Những nghiên cứu phát triển của EDI

pdf 110 trang phuongnguyen 2770
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Những nghiên cứu phát triển của EDI", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfnhung_nghien_cuu_phat_trien_cua_edi.pdf

Nội dung text: Những nghiên cứu phát triển của EDI

  1. TRƯỜNG KHOA Những nghiờn cứu phỏt triển của EDI
  2. Những nghiên cứu phát triển của EDI Kiềm chế tham nhũng H−ớng tới một mô hình cho việc xây dựng sự toàn vẹn quốc gia Biên tập: Rick Stapenhurst và Sahr J. Kpundeh Ngân hàng Thế giới Washington, D.C.
  3. Những nghiên cứu phát triển khác của EDI (theo thứ tự xuất bản) Ngăn chặn khủng hoảng ngân hàng: bài học từ những thất bại ngân hàng toàn cầu gần đây Biên soạn: Gerard Caprio, con; William C. Hunter, George G. Kaufman, và Danny M. Laipziger Tái cơ cấu doanh nghiệp và thất nghiệp trong các mô hình chuyển đổi Biên soạn: Simon Commander Nghèo đói ở Nga: Chính sách công cộng và những đáp ứng t− nhân Biên soạn: Jeni Klugman Tái cơ cấu doanh nghiệp và chính sách kinh tế ở Nga Biên soạn: Simon Commander, Qimiao Fan, và Mark E. Schaffer Cung cấp cơ sở hạ tầng: Sáng kiến t− nhân và Hàng hoá công cộng Biên soạn: Ashoka Mody Th−ơng mại, công nghệ và cạnh tranh quốc tế Irfanul Haque Quản trị công ty trong những nền kinh tế chuyển đổi: Kiểm soát nội bộ và vai trò của các ngân hàng Biên soạn: Masahiko Aoki và Hyung-KiKim Thất nghiệp, tái cơ cấu và thị tr−ờng lao động ở Đông Âu và Nga Biên soạn: Simon Commander và Fabrizio Coricelli Giám sát và đánh giá các ch−ơng trình x∙ hội ở các n−ớc đang phát triển: Sổ tay dùng cho các nhà hoạch định chính sách, quản lý và nghiên cứu Joseph Valadez và Michael Bamberger
  4. Bản quyền 1999 Ngân hàng quốc tế cho tái thiết và phát triển/ Ngân hàng Thế giới 1818 H Street, N.W. Washington, D.C. 20433, U.S.A. Bản quyền đ−ợc bảo vệ Sản xuất tại Mỹ In lần đầu vào tháng 2 năm 1999 Viện Phát triển Kinh tế (EDI) do Ngân hàng Thế giới thành lập năm 1955 để đào tạo các quan chức quan tâm tới lập kế hoạch phát triển, hoạch định chính sách, phân tích đầu t− và thực hiện dự án ở các n−ớc đang phát triển thành viên. Hiện nay rất nhiều hoạt động của EDI chú trọng tới phân tích chính sách kinh tế vĩ mô và kinh tế khu vực. Thông qua nhiều khoá học, các cuộc hội thảo, các khoá đào tạo ngắn ngày, nhiều trong số đó đ−ợc tổ chức ở n−ớc ngoài với sự hợp tác với các tổ chức địa ph−ơng, EDI cố gắng trau dồi các kỹ năng phân tích đ−ợc sử dụng trong phân tích chính sách và mở rộng sự hiểu biết về kinh nghiệm của những n−ớc riêng lẻ có sự phát triển kinh tế. Mặc dù những ấn phẩm của EDI là nhằm phục vụ cho các hoạt động đào tạo của mình, nh−ng có nhiều ấn phẩm đ∙ nhận đ−ợc sự quan tâm của đông đảo độc giả. Các sản phẩm của EDI, bao gồm những phát hiện, những kiến giải và kết luận, là hoàn toàn thuộc về các tác giả và không nên coi chúng, theo bất cứ cách nào, là quan điểm của Ngân hàng Thế giới, của các tổ chức liên kết của Ngân hàng, hay của các thành viên của Hội đồng Giám đốc Điều hành hoặc các n−ớc mà họ đại diện. Những sản phẩm trong ấn phẩm này là có bản quyền. Mọi yêu cầu về cho phép in lại các phần của nó xin đ−ợc gửi về Văn phòng Nhà Xuất bản theo địa chỉ ghi trên đây. Ngân hàng Thế giới khuyến khích phổ biến rộng r∙i công trình của mình và th−ờng sẽ sớm cho phép và, nếu việc in lại là nhằm mục đích th−ơng mại, sẽ không yêu cầu trả phí. Giấy phép để sao chụp các phần để sử dụng trong lớp học sẽ đ−ợc cấp thông qua Copyright Clearance Center Inc., Suite 910, 222 Rosewood Drive, Danvers, Massachusetts 01923, U.S.A. Danh mục các ấn phẩm của Ngân hàng Thế giới đ−ợc in trong Index of Publications hàng năm, có tại Văn phòng Nhà Xuất bản. Rick Stapenhurst là một chuyên gia về quản lý khu vực công cộng thuộc Phòng Cải cách quy chế và Doanh nghiệp t− nhân, Viện Phát triển Kinh tế, Ngân hàng Thế giới. Sahr J. Kpundeh là một chuyên gia t− vấn về các vấn đề quản trị và chống tham nhũng, Phòng Cải cách quy chế và Doanh nghiệp t− nhân, Viện Phát triển Kinh tế, Ngân hàng Thế giới.
  5. Lời cảm ơn Xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Susan Rose-Ackerman, Ladipo Adamolekun, Mark Schacter, Mike Stevens, và Gojko Vuckovic, về những nhận xét bổ ích cho những bản thảo đầu của tập sách này, và tới Winffield Swanson, ng−ời đ∙ nhiệt tình giúp đỡ biên tập.
  6. Những ng−ời tham gia B.E.D. de Speville Nhà t− vấn; nguyên Uỷ viên Uỷ ban Độc lập chống tham nhũng Hồng Kông Alan Doig Giáo s− về Dịch vụ công cộng, Tr−ờng Tổng hợp Liverpool John Moores Michael Johnston Giáo s− về Khoa học Chính trị, Đại học Tổng hợp Colgate Daniel Kaufmann Giám đốc, Phòng Cải cách quy chế và Doanh nghiệp t− nhân của Viện Phát triển Kinh tế của Ngân hàng Thế giới. Mohammad M. Kisubi Nhà t− vấn; nguyên Cố vấn cao cấp của Bộ dịch vụ công cộng, Uganda Sahr J. Kpundeh Nhà t− vấn, Viện Phát triển Kinh tế, Ngân hàng Thế giới Petter Langseth Chuyên gia cao cấp về quản lý khu vực công cộng, Phòng Cải cách quy chế và Doanh nghiệp t− nhân của Viện Phát triển Kinh tế của Ngân hàng Thế giới. Tan Ah Leak Phó Giám đốc, Cục điều tra các hành vi tham nhũng, Singapore Alex Muganda Uỷ viên cao cấp về Tanzania đối với Zimbabwe; nguyên Th− ký của Uỷ ban trực thuộc Tổng thống về chống tham nhũng, Tanzania Jeremy Pope Giám đốc phụ trách nghiên cứu, nguyên Giám đốc điều hành, Transparency International, Berlin Augustine Ruzindana Chủ tịch, Tiểu ban Tài khoản công cộng, Quốc hội Uganda; nguyên Chánh thanh tra, Uganda Shahrzad Sedigh Nhà t− vấn, Viện Phát triển Kinh tế , Ngân hàng Thế giới Antonio Sanchez de Lozada Nghị sĩ, nguyên Bộ tr−ởng Tài chính và Tổng Kiểm soát, Cộng hoà Bolivia Rick Stapenhurst
  7. Chuyên gia Quản lý khu vực công cộng, Phòng Phát triển khu vực t− nhân và cải cách quy chế, Viện Phát triển Kinh tế, Ngân hàng Thế giới. Lời nói đầu Mối liên hệ giữa quản trị và phát triển kinh tế có lẽ là vấn đề nổi bật nhất trên diễn đàn phát triển hôm nay. Viện Phát triển Kinh tế (EDI) của Ngân hàng Thế giới là ng−ời đi đầu trong việc áp dụng thực tế những nguyên lý chính phủ tốt và chính sách phát triển. Là một bộ phận của Ch−ơng trình Quản trị, EDI đ∙ hỗ trợ tổ chức nhiều khoá học ngắn ngày, các cuộc hội thảo và các cuộc điều tra về chống tham nhũng ở trên m−ời n−ớc ở châu Phi, Châu Âu, Châu Mỹ Latinh và Trung Đông. Những ng−ời tham gia vào các khoá học ngắn ngày này bao gồm các nhà hoạt động chính trị, các nhà quản trị công cộng, các l∙nh tụ của hiệp hội dân sự, và đại diện của những tổ chức quốc tế và song ph−ơng. Những ng−ời tham gia vào các khoá học và các cuộc hội thảo đ∙ có đ−ợc kiến thức cơ bản về những cách thức mới để làm tăng tính minh bạch và tính trách nhiệm và cũng báo cáo về tiến bộ trong những hoạt động cải cách mang tính truyền thống hơn trong cơ quan nhà n−ớc, phân bổ ngân sách và quản lý tài chính. Tập sách này bao gồm bao gồm những công trình chọn lọc của các nhà lý thuyết và hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực quản trị, với những nghiên cứu tình huống sâu ở ba n−ớc - Tanzania, Uganda và Sierra Leone. Phần I trình bầy những bài học kinh nghiệm. Tập trung vào sự t−ơng tác giữa tham nhũng và hoạt động kinh tế, các ch−ơng bàn luận về một dải rộng những vấn đề và cách tiếp cận tới cải cách. Hai ví dụ về thực hành tốt đ∙ đ−ợc đ−a ra minh họa - Hồng Kông (Trung quốc) và Singapore - cùng với tr−ờng hợp thách thức của Bolivia. Phần II xem xét các cách tiếp cận kinh tế và thể chế tới những nỗ lực chống tham nhũng. Phần này tập trung vào một số thể chế có thể có vai trò quan trọng trong việc kiềm chế tham nhũng và dành sự quan tâm đặc biệt tới khu vực công cộng và hiệp hội công dân, trong đó có các ph−ơng tiện truyền thông đại chúng. Ch−ơng cuối cùng của phần này đề xuất một khuôn khổ cho việc phân tích và củng cố những thể chế có thể kiềm chế tham nhũng. Phần III trình bầy các nghiên cứu tình huống của ba n−ớc. Tanzania và Uganda là những câu chuyện t−ơng đối thành công, trong khi Sierra Leone đ∙ thất bại trong việc kiềm chế tham nhũng. Bài học đáng chú ý là một chiến l−ợc đa chiều kết hợp với những cải cách kinh tế và sự tăng c−ờng những thể chế của "tính trung thực quốc gia" chắc chắn sẽ thành công hơn là những cải cách manh mún, nh− việc thiết lập một cơ quan chống tham nhũng mà không thực hiện những cải cách có liên quan. Tuy nhiên điều then chốt đối với bất kỳ chiến l−ợc nào cũng là sự cam kết chính trị. Cam kết của Ngân hàng Thế giới với các chính phủ xây dựng các khu vực công cộng trong sạch và hiệu quả đ−ợc dựa trên tiền đề rằng nỗ lực này là chìa khoá của phát triển bền vững. Vì thế, công việc quản trị đặc biệt quan tâm tới các chiến l−ợc trợ giúp đất n−ớc và tới cuộc đối thoaị giữa Ngân hàng với các khách hàng của mình. Mặc dù các chiến dịch để xúc tiến chính phủ tốt phải là cho riêng từng n−ớc, song các bài học
  8. chính sách rút ra từ khung cảnh này vẫn có thể áp dụng cho một nơi khác. Chính nhằm mục đích đó và trên tinh thần chia sẻ kinh nghiệm và kiến thức nên chúng tôi đ∙ biên soạn tập t− liệu này. Cuốn sách đ−ợc dành cho những cá nhân đang cố gắng nâng cao phúc lợi kinh tế bằng cách tạo ra một công chúng có đủ thông tin hơn và đ−ợc trao quyền nhiều hơn. Vinod Thomas Giám đốc Viện Phát triển Kinh tế
  9. Giới thiệu: Tổng quan về chi phí của tham nhũng và những chiến l−ợc để xử lý nó Rick Stapenhurst và Shahrzad Sedigh Tham nhũng, theo nghĩa đơn giản nhất, là sự lạm dụng quyền lực, phổ biến nhất là để đạt đ−ợc lợi ích cá nhân hoặc lợi ích của một nhóm mà ng−ời ta phải trung thành với nó. Tham nhũng có thể bị thúc đẩy bởi lòng tham, bởi −ớc muốn duy trì hoặc tăng thêm quyền lực, hay một cách khá vô lý là bởi một niềm tin vào một điều tốt lành mà ng−ời ta cho rằng còn lớn lao hơn. Và trong khi thuật ngữ "tham nhũng" hay đ−ợc áp dụng nhất cho sự lạm dụng quyền lực công cộng của các chính khách hay công chức nhà n−ớc, nó mô tả một hình mẫu ứng xử có thể thấy ở hầu nh− mọi lĩnh vực của cuộc sống. Kiểm soát tham nhũng đang nổi lên nh− là một trong những mối quan tâm chủ yếu trong cộng đồng quốc tế. Ngày 21 tháng Ba, 1996, các n−ớc Mỹ Latinh đ∙ ký một hiệp −ớc chống tham nhũng; những thành viên còn lại của Tổ chức các Quốc gia châu Mỹ, trong đó có Canada và Hoa Kỳ, đ−ợc dự đoán là sẽ khởi kiện. Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế đầy ảnh h−ởng cũng đ∙ thông qua một nghị quyết đòi chấm dứt việc ngừng đánh thuế đối với những công ty nào trả tiền hối lộ trên các thị truờng n−ớc ngoài. Sau nhiều năm bị đối xử nh− là một chủ đề cấm kỵ, vấn đề này đ∙ bắt đầu thu hút đ−ợc sự quan tâm nghiêm túc của cộng đồng các nhà tài trợ. Việc xem lại những vấn đề đ−ợc báo chí th−ờng xuyên đề cập cho thấy một kết luận rõ ràng và nổi bật: tham nhũng là một hiện t−ợng lan tràn khắp nơi, có thể thấy ở những n−ớc rất khác biệt về hệ t− t−ởng, về các điều kiện kinh tế và sự phát triển x∙ hội. Mặc dù những x∙ hội nào đó có thể dễ bị tổn th−ơng hơn những x∙ hội khác, và có thể phải chịu những hậu quả nặng nề hơn, song không một n−ớc nào trên thế giới ngày nay lại miễn dịch với ảnh h−ởng ăn mòn của tham nhũng. Tuy nhiên, cho dù thực trạng vấn đề có vẻ nh− rất phổ biến, vẫn không có một chứng cứ rõ ràng nào rằng ngày nay tham nhũng đ∙ lan rộng hơn. D−ới hình thái này hay hình thái khác, tham nhũng đ∙ hiện diện ngay từ những ngày đầu của tổ chức x∙ hội. Cái đ∙ thay đổi chính là thông tin về những hành vi tham nhũng đ∙ trở nên sẵn có hơn do các chính phủ ngày càng không thể che đậy đ−ợc những việc làm sai trái; mức độ dung thứ của công chúng đối với tham nhũng đ∙ giảm sút; và sự mở rộng dân chủ d−ờng nh− đ∙ thu hẹp mảnh đất mầu mỡ mà trên đó tham nhũng có thể sinh sôi nẩy nở. Silvio Wasibord, giáo s− về truyền thông của Tr−ờng Đại học Tổng hợp Rutgers, lập luận rằng "tham nhũng dễ nhận thấy hơn là do có những điều kiện mới về chính trị và truyền thông đại chúng, chứ không phải vì các chính phủ (của một số n−ớc đ−ợc chọn) tham nhũng nhiều hơn các tiền nhiệm của họ" (Toronto Globe and Mail, 19/12/1995). Sự phát triển của cả Internet cùng những tập đoàn truyền thông đại chúng, vốn ít ngại
  10. đụng độ hơn với các chế độ hà khắc, đ∙ buộc tham nhũng phải lộ diện. ậ nhiều nuớc, các chiến dịch truyền thông rầm rộ đ∙ đ−a tham nhũng vào vị trí trực diện và trung tâm tr−ớc mắt công chúng. Biến đổi kinh tế - cả trong n−ớc và quốc tế - cũng làm giảm nhẹ thái độ chấp nhận đối với tham nhũng. ở nhiều n−ớc đang phát triển, một lớp trung l−u đang lớn lên, đ∙ tự bầy tỏ thái độ kém tôn kính hơn nhiều đối với nhà chức trách so với tổ tiên nông dân cuả họ, và kém dung thứ hơn nhiều đối với tội tham nhũng mà theo truyền thống th−ờng làm lợi cho một vài thành viên giầu có của lớp ng−ời có thế lực trong khi đục khoét quốc gia. Đồng thời, mặc dù những ràng buộc kinh tế ngày càng tăng giữa các n−ớc đ∙ mở rộng những cơ hội cho tham nhũng và hối lộ, những mệnh lệnh nghiệt ng∙ của th−ơng tr−ờng toàn cầu là một lực l−ợng đầy quyền uy chống lại các hành vi tham nhũng. Khi những ràng buộc giữa Nam và Bắc tăng lên gấp bội, ph−ơng tiện thông tin đại chúng và những báo cáo khác gợi ý rằng ngày càng nhiều doanh nghiệp nhận thấy họ bị sa vào những cuộc chiến tranh đấu giá bất hợp pháp và tốn kém, hầu nh− không liên quan gì với tính cạnh tranh hay lợi thế so sánh đích thực. Các tập đoàn quốc tế sẵn sàng tham dự vào những thông lệ tham nhũng đang ngày càng ý thức rõ ràng hơn về chi phí dài hạn của tham nhũng, đặc biệt là do nhiều trong số những ng−ời thổi còi ngày nay là các h∙ng thuộc khu vực t− nhân. Nơi xảy ra tham nhũng Tham nhũng trong đời sống công cộng điển hình th−ờng xảy ra trong một vài lĩnh vực then chốt, không phân biệt cấu trúc chính trị hay trình độ phát triển kinh tế và x∙ hội của một đất n−ớc. Nói chung, lạm dụng dễ xẩy ra nhất ở nơi mà các khu vực công cộng và t− nhân (theo nghĩa rộng) gặp nhau, và nhất là ở những nơi mà có một trách nhiệm trực tiếp đối với việc cung cấp một dịch vụ đ−ợc mong muốn hay việc áp dụng những quy chế hay các sắc thuế cụ thể. Nó bao gồm, chẳng hạn nh− việc đặt hàng công cộng và ký hợp đồng, các hoạt động cấp phép nh− ban phát các giấy phép nhập khẩu hay xuất khẩu, quy hoạch lại đất đai và thu các khoản thu bất kể là thuế hay thuế quan. Các hệ thống thu thuế và thuế quan là đặc biệt đáng ngờ về mặt tham nhũng, nh− đ−ợc chứng minh trong nghiên cứu tình huống Tanzania ở ch−ơng 11. Thông qua hối lộ và các các hình thức bảo trợ khác, một nhân vật thế lực giầu có có thể thoát đ−ợc một sự xếp hạng công bằng về thuế hoặc tránh hoàn toàn đ−ợc việc trả các khoản thuế. Đáp lại, các quan chức hải quan có thể sử dụng thủ đoạn đe dọa sẽ làm chậm trễ hay đánh thuế cao - hoặc hứa hẹn việc đánh giá thấp - để moi tiền từ kinh doanh. Không có gì đáng ngạc nhiên, khi chức vụ công cộng có nhiều cơ hội này cho phép tham nhũng, thì tham nhũng cũng đ−ợc báo cáo trong việc bổ nhiệm hay bầu chọn các quan chức công cộng thuộc tất cả các cấp. Trong một số tr−ờng hợp, các chính khách tham nhũng bán những −u đ∙i cho những mạnh th−ờng quân sốt sắng của họ, không quan tâm tới loại hàng hoá công cộng này. Các chính khách cũng có thể sử dụng vị thế quyền lực của họ để c−ỡng bức những khoản hối lộ từ các công ty mà trong điều kiện khác có thể đ∙ không muốn dính dáng tới những hành vi kiểu nh− thế.
