sản phẩm Y đòi hỏi tư bản nhiều hơn so với lao động. Tỷ lệ lao động trên tư bản (L/K) là cao hơn ở sản phẩm X so với sản phẩm Y ở cả hai quốc gia với cùng một mức giá yếu tố. Hay ngược lại có thể nói tỷ lệ tư bản trên lao động là thấp hơn ở sản phẩm X so với sản phẩm Y ở cả hai quốc gia với cùng một mức giá yếu tố. - Lợi thế theo quy mô không đổi trong sản xuất cả 2 sản phẩm ở 2 quốc gia. Giả thiết này có nghĩa là nếu tăng số lượng lao động và tư bản dùng để sản xuất bất cứ sản phẩm nào đều làm tăng sản lượng sản phẩm đó với cùng tỷ lệ. Ví dụ: nếu QGI tăng 10% lao động và tư bản để sản xuất sản phẩm X, thì sản lượng sản phẩm X được làm ra cũng tăng lên 10%. Nếu 80
  82. quốc gia tăng gấp đôi lao động và tư bản thì sản lượng X được làm ra cũng tăng lên gấp đôi. Cũng tương tự như thế với sản phẩm Y. - Chuyên môn hóa sản xuất không hoàn toàn. Có nghĩa là ngay cả khi có mậu dịch, 2 quốc gia vẫn tiếp tục sản xuất cả 2 sản phẩm. Như vậy không có quốc gia nào là rất nhỏ. - Thị hiếu tiêu dùng ở 2 quốc gia giống nhau. Có nghĩa là hình dạng và vị trí của đường bàng quan là đồng nhất ở cả 2 quốc gia. Vì vậy khi giá cả sản phẩm so sánh là bằng nhau, 2 quốc gia sẽ tiêu dùng X và Y cùng một tỷ lệ. - Thị trường sản phẩm và các yếu tố sản xuất là cạnh tranh hoàn toàn. Nhà sản xuất, người tiêu dùng, chủ sở hữu các yếu tố sản xuất và thương gia không ai có đủ quyền lực để chi phối giá cả sản phẩm X và Y. Trong cạnh tranh hoàn toàn, họ đều có kiến thức và sự hiểu biết như nhau về giá cả sản phẩm ở mọi vùng và mọi ngành của quốc gia. - Các yếu tố sản xuất tự do di chuyển trong nước, nhưng không di chuyển giữa các quốc gia với nhau. Trong phạm vi mỗi quốc gia, lao động và tư bản tự do di chuyển từ vùng này sang vùng khác, từ ngành này sang ngành khác, từ những nơi có tiền công thấp hơn đến những nơi có tiền công cao hơn. Quá trình di chuyển này cứ tiếp tục cho đến khi tiền lương cho một loại lao động và tư bản là giống nhau trong mọi miền và mọi ngành của đất nước. Tuy nhiên trên địa bàn quốc tế lại không có sự di chuyển đó, tức là không có sự chuyển dịch tư bản và lao động giữa các quốc gia. 81
  83. - Mậu dịch quốc tế là mậu dịch tự do; không tính chi phí vận chuyển; không có thuế quan và những rào cản thương mại khác. Có nghĩa là chuyên môn hoá sản xuất cứ tiếp tục đến khi giá cả sản phẩm so sánh là như nhau ở cả hai quốc gia. - Yếu tố thâm dụng. Trong điều kiện giới hạn 2 sản phẩm (X,Y) và 2 yếu tố sản xuất vốn và lao động (K, L), nếu K > K , thì Y là sản phẩm thâm dụng LY LX vốn và X là sản phẩm thâm dụng lao động. Trong cả 2 trường hợp ở hình 4.1, độ dốc của đường K đều LY lớn hơn độ dốc của đường K , có nghĩa là trong cả 2 quốc gia: sản LX phẩm Y thâm dụng vốn còn sản phẩm X thâm dụng lao động. Tuy nhiên, yếu tố thâm dụng chỉ mang tính tương đối, vì căn cứ vào tỷ số K/L chứ không phải số lượng tuyệt đối của yếu tố K hoặc L được sử dụng trong sản xuất 1 đơn vị sản phẩm. Quốc gia I Quốc gia II K K K 2Y = 4 80 80 L Y K K = 1 = 1 L 60 L 60 X Y 2Y 1Y 40 K = 1/ 4 40 2X L 1Y X 20 20 2X 1X 1X 20 40 60 80 100 L 20 40 60 80 100 L Hình 4.1: Yếu tố thâm dụng của 2 quốc gia 82
