Một số ảnh hưởng của sản xuất nông nghiệp tới môi trường và sinh vật

doc 88 trang phuongnguyen 140
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Một số ảnh hưởng của sản xuất nông nghiệp tới môi trường và sinh vật", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docmot_so_anh_huong_cua_san_xuat_nong_nghiep_toi_moi_truong_va.doc

Nội dung text: Một số ảnh hưởng của sản xuất nông nghiệp tới môi trường và sinh vật

  1. TÀI LIỆU MỘT SỐ ẢNH HƯỞNG CỦA SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP TỚI MÔI TRƯỜNG VÀ SINH VẬT
  2. MỤC LỤC MỘT SỐ ẢNH HƯỞNG CỦA SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP 3 TỚI MÔI TRƯỜNG VÀ SINH VẬT 3 1. Ô nhiễm môi trường từ phân bón hoá học: 3 2. Ô nhiễm môi trường do HCBVTV: 4 Khái niệm: 5 Nguyên nhân: 5 II. Các tác nhân gây ô nhiễm môi trường đất: 6 1. Tác nhân hoá học: 6 2. Ô nhiễm đất do tác nhân vật lý: 7 3. Ô nhiễm đất do tác nhân sinh học: 7 IV. Biện pháp kiểm soát ô nhiễm đất 8 NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM 10 I- Hiện trạng tài nguyên và môi trường 11 1- Sự giảm sút độ che phủ và chất lượng rừng là một vấn đề quan trọng 11 2- Chất lượng đất và diện tích đất trồng trọt trên đầu người giảm sút nghiêm trọng 15 3- Hiện tượng thiếu nước ngọt và sự nhiễm bẩn nước ngọt ở nhiều nơi đã trở thành nhân tố quan trọng 18 4- Môi trường biển và vùng ven biển đã xuống cấp trầm trọng 19 5- Diện tích vùng đất ngập nước đã bị giảm đi nhanh vì hoạt động của con người 20 6- Đa dạng sinh học đang giảm sút nhanh chóng 22 II- Dân số và môi trường 24 III- Ô nhiễm và suy thoái môi trường 26 1- Phát triển đô thị và vấn đề môi trường 26 2- Chất lượng môi trường nông thôn có xu hướng xuống cấp nhanh 27 IV- Tình hình công tác quản lý môi trường 28 Phát triển hệ thống quản lý nhà nước về bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường 28 I. KHÁI NIỆM VỀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG 32 II.3. Các nguyên tắc xây dựng xã hội phát triển bền vững 34 III.2. Sự tác động qua lại giữa môi trường và con người 37 III.2.1. Tác động của các yếu tố môi trường tự nhiên đến con người 37 I. DÂN SỐ VÀ SỰ BÙNG NỔ DÂN SỐ 57 I.1. Dân số và sự bùng nổ dân số trên thế giới 57 I.2. Đặc điểm dân số ở Việt Nam 57 III. MỐI QUAN HỆ GIỮA DÂN SỐ VÀ SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 58 III.3. Những vấn đề bức xúc do sự tăng dân tồn tại ở Việt Nam. 61 IV. ĐỊNH HƯỚNG ĐIỀU CHỈNH DÂN SỐ THỰC HIỆN MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 61 IV.1. Khống chế gia tăng dân số tự nhiên, duy trì vững chắc xu thế giảm sinh nhưng vẫn đảm bảo thực hiện tái sản xuất xã hội 61 IV.2. Ổn định các quá trình dân cư. 61 IV.3. Nâng cao chất lượng dân số - nguyên tắc của phát triển bền vững. 62 IV.4. Cân đối hài hòa giữa dân số và khả năng chịu đựng của trái đất 63 KẾT LUẬN 65
  3. MỘT SỐ ẢNH HƯỞNG CỦA SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP TỚI MÔI TRƯỜNG VÀ SINH VẬT Sử dụng phân bón hoá học và hợp chất bảo vệ thực vật là chìa khoá thành công của cuộc cách mạng xanh, trong nền nông nghiệp, công nghiệp hoá (nông nghiệp đầu tư cao) để đảm bảo nhu cầu về lương thực, thực phẩm. Tuy nhiên, những năm gần đây có nhiều dấu hiệu đáng lo ngại do sự ảnh hưởng của phân bón hoá học, hoá chất bảo vệ thực vật đến môi trường và sức khoẻ con người. Vấn đề này không chỉ xảy ra ở các nước phát triển mà nó đang ngày trở lên nghiêm trọng ở các nước đang phát triển. Khi người nông dân áp dụng những công nghệ hiện đại (như giống mới, phân hoá học, hoá chất bảo vệ thực vật (HCBVTV), máy móc, thiết bị tưới tiêu ) Đã nảy sinh rất nhiều vấn đề môi trường: - Gây độc hại cho nguồn nước, cho đất bởi thuốc trừ sâu, N03-, do đó tác động xấu đến sức khoẻ con người, động vật hoang dại và suy thoái các hệ sinh thái. - - Gây nhiễm độc lương thực, thực phẩm thức ăn cho gia súc bởi dư lượng thuốc trừ sâu, NO 3 và chất kích thích sinh trưởng. - Gây xói mòn đất, giảm độ phì của đất do xu hướng sử dụng nhiều phân bón hoá học thay cho phân hữu cơ. - Gây mặn hoá thứ sinh do tưới tiêu không hợp lý. - Gây ô nhiễm không khí do sự khuyếch tán của HCBVTV. - Chặt phá rừng, mở rộng diện tích canh tác gây suy thoái nguồn nước ngầm, làm mất dần và có nguy cơ tuyệt chủng nhiều loài động vật hoang dã. - Xu thế tiêu chuẩn hoá, chuyên canh hoá tập trung vào một số giống cây, con mới đồng nhất về di truyền trong nông nghiệp dẫn đến sự thay thế dần và biến mất những