  11. Tham nhũng còn thể hiện trong việc bổ nhiệm các thành viên gia đình, những ng−ời trong họ hàng và bạn bè vào những cơ quan công cộng có vị thế độc quyền có thể thu lợi nhuận trong một lĩnh vực hoạt động nào đó trong khu vực t− nhân hoặc công cộng. Ký hợp đồng và đặt hàng là những lĩnh vực khác của chính phủ bị ảnh h−ởng, trong đó những ng−ời mà ban th−ởng các hợp đồng hay đặt hàng hàng hoá và dịch vụ th−ờng quen thói đòi các khoản hối lộ, lại quả, phần trăm, hay những "quà cáp" khác từ những ng−ời đang tìm kiếm công việc kinh doanh hay doanh số từ chính phủ. ở cấp độ nhẹ hơn - nh−ng là cấp độ tác động trực tiếp nhất tới một công chúng phẫn nộ - tham nhũng liên quan tới vô số công chức đ−ợc trả l−ơng thấp hoặc những công chức tham lam, họ đòi mức lệ phí quá lớn từ công chúng cho những dịch vụ nh− cấp giấy phép lái xe, cấp hộ chiếu và giấy phép kinh doanh. Đến l−ợt mình, những công chức này th−ờng phải trả một dạng hoa lợi vô lý cho cấp trên của họ để đ−ợc quyền có một việc làm ở khu vực công cộng và kiếm lời từ nhiều cơ hội mà việc làm đó đ−a ra để vòi vĩnh. Chi phí của tham nhũng Rõ ràng là những hoạt động nh− vừa đ−ợc mô tả trên đây, khi đ−ợc thực hiện trên một quy mô đủ lớn, có thể gây tổn hại không nhỏ cho đời sống kinh tế, chính trị và x∙ hội của bất kỳ x∙ hội nào. Quả thực, tham nhũng đang phá hoại ngay cả với lý do đơn giản là nó bóp méo sự lựa chọn. Trong địa hạt công cộng, những quyết định mà lẽ ra phải đ−ợc đ−a ra vì lợi ích x∙ hội, có xem xét đến những tiêu chuẩn hiệu quả của khu vực công cộng và sự quản trị lành mạnh, thì lại đ−ợc đặt trên việc tính toán những lợi ích t− nhân, hầu nh− không quan tâm gì tới những hiệu ứng đối với một cộng đồng rộng lớn hơn. Việc ra quyết định có yếu tố tham nhũng đ∙ bóp méo quá trình chi tiêu công cộng, đ−a tới việc tài trợ cho các dự án khổng lồ không thích hợp. Trên thực tế, việc ra quyết định công cộng đ−ợc bán cho những ng−ời trả giá cao nhất, có quan hệ tốt nhất, bằng cách đó chuyển nguồn công quỹ ra khỏi những mục đích sử dụng hiệu quả hơn và làm giảm các nguồn lực sẵn có cho mục đích sử dụng công cộng hợp pháp và hiệu quả hơn. Tham nhũng cũng làm h− hại đời sống kinh tế của một x∙ hội. Mặc dù một số ng−ời cho rằng nó có thể bôi trơn những bánh xe của một nền kinh tế chuyển động chậm và bị kiểm soát quá mức, nh−ng không có gì nghi ngờ rằng tham nhũng làm tăng chi phí của hàng hoá và dịch vụ, xúc tiến những khoản đầu t− không hiệu quả cho những dự án không thể tồn tại hay biện minh đ−ợc về mặt kinh tế, góp phần hạ thấp các chuẩn mực (ví dụ trong xây dựng và giao thông vận tải), và thậm chí có thể làm gia tăng tình trạng nợ nần và bần cùng của một đất n−ớc. Mặc dù chi phí kinh tế của tham nhũng là rất khó xác định, một số công trình nghiên cứu đ∙ gợi ý rằng chúng bao gồm: - Một mức tăng từ 3 đến 10% trong giá của một giao dịch cho tr−ớc để đẩy nhanh việc giao nhận một dịch vụ của chính phủ - Giá cả hàng hoá bị lạm phát - cao hơn tới 15 đến 20% - là kết quả của tình trạng độc quyền do chính phủ áp đặt - Các khoản phí quá lớn mà chính phủ phải trả cho các loại hàng hoá và dịch vụ, do việc ghi tăng hoá đơn đối với những hợp đồng thu mua hoặc do việc mua những
  12. thứ đắt tiền và không cần thiết, chính phủ th−ờng trả cao hơn mức cần thiết từ 20 đén 100%. Các chiến l−ợc đối phó với tham nhũng Kinh nghiệm chỉ ra rằng không có một cách tiếp cận đơn lẻ nào là chắc chắn hữu hiệu đối với vấn đề hạn chế tham nhũng. Trái lại, thành công liên quan tới một dải rộng các chiến l−ợc đ−ợc triển khai đồng bộ và nhất quán ở mức cao nhất có thể. Nói chung, những chiến l−ợc này phải bao gồm các biện pháp giảm thiểu cơ hội cho tham nhũng và những lợi ích của nó, tăng khả năng tham nhũng sẽ bị phát hiện và làm cho việc xử phạt những kẻ vi phạm trở nên khả thi hơn. Các ch−ơng trình chống tham nhũng về thực chất đ−ợc triển khai theo hai tuyến. Thứ nhất, những cải cách thích hợp về hành chính, tài chính và kinh tế có thể giảm thiểu đ−ợc cơ hội cho tham nhũng. Thứ hai, việc xây dựng năng lực có thể tăng c−ờng đ−ợc các thể chế - các ph−ơng tiện thông tin đại chúng, quốc hội, các cơ quan giám sát, nền tài phán, v.v. - mà nâng cao đ−ợc ý thức của công chúng về hành vi tham nhũng và chi phí của nó, cũng nh− điều tra phạm vi của tham nhũng. Một ch−ơng trình thành công th−ờng bắt đầu bằng sự nhận biết về phạm vi của vấn đề và hiểu rõ về những nguyên nhân của nó. Điều đó có nghĩa là phải nhận diện những lĩnh vực hành chính công cộng mà ở đó tham nhũng dễ xảy ra nhất và có khả năng khu biệt và xử lý những điều kiện đ∙ giúp cho tham nhũng nẩy nở. Trong một số tr−ờng hợp, việc này kéo theo sự cải cách triệt để khu vực công cộng, nh− đang diễn ra ở Bolivia và Uganda. Cuộc cải cách đó phải bao gồm rất nhiều thao tác tháo gỡ trên các quy mô lớn và nhỏ. ở cấp độ công việc, cải cách có thể mang nghĩa là sự giám sát tốt hơn đối với công chức để đảm bảo rằng họ không lạm dụng vị trí của mình để m−u lợi cá nhân. Những cuộc vận động về ý thức, nhấn mạnh cả tầm quan trọng của dịch vụ công cộng và chi phí của tham nhũng (bao gồm cả việc xử phạt những ng−ời vi phạm) cũng có thể có kết quả và đ∙ đ−ợc sử dụng thành công ở một số nền kinh tế, trong đó có Hồng Kông (Trung quốc) và Singapore. Công chức có thể đ−ợc khuyến khích để thông báo các hành vi tham nhũng; tuy nhiên để cho việc thông báo đó trở thành hiện thực thì điều quan trọng là phải cung cấp cho công chức những kênh thích hợp cho việc tố cáo những hành vi xấu của các đồng sự hay cấp trên của họ. Một chiến thuật khác nữa là hạn chế mức độ đ−ợc phép tuỳ ý xử lý trong công chức, sao cho hành vi của họ - đặc biệt là khi nó dính dáng đến thu mua hay cấp giấy phép và cho phép - bị quy định chặt chẽ hơn nữa bởi những quy tắc hay quy chế đ∙ ban hành. Các thông lệ trong thu mua, mà th−ờng là đáng ngờ nhất về những việc làm sai trái, cũng có thể đ−ợc đơn giản hoá và làm cho cởi mở hơn, minh bạch và cạnh tranh hơn. Các quy tắc và quy chế cần đ−ợc chuyển tải bằng thứ ngôn ngữ đơn giản, rõ ràng và dễ tiếp cận đối với công chúng và những ng−ời đang tìm kiếm dịch vụ công cộng. Nh− đ−ợc chứng minh trong các nghiên cứu tình huống đối với Tanzania, Uganda và Sierra Leone (ch−ơng 11, 12 và 13), một điều quan trọng nữa là sự cần thiết phải bảo
  13. đảm đ−ợc một mức tiền l−ơng thoả đáng cho công chức để họ không tìm cách kiếm thêm thu nhập cho mình bằng các khoản hối lộ hay c−ỡng đoạt. Đảm bảo đ−ợc tiền l−ơng đủ sống mà có thể cạnh tranh đ−ợc với mức thù lao của khu vực t− nhân cũng giúp cơ quan nhà n−ớc thu hút đ−ợc nguồn nhân lực có chất l−ợng ở mức tối đa. ở cấp độ rộng hơn th−ờng cần tới những cải cách căn bản hơn đối với khu vực công cộng, nhằm giảm tham nhũng, đặc biệt là ở những n−ớc nh− Tanzania nơi mà nhà n−ớc có vai trò can thiệp mạnh vào đời sống kinh tế và x∙ hội. Các ch−ơng trình đ−ợc sự ủng hộ công cộng không đáng kể hoặc đ−ợc −u tiên thấp về chính sách cần đ−ợc xoá bỏ, bởi chúng th−ờng tồn tại chỉ để tiếp sức cho các hoạt động tham nhũng của một vài quan chức công cộng quan trọng. Các cuộc cải cách cũng có thể liên quan tới việc t− nhân hoá những đơn vị không hiệu quả mà nhờ có vị thế độc quyền có thể thu hút những số tiền khổng lồ từ công quỹ và khu vực t− nhân. Bằng việc giảm bớt mức độ t−ơng tác giữa khu vực t− nhân và khu vực công cộng, t− nhân hoá trực tiếp làm giảm các cơ hội cho hành vi tham nhũng. Hơn nữa, sự cần thiết phải vận hành ở "mức độ tốt nhất" có thể là một yếu tố phi khuyến khích mạnh đối với việc tham gia vào những hành vi tham nhũng không hiệu quả rất phổ biến ở nhiều doanh nghiệp trên thế giới. Nới lỏng kiểm soát và mở rộng các thị tr−ờng, khởi x−ớng cải cách thuế và cải thiện quản lý chi tiêu công cộng cũng có vai trò quan trọng. Cuối cùng là vấn đề c−ỡng chế. ở một mức độ nào đó, c−ỡng chế là một trong những cách thức kém hiệu quả nhất để giảm tham nhũng, bởi nó chỉ giải quyết vấn đề sau khi nó đ∙ xảy ra. Tuy nhiên, phê chuẩn và c−ỡng chế thực thi các bộ luật có thể có một hiệu ứng răn đe mạnh mẽ và là những yếu tố bổ sung cần thiết cho những nỗ lực phòng ngừa khác. Những nghiên cứu tình huống đối với Tanzania, Uganda và Sierra Leone làm nổi bật các cơ chế c−ỡng chế và biện pháp pháp lý khác nhau để xử lý tham nhũng, từ những uỷ ban đặc biệt có thẩm quyền điều tra (vay m−ợn nhiều từ kinh nghiệm của Hồng Kông (Trung quốc) và Singapore) cho tới những bộ quy tắc ứng xử chịu ảnh h−ởng mạnh của hiến pháp. Các biện pháp pháp lý nhằm kiểm soát tham nhũng không cần phải phức tạp nh−ng phải đ−a ra đ−ợc những hình thức xử phạt mà chi phí của nó v−ợt quá lợi ích của tham nhũng. Ví dụ, các biện pháp đó có thể cấm việc th−ởng hay c−ỡng chế thực thi đối với các hợp đồng, giấy phép và sự cho phép vì những lý do tham nhũng, nhờ đó tạo cho những ng−ời ở vào tình huống nh− thế một khuyến khích mạnh để báo cáo những hành vi sai trái. Điều quan trọng là hệ thống pháp lý tự nó cần phải "trong sạch" và đ−ợc nhận thức nh− là việc c−ỡng chế thực thi các bộ luật chống tham nhũng. Những ví dụ của Tanzania, Uganda và Sierra Leone càng làm sáng tỏ hơn rằng những tổ chức có nhiệm vụ điều tra hay xử phạt phải đ−ợc đầu t− đủ ph−ơng tiện - cả con ng−ời và tài chính - để hoàn thành đ−ợc sứ mệnh của chúng. Một cách tối −u, những tổ chức này cũng cần duy trì những mối quan hệ có khoảng cách hay độc lập, d−ới một hình thức nào đó, với nhà n−ớc. Các nghiên cứu tình huống cho thấy rằng những tổ chức mà bề ngoài có thế lực rộng khắp để chống tham nhũng có thể bị rơi vào tình
  14. trạng vô hiệu bởi không có đủ nguồn lực để hoạt động - th−ờng trực tiếp liên quan tới sự kiểm soát của chính phủ đối với việc phân bổ ngân sách của họ - và những dàn xếp về báo cáo khiến họ trở nên đáng ngờ tr−ớc sự kiểm soát của chính phủ trung −ơng. Trong tất cả những nỗ lực chống tham nhũng, sự cam kết của những đại biểu quốc hội cao cấp đ−ợc bầu chọn và của những quan chức công cộng khác là rất quan trọng, nh− kinh nghiệm của Bolivia, Hồng Kông (Trung quốc) và Singapore đ∙ cho thấy. Nếu những ng−ời cai trị một x∙ hội mà thiếu ý chí chính trị trong việc tránh tham nhũng và tạo ra biến đổi, thì cải cách thực sự khó lòng mà thực hiện và chắc chắn là không thể duy trì. ở một mức độ nào đó, việc tạo ra ý chí chính trị này và duy trì xung lực cho cải cách phụ thuộc vào một x∙ hội công dân mạnh sẵn sàng và có khả năng gây áp lực để thay đổi. Một x∙ hội công dân mạnh và năng động có thể là một công cụ đắc lực để nâng cao ý thức về tham nhũng và th−ờng là một nguồn thông tin quan trọng về những hành vi tham nhũng. Một số bộ phận của x∙ hội công dân có thể có những đóng góp cực kỳ quan trọng: các hiệp hội chuyên nghiệp của luật s−, kế toán viên, kiểm toán viên có kiến thức chuyên sâu trong một số lĩnh vực chủ yếu làm phát sinh tham nhũng; khu vực t− nhân có thể kh−ớc từ những đòi hỏi mang động cơ tham nhũng và báo cáo về những biểu hiện hối lộ hay moi tiền; và báo chí có thể đóng vai trò ng−ời giám sát của công chúng qua việc th−ờng xuyên đ−a tin về cuộc đấu tranh chống tham nhũng và công bố tình trạng phổ biến và chi phí của những việc làm sai trái. Cuối cùng, x∙ hội công dân và những thể chế của nó có lẽ là nguồn hỗ trợ mạnh mẽ nhất cho các nhà l∙nh đạo công cộng, những ng−ời thực sự cam kết cải cách và sẵn sàng theo đuổi những nỗ lực cải cách, với sự đồng hành của nhiều cá nhân và tổ chức trong x∙ hội. Những trở ngại đối với cải cách Nếu nh− những yếu tố của các chiến dịch chống tham nhũng thành công cho đến nay đ∙ đ−ợc hiểu t−ơng đối đầy đủ, thì việc thực hiện và duy trì chúng cũng còn cực kỳ khó khăn. Những yếu tố bất kỳ đều có thể góp phần đ−a chúng đến chỗ thất bại. Ví dụ, quyền hạn của một nhà l∙nh đạo nào đó trong việc phê chuẩn sự thay đổi có thể bị hạn chế, đặc biệt là khi một nhân vật có thế lực tham nhũng và đ−ợc che chắn đ∙ nắm quyền lực trên thực tế qua các thế hệ, đ−ợc sự ủng hộ của những bộ phận có ảnh h−ởng trong quân đội và trong khu vực, và có thể đ−ợc sự ủng hộ của các l∙nh tụ n−ớc ngoài. Hơn nữa, ở những nơi mà tham nhũng hoành hành và ăn sâu vào toàn bộ bộ máy chính phủ, thì các cơ hội để bắt đầu cải cách sẽ rất hiếm hoi và hàng loạt cản trở sẽ xuất hiện. Thêm vào đó, áp lực cải cách mà bắt nguồn từ những đẳng cấp thấp hơn trong bộ máy quan liêu có thể bị cản trở do sự thiếu vắng ý chí hay sự quan tâm chính trị trong những công chức ở cấp cao hơn hay các quan chức chính trị. Tại bất cứ một giai doạn nào trong tiến trình này, sự thiếu vắng một cam kết từ th−ợng đỉnh hay ở tầng thấp nhất đều có thể thực sự phá hỏng những nỗ lực cải cách. Hơn nữa, cải cách có thể bị đe doạ nếu nh− một nhân vật có thế lực không tuân thủ hay một công chức làm chậm tiến