  84. Ở đây các bạn cần lưu ý điều quan trọng không phải là số lượng tuyệt đối tư bản và lao động được sử dụng trong sản xuất 2 sản phẩm X và Y mà là cần xác định rõ đâu là sản phẩm thâm dụng vốn, đâu là sản phẩm thâm dụng tư bản, bởi mặc dù sử dụng một số lượng tuyệt đối K nhiều hơn nhưng sản phẩm đó vẫn là sản phẩm thâm dụng lao động và ngược lại, sử dụng một lượng tuyệt đối L nhiều hơn nhưng vẫn là sản phẩm thâm dụng tư bản. Ví dụ: ở QGI, cần 3K và 12L để sản xuất 1X, trong khi đó để sản xuất 1Y chỉ cần có 2K và 2L. Mặc dù để sản xuất 1X cần 3K trong khi để sản xuất 1Y chỉ cần 2K, sản phẩm Y vẫn là sản phẩm thâm dụng tư bản, bởi vì K/L đối với Y là lớn hơn K/L đối với X. Theo hình 4.1 thì QGI sản xuất 1Y với 2K và 2L. Với 4K và 4L, quốc gia này có thể sản xuất 2Y. Vì vậy tỷ số K/L = 2/2 = 4/4 = 1 đối với Y. Đó là đường xuất phát từ gốc O có độ dốc bằng 1. Mặt khác 1K và 4L dùng để sản xuất 1X, với 2K và 8L sẽ sản xuất được 2X. Do đó, K/L = 1/4 là đường xuất phát từ gốc O có độ dốc bằng 1/4. Như thế tỷ số K/L = 1 đối với sản phẩm Y là thâm dụng tư bản và sản phẩm X là thâm dụng lao động ở QGI. Ở QGII, K/L = 4 đối với Y và K/L = 1 đối với X. Vì thế Y cũng là sản phẩm thâm dụng tư bản và X là sản phẩm thâm dụng lao động như QGI. Trên đồ thị đường K/L đối với Y ở mỗi quốc gia có độ dốc lớn hơn so với đường K/L đối với sản phẩm X. Tại sao trong mỗi sản phẩm tương ứng QGII sử dụng tư bản nhiều hơn QGI và QGI sử dụng nhiều lao động hơn QGII ? Có thể do QGII có tư bản tương đối rẻ hơn, và QGI có lao động tương đối rẻ 83
  85. hơn. Nhà sản xuất ở QGII sẽ sử dụng tương đối nhiều tư bản hơn, QGI sẽ sử dụng nhiều lao động hơn để sản xuất cả hai sản phẩm nhằm đạt mức chi phí sản xuất tối thiểu. - Yếu tố dư thừa Khái niệm yếu tố dư thừa chỉ sự dồi dào của một quốc gia về một yếu tố sản xuất (vốn hay lao động), xác định theo 1 trong 2 cách sau : • Tính bằng tổng số vốn và lao động quốc gia sẵn có để dùng vào sản xuất. Gọi TK là tổng vốn của một TK quốc gia còn TL là tổng lao động. Nếu (QGI) > TL T K (QGII) thì QGI dư thừa vốn ; QGII dư thừa lao TL động. • Tính bằng giá cả các yếu tố sản xuất : Gọi PK là lãi PK suất (r) và PL là tiền lương (W). Nếu (QGI) < PL P K (QGII) thì QGI dư thừa vốn ; QGII dư thừa lao PL động. Lưu ý, Sự dư thừa yếu tố sản xuất của một quốc gia cũng chỉ có tính T P chất tương đối, vì căn cứ vào các tỷ số K và K (hay r/W). TL PL b. Nội dung cơ bản của lý thuyết H – O: Năm 1919, Eli Heckscher – nhà kinh tế học người Thụy Điển – đã viết bài báo “tác động của mậu dịch quốc tế đến phân phối thu nhập”, trong đó ông phác họa mô hình mậu dịch mới làm cơ sở xây 84
  86. dựng lý thuyết hiện đại về mậu dịch quốc tế sau này. Tuy nhiên bài báo đó đã không được chú ý lắm. Mãi đến đầu những năm 30, Bertil Ohlin cũng là nhà kinh tế học người Thụy Điển, học trò của Hecksher đã tập hợp lại, gạn lọc, phân tích và phát triển những ý của thầy để năm 1933 xuất bản cuốn “mậu dịch quốc tế và mậu dịch liên vùng”. Nội dung cơ bản của lý thuyết H – O là: Một quốc gia sẽ chuyên môn hóa sản xuất để xuất khẩu sản phẩm thâm dụng yếu tố mà quốc gia đó dư thừa tương đối; đồng thời, nhập khẩu trở lại sản phẩm thâm dụng yếu tố mà quốc gia đó khan hiếm tương đối. Theo lý thuyết H – O thì: nguồn lực sản xuất vốn có của mỗi quốc gia quy định sự khác nhau về yếu tố sản xuất dư thừa tương đối, dẫn đến sự khác nhau về tỷ lệ cân đối các yếu tố sản xuất giữa các quốc gia, tạo nên sự khác biệt về giá cả sản phẩm – Đó là nguồn gốc để xác định lợi thế so sánh và mô hình mậu dịch của mỗi quốc gia (quyết định quốc gia nào sẽ xuất khẩu, nhập khẩu sản phẩm gì?). Trong ví dụ trước đây các bạn đã biết: - Quốc gia I xuất khẩu sản phẩm X vì X là sản phẩm thâm dụng lao động là yếu tố thừa tương đối và rẻ ở QGI. - QGII xuất khẩu sản phẩm Y vì Y là sản phẩm thâm dụng tư bản mà tư bản là yếu tố thừa tương đối và rẻ ở QGII. - QGI nhập khẩu sản phẩm Y vì Y là sản phẩm thâm dụng tư bản mà tư bản là yếu tố khan hiếm tương đối ở QGI. - QGII sẽ nhập khẩu sản phẩm X vì sản phẩm này thâm dụng lao động mà lao động là yếu tố khan hiếm tương đối ở QGII. 85