giống loài truyền thống – cơ sở di truyền để cải tạo giống là nguồn gen dự trữ quan trọng trong tương lai. 1. Ô nhiễm môi trường từ phân bón hoá học: - Nitrat (N03 ) là yếu cần thiết cho sinh trưởng và phát triển của nhiều loài cây trồng, đồng thời nó cũng được xem là mối đe doạ cho sức khoẻ con người và tính trong sạch của các nguồn nước tự nhiên. Tính trung bình, khi bón phân đạm vào đất thực vật chỉ hấp thụ được khoảng 50 - 60%, số còn lại đi vào các nguồn khác. Mặc dù thực vật rất cần nitơ nhưng ion NO3- gần như không bị đất hấp thụ và luôn tồn tại ở dạng linh động dễ bị rửa trôi vào các nguồn nước. Một nghiên cứu vào năm 1972 ở Anh cho thấy có hiện tượng phú dưỡng ở cả 18 con sông nghiên cứu. Nhiều kết quả nghiên cứu bằng phương pháp nguyên tử đánh dấu đã khẳng định N-NH4 tronh nước có nguồn gốc từ nitơ bón vào đất. Như vậy nguồn gốc N03- trong nước là do phân bón vô cơ và hữu cơ
  4. đậc biệt khi người nông dân bón không đúng lúc, bón thúc vào thời kỳ cây không cần và bón không đều. Ô nhiễm nỉtat không phải là vấn đề mới, cách đây hàng trăm năm người ta đã ghi nhận nồng độ coa của nó trong các giếng nước ăn nhưng phát hiện mới nhất là NO3- liên quan tới sức khoẻ cộng đồng thể hiện qua 2 loại bệnh: - Methaemoglobinaemia: Trè xanh ở trẻ sơ sinh. - Ung thư dạ dày ở người lớn. Thực ra NO3- không độc, nhưng khi nó bị khử thành nỉtit(NO2-) trong cơ thể nó trở nên rất độc. NO3- trong dạ dày bị các vi khuẩn khử thành NO2- và sâm nhập vào máu, nó phản ứng với haemoblobin chứa Fe2+ ( đây là phân tử có chức năng vận chuyển O2 đi khắp cơ thể) tạo ra methaemoglobinaemia chứa Fe3+ có rất ít năng lực vận chuyển O2 và trẻ sơ sinh rất mẫn cảm với bệnh này do trong dạ dày của chungs không đủ axit để ngăn cản các vi khuẩn biến đổi NO3- thành NO2-. Ung thư dạ dày cũng là bệnh liên quan tới hàm lượng NO3trong nước và do quá trình biến đổi từ NO3- thành NO2 phản ứng với một loại amin thứ sinh xuất hiện khi phân huỷ mỡ hoặc prôtêin ở bên trong dạ dày tạo ra hợp chất N – nitroso( chất gây ung thư). Vì tính chất nguy hiểm của NO3 đối với sức khoẻ cộng đồng nên châu Âu qui định mức chuẩn cho nước uống là 50g NO3 -/m3, giá trị tối ưu không quá 25g NO3/m3. 2. Ô nhiễm môi trường do HCBVTV: Việc sử dụng HCBVTV trong nông nghiệp đã làm nảy sinh nhiều vấn đề môi trường. Định hướng của thuốc trừ sâu là diệt sâu hại, nhưng diễn biến thực tế của lại ảnh hưởng độc tới đất, nước, không khí, đại dương và các sản phẩm nông nghiệp, động vật sức khoẻ con người đặc biệt những dư lượng của những chất do tính độc cao như chlordane, DDT, picloram, zimazine Một đặc tính quan trọng của HCBVTV trong hệ sinh thái là tính khuyếch đại sinh học. Từ nồng độ sử dụng nhỏ, sau khi vào hệ sinh thái thông qua chuỗi lưới thức ăn chất độc được tích luỹ với nồng độ cao dần qua các bậc dinh dưỡng. Hầu hết các loại HCBVTV đều độc đối với người và động vật máu nóng, tuy nhiên mức độ gây độc của mỗi loại thuốc có khác nhau, có loại thuốc gây độc cấp tính, có loại thuố có tính tích luỹ lâu trong cơ thể sống, bền vững trong môi trường. Các kết quả nghiên cứu cho thấy có đến 90% HCBVTV không đạt mục đích mà gây nhiễm độc đất, nước, nông sản. Việc sử dụng lặp lại nhiều lần cùng một loại thuốc ở nhiều nước đang phát triển do được bao cấp, trợ giá dẫn đến hiện tượng quen thuốc buộc phải sử dụng các chủng loại HCBVTV khác có độc tính cao hơn và càng xúc tiến rủi ro về môi trường cũng như nghề nghiệp. Theo kết quả báo cáo của viện bảo vệ thực vật năm 1999, hiện nay trên thị trường Việt Nam có 270 loại thuốc diệt côn trùng, 216 loại thuốc diệt nấm, 160 loại thuốc diệt cỏ, 12 loại thuốc diệt gậm nhấm và 26 loại thuốc kích thích sinh trưởng. Điều đáng là 60% tổng số hoá chất trên được sử dụng phun cho rau quả mà phần lớn nông dân lại không hiểu đầy đủ về tác dụng, tính năng của mỗi loại thuốc cho nên họ thường phun sai chủng loại, liều lượng cũng như thời gian cho phép. Ví dụ trung bình từ 1 đến 3 ngày họ lại phun thuốc kích thích tăng trưởng và thuốc trừ sâu cho dưa chuột