  15. độ của nó, hoặc nếu nh− một công chúng đầy hy vọng hiểu sự chậm trễ nh− là những dấu hiệu của sự thiếu vắng cam kết thực sự về công bằng. Cũng đúng nh− việc những nỗ lực cải cách phải đ−ợc sự hỗ trợ rộng r∙i, chúng cũng phải đ−ợc h−ớng vào tất cả những ng−ời liên quan và h−ởng lợi từ tham nhũng. Những chiến dịch nhằm vào những ng−ời vi phạm lặt vặt hay xử lý ví dụ một vài thành viên trong những phần tử có thế lực mà không xử lý tham nhũng một cách có hệ thống sẽ mau chóng mất hết tính hợp pháp và, tạo ra một ví dụ có sức khuyến khích những hành động sai trái tiếp diễn trong toàn thể các thành viên của x∙ hội. Cải cách cũng có thể kém hiệu quả nếu đ−ợc tiến hành một cách vô tổ chức, phối hợp kém, hay có tính đột xuất, hoặc nếu việc dựa quá nhiều vào luật pháp và sự c−ỡng chế dẫn tới tình trạng ức chế và việc áp đặt một chế độ quyền lực khác, có nguy cơ tham nhũng lớn nhất. Các bộ luật cần giữ một vai trò quan trọng trong việc xử phạt những kẻ vi phạm, song chúng cần đ−ợc bổ sung bằng những cuộc vận động nâng cao nhận thức của dân chúng, bằng giáo dục và bằng cải cách trên diện rộng. Đồng thời, các tổ chức có chức năng c−ỡng chế thực thi luật hoặc điều tra tham nhũng và khuyến nghị các biện pháp phòng ngừa, là rất quan trọng và cần đ−ợc bố trí đội ngũ nhân viên cũng nh− các nguồn lực thoả đáng. Nh− đ−ợc chứng minh trong ví dụ về Tanzania, việc trao cho các tổ chức c−ỡng chế toàn bộ quyền lực cần thiết để tiến hành những chiến dịch chống tham nhũng có tác động sâu rộng là không đủ. Những tổ chức này sẽ hết sức vô tích sự nếu chúng không có khả năng thu hút và giữ chân đ−ợc đội ngũ nhân viên có năng lực hay có đ−ợc nguồn kinh phí đủ để chu cấp cho các cuộc điều tra và đảm bảo rằng những khuyến nghị của họ đ−ợc thực hiện thay vì bị phụ thuộc vào những kẻ điều hành nhu nh−ợc. Mặc dù nạn tham nhũng ở Tanzania, Uganda và Sierra Leone đ∙ phát sinh trong những bối cảnh khác nhau - chẳng hạn tính ổn định t−ơng đối của Tanzania là t−ơng phản hoàn toàn với bầu không khí căng thẳng và tình trạng cực kỳ bất ổn định ở Uganda - nh−ng hiển nhiên là có những đ−ờng nét chung. Rõ ràng là tham nhũng sinh sôi nẩy nở đặc biệt mạnh chỉ trong một vài lĩnh vực hoạt động chủ yếu của chính phủ - đặt hàng, thu thuế, việc cung cấp −u tiên các dịch vụ công cộng, và những hoạt động hàng ngày của các tổ chức . Cũng rõ ràng là đồng l−ơng eo hẹp của công chức nhà n−ớc, tình trạng trì trệ kinh tế, chính phủ độc đoán, và một bộ máy nhà n−ớc cồng kềnh, tất cả đều gây ra tham nhũng. Hơn nữa, ba n−ớc này đều có chung những trở ngại t−ơng tự đối với cải cách - những phần tử có thế lực thâm căn cố đế, sự thiếu vắng ý chí chính trị, sự hiểu biết không đầy đủ về chi phí của tham nhũng và sự vô hiệu lực của những luật lệ mà không thể c−ỡng chế thực thi đ−ợc bởi những tổ chức chống tham nhũng không có đủ nguồn lực, với những nhiệm vụ, cơ cấu và sự bố trí để báo cáo có nhiều sai sót. Những chiến l−ợc nhằm kiểm soát tham nhũng bao gồm các quá trình lâu dài của sự thay đổi thái độ và ứng xử cũng nh− thay đổi các thiết chế của một x∙ hội. Kiềm chế tham nhũng không đơn thuần là vấn đề đạo đức và tinh thần; nó còn liên quan tới nền quản trị lành mạnh và việc sử dụng các nguồn lực công cộng một cách hữu ích và hiệu quả để đem lại những điều tốt lành cho công chúng.
  16. Tổng quan về cuốn sách Trong ch−ơng 1, Johnston và Doig xem xét bối cảnh chính trị và x∙ hội mà trong đó diễn ra các ch−ơng trình chống tham nhũng. Johnston giải thích việc các n−ớc làm thế nào để có thể đạt tới một "cân bằng tham nhũng thấp", trong khi Doig lại làm nổi bật những mối liên hệ giữa tham nhũng và phát triển. Trong ch−ơng 2 Kaufmann đ−a ra những bài học từ phép phân tích so sánh những tài liệu gần đây, làm tan đi những chuyện hoang đ−ờng và vạch ra những khuynh h−ớng trong các chiến l−ợc chống tham nhũng. Phần còn lại của Phần I giành cho kinh nghiệm của ba n−ớc. De Speville tóm l−ợc kinh nghiệm của Hồng Kông, Trung quốc, trong ch−ơng 3, và Leak trình bầy tr−ờng hợp Singapore trong ch−ơng 4. Cả hai tác giả này đều nêu bật vai trò của các tổ chức chống tham nhũng; Speville cũng l−u ý tầm quan trọng của việc nâng cao nhận thức của công chúng về chi phí của tham nhũng và của việc lôi cuốn x∙ hội công dân vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Trong ch−ơng 5, Lozada tập trung vào Bolivia, bàn về mối liên quan giữa những cải cách dân chủ và tính trách nhiệm công cộng và nhấn mạnh vai trò của Văn phòng Tổng Kiểm soát cũng nh− tầm quan trọng của những cải cách tài chính. Phần II bao gồm một số khía cạnh quan trọng của các chiến l−ợc chống tham nhũng. Trong ch−ơng 6 Kaufmann nêu bật những cải cách kinh tế chủ yếu mà cần phải là một bộ phận của các chiến l−ợc chống tham nhũng. Pope tóm tắt những yếu tố chính của các chiến l−ợc thành công trong ch−ơng 7, và trong ch−ơng 8, ông xem xét nh−ng ph−ơng thức có thể nâng cao đ−ợc tính trách nhiệm trong khu vực công cộng. Trong ch−ơng 9, Kisubi nêu bật tầm quan trọng của việc lôi cuốn x∙ hội công dân, trong đó có các ph−ơng tiện thông tin đại chúng. Trong ch−ơng 10, Langseth, Stapenhurst và Pope kết hợp nhữn yếu tố này và những yếu tố khác nữa của một chiến l−ợc chống tham nhũng để thúc đẩy "những hệ thống toàn vẹn quốc gia." Phần III trình bầy ba nghiên cứu tình huống. Ch−ơng 11 và 12 đề cập tới Tanzania và Uganda, những n−ớc mà các chiến l−ợc chống tham nhũng toàn diện đang đem lại những kết quả tích cực. Ch−ơng 13 bàn về Sierra Leone, nơi đ∙ đạt đ−ợc thành công ở mức độ kém hơn nhiều. Tập sách kết thúc bằng một phần tóm tắt những bài học chủ yếu về nạn tham nhũng và những ph−ơng tiện hữu hiệu nhất để đẩy lùi nó.
  17. Phần I Những bài học kinh nghiệm 1. Những quan điểm khác nhau về chính phủ tốt và các chiến l−ợc chống tham nhũng bền vững Michael Johnston và Alan Doig Ch−ơng này trình bầy hai cách nhìn khác nhau và đôi khi đối lập với nhau về những trở ngại đối với các chiến l−ợc chống tham nhũng mà các nhà cải cách có thể gặp phải. Trong khi Alan Doig tập trung vào những xung đột và sự kết hợp, giữa chính phủ tốt, quản trị tốt và các mục tiêu phát triển kinh tế, thì Michael Johnston lại nhấn mạnh một bối cảnh kinh tế và chính trị rộng hơn có thể góp phần duy trì một hệ thống tham nhũng nh− là một trạng thái cân bằng.1 Điểm cân bằng này, theo lập luận của Johnston trong phần thứ nhất, là nét đặc tr−ng của những thể chế yếu và nó gắn với tăng tr−ởng kinh tế thấp. Đó là lý do tại sao các nhà l∙nh đạo chỉ có thể gánh vác trách nhiệm chống tham nhũng quan liêu trong những điều kiện cụ thể, và tại sao nếu muốn cho những cải cách của mình đem lại kết quả, họ cần phải tấn công vào tổ chức chiều dọc và sự phối hợp chiều ngang của tham nhũng, tạo ra cơ chế kiểm tra kiểm soát trong khuôn khổ chính phủ, và đảm bảo đ−ợc tiền l−ơng khá giả cho công chức nhà n−ớc. Trong phần thứ hai, Doig nhấn mạnh rằng mặc dù các nhà tài trợ ngày càng tập trung vào tham nhũng, coi nó là trở ngại trung tâm đối với việc khuyến khích chính phủ tốt, việc thực thi các chiến l−ợc chống tham nhũng một cách hữu hiệu th−ờng rất khó khăn, đặc biệt là khi các cải cách kinh tế và chính trị dài hạn hơn đang đ−ợc xúc tiến cùng một lúc và các nguồn lực bị hạn chế. Điều quan trọng là các ph−ơng tiện khả thi, hữu hiệu và bền vững phải sẵn có để ngăn chặn, điều tra và cải cách những thông lệ tham nhũng. Có thể làm gì đối với tình trạng tham nhũng ăn sâu? Một luận giải của Michael Johnston Tham nhũng không phải là một vấn đề ngẫu nhiên "xảy ra" đối với các x∙ hội mà lẽ ra là lành mạnh, mà nó cũng không nhất thiết dẫn tới sự sụp đổ. Nó là một trong một loại vấn đề phát triển, mang tính nội sinh đối với một tình huống và là triệu chứng của những khó khăn khác. Những tr−ờng hợp nghiêm trọng nhất - tham nhũng ăn sâu trên hai ph−ơng diện chính trị và quan liêu - là những trạng thái cân bằng. Chúng đ−ợc tổ chức chặt chẽ và ổn định từ bên trong, tạo ra và đ−ợc duy trì bởi những điều kiện cạnh tranh chính trị yếu, tăng tr−ởng kinh tế chậm và không đều, và một x∙ hội công dân yếu. Những điều kiện dẫn tới tham nhũng ăn sâu Mặc dù tham nhũng chính trị và tham nhũng quan liêu là khác nhau, nh−ng cả hai đều sẽ ăn sâu, thâm căn cố đế nếu nh− chúng là phổ biến, có tổ chức và độc quyền. Ba đặc
  18. tính này không nhất thiết liên quan tới nhau, nh−ng khi chúng kết hợp lại thì tham nhũng đặc biệt nguy hại. Tham nhũng phổ biến là những hành động sai trái có quy mô lớn - trên khắp đất n−ớc hay một tiểu vùng - đến mức chỉ có một vài lựa chọn thích hợp để xử lý các quan chức tham nhũng. Tham nhũng có tổ chức liên quan đến sự phối hợp bên trong, tri thức đ−ợc chia sẻ và một sự đổi chác các lợi ích theo chiều dọc. Nó tạo điều kiện cho một nền kinh tế nội tại kết nối những ng−ời uỷ quyền và những ng−ời đại diện. Những ng−ời uỷ quyền cung cấp sự bảo vệ, đ−a ra những quyết định quan trọng, và kiểm soát sự tự ý quyết định, quyền hạn và sự tiếp cận tới phần đ−ợc nhận của bên nhận uỷ quyền, trong khi các đại diện chính trị hay quan liêu thì trả tiền để nhận đ−ợc chiến lợi phẩm của mình thông qua sự ủng hộ trung thành. Tham nhũng có tổ chức khép lại những lựa chọn chính trị hay quan liêu của của các thân chủ, đem lại cho tổ chức này đòn bẩy tham nhũng mạnh hơn. Nó tạo ra một mạng l−ới tay trong cùng chia sẻ không chỉ phần th−ởng mà cả rủi ro; vì thế họ có một khoản đặt c−ợc trong sự bảo vệ tham nhũng, tăng thêm số tiền thu đ−ợc, vô hiệu hoá những sự chỉ trích và b−ng bít thông tin đối với các đại diện và thân chủ. Tham nhũng đ−ợc tổ chức tốt là một dấu hiệu cho thấy sự chống đối chính trị và cơ chế kiểm tra kiểm soát quan liêu trong một thời gian nào đó là yếu. Đối với tham nhũng độc quyền, nó xẩy ra khi tình trạng tham nhũng lan tràn không gặp phải một sự phản đối chính trị hay cạnh tranh kinh tế nào đáng kể. Tham nhũng độc quyền không những khó diệt trừ hơn, mà hơn thế, những ng−ời thực hiện hành vi đó còn có thể tạo ra những lợi ích tối đa trong một khoảng thời gian dài đáng kể. Tham nhũng chính trị ăn sâu - tham nhũng trong hàng loạt hoạt động chính trị và xây dựng chính sách, trong đó có hối lộ, c−ỡng đoạt, gian lận bầu cử, bảo trợ lạm quyền và sự đe doạ chính thức đối với các nhóm chống đối - đặc tr−ng cho sự thống trị của hoạt động chính trị do một tổ chức độc quyền hay một phe phái tiến hành, một phần thông qua tham nhũng và gặt hái đ−ợc nhiều phần th−ởng từ hành vi này. Alam (1995) đ∙ nhận diện ba loại "hành động bù đắp" mà những ng−ời bị thiệt hại từ tham nhũng có thể thực hiện: những hành động lẩn tránh để giảm thiểu tình trạng phụ thuộc vào các quan chức tham nhũng, những hành động trực tiếp (nh− chống đối và bạo lực) làm tăng thêm chi phí hoặc rủi ro của tham nhũng đối với các quan chức, và những hành động bất hợp pháp chống tham nhũng bằng tham nhũng. Tham nhũng quan liêu ăn sâu khác biệt ở chỗ giới quan liêu tham nhũng không đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt nhất từ các chính phủ khác hay các cơ quan khác đang thực hiện những chức năng t−ơng tự. Hơn nữa, các quan chức quan liêu có thể tạo ra tình trạng tham nhũng kéo dài và sinh lợi nuôi d−ỡng và giúp duy trì một môi tr−ờng phụ thuộc về kinh tế và chính trị. Tổ chức chiều dọc là một b−ớc quan trọng tiến tới tham nhũng ăn sâu. ở đây, các đại diện chia sẻ một phần trong số tiền họ nhận đ−ợc với những ng−ời uỷ quyền. Chuyên môn hoá có thể là một nguồn gốc tạo ra bất ổn định (một quan chức có thể chuyển sang một cơ quan hành chính khác để tránh việc trả một khoản hối lộ), song nếu các cơ quan câu kết với nhau thì kết quả có thể là những khoản phải thanh toán cá nhân nhỏ hơn nh−ng lại là một khoản nhận đ−ợc lớn hơn nhiều qua thời gian.