  87. Như vậy lý thuyết H – O đã giải thích sự khác nhau trong giá cả sản phẩm so sánh hay lợi thế so sánh giữa các quốc gia chính là sự khác nhau giữa các yếu tố thừa tương đối hoặc khan hiếm tương đối hay nguồn lực sản xuất vốn có của mỗi quốc gia. c. Quá trình tạo nên sự khác biệt về giá cả sản phẩm giữa các quốc gia: Giá sản phẩm được hình thành từ rất nhiều yếu tố. Nếu các bạn đã từng tham gia vào bất kỳ cuộc thăm dò ý kiến người tiêu dùng về một sản phẩm mới nào đó thì các bạn sẽ thấy rằng người ta không những quan tâm đến mẫu mã, chất lượng sản phẩm mà còn rất quan tâm đến giá cả và đặc biệt là khả năng chi trả của khách hàng. Quá trình hình thành giá bắt đầu từ sự kết hợp giữa thị hiếu hay sở thích của người tiêu dùng với sự phân phối thu nhập để tạo nên cầu đối với sản phẩm cuối cùng. Đến lượt mình, cầu đối với sản phẩm cuối cùng là cơ sở để xác định cầu đối với yếu tố sản xuất. Cùng với cung yếu tố sản xuất, cầu yếu tố sản xuất sẽ xác định giá yếu tố sản xuất. Cuối cùng giá yếu tố sản xuất kết hợp với kỹ thuật công nghệ để tạo nên giá sản phẩm. Sự khác nhau trong giá sản phẩm giữa 2 quốc gia xác định lợi thế so sánh và mô hình mậu dịch tức là quyết định quốc gia nào sẽ xuất, nhập khẩu sản phẩm gì. 86
  88. Giá sản phẩm – Giá yếu tố tại điểm cân sản xuất bằng nội địa Cầu yếu tố sản xuất Cầu sản phẩm cuối cùng Kỹ thuật Cung yếu tố Phân bố sở Thị hiếu công nghệ sản xuất hữu yếu tố tiêu dùng sảnxuất Hình 4.2: Quá trình hình thành giá cả sản phẩm- khung cân bằng tổng quát của lý thuyết Heckscher-Ohlin Hình 4.2 cho thấy tất cả yếu tố được liên hệ với nhau rất chặt chẽ trong quá trình hình thành giá sản phẩm cuối cùng. Trong đó sự khác nhau giữa các yếu tố sản xuất của mỗi quốc gia là đặc biệt quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến giá sản phẩm cuối cùng, nhất là khi giả thiết về kỹ thuật công nghệ và thị hiếu hay sở thích của người tiêu dùng giữa 2 quốc gia là hoàn toàn như nhau. d. Minh họa lý thuyết H – O: Y Y P 140 140 PB = PB’ B’ 120 120 100 100 C’ 80 A’ 80 A’ E = E’ 60 A 60 A II 40 I 40 C B 20 PA 20 0 0 20 40 60 80 100 120 20 40 60 80 100 120 X X a) b) Hình 4.3: Minh họa lý thuyết H – O 87
  89. Theo giả thiết hai quốc gia đều có thị hiếu như nhau nên họ có biểu đồ đường bàng quan giống nhau. Do đó đường bàng quan I trên hình 4.3a là chung cho 2 quốc gia, tiếp tuyến với đường giới hạn sản xuất của QGI tại A, với QGII tại A’. Điểm A và A’ là những điểm cân bằng giữa sản xuất và tiêu dùng của 2 quốc gia khi không có mậu dịch. Đường tiếp tuyến với đường bàng quan I tại điểm A và A’ xác định giá cả so sánh khi không có mậu dịch PA và PA’. Vì PA PB, QGI muốn xuất khẩu nhiều sản phẩm X hơn, QGII PY P không muốn nhập khẩu tại giá cả so sánh cao như vậy và khi đó X PY PX phải giảm xuống PB. Mặt khác tại < PB, QGI muốn xuất khẩu ít PY sản phẩm X hơn là QGII muốn nhập sản phẩm này với giá cả so sánh 88