  5. và đậu. Năm 1990 lượng HCBVTV được sử dụng là 10.300 tấn đến năm 1998 đã tăng lên 33.000 tấn. Rất nhiều vụ ngộ độc do HCBVTV gây ra ở các quy mô và mức độ khác nhau. Để khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường do HCBVTV nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam đã chú ý đến việc quản lý sâu hại tổng hợp( IPM ) để kìm dữ sâu bệnh ở mức chấp nhận được. IPM bao gồm việc sử dụng thuốc trừ sâu một cách có chọn lọc và dựa trên việc áp dụng các biện pháp sinh học, tính đề kháng di truyền và thực tiễn quản lý thích hợp./. ô nhiễm đất Đất được hình thành từ đá qua quá trình phong hoá. Khi sự sống trên trái đất chưa xuất hiện, thì vòng đại tuần hoàn địa chất là quá trình phong hoá đá đã dần dần hình thành phần không sống của hệ sinh thái đất (các chất khoáng, các dạng nước, các chất khí) gọi là mẫu chất tạo tiền đề cho sinh vật phát triển. Kể từ khi có những sinh vật đơn bào đầu tiên xuất hiện trên mẫu chất là lúc xuất hiện một vòng tuần hoàn mới – vòng tiểu tuần hoàn sinh học. Như vậy tự bản thân môi trường đất đã có cấu trúc, chức năng như là một hệ sinh thái, một mẫu hình của hệ thống mở. Tuy nhiên sự tự điều chỉnh của hệ sinh thái đất có một giới hạn nhất định. Nếu sự thay đổi vượt quá giới hạn này, hệ sinh thái đất sẽ mất khả năng tự điều chỉnh và hậu quả là đất bị ô nhiễm và thoái hoá. Sự ô nhiễm môi trường đất là hậu quả của các hoạt động của con người, làm thay đổi các nhân tố sinh thái quá ngưỡng của các quần xã sống trong đất. Muốn kiểm soát được ô nhiễm môi trường đất cần phải biết giới hạn sinh thái của các quần xã sống trong đất đối với từng nhân tố sinh thái. Xử lý ô nhiễm tức là điều chỉnh và đưa các nhân tố sinh thái trở về giới hạn sinh thái của quần xã sinh vật đất. Đây là nguyên lý sinh thái cơ bản được vận dụng vào việc sử dụng hợp lý tài nguyên đất và bảo vệ môi trường. Bản chất của sự xác lập cân bằng là quá trình tự điều chỉnh năng lượng và vật chất giữa 3 loại sinh vật: sinh vật sản xuất, sinh vật tiêu thụ và sinh vật phân huỷ. Thông thường tính đa dạng sinh học của hệ sinh thái đất cao hơn so với hệ sinh thái nước, không khí nên khả năng tự lập lại cân bằng của nó cũng cao hơn. Khái niệm: Sự ô nhiễm môi trường đất là do hậu quả các hoạt động cuả con người làm thay đổi các nhân tố sinh thái quá ngưỡng sinh thái của những quần xã sinh vật sống trong đất. Nguyên nhân: Bình thường hệ sinh thái đất luôn tồn tại ở trạng thái cân bằng. Khi có mặt một số chất mà hàm lượng của chúng vựot quá ngưỡng cho phép thì hệ sinh thái đất sẽ mất cân bằng, môi trường đất bị ô nhiễm và thoái hoá. Có nhiều nguyên nhân gây ô nhiễm đất trong đó có một số nguyên nhân chính gây ô nhiễm đất ở Việt Nam là: 1. áp lực tăng dân số đòi hỏi nhu cầu lương thực, thực phẩm ngày càng tăng và phải đẩy mạnh khai thác độ phì nhiêu của đất bằng cách: - Tăng cường sử dụng hoá chất như phân vô cơ, thuốc trừ sâu diệt cỏ vv.
  6. - Sử dụng chất kích thích sinh trưởng làm giảm thất thoát và tạo thuận lợi cho thu hoạch. - Mở rộng các hệ thống tưới tiêu. 2. Việc đẩy mạnh công nghiệp hoá và đô thị hoá không có kế hoạch quản lý môi trường đã làm ô nhiễm nặng nề các vùng ven đô thị và khu công nghiệp. Các tác nhân chính gây ô nhiễm đất ở đây là không khí ô nhiễm, nước thải, chất thải rắn của các cơ sở trên. 3. Do hậu quả chiến tranh (thuốc diệt cỏ do Mỹ sử dụng ở miền Nam Việt Nam) đã gây ảnh hưởng lâu dài đến con người, tự nhiên trên những vùng đất rộng lớn. Như vậy nguyên nhân chính gây ô nhiễm đất ở Việt Nam là sử dụng không hợp lý phân bón, hoá chất bảo vệ thực vật, chất kích sinh trưởng, chất thải không qua xử lý của các khu dân cư, đô thị và các khu công nghiệp, chất độc trong chiến tranh vv, gây ô nhiễm khá nghiêm trọng ở một số nơi. Tuy nhiên về quy mô vùng bị ô nhiễm không lớn, chỉ xẩy ra ở ven một số thành phố lớn, khu công nghiệp làng nghề truyền thống không có công nghệ xử lý chất thải độc hại và những vùng chuyên canh, thâm canh sử dụng phân bón, hoá chất bảo vệ thực vật không hơp lý, không có sự quản lý chặt chẽ. II. Các tác nhân gây ô nhiễm môi trường đất: 1. Tác nhân hoá học: Loại ô nhiễm này được gây ra do một số nguồn: Chất thải công nghiệp, giao thông, chất thải sinh hoạt, đặc biệt là việc sử dụng phân hoá học, hoá chất bảo vệ thực vật, các chất kích thích sinh trưởng làm cho đất bị ô nhiễm kim loại nặng, Nitơrát ở Việt Nam ô nhiễm đất bởi kim koại nặng nhìn chung không phổ biến tuy nhiên nhiều trường hợp cục bộ gần khu công nghiệp, đặc biệt ở các làng nghề tình trạng ô nhiễm kim loại nặng đang diễn ra khá trầm trọng. Bảng 1: Hàm lượng Pb trong bùn và trong đất tại xã Chỉ Đạo, Mỹ Văn, Hưng Yên. ( Nguồn: Lê Văn Khoa-2002). stt mẫu nghiên cứu hàm kượng chì (ppm) 1 Mẫu bùn trong ao chứa nước thải phá ắc quy 2166.0 2 Mẫu đất lúa gần nơi nấu chì 387.6 3 Mẫu đất giữa cánh đồng 125.4 4 Mẫu đất gần làng 2911.4