  19. Tham nhũng ăn sâu dai dẳng và khó đẩy lùi không chỉ vì những hành vi nội bộ của nó mà còn do nó bị chìm sâu vào một bối cảnh kinh tế và chính trị rộng hơn giúp duy trì nó với t− cách là một trạng thái cân bằng. Nó tạo ra và phụ thuộc vào những tổ chức độc quyền thể chế và tình trạng thiếu những lựa chọn kinh tế và chính trị do chúng đẻ ra. Các độc quyền thể chế với quyền kiểm soát không bị tranh dành của chính phủ - hay trong hệ thống quan liêu đó là những độc quyền tập thể (Shleifer và Vishny 1993) - chiếm hữu cơ chế kiểm soát và cân bằng và tận h−ởng quyền tuỳ ý quyết định gần nh− là không có giới hạn. Một con số ít ỏi những lựa chọn kinh tế - bất kể là kết quả của một sự hiện diện rộng r∙i của nhà n−ớc trong nền kinh tế hay là của tình trạng yếu kém của nền kinh tế t− nhân - có nghĩa là nếu muốn làm ăn kinh doanh thì phần lớn các cá nhân, các h∙ng và các nhà đầu t− phải đối phó với các quan chức tham nhũng. Việc thiếu các lựa chọn chính trị có nghĩa là sự chỉ trích tham nhũng sẽ khó mà đòi hỏi tính chịu trách nhiệm. Kết hợp lại, những điều kiện nh− thế tạo nên một hội chứng duy trì tham nhũng hết sức nặng nề. Mauro (1997) chỉ ra rằng tham nhũng rộng r∙i th−ờng kìm h∙m đầu t− và tăng tr−ởng kinh tế. Keefer (1996) thấy rằng sự thiếu vắng quyền sở hữu đáng tin cậy và những quyền ghi trong hợp đồng - một kết quả có vẻ hợp lý của tham nhũng ăn sâu - sẽ chuyển h−ớng tiêu điểm của các nhà đầu t− tới những khoản lợi nhuận chóng vánh, gây thiệt hại cho triển vọng phát triển kinh tế bền vững. Keefer và Knack (1995) lập luận rằng tham nhũng là một bộ phận của một hội chứng các định chế có chất l−ợng kém gắn với tăng tr−ởng kinh tế thấp. Tăng tr−ởng chậm hoặc âm kéo dài cũng kéo theo tình trạng khan hiếm triền miên các lựa chọn kinh tế, ngăn cản sự phát triển của các hoạt động kinh tế và những nhóm lợi ích chính trị mới trong khi lại duy trì thuộc địa của các quan chức tham nhũng. Quyền lực độc quyền chính trị đặt các quyền tự do dân sự tr−ớc rủi ro: bầu cử và xét xử có thể bị gian lận. Sự đe doạ và nhận thức rằng tham nhũng là không thể tránh khỏi có thể bác bỏ sự ủng hộ của công chúng đối với các nhà cải cách; họ có thể kết luận rằng họ không có gì để đ−ợc và có rất nhiều thứ để mất nếu tiếp tục chống đối và họ có thể chịu chung số phận với những ng−ời có thế lực. Tình trạng mong manh này về chính trị và kinh tế làm suy yếu nghiêm trọng x∙ hội công dân mà thiếu nó thì ngay cả một tập hợp hoàn chỉnh những thiết chế dân chủ cũng sẽ không tạo nên trách nhiệm đ−ợc. Vai trò của các đối tác viện trợ chắc chắn là phục hồi x∙ hội công dân và thực hiện các biện pháp để thúc đẩy cạnh tranh và các thiết chế. Từ tham nhũng ăn sâu tới trạng thái cân bằng tham nhũng thấp Tham nhũng ăn sâu không phải là cân bằng duy nhất có thể có.ở một số n−ớc, tham nhũng ít nghiêm trọng hơn và các đối thủ có những lựa chọn thực sự. Phản đối tham nhũng không chỉ có cơ sở là nỗi lo sợ bị trừng phạt mà nó dựa cả trên những truyền thống và tiêu chuẩn chính thống mà những nhóm lợi ích đang tranh giành trong nền kinh tế và hoạt động chính trị cùng chia sẻ. Các cơ hội chính trị và kinh tế đủ dồi dào sẽ khiến cho ng−ời ta có nhu cầu thấp hơn về sử dụng của cải để mua quyền lực chính trị hay sử dụng quyền lực để khai thác của cải để phất lên (Huntington 1968; Johnston 1997a). Các quan chức chính trị giám sát giới quan liêu đều biết rằng họ có thể bị mất quyền lực do tham nhũng và do những chính sách không hữu hiệu. Giám sát từ bên trên, theo dõi từ bên ngoài, và kiểm tra kiểm soát cơ cấu có nghĩa là các quan chức cá
  20. nhân và những nhóm nhỏ không có quyền tự quyết định độc quyền và nhận thấy khó mà tổ chức và phối hợp tham nhũng trên một quy mô lớn. Kết quả là mặc dù tham nhũng đôi khi phát sinh nh−ng nó không trở thành thâm căn cố đế. Các n−ớc có thể chuyển từ một trạng thái cân bằng cao tới một trạng thái cân bằng thấp. Mặc dù không có một công thức nấu n−ớng nhanh chóng nào cho sự chuyển đổi này, nh−ng quy mô của nó là không thể quản lý. Mục tiêu là khuyến khích những phát triển mà làm xói mòn các độc quyền và tổ chức của tham nhũng ăn sâu trong khi tăng c−ờng đ−ợc các lực l−ợng mà ở nơi khác duy trì đ−ợc lựa chọn tham nhũng thấp. Cạnh tranh chính trị và x∙ hội mạnh hơn có thể nâng cao đ−ợc tính chịu trách nhiệm và tạo ra những khuyến khích cho các l∙nh tụ chính trị hành động chống lại tham nhũng. Tham nhũng giảm sẽ khuyến khích tăng tr−ởng kinh tế, mở rộng hơn nữa những lựa chọn kinh tế và uốn nắn các nhóm lợi ích trong x∙ hội công dân, trong khi làm suy yếu đòn cân chính trị và quan liêu làm nền tảng cho tham nhũng ăn sâu. Mặc dù một quá trình nh− thế không đòi hỏi một nền dân chủ thể chế hoá đầy đủ, nh−ng một sự khởi động tốt là bảo đảm đ−ợc quyền sở hữu và các quyền theo hợp đồng cùng những quyền tự do dân sự quan trọng cho phép hoạt động báo chí độc lập và sự chống đối đ−ợc phát triển. Để mở rộng các tổ chức độc quyền chính trị, một nhiệm vụ là thiết lập những tuyến độc lập cho việc kháng cáo chống lại tham nhũng và các kiểu lạm dụng khác, chủ yếu là ở các toà án nh−ng cũng có cả các hình thức cơ quan điều tra, tổng thanh tra và các nhân viên thanh tra, mở cửa để cho công chúng khiếu nại và giám sát. Ngoài ra cạnh tranh chính trị phải đ−ợc thể chế hoá, tạo ra những cơ hội cho các lực l−ợng chính trị giành đ−ợc quyền lực lớn thông qua các quá trình có thể nhìn thấy một cách công khai - và mất quyền lực nếu họ hành động thất bại tr−ớc tham nhũng hay những vấn đề khác. Mặc dù tham nhũng chính trị và quan liêu có thể sinh sôi nẩy nở độc lập với nhau song trên thực tế, hai loại tham nhũng này có nhiều khả năng đồng tồn tại và tác động qua lại. Thực tế là tham nhũng trên một trong hai lĩnh vực đó càng nghiêm trọng thì chúng càng ít có khả năng tồn tại đơn lẻ. Trong một hệ thống đan xen nhau của tham nhũng quan liêu và chính trị ăn sâu, các khoản tiền tô có nguồn từ quan liêu có thể đ−ợc phối hợp và chia sẻ trên cả hai v−ơng quốc này, trong khi sức mạnh độc quyền cho phép các nhà chính trị ngăn chặn đ−ợc sự phản đối. Các chính sách kinh tế có thể tối đa hoá thuộc địa của tham nhũng trong khi lại giảm bớt cạnh tranh. Sẽ có rất ít cơ hội cho những hành động bù đắp trực tiếp, khó mà hành động trên toàn hệ thống, và những phản ứng ngầm sẽ đòi hỏi phải chiều ý các quan chức tham nhũng (Alam 1995). ở những n−ớc có tham nhũng ăn sâu thật sự nghiêm trọng, những cố gắng để đối đầu với vấn đề đều trực tiếp bị hạn chế trong những nhóm nhỏ những ng−ời bất đồng quan điểm đang muốn thiết lập một sự phê phán căn bản đối với trật tự chính trị (Johnston và Hao 1995). ở những nơi mà tham nhũng ít ăn sâu hơn, các l∙nh tụ chính trị có thể sử dụng cách tiếp cận mà McCubbins và Schwartz (1984) gọi là "báo động cháy". Tức là mặc dù các quan chức có thể vừa có nhiệm vụ chính thức vừa có các khuyến khích chính trị để đối đầu với tham nhũng quan liêu, nh−ng có thể họ chỉ làm điều đó một cách lẻ tẻ và để đối phó với những vấn đề bắt buộc hay những cuộc khủng hoảng. Nếu
  21. các mạng l−ới đ−ợc tổ chức và phối hợp tốt thì các vị quan liêu tham nhũng có thể phản ứng bằng việc che đậy những phi vụ của họ một cách kín đáo hơn. Bất kể với mô hình giám sát nào đi nữa, những sáng kiến chính trị chống tham nhũng quan liêu sẽ phụ thuộc vào cán cân quyền lực giữa hai địa hạt này, và trong sự cạnh tranh đó giới quan liêu có những nguồn lực đáng kể. Ví dụ, các nhà l∙nh đạo chính trị rất có thể rất rộng lòng dung thứ cho tham nhũng quan liêu nếu nh− họ dự phần chia chiến lợi phẩm hoặc nếu nh− vị thế chính trị của họ là yếu hay có tính thoả hiệp. Nếu tham nhũng quan liêu giành −u ái cho các nhóm lợi ích chính trị đ−ợc ủng hộ hoặc giúp việc đút lót những ng−ời chống đối tiềm năng, nếu nó đảm bảo đ−ợc thu nhập cho giới quan liêu đủ để làm cho việc tăng thuế trở nên ít cần thiết hơn, nếu việc thanh trừ tham nhũng d−ờng nh− chắc chắn làm dấy lên sự phản đối từ những nhân vật có thế lực, hoặc nếu tổ chức và sự phối hợp của tham nhũng quan liêu giúp che đậy những xung đột giữa các bè phái quan chức, thì, trong tình trạng thiếu vắng áp lực trong n−ớc và quốc tế buộc phải xử lý nạn tham nhũng, các nhân vật chính trị chẳng thể làm gì nhiều. Những cải cách làm tan r∙ tổ chức hay sự phối hợp của tham nhũng đều có thể gây ra một cuộc đấu tranh vô tổ chức (Elliott 1977) hay một loại tình huống độc quyền độc lập (Schleifer và Vishny 1993) rất dễ phá hoại nền kinh tế. Ngay cả một chiến sĩ chống tham nhũng tận tuỵ cũng phải tin rằng các cuộc cải cách có thể tồn tại đ−ợc trong một cuộc khủng hoảng nh− thế. Tuy nhiên các nhà l∙nh đạo chính trị, những ng−ời nhận đ−ợc sự uỷ nhiệm từ cuộc cạnh tranh chính trị thể chế hoá, sẽ có lý do để đảm trách cuộc cải cách quan liêu đồng thời cũng có vị thế mạnh hơn để thực hiện công việc này. Quyết tâm hành động của họ có thể đ−ợc củng cố nếu tham nhũng quan liêu bảo vệ một thế lực cạnh tranh nằm bên ngoài quá trình chính trị hoặc làm cho hệ thống quan liêu không còn khả năng phản ứng và không thể giải thích đ−ợc. Một khi đ∙ đảm nhận xử lý tham nhũng quan liêu, các nhà l∙nh đạo chính trị có rất nhiều việc phải làm. Nếu giới quan liêu đ−ợc trả công tồi đến nỗi họ phải ăn cắp để sống, thì tiền l−ơng của họ cần phải đuợc tăng thêm. Các nhà chính trị phải làm cho tiền l−ơng của công chức nhà n−ớc t−ơng đ−ơng với mức họ có thể kiếm đ−ợc trong khu vực t− nhân, hoặc sử dụng ph−ơng tiện khác nh− là một lịch biểu phí phải trả đối với các dịch vụ, để đảm bảo đ−ợc mức thù lao thoả đáng và công bằng. Các l∙nh tụ chính trị cũng cần phải tấn công vào tổ chức chiều dọc và sự phối hợp chiều ngang cuả tham nhũng, làm tăng thêm mức độ độc lập của các tổ chức với nhau hay khuyến khích sự cạnh tranh giữa chúng. Đ−a các nhà quản lý mới vào vị trí cao nhất của từng tổ chức quan trọng và thành lập cơ quan tổng thanh tra có quyền lực, trực tiếp chịu trách nhiệm tr−ớc ban l∙nh đạo chính trị cao nhất, có thể là một động thái nhằm vào cả tổ chức chiều dọc lẫn sự phối hợp chiều ngang. Cuối cùng, các nhà l∙nh đạo có thể thiết lập cơ chế kiểm tra kiểm soát trong khuôn khổ chính phủ. Chẳng hạn họ có thể tách biệt các thế lực th−ờng trực, hay trong các hệ thống của quốc hội nơi mà việc tách biệt hoàn toàn là không khả thi thì tạo ra những toà án độc lập, các cơ quan giám sát, và những ng−ời biện hộ khách hàng. Nếu có thể làm cho chính phủ trở nên dễ tiếp cận đối với các nhà chính trị đối lập, các nhà báo và các thành viên của công chúng, thì kiểm tra kiểm soát sẽ không chỉ là một cơ chế hành chính để chống lại tham nhũng mà còn là một cơ chế đ−ợc sự ủng hộ từ những lực l−ợng hùng hậu trong x∙ hội.
  22. Tham nhũng, chính phủ tốt, quản trị tốt và phát triển kinh tế: quan điểm của Alan Doig Vào tháng 12 năm 1989. Liên Hiệp Quốc tài trợ một cuộc hội thảo liên khu vực về tham nhũng trong chính phủ, l−u ý rằng "vấn đề tham nhũng trong chính phủ đ∙ đ−ợc thừa nhận rộng r∙i là một mối quan tâm lớn trong quản lý công cộng" (Liên Hiệp Quốc 1990, tr.1). Những ng−ời tham gia không chỉ bàn về "những hình thức và chiều cạnh mới của tham nhũng, mà về cả những hiệu ứng lâu dài của nó đối với hoạt động của chính phủ, việc sử dụng các nguồn lực công cộng, tinh thần chung trong các dịch vụ công cộng và tính chính thống của nhà n−ớc và luật pháp" (tr.1). Đối phó với tham nhũng giờ đây đ−ợc nhận thức là cực kỳ quan trọng: "Những hoạt động tham nhũng của các quan chức công cộng có thể phá huỷ tính hữu hiệu tiềm năng của các ch−ơng trình chính phủ thuộc tất cả các loại, cản trở phát triển và khiến các cá nhân và nhóm trở thành nạn nhân" (Liên hợp quốc 1993, tr.4). Chính phủ tốt sẽ cung cấp một khuôn khổ hành chính của chính phủ và nhà n−ớc có năng lực phản ứng, tạo điều kiện cho quản trị tốt. Mặc dù quản trị tốt và phát triển kinh tế phải là những mục tiêu dài hạn hơn là chính phủ tốt, song cái tr−ớc không thể đạt đ−ợc nếu không có cái sau. Theo Hội đồng Anh (1993), chính phủ tốt trên thực tế sẽ đồng nghĩa với: • Một chính phủ hợp pháp và có tính đại diện, do bầu cử dân chủ chọn ra • Một bộ máy hành chính chịu trách nhiệm và một chính quyền có trách nhiệm đ−ợc đặc tr−ng bởi thông tin không hạn chế, sự tách biệt các quyền lực, kiểm toán nội bộ và độc lập có hiệu lực, các mức độ thấp của tham nhũng và lạm dụng quyền lực để ban phát lợi ích cho ng−ời thân, các quan chức có năng lực (kể cả những công nhân viên nhà n−ớc có qua đào tạo), các chính sách thiết thực và chi tiêu quốc phòng thấp • Sự tôn trọng của chính phủ đối với các quyền con ng−ời, thể hiện qua quyền tự do tín ng−ỡng và di chuyển, các hệ thống pháp lý hình sự khách quan và có thể tiếp cận, và không có quyền lực độc đoán của chính phủ. Quản trị, đ−ợc định nghĩa là việc "sử dụng quyền lực chính trị, việc thực hành quyền kiểm soát đối với x∙ hội và sự quản lý các nguồn lực của nó vì sự phát triển kinh tế và x∙ hội," chứa đựng "thực chất của việc vận hành những dàn xếp thể chế và cơ cấu của một nhà n−ớc, các quá trình ra quyết định, việc xây dựng chính sách, năng lực thực thi, các luồng thông tin, tính hiệu lực của l∙nh đạo và bản chất của mối quan hệ giữa cai trị và bị trị" (Serageldin và Landell-Mills 1991, tr.4). Khái niệm quản trị do vậy hội tụ không chỉ sự toàn vẹn, hiệu quả và kinh tế của chính phủ mà còn cả tính hiệu lực của nó, đ−ợc xác định bằng những mục tiêu mà tổ chức và hoạt động của chính phủ h−ớng vào. Mọi x∙ hội, bất kể là dân chủ hay độc tài, đều che chở cho một dạng tham nhũng nào đó. Tuy nhiên tham nhũng có hệ thống chỉ ra rằng các nguồn lực cho những mục đích công cộng không còn đ−ợc quản lý một cách hữu hiệu nữa và đ−ợc phân chia vì lợi ích t− nhân. Phát triển kinh tế liên quan tới tái cơ cấu các hoạt động của nhà n−ớc và xúc
  23. tiến các chính sách kinh tế vĩ mô mà đến l−ợt chúng lại tạo ra một môi tr−ờng thuận lợi cho đầu t−, sáng kiến và tăng tr−ởng của khu vực t− nhân: • Nới lỏng kiểm soát để cho phép tự do hoá th−ơng mại và đầu t− của khu vực t− nhân • Xoá bỏ những kiểm soát đối với luồn đầu t− vào trong n−ớc và xúc tiến phát triển thị tr−ờng vốn • Định giá trên cơ sở thị tr−ờng những thành quả của các hoạt động đ−ợc nhà n−ớc bao cấp, bao gồm thực phẩm, điện, giao thông vận tải và tiền thuê • Sự hỗ trợ nhà n−ớc giảm đi đối với việc làm hay tiền công của khu vực công cộng và việc cắt giảm và tổ chức lại các doanh nghiệp thuộc khu vực công cộng • T− nhân hoá Cho dù nguồn gốc hay tiêu điểm của áp lực từ bên ngoài đối với cải cách là gì đi nữa, d−ờng nh− có một "sự nhất trí nổi bật" giữa các nhà tài trợ và những ng−ời cho vay liên quan tới "sự cần thiết phải có dân chủ, tham nhũng ít hơn, tôn trọng các quyền con ng−ời hơn, và 'quản trị tốt' hay chính phủ tốt" (Riley 1992, tr.4). Một giả thuyết tổng hợp sẽ thừa nhận chính phủ tốt là điều kiện tiên quyết cho quản trị tốt và phát triển kinh tế bền vững. Tham nhũng và Chính phủ tốt: những trở ngại đối với thay đổi Những động thái nhằm xúc tiến và khuyến khích chính phủ tốt gặp phải những trở ngại khi không có một cách tiếp cận gắn bó tới tài trợ và sự xung đột đôi khi xảy ra, cũng nh− sự kết hợp thành một thể thống nhất, giữa các mục tiêu chính phủ tốt, quản trị tốt và phát triển kinh tế. Những nỗ lực để cải thiện chính phủ có thể tiếp tục bị cản trở bởi những điều kiện kinh tế và chính trị hiện tại của các n−ớc mà những nỗ lực đó đ−ợc h−ớng vào: "Từ trong khủng hoảng và từ áp lực của nhà tài trợ mà phát sinh điều chỉnh, điều đó có nghĩa là những thay đổi trong vai trò và hoạt động của chính phủ phải đ−ợc quản lý trong những hoàn cảnh khó khăn khi có căng thẳng chính trị, sự chống đối từ những nguời bị thiệt hại trong dân chúng, sự làm nhụt chí trong khu vực công cộng và nhiều biến đổi đồng thời xẩy ra" (Batley 1994, tr.492). Hơn nữa, thiếu vắng một sự đồng thuận giữa các nhà tài trợ về "ph−ơng tiện tốt nhất để đạt đ−ợc các mục tiêu chính sách  có thể gây ra sự phẫn nộ và tính không chắc chắn trong những n−ớc nhận viện trợ  (và) có thể cho phép các chính phủ tiếp nhận giành lợi thế bằng cách gây căng thẳng giữa các nhà tài trợ với nhau Những nỗ lực để thúc đẩy sự tham gia và dân chủ hoá có thể cũng cản trở cải cách kinh tế bằng cachs tạo ra những nhu cầu nhất thời từ các nhóm lợi ích mới đ−ợc huy động" (Viện Phát triển Hải ngoại 1992, tr.4). Cổ vũ các n−ớc tiến hành các b−ớc để tiến tới chính phủ tốt, do đó, không thể là câu chuyện thẳng thừng. Những chức năng của khu vực công cộng, tính chất phức tạp của phát triển kinh tế, và vai trò của các ban l∙nh đạo chính trị đang tồn tại phải đ−ợc xem xét. Khu vực công cộng phình to. Khu vực nhà n−ớc của các n−ớc đang phát triển nói chung đ−ợc coi là quá đông ng−ời và không hiệu quả, bị đè nặng bởi những chức năng kiểm soát và hành chính. Giới phê phán cho rằng khu vực này sử dụng một số l−ợng lớn các
  24. quan chức đ−ợc trả l−ơng thấp, đ−ợc đào tạo tồi, những ng−ời có rất ít cơ hội để đ−ợc đề bạt hợp thức và cải thiện tài chính, và rằng những cấp bậc cao bị thâm nhập bởi các nhóm kinh tế có lợi ích đặc biệt và bởi ảnh h−ởng chính trị. Hơn nữa, việc có một khu vực nhà n−ớc lớn cho phép các chính phủ hút đ−ợc nhân lực và đem lại cho họ "một cơ chế cơ bản để giành đ−ợc quyền điều hành x∙ hội. Những nhóm lớn trong x∙ hội đ∙ bị lệ thuộc vào những doanh nghiệp nhà n−ớc khổng lồ Những nhóm đang h−ởng lợi từ doanh nghiệp nhà n−ớc đ∙ trở nên tận tụy với những nhân vật có thế lực đang điều hành doanh nghiệp. Theo nghĩa đó thì nhân vật có thế lực nầy đang tạo ra cơ sở cho tính chất không thể thiếu đ−ợc của chính bản thân mình" (Cooper 1982, tr. 23). Các biện pháp để ràng buộc những bộ phận quan trọng về ph−ơng diện chính trị trong dân chúng với nhà n−ớc thông qua vấn đề công ăn việc làm đ∙ bắt nguồn một phần từ sự ngờ vực của nhiều chính phủ đối với những nguyên lý thị tr−ờng và một khu vực th−ơng mại độc lập, và mặt khác là từ sự −a thích của họ đối với việc chỉ huy và kiểm soát nền kinh tế. Các n−ớc đang phát triển đang phải chịu áp lực của các nhà tài trợ buộc phải giảm mức độ áp đảo của nhà n−ớc trong tổng sản phẩm quốc nội và thị tr−ờng lao động. Tuy nhiên việc cắt giảm nhanh nhân sự và cắt giảm chi tiêu công cộng có thể "khiến cho các doanh nghiệp công cộng thiếu tiền cho những công việc nh− bảo trì, mua thiết bị và các nguồn cung ứng Vì thế phải thiết lập đ−ợc một sự cân bằng giữa một mặt là hiệu quả tăng lên và quản lý tốt hơn, và mặt khác là việc bảo d−ỡng hợp lý và đ−a vào sử dụng công suất và các doanh nghiệp hiện có " (Abbott 1993, tr.23). Vì thế có thể thừa nhận một cách khái quát là các chính phủ đ∙ mở rộng quá mức khu vực công cộng, một cách th−ờng xuyên và không thích hợp  Thúc đẩy mở rộng khu vực t− nhân quá nhanh và quá xa sẽ là phản tác dụng. Tình trạng không hiệu quả trong các cơ sở độc quyền nhà n−ớc không nhất thiết đem lại một sự biện hộ cho các độc quyền t− nhân. Hỗn hợp của hoạt động khu vực t− nhân và công cộng thay đổi, và nên thay đổi, theo những điều kiện cụ thể của cơ cấu kinh tế, chính trị và hành chính của những n−ớc riêng biệt. Quả thực, nhiều doanh nghiệp thuộc khu vực công cộng đ−ợc xây dựng nên là do khu vực t− nhân cung cấp những dịch vụ không thoả đáng hay thậm chí không có dịch vụ. Nếu các tổ chức n−ớc ngoài thúc đẩy các chính phủ quốc gia đi quá xa trong vấn đề này hay vấn đề khác, thì tính đáng tin cậy của các ch−ơng trình lẽ ra là lành mạnh có thể bị rủi ro. (Commonwealth Secretariat 1989, tr.59). Tính chất phức tạp của phát triển kinh tế. Giả định cho rằng phát triển kinh tế bị cản trở bởi quy mô và sự không hiệu quả của nhà n−ớc, cũng nh− bởi quyền đ−ợc h−ởng của khu vực này đối với các nguồn lực và sự tài trợ, cần đ−ợc cân đối với sự yếu kém trong cơ sở hạ tầng của khu vực t− nhân và những mối quan hệ với nhà n−ớc, và thời gian và ph−ơng tiện cần thiết để cho cả hai khu vực đều tiến hoá đến một điểm mà tại đó phát triển kinh tế là bền vững. Đối với một số n−ớc, "cái thực tế rằng đầu t− t− nhân cả trong n−ớc lẫn ở n−ớc ngoài, đặc biệt là vào các n−ớc đang phát triển nghèo hơn, th−ờng giảm sút, chứ không tăng lên, tr−ớc những đợt cắt giảm chi tiêu phát triển công cộng" đ∙ trở nên nặng nề hơn bởi một "sự thắt chặt chi tiêu phát triển khu vực công cộng" (Mosley, Harrigan, và Toye 1991, tr. 303-4). Trong những tình huống nh− thế, đòi hỏi
  25. tự do hoá kinh tế có thể là phản tác dụng: "Điều chỉnh cơ cấu thực sự đòi hỏi việc xây dựng đ−ợc những khu vực xuất khẩu của đất n−ớc và cơ sở hạ tầng đi theo nó, điều mà trong ngắn hạn có thể cần tới nhiều can thiệp hơn, chứ không phải là ít hơn" (tr. 303- 4). Ngoài ra, khu vực t− nhân có thể không có vị thế để tạo vốn nhờ tự do hoá kinh tế. Ngay cả khi có vị thế đó đi nữa, nó có thể không mặn mà với tính biến động của thị tr−ờng xuất khẩu, đặc biệt là đối với các hàng hoá nông nghiệp hay khai thác, và cũng có thể không muốn tiếp quản những doanh nghiệp nhà n−ớc mà những vấn đề tiếp theo là giảm lực l−ợng lao động, đào tạo lại số nhân công còn lại và thay thế những thiết bị cũ. Thay vào đó các h∙ng t− nhân có thể thích tập trung vào hàng xuất khẩu giá trị cao hay những hàng hoá hay dịch vụ có th−ơng hiệu đ∙ đ−ợc cấp phép, hoặc khai thác các hệ thống quản lý, cấp phép và hạn ngạch đang tồn tại để đem lại những khoản lợi nhuận trong ngắn hạn và, trong dài hạn hơn, tạo ra một tầng lớp th−ơng mại ít quan tâm tới chính phủ tốt hay tự do hoá kinh tế. Những trở ngại và tình huống không chắc chắn nh− thế sẽ khuyến khích rút đầu t− và những ph−ơng tiện tạo ảnh h−ởng khác để tránh hay tìm kiếm sự thoả hiệp với hệ thống quan liêu ch−a đ−ợc cải cách và sự sử dụng tuỳ tiện quyền lực chính trị. ở Châu Phi Nam Sahara, những kiểm soát của nhà n−ớc mang tính chất trấn lột và điều tiết quá mức đ∙ khuyến khích các hoạt động của doanh nhân mà kết quả là những khoản hoàn trả lớn và nhanh chóng với ý đồ tránh việc xử phạt và cung cấp ph−ơng tiện để "tối đa hoá ảnh h−ởng hay vị thế quyền lực của những ng−ời chủ sở hữu" (Dia 1993, tr.23). ở châu Mỹ Latinh, theo Andreski (1970, tr. 112-13), ảnh h−ởng của biến động giá cả trên thế giới của hàng hoá l−ơng thực "đ∙ không khuyến khích việc lập kế hoạch dài hạn và những thông lệ kinh doanh lành mạnh," trong khi các bộ luật lệ và quy chế không ổn định cùng với sự đặc biệt −a thích việc lẩn tránh, đ∙ thúc đẩy các h∙ng phất lên nhanh nhờ hoạt động kinh doanh "rắn". Thuế quan quá cao kết hợp với tình trạng buôn lậu lan tràn không kiểm soát đ−ợc sẽ tạo ra một môi tr−ờng trong đó đa số ng−ời làm kinh doanh có thể bị dính líu vào những giao dịch bất hợp pháp, và những ông chủ bị buộc phải né tránh những bộ luật an ninh x∙ hội phi thực tế. Tại Kenya, tính bất định về kinh tế đ∙ hối thúc các ông chủ đầu t− lợi nhuận vào đất đai và nhà cửa hơn là vào mở mang sản xuất (Cockcroft 1990, tr. 160); ở Cộng hoà ả Rập Yemen, ng−ời dân Yemen lao động ở n−ớc ngoài cũng thực hiện những món đầu t− t−ơng tự, do khối l−ợng đất nhỏ nhất để bán và những cơ hội tối thiểu để đầu t− vào các khu vực nông thôn (Sultan 1993, tr. 381-82). Tuy nhiên, những chính sách chính phủ mà tích cực tìm cách thúc đẩy phát triển kinh tế hay một tầng lớp kinh tế mới tự chúng có thể làm phát sinh những vấn đề mới. Mặc dù Chính sách Kinh tế mới của Malaysia là nhằm tăng thêm vai trò của ng−ời M∙ lai bản địa trong nền kinh tế, song nhiều ng−ời đ∙ sử dụng nó vì những món lợi cá nhân tr−ớc mắt. Ví dụ này nêu bật những giới hạn của những đóng góp của khu vực t− nhân cho cái tốt của hệ thống và trò may rủi chính sách rằng những chính sách mà tạo ra uy tín công cộng và lòng trung thành cũng có thể làm tăng khuynh h−ớng chung là phá luật (Tharan 1979; Sivalingam 1983, tr. 429). Tại Cộng hoà ả rập Yemen, các biện pháp của chính phủ đối phó với các vấn đề kinh tế đ∙ làm tăng cơ hội cho tham nhũng. Ví dụ, các quan chức và giới kinh doanh đ∙ điều hành những cơ chế thị tr−ờng của