  7. Hàm lượng chì lớn hơn 100 ppm được đánh giá là đất bị ô nhiễm. 2. Ô nhiễm đất do tác nhân vật lý: a. Ô nhiễm nhiệt: Khi nhiệt độ trong đất tăng sẽ gây ra những ảnh hưởng lớn đến khu hệ vi sinh vật đất phân giải chất hữu cơ và nhiều trường hợp làm đất chai cứng, mất dinh dưỡng. Nhiệt độ trong đất tăng, dẫn đến hàm lượng mất O2 giảm gây mất cân bằng và quá trình phân huỷ các chất hữu cơ sẽ diễn ra theo kiểu hô hấp kỵ khí, tạo ra nhiều sản phẩm trung gian có mùi khó chịu và độc cho cây trồng, động vật như: NH3, H2S, CH4 và Alđêhyt Nguồn gây ô nhiễm nhiệt là do sự thải bỏ nước làm mát các thiết bị của các nhà máy. Nước này có thể làm nhiệt độ của đất tăng từ 5- 150C gây ảnh hưởng xấu đến môi trường đất. Ngoài ra nguồn ô nhiễm nhiệt còn do những đám cháy rừng, phát nương đốt rẫy trong du canh làm nhiệt độ đất tăng đột ngột từ 15- 30 0C huỷ diệt nhiều sinh vật có ích trong đất, đất trở nên chai cứng. b. Ô nhiễm do các chất phóng xạ: Do phế thải của những trung tâm khai thác các chất phóng xạ, trung tâm nghiên cứu nguyên tử, nhà máy điện nguyên tử, các bệnh viện và những vụ thử vũ khí hạt nhân. Các chất phóng xạ thâm nhập vào đất, theo chu trình dinh dưỡng tới cây trồng, động vật và con người. Sau mỗi vụ thử vũ khí hạt nhân chất phóng xạ trong đất tăng lên10 lần và khi đi vào sinh vật nó cũng có hiện tượng khuyếch đại sinh học. Các chất phóng xạ (Sn 90,I131Cs137) xâm nhập vào cơ thể con người làm thay đổi cấu trúc tế bào, gây ra các bệnh di truyền, bệnh về máu, ung thư 3. Ô nhiễm đất do tác nhân sinh học: Do các phương pháp đổ bỏ chất thải mất vệ sinh, sử dụng phân bắc tươi, bùn ao tươi, bùn kênh dẫn chất thải sinh hoạt bón trực tiếp vào đất. Hiện nay các vùng nông thôn miền Bắc Việt Nam tập quán sử dụng phân bắc và phân chuồng tươi trong canh tác vẫn còn phổ biến. Chỉ tính riêng trong nội thành Hà Nội, hàng năm lượng phân bắc thải ra khoảng 550.000 tấn và chỉ khoảng 1/3 số đó được xử lý. ở các vùng nông thôn phía Nam đặc biệt vùng đồng bằng sông Cửu Long, phân tươi được coi là nguồn thức ăn cho cá. Tập quán sử dụng phân tươi, nước thải bón, tưới trực tiếp cho đất đã gây ô nhiễm sinh học nghiêm trọng cho môi trường đất, không khí, nước, ảnh hưởng đến sức khoẻ con người. Bảng 2: Số lượng các loại vi trùng và trứng giun stt đối tượng nghiên cứu vi trùng E- số trứng giun trong 50g phân hoặc Coli trong 100 trong 1000ml nước gam đất giun đũa giun tóc 1 Phân bắc tươi trộn tro bếp 107 31 16
  8. 2 Phân bắc đã ủ 2 tháng 105 12 7 3 Đất vừa tưới phân bắc 105 22 10 4 Đất tưới phân bắc sau 20 ngày 105 13 5 5 Đất vừa tưới phân tươi 105 5 6 Đất chỉ dùng phân hoá học 102 3 1 7 Nước mương khu trồng rau tưới phân bắc 450 3 8 Nước giếng khu trồng rau tưới phân bắc 20 7 ( Nguồn: Trần Khắc Thi, 1996) IV. Biện pháp kiểm soát ô nhiễm đất. Làm sạch cơ bản: Mục đích chính là phòng ngừa sự nhiễm trùng đất có nguồn gốc từ phân, nước thải sinh hoạt, nước thải bệnh viện Các ngồn này phải được sử lý trước khi thải ra môi trường để tránh làm nhiễm bẩn nước ngầm hoặc nước bề mặt. *Khử chất thải rắn: rác gia đình, phế liệu xây dựng, phế liệu công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp đây là môi trường thuận lợi cho ruồi, muỗi, các loài gặm nhấm phát triển. Ngoài ra chúng còn góp phần làm ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí làm tổn hại đến chất lượng môi trường xung quanh. Các thiết bị xử lý thường dùng một hay nhiều những kỹ thuật như: lựa chọn, đốt cháy, trộn phân, phun, nghiền, làm đặc ở các nước công nghiệp phát triển, nhiều khu vực đất đai bị ô nhiễm nặng, người ta sử dụng các hệ thống cơ hoá lý nhằm ngăn ngừa sự chuyển động của các chất gây ô nhiễm do rửa trôi, hoạt động mao quản và di chuyển khí. Các hệ thống nhằm ngăn chặn sự chuyển động của các chất gây ô nhiễm do rửa trôi, hoạt động mao quản và di chuyển khí: Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững Lĩnh vực kinh tế: + Giảm đều mức tiêu phí năng lượng và những tài nguyên khác thông qua các công nghệ mới và qua thay đổi lối sống. + Thay đổi các hình thức tiêu thụ ảnh hưởng đến đa dạng sinh học của các nước khác. + Giảm hàng rào nhập khẩu hay chính sách bảo hộ mậu dịch làm hạn chế thị trường cho các sản phẩm của những nước nghèo. + Sử dụng tài nguyên nhân văn, kỹ thuật và tài chính để phát triển công nghệ sạch và sử dụng ít tài nguyên thiên nhiên. + Làm cho mọi người tiếp cận tài nguyên một cách bình đẳng.