  26. riêng họ để trốn tránh những hạn chế về nhập khẩu, những kiểm soát giá cả và việc bán thực phẩm và những hàng hoá khác do các công ty nhà n−ớc thực hiện để bù đắp việc khai thác khu vực t− nhân (Sultan 1993, tr. 338-88). Tại Venezuela tình trạng lừa đảo đ∙ cản trở những nỗ lực hợp lý của chính phủ nhằm kích thích xuất khẩu thông qua các khuyến khích về thuế; 20 công ty bị phát hiện là đ∙ đòi hàng triệu đô la tín dụng thuế đối với số hàng xuất khẩu không tồn tại (Little 1992, tr. 55). Gần đây hơn ở Trung Quốc, các quan chức chính phủ quan tâm tới nền kinh tế trì trệ và sự cần thiết phải hồi sinh x∙ hội đ∙ từ bỏ sự kiểm soát đối với sự phân bổ nguồn lực, tăng quyền tự chủ của các cơ quan chức năng địa ph−ơng, và phi tập trung hoá việc quản lý các doanh nghiệp kinh tế. Kết quả là những mạng l−ới ng−ời bảo trợ-khách hàng cũ lại phục hồi và những hình mẫu mới của tham nhũng đ∙ xuất hiện (Gong 1993, tr. 317, 323-24). Các l∙nh tụ chính trị không hợp tác. Một trở ngại nữa cho việc tẩy trừ tham nhũng có thể là các nhà l∙nh đạo chính trị, những ng−ời cảm thấy khó chấp nhận đối với cải cách và tính bền vững của nó. Hùng biện chống tham nhũng vốn là một đặc tính cố hữu của hoạt động chính trị, chắc chắn nó ít có khả năng là một tín hiệu cho cải cách lâu dài hơn, mà đúng hơn, nó nh− là một ph−ơng tiện để khuếch tán sự phản đối đối với chế độ mới thiết lập, xoa dịu các tổ chức n−ớc ngoài và bảo đảm an toàn cho nhiệm kỳ đ−ơng chức (Gillespie và Okruhlik 1991). Williams (1987, tr. 125) đ∙ chỉ ra rằng, "Trong quá nhiều tr−ờng hợp, hoàn toàn không cố gắng cải thiện tình hình, các chính phủ, hay ít nhất cũng là những bộ phận quan trọng của họ, chính là vấn đề. Các chiến dịch chống tham nhũng khi đó đ∙ biến t−ớng thành những lời hoa mỹ chính trị để làm an lòng các nhà tài trợ n−ớc ngoài và các định chế tài chính quốc tế nhiều hơn là để xử lý các vấn đề chính yếu." Olowu (1993, tr. 231) bình luận rằng ở Nigeria "các nhân vật chính trị th−ờng nói về trách nhiệm và sự trung thực, song điều này tự bản thân nó không biến thành một cam kết thực sự phát hiện và trừng phạt hành vi vô đạo đức. Ngay cả khi các tổ chức chống tham nhũng đ−ợc tạo ra, họ cũng th−ờng bị kh−ớc từ những nguồn lực cần thiết để đạt đ−ợc mục tiêu đ∙ tuyên bố Trong nhiều tr−ờng hợp bộ quy tắc đạo đức mà họ đ−ợc đề nghị c−ỡng chế thực thi không có đ−ợc một sự hiểu biết hay ủng hộ nào của dân chúng trên một cơ sở rộng." Hơn nữa, " sự bận tâm tới những biện pháp có tính chất hoảng loạn và việc thành lập những ban bệ hay các toà án đột xuất cho những vụ việc cụ thể để thay thế cho những định chế pháp lý không hoạt động nhằm bảo đảm tính chịu trách nhiệm công cộng, không có lợi ích gì đặc biệt". (Olowu 1987, tr. 230). Những nỗ lực đấu tranh chống tham nhũng ở những n−ớc khác cũng vậy, th−ờng chỉ mang tính hình thức. Chính phủ của Mexico đ∙ sử dụng ngày càng mạnh mẽ thuật hùng biện chống tham nhũng của những năm 1980 để đánh lạc h−ớng sự quan tâm tới những khó khăn kinh tế. "Quả thực, nhiều trong số các hoạt động phản đối và phát động phong trào chống tham nhũng của những năm 1980 đ∙ đ−ợc chính phủ dàn dựng hoặc châm ngòi trong một nỗ lực đ−ợc chuẩn bị kỹ l−ỡng, nhằm sử dụng tham nhũng làm biểu t−ợng để h−ớng sự quan tâm ra khỏi những khó khăn kinh tế và taí tạo niềm tin nơi công chúng vào chính phủ" (Morris 1991, tr. 122). ở Sierra Leone, chính phủ quân sự của Valentine Strasser, nắm quyền lực vào tháng 4 năm 1992, đ∙ đề xuất những uỷ ban điều tra, các đội chống tham nhũng và những văn bản pháp lý cứng rắn.
  27. Nh−ng luật pháp lại thiếu các biện pháp c−ỡng chế thực thi cụ thể, và các kế hoạch thành lập những uỷ ban độc lập th−ờng trực chống tham nhũng, sửa đổi tiền l−ơng, cung cấp những khuyến khích cho công nhân nhà n−ớc, và tổ chức lại các dịch vụ dân sự vẫn ch−a hoàn thành (Kpundeh 1993, tr. 242). Những lời lẽ mầu mè chống tham nhũng không đi đôi với cải cách lâu dài sẽ dẫn tới thái độ bàng quan hay ích kỷ của những ng−ời bên ngoài hệ thống chính trị đối với giá trị và tính có thể duy trì của cải cách. Nơi nào có cải cách chính trị - đặc biệt trong bối cảnh ánh hào quang của chính phủ tham dự và phi tập trung hoá đang gia tăng nhanh chóng trong ngắn hạn nhằm thoả m∙n sức ép của nhà tài trợ - thì có nguy cơ rằng sự mở rộng diện liên quan, đặc biệt là trong những chính khách và các nhà hoạt động chính trị, sẽ dẫn tới cuộc cạnh tranh gay gắt hơn để đ−ợc sự bảo trợ và tài trợ của đảng và do đó mở rộng và mô phỏng môi tr−ờng chính trị đang tồn tại. Quả thực, "những đặc tr−ng xác định mà th−ờng ng−ời ta hay nghĩ tới là làm tăng thêm số đại diện, nh− các hệ thống đa đảng phản ánh đ−ợc một dải rộng các nhóm lợi ích và danh sách để ngỏ các đại diện theo tỷ lệ, có thể khiến cho, một cách nghịch lý, các quan chức đ−ợc bầu kém khả năng phản ứng hơn tr−ớc lợi ích công cộng" (Geddes 1991, tr. 389). Ng−ợc lại, và cũng không kém phần chắc chắn, là một khuynh h−ớng trong các ban l∙nh đạo chính trị và các nhóm khách hàng (và đôi khi là các nhà tài trợ) của họ thiên về phản đối mọi sự mở rộng tham gia chính trị, do những gợi ý về tính ổn định của nhà n−ớc và tiềm năng rối loạn chính trị hoặc x∙ hội: Dân chúng, một khi đ∙ nổi dậy, sẽ không chịu giới hạn những đòi hỏi của họ trong các cuộc cải cách mà chính phủ đ∙ ấn định. Họ sẽ có xu h−ớng mở rộng ch−ơng trình để bao hàm cả những đòi hỏi về những thay đổi có tầm ảnh h−ởng sâu rộng đối với chính sách đối nội, chẳng hạn nh− quyền tự do chính trị lớn hơn, cá biện pháp căn bản để giảm bất bình đẳng trong phân phối thu nhập và cải cách đất đai có hiệu quả. Tại nhiều n−ớc châu Mỹ Latinh các nhân vật cai trị d−ờng nh− ý thức đầy đủ đ−ợc về những hiểm hoạ mà họ sẽ phải đối mặt tiếp theo phong trào quần chúng lan rộng này. Quả thực là hầu nh− tất cả các phe phái t− sản ở Mỹ Latinh đều có vẻ thích nhìn thấy đất n−ớc của họ quay lại với tình trạng kém phát triển và thuộc địa hơn là chấp nhận rủi ro bị buộc phải tiến hành các cuộc cải cách căn bản về kinh tế và x∙ hội. (Branford và Kucinski 1988, tr. 134) Tiêu điểm của chính phủ tốt: Xử lý tham nhũng Với sự nhạy cảm chính trị, các nhà tài trợ có xu h−ớng nới lỏng những yêu cầu của họ đối với các thông lệ của chính phủ tốt trong các hệ thống chính trị (và ở một mức độ thấp hơn trong các hệ thống pháp luật và xét xử) của n−ớc tiếp nhận, coi những thông lệ tốt là một điều kiện đ−ợc −u tiên hơn là một đòi hỏi bắt buộc. Một yếu tố cấu thành của quản trị tốt mà dễ thực hiện hơn nhiều - và là một b−ớc mà các n−ớc tiếp nhận viện trợ n−ớc ngoài thấy khó mà tranh chấp - đang cải thiện việc giao nhận các dịch vụ của khu vực công cộng:
  28. Khu vực công cộng ở nhiều n−ớc đang phát triển đ−ợc đặc tr−ng bởi việc thu các nguồn thu không ngang nhau, kiểm soát và quản lý chi tiêu kém, một khối công nhân viên chức nhà n−ớc cồng kềnh và đ−ợc trả l−ơng thấp, một khu vực bao cấp rộng lớn đem lại mức lợi nhuận thấp trên số vốn công cộng khan hiếm đ−ợc đầu t− vào đó và tính chất yếu kém trong năng lực của các cơ quan kinh tế nòng cốt để thiết kế và thực thi những chính sách giải quyết các vấn đề này. Thực trạng này không chỉ góp phần gây nên những mức thâm hụt tài khoá lớn đòi hỏi phải có các biện pháp điều chỉnh, mà nó còn ngày càng làm xói mòn năng lực của nhà n−ớc trong việc cung cấp các dịch vụ kinh tế và x∙ hội. (Ngân hàng Thế giới 1992, tr. 12) Để làm cho các tổ chức trong khu vực công cộng đáp ứng tốt hơn, có hiệu quả và tiết kiệm hơn, các nhà tài trợ th−ờng xuyên yêu cầu việc hợp lý hoá cơ cấu tổ chức, cải tổ các hoạt động và giảm số l−ợng nhân viên. Nhìn chung mục tiêu này đ∙ đạt đ−ợc thông qua việc phân bổ các nguồn lực dựa vào các thị tr−ờng chứ không phải vào chính phủ; sự tham dự của những ng−ời sử dụng cuối cùng trong việc sử dụng các nguồn lực; số l−ợng quan chức công cộng ít hơn nh−ng đ−ợc trả l−ơng cao hơn; các quy tắc điều hành hợp lý và rõ ràng và xử phạt nặng hơn đối với những ng−ời vi phạm đạo đức; lập ch−ơng trình cho đầu t− và ngân sách tốt hơn; quản lý nhân sự tốt hơn, các biện pháp tiết giảm chi phí; chuyển dịch theo h−ớng t− nhân hoá, hợp lý hoá, và phi tập trung hoá; làm sáng tỏ các mối quan hệ giữa chính phủ-doanh nghiệp công cộng; ra quyết định minh bạch; cạnh tranh để giành đ−ợc các hợp đồng; xoá bỏ những kiểm soát không cần thiết; chuyển giao các nguồn lực cho vấn đề sức khoẻ và giáo dục tiểu học (Ngân hàng Thế giới 1992; Dia 1993). Tuy nhiên, chỉ rất ít, nếu có, những cải cách kiểu nh− thế là sẽ đạt đ−ợc kết quả mà không cần có thêm những biện pháp ngăn ng−à và điều tra đối với tham nhũng. Những biện pháp này có thể bao gồm đào tạo dịch vụ công cộng; luân chuyển đội ngũ, đặc biệt trong các lĩnh vực hải quan, thu thuế và các cơ quan phân phối hợp đồng; các mức tiền l−ơng phù hợp; các bộ quy tắc đạo đức và các thủ tục kỷ luật có liên quan; các đơn vị giám sát trong nội bộ các bộ nh−ng báo cáo cho các bộ tr−ởng có quyền hạn cao hơn; tổ chức co hiệu quả các thủ tục ra quyết định và phân phối công việc; các thủ tục hành chính có hiệu quả; các nhóm nhiệm vụ đặc biệt, gồm có các luật s−, kế toán viên và kỹ s−, để tiến hành các cuộc điều tra; sử dụng quảng cáo và các ch−ơng trình có tính giáo dục; và thành lập các cơ quan chống tham nhũng có quyền điều tra rộng r∙i, có uy tín công cộng cao, đội ngũ nhân viên trung thực và đ−ợc sự ủng hộ của chính phủ (Liên Hợp Quốc 1990). Đại hội Liên Hợp Quốc lần thứ 8 cũng bàn luận về việc xác định loại vi phạm phải đ−ợc coi là bất hợp pháp; phát triển các hệ thống tiếp nhận và đánh giá những căn nguyên của tham nhũng và giành −u tiên điều tra những tr−ờng hợp có tính chất nghiêm trọng; khuyến khích việc báo cáo tham nhũng và thiết lập những ph−ơng thức để th−ởng và bảo vệ ng−ời cung cấp thông tin; cải tiến việc đào tạo đội ngũ nhân viên và động lực thúc đẩy, thu thập tình báo, và tính độc lập của cơ quan điều tra. Tuy nhiên những đề xuất này đặt ra hai vấn đề quan trọng. Thứ nhất, điều tra và buộc tội có thể mang tính chất tuỳ tiện và bị cá biệt hoá trong những tổ chức mà tham nhũng là hiện t−ợng phổ biến. Thứ hai, việc xử phạt, thích đáng đến mức nào không
  29. thành vấn đề, đáp ứng đ−ợc đòi hỏi của x∙ hội về trừng phạt nhiều hơn là có tác dụng răn đe (Hope 1987, tr. 143). Song việc trông chờ vào các biện pháp phòng ngừa, đặc biệt là thông qua các bộ quy tắc ứng xử và những ph−ơng tiện khác của những chuẩn mực in sâu trong tâm trí, có thể không đem lại kết quả nếu không có những ph−ơng tiện bổ sung để giám sát hành vi và thay đổi những thông lệ mà bộ quy tắc coi là không thể chấp nhận (Findlay và Stewart 1992). Các chính phủ với những mức độ cam kết khác nhau về chính phủ tốt đang ngày càng coi việc sử dụng một tổ chức chống tham nhũng độc lập là một cơ chế phù hợp và có hiệu quả về chi phí để theo dduổi hai chức năng - phòng ngừa và điều tra. Một cơ quan nh− thế có thể đảm nhận những trách nhiệm lớn liên quan tới nhiều khu vực, c−ỡng chế thực thi một cách hữu hiệu những cải cách hay những chế tài, và làm đầu mối liên lạc với các bộ chủ chốt để giúp họ bổ sung cho những nỗ lực của nhau. Một mô hình cho tất cả các lý do? Vai trò của một tổ chức chống tham nhũng độc lập Với t− cách một mô hình đấu tranh với những hành vi phi đạo đức và không trung thực trong chính phủ, Uỷ ban Độc lập chống Tham nhũng (ICAC) ở Hồng Kông, Trung Quốc, là tiêu điểm chú ý của nhiều n−ớc rất khác biệt, nh− úc và Botswana. Mối quan tâm bắt nguồn không chỉ từ thành công trong hoạt động của uỷ ban này, quyền tự do t−ơng đối của nó đối với tham nhũng bên trong và can thiệp từ bên ngoài, và khả năng của nó thu hút sự ủng hộ rộng r∙i của công chúng, mà còn bắt nguồn từ năng lực rõ ràng của nó trong việc thích ứng đ−ợc với một x∙ hội đa dạng với có nhiều quy tắc văn hoá nghiêm ngặt, cũng nh− khả năng của nó hoạt động đan chéo trên cả hai khu vực công cộng và t− nhân. Mặc dù về mặt tổ chức là nặng về điều tra hoạt động, ICAC cũng có các phòng ngăn ngừa và giáo dục cũng nh− các chức năng tình báo, xử lý khiếu nại và t− vấn. ICAC đ−ợc thành lập vào năm 1974, tại một thời điểm mà chính phủ muốn giữ đ−ợc lòng tin của các nhà đầu t− n−ớc ngoài, nh−ng lý do chính để thành lập tổ chức này lại là lý do chính trị. Chính phủ hy vọng công chúng sẽ bị thuyết phục hơn về tính hữu hiệu từ một cơ quan độc lập với cảnh sát và dịch vụ dân sự hơn là từ hệ thống hiện thời (Clark 1986, tr. 61). Ngay từ khi mới thành lập, ICAC đ∙ nhìn nhận vai trò của nó là v−ợt ra ngoài việc điều tra những vụ việc cụ thể, mà mở rộng tới việc nhận diện các yếu tố cơ cấu chủ yếu dẫn tới hành vi tham nhũng, trong đó có sự yếu kém chính sách, những h−ớng dẫn không đầy đủ từ các bộ, các thủ tục không cần thiết, giám sát không thoả đáng, tuỳ tiện quá mức, chậm trễ hành chính không cần thiết, luật và quy chế không có hiệu lực, sự thiếu hiểu biết của công chúng về quyền hạn của các quan chức, và việc sử dụng sai hay lạm dụng chức vụ. Tuy nhiên, sự nổi lên của ICAC nh− là một mô hình của tổ chức chống tham nhũng đang đ−ợc nhiều nhà n−ớc quan tâm, đ∙ đặt ra những câu hỏi về tính có thể chuyển giao của nó. ICAC là một sản phẩm riêng biệt của một môi tr−ờng riêng biệt. Các nguồn lực của nó dồi dào, những cấp bậc cao của nó đ−ợc bố trí cho những quan chức đ−ợc thuyên chuyển và là ngoại kiều, và nó có một ch−ơng trình tuyển chọn và đào tạo công phu. Nó hoạt động trong một nền văn hoá hành chính đ−ợc quản lý t−ơng đối tốt, trong một khuôn khổ chính trị và pháp lý thuận lợi. ICAC đ∙ chủ động phát triển đ−ợc một nền tảng rất thành công về các mối quan hệ với công chúng, khai thác cả những