  9. + Giảm chênh lệch về thu nhập và tiếp cận y tế. + Chuyển tiền từ chi phí quân sự và an ninh cho những yêu cầu phát triển. + Dùng tài nguyên cho việc cải thiện mức sống thường xuyên. + Loại bỏ nghèo nàn tuyệt đối. + Cải thiện việc tiếp cận ruộng đất, giáo dục và các dịch vụ xã hội. + Thiết lập một ngành công nghiệp có hiệu suất cao để tạo công ăn việc làm và sản xuất hàng hoá cho thương mại và tiêu thụ. Lĩnh vực nhân văn: + Ổn định dân số. + Giảm di cư đến các thành phố qua chương trình phát triển nông thôn, + Xây dựng những biện pháp mang tính chất chính sách và kĩ thuật để giảm nhẹ hậu quả môi trường cuả đô thị hoá. + Nâng cao tỷ lệ biết chữ. + Người dân tiếp cận dễ dàng hơn với dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu. + Cải thiện phúc lợi xã hội, bảo vệ tính đa dạng văn hoá và đầu tư vào vốn con người. + Đầu tư vào sức khoẻ và giáo dục của phụ nữ. + Khuyến khích sự tham gia vào những quá trình làm quyết định. Lĩnh vực môi trường: + Sử dụng có hiệu quả hơn đất canh tác và cung cấp nước. + Cải thiện canh tác nông nghiệp và kĩ thuật để nâng cao sản lượng. + Tránh sử dụng quá mức phân hoá học và thuốc trừ sâu. + Bảo vệ nguồn nước bằng cách chấm dứt việc sử dụng nước lãng phí và nâng cao hiệu suất của các hệ thống nước. + Cải thiện chất lượng nước và hạn chế rút nước bề mặt. + Bảo vệ đa dạng sinh học bằng cách làm chậm lại đáng kể và nếu có thể thì chặn đứng sự tuyệt diệt của các loài, sự huỷ hoại nơi ở cũng như các hệ sinh thái. + Hạn chế tình trạng không ổn định của khí hậu, sự huỷ hoại tầng ozon do hoạt động của con người. + Bảo vệ tài nguyên thiên nhiên cần thiết cho hoạt động sản xuất lương thực và chất đốt trong khi phải mở rộng sản xuất để đáp ứng nhu cầu của tăng dân số. + Sử dụng nước tưới một cách thận trọng. + Tránh mở đất nông nghiệp trên đất dốc hoặc đất bạc màu. + Làm chậm hoặc chặn đứng sự huỷ hoại rừng nhiệt đới, hệ sinh thái san hô, rừng ngập mặn ven biển, những vùng đất ngập nước và các nơi ở độc đáo khác để bảo vệ tính đa dạng sinh học. Lĩnh vực kĩ thuật:
  10. + Chuyển dịch sang nền kĩ thuật sạch và có hiệu suất hơn, giảm tiêu thụ năng lượng và những tài nguyên thiên nhiên khác để không làm ô nhiễm không khí, đất và nước. + Giảm phát thải CO2, giảm tỷ lệ khí nhà kính trên phạm vi toàn cầu nhằm hạn chế hiệu ứng nhà kính. + Cùng với thời gian phải giảm đáng kể sử dụng nhiên liệu hoá thạch và tìm ra những nguồn năng lượng mới. + Loại bỏ sử dụng CFCs để tránh làm thương tổn đến tầng ozon bảo vệ trái đất. + Bảo tồn những kĩ thuật truyền thống với ít chất thải và chất ô nhiễm, những kĩ thuật tái chế chất thải phù hợp với hoặc hỗ trợ các hệ tự nhiên. + Nhanh chóng ứng dụng những kĩ thuật đã được cải tiến cũng như những quy chế của chính phủ đã được cải thiện và thực hiện những quy chế đó. Phát triển bền vững được xem là một quá trình đòi hỏi đồng thời cả 4 lĩnh vực: kinh tế, nhân văn, môi trường và kĩ thuật. Tuy nhiên thực hiện phát triển bền vững không giống nhau ở mỗi nước, tuỳ thuộc vào lịch sử, chính quyền, thể chế chính trị, tài nguyên thiên nhiên Ví dụ ở vùng phụ cận Sahara, Châu Phi phát triển bền vững có thể là cải thiện điều kiện nhân văn bằng cách nâng cao sức khoẻ và giáo dục cho người dân trong khi Châu Âu lại có thể là hạn chế phát thải huỷ hoại tầng ozon, các khí nhà kính và gây ra mưa axit Trước khi bắt đầu xác lập mục tiêu cho phát triển bền vững mỗi vùng, mỗi quốc gia, mỗi khu vực phải xác định được hiện mình đang ở đâu. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM Cũng như nhiều nước đang phát triển khác trên thế giới có thu nhập thấp với dân số đông, Việt nam đang đối đầu với những vấn đề gay cấn do tài nguyên thiên nhiên bị xuống cấp và sự sa sút của chất lượng môi trường. Sau ba mươi năm chiến tranh ác liệt, nhân dân và chính phủ Việt nam đã cố gắng nhiều để phát triển kinh tế, đồng thời bảo tồn nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Chiến lược quốc gia về Môi trường và phát triển bền vững đã được phác ra từ năm 1985, sau đó đã đề ra Chương trình hành động Quốc gia về Môi trường và Phát triển bền vững, và đã được thực hiện từng mặt. Dựa trên Chương trình quốc gia, nhiều hoạt động đã được thực thi trên phạm vi cả nước về các mặt pháp chế, công tác quản lý, giáo dục, nghiên cứu và thực nghiệm. Sự chuyển đổi từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang một nền kinh tế hướng theo thị trường đã đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế. Việc giải phóng sức sản xuất nông nghiệp, công nghiệp cũng như việc phát triển nền kinh tế dịch vụ, việc mở cửa cho đầu tư nước ngoài và việc đẩy mạnh xuất khẩu và tham gia vào nền thương mại khu vực và quốc tế, đã tạo nên thành tựu lớn về kinh tế và xã hội cho nhân dân ta, nền kinh tế tăng trưởng tương đối nhanh, nhưng đồng thời nước ta cũng đang phải đối đầu với một số vấn đề gay cấn trong khi thực hiện mục tiêu phát triển của mình là vấn đề môi trường. Các gay cấn đó về môi trường đặc biệt khó giải quyết, vì sự tăng trưởng kinh tế và việc bảo vệ môi trường cho ngày nay và cho thế hệ mai sau, thường mâu thuẫn trực tiếp với nhau. Hiện nay có nhiều vấn đề về môi trường mà Việt Nam đang phải đối đầu, trong đó những vấn đề nghiêm trọng nhất là nạn phá rừng , sự khai thác quá mức tài nguyên sinh học, sự xuống cấp của tài nguyên đất, việc bảo tồn