  30. ph−ơng tiện truyền thông đại chúng và một dân số sử dụng ph−ơng tiện truyền thông vào một thời kỳ tăng tr−ởng kinh tế: Một trong những điểm đặc biệt trong kinh nghiệm của Hồng Kông là chính phủ đ∙ áp dụng những chuẩn mực pháp lý mới vào một thời điểm, và trong những điều kiện, của quá trình hiện đại hoá nhanh chóngMột số trong những thay đổi này có lẽ sẽ chẳng bao giờ xảy ra nếu nh− nó không nhằm phục vụ cho chính sách tổng thể của chính phủ nhằm thúc đẩy Hồng Kông trở thành một trung tâm kinh doanh quốc tế. Xét theo mọi lẽ thì các nhà chức trách đ∙ đặc biệt gặp may, vì sự phản đối đối với luật pháp mới chỉ là âm ỷ và sự chuyển h−ớng sang những chuẩn mực pháp lý phổ biến diễn ra khi x∙ hội và nền kinh tế đang chuyển động theo cùng một h−ớng. Điều này không xẩy ra với một chính phủ đang điều hành một hệ thống kinh tế và x∙ hội rệu r∙, hay một x∙ hội đang sắp sụp đổ. Bộ máy hành chính mạnh, hiệu quả và có khả năng huy động đ−ợc một đội ngũ nhân viên lý t−ởng và tài năng. Hồng Kông cũng đạt đ−ợc sự phát triển kinh tế ở trình độ tiên tiến mà từng b−ớc cho phép việc thực hiện thành công chính sách này. (Clark 1987, tr. 250-51). Đối với nhiều n−ớc đang phát triển, một ICAC có thể về hình thức là tạo ra không chỉ thêm một tầng kiểm soát tốn kém tiền bạc, mà hơn thế đó còn là tầng kiểm soát mà những nỗ lực của nó có thể bị xói mòn bởi ảnh h−ởng tham nhũng hay chính trị, trừ khi nó có đ−ợc sự ủng hộ cần thiết về chính trị và t− pháp. Tuy nhiên, một số n−ớc đ∙ thành lập những cơ quan độc lập, cho dù chỉ nhằm những mục đích hạn chế hoặc nh− là kết quả của những hoàn cảnh cụ thể. Tại Zambia, một cơ quan điều tra đặc biệt đ∙ xử lý những hành vi xấu theo văn bản pháp lý về kiểm soát giao dịch và hoạt động ngân hàng. Zimbabwe thành lập một đơn vị điều tra thuộc Bộ Tài chính để giải quyết những vi phạm trong kiểm soát giao dịch, hoạt động ngân hàng, xuất nhập khẩu và buôn bán. ở Mexico mối quan tâm th−ờng xuyên của công chúng đối với tham nhũng, cho tới khi chính phủ sử dụng vấn đề này để h−ớng sự phê phán ra khỏi bản thân nó (Morris 1991, tr. 122-23), đ∙ đ−a chính phủ đến quyết định thành lập một bộ chịu trách nhiệm tiếp nhận những lời tố giác đối với các quan chức tham nhũng; xét xử theo những tố giác về tham nhũng liên quan tới các hợp đồng; giám sát khả năng tham nhũng trong Ch−ơng trình Đoàn kết Quốc gia (nhằm phát triển cơ sở hạ tầng, các dịch vụ và nông nghiệp ở cấp cộng đồng) thông qua "các nhân viên kiểm soát và dân phòng" của Uỷ ban Đoàn kết do địa ph−ơng bầu ra; và xúc tiến những cải tiến trong dịch vụ công cộng bằng một thủ tục xử lý các khiếu nại và các dịch vụ điện thoại miễn phí (Vazquez Nava 1992). Trong khi đối với nhiều n−ớc, mô hình ICAC có thể quá tốn kém và quá đe doạ về mặt chính trị, và những ví dụ khác về các cơ quan độc lập có thể quá hạn chế hoặc bị kiềm chế quá nhiều bởi sự kiểm soát của cấp bộ, thì một cơ quan chống tham nhũng tạo ra bộ phận cấu thành trực tiếp cho chính phủ tốt, miễn sao ch−ơng trình hành động và tiêu điểm của nó đ−ợc xác định ngay từ khi thành lập sau khi có sự tham vấn trong và ngoài n−ớc. Thiết lập một cơ quan nh− thế chắc chắn là đỡ tốn kém hơn, mất ít thời gian hơn và ít có khả năng bị sai lệch thời biểu hơn, so với những cải cách hành chính khác cần thiết cho việc soạn thảo lại và cập nhật các văn bản pháp lý cũng nh− cơ sở hạ tầng t− pháp, cũng nh− cho việc đào tạo, tổ chức và làm tăng tính chịu trách nhiệm
  31. của một số l−ợng đ∙ giảm bớt các bộ thuộc khu vực công cộng. Hơn nữa, tạo ra một cơ quan bán tự trị, đ−ợc l∙nh đạo và tài trợ từ bên ngoài, là một giải pháp ngắn hạn rất có thể làm tăng thêm sự phẫn nộ trong các bộ khác, dẫn tới can thiệp chính trị và có thể làm mất đi những cán bộ có kinh nghiệm khi họ chuyển sang các tổ chức khác (Demongeot 1994; Dia 1993). Một cơ quan chống tham nhũng độc lập cần phải đ−ợc đóng tại trung tâm trong khu vực công cộng, tốt hơn cả là gần với kho bạc hay gần cơ quan chỉ đạo các vụ khởi tố công cộng, có những nguyên tắc rõ ràng cho việc lựa chọn và thời hạn của những nhân viên ở chức vụ cao cũng nh− cho các trách nhiệm hoạt động và các quy trình báo cáo, và đ−ợc cung cấp một ngân sách riêng. Là một bộ phận của một "đội quân điều hành chéo" bao gồm các nhà quản lý ch−ơng trình và chính sách cao cấp" hạn chế, đ−ợc đề bạt dựa vào chất l−ợng từ trong các cơ quan nhà n−ớc (Demongeot 1994, tr. 481) - điều đó sẽ giúp tạo ra "những hòn đảo của năng lực trong khuôn khổ bộ máy quan liêu và tập trung những ng−ời ủng hộ tiếp tục cải cách về mặt chiến l−ợc vào bên trong chính phủ. Mặc dù những ng−ời chủ tr−ơng này đ∙ thua nhiều trận nh−ng họ hiếm khi hoàn toàn biến mất khỏi khung cảnh" (Geddes 1991, tr. 387). Nhân viên có kinh nghiệm cần đ−ợc lấy từ những cơ quan bộ then chốt nh− kho bạc, ngân hàng trung −ơng, văn phòng kiểm toán trung −ơng, và văn phòng n−ớc ngoài. Việc đ−ợc bổ nhiệm vào cơ quan này phải là một phần trong tiến bộ nghề nghiệp của nhân viên đó, hay một sự thuyên chuyển nhằm mang lại và sau đó chuyển giao kiến thức chuyên môn và giúp phát triển các mạng l−ới ra bên ngoài. Công tác đào tạo trong tổ chức này phải dựa trên cả hai nền tảng là đào tạo từ trên xuống do các nhà t− vấn bên ngoài thực hiện, và việc th−ờng xuyên dàn xếp việc đào tạo trong khu vực hoặc ở n−ớc ngoài cho ban quản lý cao cấp, tốt nhất là với sự giúp đỡ của các tổ chức chuyên môn có tính nhà nghề, nhằm duy trì đạo đức và tính chuyên nghiệp. Một cơ quan chống tham nhũng độc lập cũng phải chấp nhận những mối quan hệ chính thức th−ờng xuyên với các tổ chức khác nh− cảnh sát hay các cơ quan xét xử, để khi cần thiết có thể rút ra đ−ợc những cán bộ có năng lực và để thúc đẩy các hoạt động liên kết và thu thập thông tin của bản thân nó. Việc lựa chọn và luân chuyển đội ngũ cán bộ nh− vậy sẽ cho phép cơ quan này cân bằng đ−ợc các hoạt động của nó, duy trì một cách tiếp cận linh hoạt trong việc bố trí cán bộ cho các cấp và tránh đ−ợc khuynh h−ớng trở nên dồn sức quá nhiều cho các chức năng giám sát và điều tra. Khuynh h−ớng này không chỉ khiến cho một cơ quan bị lệ thuộc mạnh vào tính trung thực của hệ thống t− pháp đối với những kết quả của nó, và vào sự chấp thuận của ban l∙nh đạo chính trị đối với sự tiếp tục độc lập của nó, mà hơn nữa, có thể h−ớng cơ quan này tới chỗ tập trung các nguồn lực tài chính và con nguời cho việc theo đuổi các vụ kiện cáo rất tốn kém. Nếu nh− lừa đảo và tham nhũng là không thể tránh khỏi, thì một sự tập trung nh− vậy cho điều tra, mặc dù rất quan trọng đối với việc chứng minh đ−ợc khả năng to lớn trong việc ngăn chặn và, xét về tiềm năng, xét xử tham nhũng, vẫn có ít giá trị trong dài hạn hơn so với cải cách cơ cấu - tập trung cho cá thủ tục, các hệ thống kiểm soát, tính trách nhiệm, và việc thực hiện quyền tự quyết. (Xem mô tả chi tiết hơn về ICAC của Hồng Kông, Trung Quốc trong ch−ơng 3; nhìn lại kinh nghiệm của Singapore với Cục Điều tra các Thông lệ Tham nhũng, xem ch−ơng 4).
  32. Tuỳ thuộc vào những vấn đề của riêng từng n−ớc, một cách tiếp cận hiệu quả hơn là làm cân bằng những đặc điểm của ICAC với những đặc điểm của cơ quan tổng thanh tra (IGs) trong các chính phủ tiểu bang và liên bang của Mỹ. Với t− cách là những đơn vị nội bộ chứ không phải là đơn vị bên ngoài, và không có một khuôn khổ chính trị hay pháp lý của một ICAC, IGs cố gắng gắn kết các chức năng ngăn ngừa và điều tra trong khuôn khổ những bộ có các hoạt động thuộc phạm vi giám sát của họ. Những cơ quan này đ−ợc thiết lập để kết hợp và phối hợp các quyền về điều tra, kiểm toán và xử phạt, những quyền này không thay thế các tuyến quyền lực hoạt động đ∙ có, mà chỉ cho phép sự can thiệp và đánh giá độc lập trong một số lĩnh vực - bao gồm kiểm toán, thúc đẩy tiết kiệm, hiệu quả và hiệu lực trong việc đạt tới các mục tiêu của các bộ ngành ; c−ỡng chế thực thi các quy định và luật lệ; ngăn chặn lừa đảo và l∙ng phí. IGs th−ờng báo cáo chính thức những phát hiện của họ cho bộ chủ quản và đồng thời cho các cơ quan bên ngoài. IGs chủ yếu tập trung vào những công việc điều tra đáng quan tâm hơn và có khả năng định l−ợng, nh−ng cũng thực hiện chức năng đánh giá và ngăn chặn mà xét trong dài hạn thì có thể hữu hiệu hơn nhiều trong việc đẩy lùi tham nhũng. "Thay vì tham gia vào việc xem xét lại ch−ơng trình trên cơ sở sự đ∙ rối, sau khi sự phá hoại đ∙ đ−ợc thực hiện xong, việc xây dựng năng lực sẽ đòi hỏi một vai trò chủ động hơn về phía IGs ngay từ khi bắt đầu quá trình lập pháp và quản lý", với sự nhấn mạnh vào công việc dự báo và ngăn ngừa những tình huống sẽ đ−a tới tham nhũng và lừa đảo (Light 1993, tr. 194; xem thêm Mckinney và Johnston 1986). (Để nhìn lại vai trò của cơ quan Tổng Thanh tra của Chính phủ của Uganda, xem ch−ơng 12). Kết luận Các cơ quan chống tham nhũng sẽ đòi hỏi sự hợp tác cũng nh− phối hợp tài trợ trong một số năm để đem lại sự ủng hộ có kết quả, không chỉ nhằm mục đích thành lập cơ quan đó, mà còn để duy trì hoạt động của nó. Sự ủng hộ đó là rất quan trọng bởi tham nhũng không nhất thiết sẽ gắn liền với hiện đại hoá chính trị, nó cũng không kết thúc khi một hệ thống chính trị đ∙ chín muồi. Theo Werner (dẫn trong Doig 1995), "Tham nhũng thay đổi đặc tính của nó đáp lại sự thay đổi của các yếu tố kinh tế-x∙ hội, văn hoá và chính trị. Khi những yếu tố này tác động tới tham nhũng, tham nhũng cũng tác động tới chúng. Điều đáng nói là vì tham nhũng ở vào trạng thái cân bằng nên khái niệm vô tổ chức là không thể áp dụng. Diễn đạt một cách đơn giản, tham nhũng có thể đ−ợc kiểm soát thông qua những gì làm cho đặc tính của nó thay đổi, nh−ng điều quan trọng nhất là nó không bị tiêu diệt." Nh− vậy, có thể khó mà nhận thức đ−ợc một chính quyền nhà n−ớc khao khát, và có thể còn duy trì đ−ợc, những mức độ có thể chấp nhận của sự trung thực và hiệu quả trong một môi tr−ờng phát sinh từ những điều kiện nợ nần và lạm phát nặng nề, thất nghiệp kinh niên, mức sống tồi tàn, và tình trạng bị áp bức nặng nề của công dân. Tuy nhiên, lập luận rằng tham nhũng chỉ đơn thuần là kết quả của những rủi ro do tình trạng kém phát triển "chứa đựng một thuyết tiến hoá thô sơ trong đó hình dung ra một sự giảm sút khối l−ợng lạm dụng t−ơng ứng với mỗi phần trăm tăng thêm trong GDP (tổng sản phẩm quốc nội)" (Theoald 1990, tr. 164). Trong bối cảnh có những vấn đề liên quan tới sự biến đỏi chính trị và kinh tế, tham nhũng ít có khả năng biến mất hoặc giảm nhẹ. Việc thành lập những cơ quan chống
  33. tham nhũng độc lập và có trọng tâm phù hợp có thể thực sự thúc đẩy đ−ợc sự trung thực trong chính phủ và bảo vệ đ−ợc các nguồn thu nhập và chi tiêu của nhà n−ớc, xây dựng đ−ợc một thứ đạo đức phục vụ công cộng và khuyến khích các thủ tục hành chính tốt hơn, tạo ra một ph−ơng thức để công khai sửa chữa những việc làm sai trái, và xúc tiến những thông lệ tốt trên toàn khu vực công cộng, nhờ đó bắt đầu làm cho bộ máy chính phủ hoạt động có kết quả và hiệu quả hơn với lợi ích kèm theo đó là cải thiện đ−ợc uy tín và hoạt động của khu vực công cộng. Những mục tiêu đó sẽ chỉ đạt đ−ợc một cách từ từ và tăng dần lên, song việc sử dụng một tổ chức chống tham nhũng có thể đem lại một chất xúc tác và một cấu phần với có một số vai trò bổ sung mà, trong t−ơng lai gần, có thể đề xuất với các nhà tài trợ một chiến l−ợc chống tham nhũng bền vững để giúp tiến tới chính phủ tốt. Tài liệu tham khảo Abbott, G. C. 1993. Debt Rielf and Sustainable Development in Sub-Sahara Africa. Aldershot, U.K.: Edward Elgar. Alam, M. S. 1995. "ATheory of Limits on Corruption and Some Applications." Kyklos 48(3):419-35. Andreski, Stanislas. 1970. Parasitism and Subversion: The Case of Latin America. London: Weidenfeld and Nicolson. Batley, Richard. 1994. "The Consolidation pf Adjustment: Implications for Public Administration." Public Administration and Development 14(5): 489-505. Branford, Sue, and Bernardo Kucinski. 1988. The Debt Squads. London: Zed Books. British Council. 1993. Development Priorities: Good Government. London. Clark, David. 1986. "Corruption in Hong Kong - ICAC Story." Corruption and Reform 1(1). . 1987. "ACommunity Relations Approach to Corruption: the Case of Hong Kong. "Corruption and Reform 2(3):235-57. Cockcrft, Lawrence. 1990. Africa's Way. London: I B Taurus. Commonwealth Secretariat. 1989. "Reinforcing International Support for African Recovery and Development." In Bade Onimode, ed., The IMF, the World Bank, and the African Debt: Zed Books. Cooper. M. N. 1982. The Transformation of Egyp. London: Croom Helm.