  11. nguồn nước ngọt kém hiệu quả, nạn thiếu nước ngọt và nạn ô nhiễm gia tăng, đó là chưa kể đến tác động lâu dài của chiến tranh đến môi trường. Những vấn đề rắc rối nói trên đang ngày càng trầm trọng hơn do dân số tăng nhanh và nạn đói nghèo còn chưa giải quyết được một cách cơ bản. Bởi vậy điều cần thiết là phải đón trước những vấn đề về môi trường không thể tránh khỏi mà công cuộc phát triển sẽ đem lại và phải có những biện pháp đề phòng để giảm nhẹ hậu quả bằng cách thực hiện một chiến lược môi trường phù hợp với phát triển bền vững, thông qua việc sử dụng bền vững các tài nguyên thiên nhiên và lôi cuốn được đại bộ phận nhân dân vào quá trình đó. Công việc hợp tác với các nước phát triển và đang phát triển, nhất là các nước láng giềng là điều quan trọng, tạo sự hỗ trợ mạnh mẽ về kinh nghiệm để giúp Việt Nam đối phó được thử thách về vấn đề môi trường trước tình hình thay đổi nhanh chóng về kinh tế. Sau đây là những vấn đề cấp bách về môi trường cần được quan tâm đúng mức. I- Hiện trạng tài nguyên và môi trường 1- Sự giảm sút độ che phủ và chất lượng rừng là một vấn đề quan trọng Rừng là nguồn tài nguyên sinh vật quý giá nhất của đất nước ta. Rừng không những là cơ sở phát triển kinh tế xã hội mà còn giữ chức năng sinh thái cực kỳ quan trọng. Rừng tham gia vào quá trình điều hoà khí hậu, đảm bảo sự chu chuyển ô xy cà các nguyên tố cơ bản khác trên hành tinh chúng ta, duy trì tính ổn định và độ màu mỡ của đất, hạn chế lũ lụt, hạn hán, ngăn chặn xói mòn đất và bờ biển, sụt lở đất đá, làm giảm nhẹ sức tàn phá khốc liệt của các thiên tai, của sự biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn, bảo tồn nguồn nước mặt và nước ngầm, làm giảm mức ô nhiễm không khí và nước . Qua quá trình phát triển, độ che phủ của rừng ở Việt Nam đã giảm sút đến mức báo động. Chất lượng của rừng ở các vùng còn rừng đã bị hạ thấp quá mức. Đất nước Việt Nam trải dài trên nhiều vĩ tuyến và độ cao, với địa hình rất đa dạng, hơn 3/4 lãnh thổ là đồi núi, lại có khí hậu thay đổi từ điều kiện nhiệt đới ẩm phía Nam, đến điều kiện ôn hòa ở vùng cao phía Bắc, đã tạo nên sự đa dạng về hệ sinh thái tự nhiên và sự phong phú về các lòai sinh vật rừng. Những hệ sinh thái đó bao gồm nhiều lọai rừng như rừng ngập mặn, rừng tràm, rừng ngập nước ngọt, rừng cây lá rộng đai thấp, rừng cây lá rộng nửa rụng lá, rừng rụng lá, rừng trên núi đá vôi, rừng hỗn giao lá rộng và lá kim, rừng lá kim, rừng đai núi cao, rừng tre nứa v.v Trước đây tòan bộ đất nước Việt nam có rừng che phủ, nhưng chỉ mới mấy thập kỷ qua, rừng bị suy thóai nặng nề. Diện tích rừng tòan quốc đã giảm xuống từ chỗ năm 1943 chiếm khoảng 43% thì đến năm 1990 chỉ còn 28,4% tổng diện tích đất nước. Trong mấy năm qua diện tích rừng có chiều hướng tăng lên, 28,8% năm 1998 và năm 2000 theo số liệu thống kê mới nhất thì độ che phủ rừng toàn quốc lên đến là 33,2% (Niên giám Thống kê năm 2000) trong đó: 1- Kontum 63,7% 2- Lâm đồng 63,3% 3- Đắc Lắc 52,0%
  12. 4- Tuyên Quang 50,6% 5- Bắc Cạn 48,4% 6- Gia Lai 48,0% 7- Thái Nguyên 39,4% 8- Yên Bái 37,6% 9- Quảng Ninh 37,6% 10-Hà Giang 36,0% 11- Hoà Bình 35,8% 12- Phú Thọ 32,7% 13-Cao Bằng 31,2% 14- Lào Cai 29,8% 15- Lạng Sơn 29,3% 16-Lai Châu 28,7% 17- Bắc Giang 25,6% 18- Bình Phước 24,0% 19- Sơn La 22,0%. Trên thực tế rừng tự nhiên vẫn còn bị xâm hại, và chỉ còn khoảng 10% là rừng nguyên thủy. Miền Bắc Việt Nam đã chứng kiến sự sa sút lớn nhất về độ che phủ của rừng, giảm từ 95% rừng nguyên thuỷ đến 17% trong vòng 48 năm. Ở nhiều tỉnh miền núi, độ che phủ rừng tự nhiên, nhất là rừng già còn lại rất thấp, thí dụ ở Lai Châu chỉ còn 7,88%; ở Sơn La 11,95%; và ở Lao Cai 5,38%. Từ năm 1995 đến năm 1999 ở 4 tỉnh Tây Nguyên đã có hơn 18.500 ha rừng bị khai phá (Cục kiểm lâm, 1999). Diện tích rừng tự nhiên ở đây hiện nay vẫn liên tục giảm, khai thác vẫn vượt quá mức quy định, khái thác bất hợp pháp chưa ngăn chặn được. Rừng trồng không đạt chỉ tiêu. Khuynh hướng suy giảm tài nguyên còn tiếp diễn (Báo các tổng kết chương trình “Sử dụng hợp lý Tài nguyên và Bảo vệ Môi trường” Mã số KHCN 07 , tháng 12 năm 2001). Theo đề tài KHCN 07-05 “ Nghiên cứu biến động môi trường do thực hiện qui hoạch phát triển kinh tế xã hội và khai thác , sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên Tây Nguyên giai đoạn 1996-2010” thì từ năm 1996 đến năm 2000, ở các tỉnh Tây Nguyên trung bình mỗi năm diện tích rừng tự nhiên mất 10.000 ha (hơn cả diện tích rừng mất đi trung bình hàng năm của kế hoạch 5 năm trước đó). Số liệu này có lẽ còn thấp hơn thực tế nhiều vì có nhiều nơi rừng bị phá mà chính quyền không hề biết. Các xí nghiệp thực hiện việc khai thác gỗ theo chỉ tiêu pháp lệnh thường làm vượt quá chỉ tiêu cho phép và không theo đúng thiết kế được duyệt. Từ năm 1996-1999 các tỉnh Tây Nguyên đã khai thác vượt kế hoạch 31%. Trong lúc đó chỉ tiêu trồng vốn đã đặt thấp nhưng triển khai thực tế lại đạt rất thấp và việc chăm sóc lại kém. Cho đến hết năm 1999 việc trồng rừng trong 4 năm chỉ mới đạt được 36% số diện tích cần trồng trong 5 năm. Sự suy giảm về độ che phủ rừng ở các vùng này là do dân số tăng đã tạo nhu cầu lớn về lâm sản và đất trồng trọt. Kết quả đã dẫn tới việc biến nhiều vùng rừng thành vùng đất hoang cằn cỗi. Trong 10 năm qua, đất nông nghiệp tại Tây Nguyên tăng lên rất nhanh, từ 8,0% năm 1991 lên đến 22,6% năm 2000 (454,3 nghìn ha so với 1.233,6 nghìn ha, gấp 2,7 lần), trong lúc đó đất lâm nghiểp giảm từ 59,2% xuống còn 54,9% đất tự nhiên (3,329 triệu ha so với 2,993 triệu ha), giảm 11%. So sánh trong cả nước thì trong vòng 10 năm qua Tây Nguyên là vùng mà rừng bị giảm sút với mức độ đáng lo ngại nhất, nhất là ở Đắc Lắc. Sự suy giảm về độ che phủ rừng ở các vùng này là do dân số tăng nhanh, nhất là dân di cư tự do, đã tạo nhu cầu lớn về lâm sản và đất trồng trọt. Kết quả đã dẫn đến việc biến nhiều vùng có hệ sinh thái rừng tốt tươi, ổn định thành vùng mà hệ sinh thái bị đảo lộn, mất cân bằng, dẫn đến lũ lụt, sụt lở đất, hạn hán và có nhiều khả năng thiếu nước trong mùa khô, kể cả nguồn nước ngầm.