  34. Demongeot, Patrick. 1994. "market-Oriented Approaches to Capacity Building in Africa." Public Administration and Development 14 (5): 479-87. Dia, Mamadou. 1993. A Governance Approach to Civil Service Reform in Sub- Saharan Africa. Technical Paper 225. Washington, D.C.: World Bank Doig, Alan. 1995. "Good Government and Sustainable Anti-Corruption Strategies: A Role for Independent Anti-Corruption Strategies?" Public Administration and Development 15(2): 151-65. Elliott, Kimberly A. 1997. "Corruption as a Global Policy Problem: Overview and Recommendations. "In Kimberly A. Elliott, ed., Corruption and the Global Economy. Washington, D. C.: Institute for International Economics. Findlay, M., and Stewart. 1992. "Implementing Corruption Prevention Strategies through Codes of conduct." Corruption and Reform 7(1): 67-85. Geddes, Barbara. 1991."A Game Theoretical Model of Reform in Latin American Democracies." American Political Science Review 85(2): 371-92. Gillespie, K., and G. Okruhlik. 1991. "The political Dimension of Corruption Cleanups: A Framework for Analysis." Comparative Politics 24 (1): 77-95. Gong, T. 1993. "Corruption and Reform in China: An Analysis of Unintended Consequences. "Crime, Law and Social Change 19(4): 311-27. Hope, K. R., Sr. 1987. "Administrative Corruption and Administrative Reform in Developing Countries." Corruption and Reform 2(2):127-47. Huntington, Samuel. 1968. Political Order in Changing Societies. New Haven, Conn.: Yale university Press. Johnston, Michael. 1997a. "Public Officials, Private Interests, and Sustainable Democracy: Connections between Politics and Corruption." In Kimberly A. Elliott, ed., Corruption and the Global Economy. Washington, D.C.: Institute for International Economics. . 1997b. What can be Done about Entrenched Corruption? Washington, D.C.: World Bank. Johnston, Michael, and Yufan Hao. 1995. "China's Surge of Corruption." Journal of Democracy 6(4): 80-94. Keefer, Philip. 1996. "Protection against a Capricious State: French Investment and Spanish Railroads, 1845-75." Journal of Economic History 56(1): 170-92.
  35. Keefer, Philip and Stephen Knack. 1995. "Institution and Economic Performance: Cross-County Tests Using Alternative Institutional Measures." Economics and Politics 7(3); 207-27. Kpundeh, Sahr. 1993. "Prospects in Contemporary Sierra Leone." Corruption and Reform 7(3): 237-47. Light, P.C. 1993. Monitoring Government. Washington, D.C.: Brookings Institution. Little, Walter. 1992. "Political Corruption in Latin America." Corruption and Reform 7(1): 41-66. Mauro, Paolo. 1997. "The effects of Corruption on Growth, Investment, and Government Expenditure: A Cross-Country Analysis." In Kimberly A. Elliott,ed., Corruption and the Global Economy. Washington, D.C.: Institute for International Economics. McCubbins, Mathew D., and T. Schwartz. 1984. "Congressional Oversight Overlooked: Police Patrols vs. Fire Alarm. "American Journal of
  36. 2 Các chiến l−ợc chống tham nhũng: Bắt đầu lại từ đầu? Những bài học độc đáo từ phép phân tích so sánh Daniel Kaufmann Một trong những lý do quan trọng giải thích tại sao ngày nay tình trạng tham nhũng trong chính phủ lại lan tràn ở châu Phi là ng−ời ta đ∙ dành quá nhiều nỗ lực để tìm cách cứu chữa vấn đề đó hơn là để hiểu đ−ợc nó. -Dele Olowu (1993, tr. 227) Mặc dù nhận xét sâu sắc trên là dành riêng cho tr−ờng hợp châu Phi, song những giải pháp hời hợt đối với nạn tham nhũng thì có rất nhiều ở tất cả các vùng trên thế giới. Đ∙ đến lúc phải lùi lại và phân tích những nguyên nhân sâu xa của tham nhũng. Lối nói hoa mỹ chống tham nhũng xuất hiện ngày càng nhiều trong các chính phủ, Bắc cũng nh− Nam, th−ờng giống nh− một câu cửa miệng đáp lại xu h−ớng tích cực đang ngày càng mạnh của x∙ hội công dân và quyết tâm rõ ràng hơn của một số ng−ời trong cộng đồng quốc tế phải làm điều gì đó để chống lại tham nhũng. Điều này không có nghĩa là không có một n−ớc nào thực hiện những nỗ lực nghiêm túc chống tham nhũng. Nh−ng ngay đằng sau những lời tuyên bố, những sắc lệnh, và những đơn vị đặc biệt chống tham nhũng thuộc chính phủ là những con ng−ời mà cam kết của họ trong việc xử lý vấn nạn này là hết sức đáng ngờ. H∙y xem tr−ờng hợp rất gần đây của Kenya, nơi mà tình trạng tham nhũng lan tràn và những hậu quả tiêu cực về kinh tế vĩ mô của nó đ∙ buộc Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) phải ngừng việc cho vay đối với quốc gia này vào tháng Tám năm 1997. Vào tháng M−ời, theo sau áp lực ngày càng tăng từ phía x∙ hội công dân và cộng đồng quốc tế, tổng thống Kenya đ∙ ra tuyên bố chính thức chống tham nhũng. Tiếp theo những bình luận của Tổng thống, Văn phòng Tổng Ch−ởng lý đ∙ công bố: “Sáng nay, chính phủ đ∙ thành lập một đội chống tham nhũng có nhiệm vụ xem xét hoạt động của uỷ ban chống tham nhũng vốn vẫn đang giám sát lực l−ợng đặc nhiệm chống tham nhũng - một đơn vị đ−ợc lập ra gần đây để điều tra các vụ việc của một uỷ ban đặc biệt của chính phủ đ−ợc giao trách nhiệm nghiên cứu tình trạng tham nhũng ở cấp cao trong các quan chức chính phủ tham nhũng hồi đầu năm nay” (The Daily Nation, 28/ 10/ 1997). Đây có thể là một ví dụ cực đoan về cách thức để không nhằm thẳng vào tham nhũng. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, báo chí đ∙ đăng tải nhiều tuyên bố và quyết định t−ơng tự nh− vậy ở các n−ớc châu á, châu Mỹ La-tinh, và Liên Xô
  37. cũ. Thật không may là khi đ−ợc khoác những lớp vỏ bọc tinh vi hơn, thì những nỗ lực kiểu này có thể đ−ợc một số chuyên gia và quan chức trong cộng đồng quốc tế hoan nghênh. Rốt cuộc, số tiền nhận đ−ợc để cho các chính trị gia tham nhũng tham gia vào cái trò hùng biện về xoá bỏ tham nhũng giờ đây là khá cao, và sức ép lên cộng đồng những nhà tài trợ phải cho thấy đ−ợc những kết quả rõ ràng cũng tăng lên. Một trong những thách thức đặt ra vào lúc này là phải phân biệt đ−ợc giữa một bên là ch−ơng trình kiểm soát tham nhũng đ∙ đ−ợc cam kết một cách nghiêm túc với bên kia là lối nói khoa tr−ơng chỉ thích hợp về mặt chính trị. Để làm đ−ợc điều này, điều quan trọng là chúng ta phải hiểu đ−ợc những nguyên nhân căn bản của tệ tham nhũng, cũng nh− phải có sự sẵn sàng và cam kết của một chính phủ để giải quyết những nguyên nhân đó. Nh−ng cuộc đấu tranh để kiểm soát nạn tham nhũng bị cản trở bởi rất nhiều những quan niệm sai lầm, thành kiến và sự mơ hồ về những gì hình thành nên trụ cột chủ yếu của một chiến l−ợc chống tham nhũng. Ch−ơng này đóng góp vào cuộc tranh luận thông qua việc phân tích một vài trong số những định kiến và nhận thức sai lầm đang rất phổ biến, cung cấp chứng cứ mới xuất hiện và các kết quả thu đ−ợc từ việc phân tích dữ liệu về những nhân tố chính quyết định sự tham nhũng, và đ−a ra một số nguyên tắc cho việc thiết kế các chiến l−ợc chống tham nhũng. Nó cố gắng tập trung trực diện vào những quy tắc cơ bản có thể quy định tính phổ biến của nạn tham nhũng trong một quốc gia, tránh đề cập tới “những đối t−ợng dễ hối lộ” - có tính tổ chức hay hình thức khác - hiện đang trở thành mốt. Cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở một b−ớc ngoặt Tr−ớc hết, xem xét tham nhũng trong triển vọng của nó là rất quan trọng. Lòng tin xứng đáng đ−ợc đ−a lên hàng đầu: phong trào ủng hộ tích cực việc chống tham nhũng đ∙ thành công to lớn trong vài năm qua. Ngày nay, sự thừa nhận tham nhũng là một vấn nạn đ∙ rộng r∙i hơn nhiều, do có sự tham gia của x∙ hội công dân ở nhiều nơi. Cộng đồng quốc tế - và một số n−ớc nói riêng - ngày càng sẵn sàng hành động. Vai trò của các tổ chức phi chính phủ trong n−ớc và quốc tế (nh− tổ chức Transparency International) là yếu tố then chốt để nâng cao nhận thức và lôi cuốn sự tham gia của x∙ hội công dân. Thách thức của việc đối phó với nạn tham nhũng đang b−ớc vào giai đoạn quan trọng thứ hai: thiết kế và thực thi các chiến l−ợc và những hành động cụ thể có khả năng đem lại những kết quả lâu bền. Điều này đòi hỏi phải xem xét những nguyên nhân cơ bản của nạn tham nhũng một cách kỹ l−ỡng và cởi mở, tránh những định kiến có thể đem lại những kết quả sai. Những định kiến này có thể bị làm sâu sắc thêm bởi những quyền lợi bất di bất dịch của các chính phủ tham nhũng trong việc chấp nhận những c−ơng lĩnh chống tham nhũng dễ chịu về mặt chính trị nhằm tỏ ra tích cực trong việc xử lý vấn nạn này.
  38. Những khuynh h−ớng chính cần phải đề phòng bao gồm: - Khuynh h−ớng chống kinh doanh: Việc đổ lỗi cho giới kinh doanh đ∙ trở thành một sự hợp lý hoá có ích. Nó bắt nguồn từ khái niệm “chất dầu bôi trơn” và “đồng tiền đi tr−ớc” (xem phần tiếp theo), cũng nh− từ quan điểm cho rằng việc các nhóm lợi ích kinh doanh vận động hành lang chống lại việc hình sự hoá tội hối lộ đang trở thành phổ biến. Theo sự hiểu biết thông th−ờng, toàn bộ khu vực doanh nghiệp đều đ−ợc lợi từ khả năng xoay xở quanh những quy chế quá chặt chẽ (với của hối lộ là “chất dầu bôi trơn các bánh xe của phát triển”). Thậm chí một số ng−ời còn lập luận rằng sự hối lộ của giới kinh doanh là có lợi cho phát triển. Khuynh h−ớng này đi ng−ợc lại logic hành động tập thể để đấu tranh chống tham nhũng và do đó chống lại sự hành động phối hợp lôi kéo cả khu vực doanh nghiệp nh− một bên tham gia. - Khuynh h−ớng xử lý triệu chứng: Chỉ xử lý triệu chứng thay vì xác định nguyên nhân gốc rễ, liên quan tới suy nghĩ cho rằng giải pháp cho vấn đề này là bắt giữ và tống giam một số l−ợng tội phạm mục tiêu chẳng hạn, hoặc thông qua một đạo luật chống tham nhũng nữa ở trong n−ớc. Giải quyết một vấn đề bằng cách chỉ chăm chăm xử lý các triệu chứng sẽ gặp phải vô số những cái bẫy, giống nh− những gì các chính phủ đ∙ phát hiện ra khi họ cố gắng chống lạm phát bằng cách tạo ra những kiểm soát giá cả. - Khuynh h−ớng nóng vội: để cho x∙ hội công dân duy trì đ−ợc nội lực chống tham nhũng thì việc nhanh chóng đạt đ−ợc một số kết quả cụ thể là rất quan trọng nếu. Đồng thời, những can thiệp đ−ợc cân nhắc một cách không thấu đáo (“nhanh và bẩn”) có nguy cơ là phản tác dụng, nh− trong lời trích dẫn mở đầu của Olowu. Cơ cấu khuyến khích đối với các nhà tài trợ và các chính trị gia trong n−ớc đôi khi khích lệ họ thể hiện một hành động mau lẹ và rõ ràng nào đó, cho dù nó có đem lại những kết quả có ý nghĩa và tồn tại dài lâu hay không. Nh−ng liệu có phải họ đang giải quyết những yếu tố cơ bản đích thực không? Và nếu thoạt đầu không phải lúc nào công chúng cũng thấy rõ là những yếu tố cơ bản này trực tiếp gắn với tham nhũng, liệu có nảy sinh một khuynh h−ớng chống lại việc tập trung vào những yếu tố khó nhận thấy hơn, gián tiếp hơn, nh−ng lại là những yếu tố quy định quan trọng của tham nhũng? - Khuynh h−ớng “bơm”: Giống nh− phản ứng có tính tổ chức đ∙ bị thất bại của Công ty Tài chính Phát triển tr−ớc thực trạng đ−ợc nhận thức là sự thiếu hụt tín dụng có thời hạn dành cho phát triển trong những năm 1970, ngày nay, chúng ta có thể phải đối mặt với một hiểm hoạ t−ơng tự trong việc kiểm soát tham nhũng: việc bơm các nguồn lực cho những sáng kiến về tổ chức độc lập nh− các cơ quan giám sát, những đặc quyền mới, v.v, có thể gây tác hại cho sự thay đổi toàn diện hơn trong môi tr−ờng làm phát sinh tham nhũng. - Khuynh h−ớng chống lại phản chứng: Những kết luận sai lầm th−ờng bắt nguồn từ những phân tích trong sự thiếu vắng những yếu tố phản chứng và những kiểm soát phù hợp. Một ví dụ là việc quy thành công là do có các cơ quan giám sát hoạt động chống tham nhũng ở Botswana, Singapore, và những tr−ờng hợp đ∙ đ−ợc biết tr−ớc khác bằng cách tập trung vào những chi tiết của