  13. Trong giai đoạn từ 1990 đến nay, chiều hướng biến chuyển rừng cơ bản vẫn ở tình trạng suy thoái, còn xa mức ổn định và đạt được hiệu quả bảo vệ môi trường. Một số diện tích rừng thứ sinh tự nhiên được phục hồi, nhưng nhiều diện tích rừng già và rừng trồng chưa đến tuổi thành thục đã bị xâm hại, đốn chặt, "khai hoang". Từ năm 1999 đến nay, cháy rừng đã được hạn chế mạnh mẽ và việc khai thác gỗ, săn bắt động vật hoang dã trái phép đã kiểm soát được một phần. Tuy nhiên tình trạng mất rừng và săn bắt động vật hoang dã vẫn ở mức độ nghiêm trọng. Rừng phòng hộ đầu nguồn trên lưu vực những con sông lớn ở nước ta vẫn đang bị phá hại, độ che phủ hiện nay chỉ còn khoảng dưới 20% mà mức báo động là 30% (Báo cáo hiện trạng môi trường Việt Nam năm 2000). Tuy diện tích trồng rừng vẫn tăng lên hàng năm, nhưng với số lượng rất khiêm tốn, mà phần lớn rừng đựơc trồng lại với mục đích kinh tế, sản xuất cây lấy gỗ ngắn ngày, chưa ưu tiên trồng rừng tại các khu vực đầu nguồn. Rừng phòng hộ ở vùng hồ Hoà Bình đang ở mức báo động và đang suy giảm nghiêm trọng. Rừng phòng hộ các hồ chứa quy mô lớn như Trị An, Thác Mơ, Đa Nhim, Đa Mi và Yali đang diễn ra tình trạng tương tự rừng phòng hộ lưu vực hồ Hoà Bình trước kia mà chưa có giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn kịp thời. Rừng trên các vùng núi đá vôi, rừng ngập mặn ven biển vẫn bị tiếp tục xâm hại chưa kiểm soát được. Những sự mất mát về rừng là không thể bù đắp được và đã gây ra nhiều tổn thất lớn về kinh tế, về công ăn việc làm và cả về phát triển xã hội một cách lâu dài. Những trận lụt rất lớn trong mấy năm qua ở hầu khắp các vùng của đất nước, từ Bắc chía Nam, từ miền núi đến miền đồng bằng, nhất là các trận lụt vừa qua ở sáu tỉnh miền Trung, ở Đồng bằng sông Cửu Long, và các trận lũ quét ở một số tỉnh miền Bắc và năm nay (9/2002) tại các tỉnh Hà Tĩnh (Hương Sơn), Nghệ An đã tàn phá hết sức nặng nề về nhân mạng, mùa màng, nhà cữa, ruộng vườn, đường sá , gây tổn thất hàng nghìn tỷ đồng, một phần quan trọng cũng do sự suy thoái rừng, nhất là rừng đầu nguồn bị tàn phá quá nhiều. Trong những năm qua, hạn hán xẩy ra ở nhiều nơi mà chúng ta cho là ảnh hưởng của hiện tượng El nino, nhưng cũng cần nói thêm rằng là các hoạt động phát triển kinh tế thiếu cân nhắc, nhất là phá rừng đã làm cho hạn hán xẩy ra càng thêm nghiêm trọng hơn. Hiện nay, diện tích đất trống đồi núi trọc hay đất chưa sử dụng cả nước, tuy đã giảm được chút ít, nhưng vẫn chiếm diện tích khá lớn, hơn 10.027.000 ha , khoảng 30,5% diện tích tự nhiên. Những khu rừng còn lại ở vùng núi phía Bắc đã xuống cấp, trữ lượng gỗ thấp và bị phân cách nhau thành những đám rừng nhỏ cách biệt nhau. Nhận thức được việc mất rừng là tổn thất duy nhất nghiêm trọng đang đe dọa sức sinh sản lâu dài của những tài nguyên có khả năng tái tạo, nhân dân Việt Nam đang thực hiện một chương trình rộng lớn về xanh hóa những vùng đất bị tổn thất do chiến tranh và sữa chữa những sai lầm trong công cuộc "phát triển nhanh" của mình trong những năm qua. Mục tiêu là trong vòng thế kỷ 21 phủ xanh được 40-50% diện tích cả nước, với hy vọng phục hồi lại sự cân bằng sinh thái ở Việt Nam, bảo tồn đa dạng sinh học và góp phần vào việc làm chậm quá trình nóng lên tòan cầu. Một chương trình nữa về khoanh nuôi rừng và trồng rừng đang được thực hiện bằng cách xây dựng những vùng rừng đệm và rừng trồng kinh tế để cung cấp gỗ củi và gỗ xây dựng cho nhu cầu trong nước. Trong những năm qua việc trồng rừng còn chú ý nhiều đến việc trồng thuần một loài cây hay là trồng các lòai cây du nhập từ nước ngòai
  14. mà chưa chú ý tạo ra những lọai rừng hỗn hợp các lòai cây bản địa, có giá trị kinh tế cao, phù hợp với điều kiện và khí hậu địa phương. Trong những năm qua Chính phủ, Bộ Nông nghịệp và Phát triển nông thôn và chính quyền địa phương đã quan tâm nhiều hơn đến vấn đề bảo vệ rừng và trồng rừng, nên diện tích rừng bị phá huỷ có giảm so với những năm trước, việc trồng rừng tăng nhanh hơn. Các chính sách hỗ trợ công tác bảo vệ và phát triển rừng như Quy định về giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp (Nghị định số 02/CP), Quy định về việc khoán bảo vệ rừng và phát triển rừng (Quyết định “202/TTg), Chỉ thị của Chính phủ về việc tăng cường quản lý bảo vệ rừng (Chỉ thị 286/TTg) đã được quần chúng hoan nghênh và thực hiện. Các văn bản pháp luật, các chính sách thích hợp của Chính phủ và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tạo điều kiện cho sự phát triển nhanh và mạnh hơn về công tác bảo vệ thiên nhiên ở miền núi trong 10 năm qua. Kết quả cụ thể là trong số 10.915.592 ha rừng hiện có của cả nước, có 7.956.592 ha đã được nhà nước giao và công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp cho các “Chủ rừng” (Hà Công Tuấn, 2001*) phân theo các đối tượng như sau: - Doanh nghiệp nhà nước được giao 3.578.394 ha - Ban Quản lý rừng phòng hộ được giao 1.025.204 ha - Ban Quản lý rừng đặc dụng được giao 1.126.979 ha - Xí nghiệp Liên doanh được giao 15.116 ha - Các đơn vị thuộc Lực lượng vũ trang đ. giao 204.764 ha - Hộ gia đình và các đơn vị tập thể được giao 2.006.464 ha Ngoài các hình thức giao đất , giao rừng, trong 10 năm qua một hình thức bảo vệ rừng khác cũng đã được tiến hành ở miền núi là việc “nhận khoán bảo vệ rừng”. Đây là hình thức hợp đồng dài hay ngắn hạn giữa “chủ rừng” với cá nhân, hộ gia đình, tập thể hay các cơ quan, đơn vị của nhà nước để tăng cường công tác bảo vệ rừng. Tới nay đã có 918.326 ha rừng đã được nhận khoán quản lý bảo vệ và 214.000 ha rừng đã được các cộng đồng địa phương quản lý theo hình thức truyền thống (Hà Công Tuấn, 2001 ). Thật khó mà ước tính được tổn thất về rừng và lâm sản hiện nay ở Việt nam. Theo thống kê thì năm 1991 có 20.257 ha rừng bị phá, năm 1995 giảm xuống còn 18.914 ha và năm 2000 là 3.542 ha. Tuy nhiên theo Báo cáo hiện trạng môi trường Việt nam năm 2000 thì có thể ước định rằng tỷ lệ mất rừng hiện nay là khỏang 120.000 đến 150.000 ha/năm và rừng trồng hàng năm khỏang 200.000 ha và mục tiêu là trồng càng nhanh càng tốt để dạt 300.000 ha/năm. Tuy nhiên theo kết qủa tổng kiểm kê rừng toàn quốc tháng 01/2001 thì đến năm 1990 cả nước có 745.000 ha rừng trồng, và đến năm 2000 tổng diện tích rừng trồng của cả nước là 1.471.394 ha, như thế có nghĩa là trong 10 năm Tham khảo trong Báo cáo “Công tác Bảo vệ Thiên nhiên ở Miền núi trong 10 năm qua, những thuận lợivà khó khăn” của Vũ Văn Dũng.
  15. qua, từ năm 1990 đến 2000 chúng ta chỉ trồng được có 726.394 ha thành rừng, trung bình đạt 72.639,4 ha/năm, chiếm hơn 30% tổng diện tích trồng rừng hàng năm, một kết quả hết sức thấp so với mong muốn??. Chương trình trồng 5 triệu hecta rừng trong những năm sắp tới đang được các địa phương tích cực thực hiện. Theo kế họach của Bộ NNPTNT thì 2 triệu hec ta rừng sẽ được hồi phục và trồng dặm thêm, 2 triệu hec ta trồng mới và 1 triệu hec ta sẽ trồng các cây công nghiệp (Lê Huy Ngọ, 1999). Dù cho các chương trình trồng rừng có đạt được sớm mà kết quả thành rừng thấp như trong 10 năm vừa qua thì cũng chưa thể bù đắp ngay được mức phá rừng hiện tại và cũng khó đạt được mục tiêu đề ra là vào cuối thập kỷ này độ che phủ rừng đạt 43% diện tích tự nhiên cả nước. 2- Chất lượng đất và diện tích đất trồng trọt trên đầu người giảm sút nghiêm trọng Việt Nam có đất tự nhiên rộng hơn 32.924.061 hec ta, gồm nhiều loại đất. Về mặt kinh tế , tài nguyên đất có thể chia ra thành các loại như sau: đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất dành cho các sử dụng đặc biệt và đất chưa sử dụng. T heo tổng kiểm kê đất đai năm 2000 (Báo nhân dân ngày 4/3/2001) các loại đất đó phân ra như sau: . Diện tích đất nông nghiệp là 9.345.346 ha, chiếm 28,4% diện tích tự nhiên, tăng 928.712 ha so với năm 1998; . Diện tích đất lâm nghiệp là 11.575.429 ha, chiếm 35,1% diện tích tự nhiên, tăng 1.190.347 ha so với năm 1995; . Diện tích đất chuyên dùng là 1.532.843 ha, chiếm 4,6% diện tích đất tự nhiên, tăng 155.493 ha so với năm 1998; . Diện tích đất ở là 443.178 ha, chiếm 1,8% diện tích tự nhiên, tăng 2.538 ha so với năm 1995; . Diện tích đất chưa sử dụng là 10.027.265 ha, chiếm 30,5% diện tích tự nhiên, giảm 640.312 ha so với năm 1998. Tuy nhiên bình quân diện tích đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất ở, đất chuyên dùng trên đầu người vẫn giảm do tỷ lệ tăng dân số cao. Đa số diện tích chưa sử dụng nằm ở vùng đất trống, đồi núi trọc và các loại đất có vấn đề ở đồng bằng. Trong số 10.027.265 ha đất chưa sử dụng có 7.505.562 ha là đất đồi núi, 709.528 ha ở đồng bằng, 1.772.900 ha là sông suối, núi đá. Phần lớn diện tích đất chưa sử dụng này nằm ở vùng địa hình dốc, đất khô cằn, rắn, chua, nghèo dinh dưỡng. Các dẫn liệu về sử dụng đất ở nước ta cho thấy: quỹ đất ít, chỉ số bình quân đất đai tính theo đầu người rất thấp và có xu thế ngày càng giảm, đặc biệt đối với đất nông nghiệp: Hiệu quả sử dụng đất thấp, mới đạt 1,6
  16. Diện tích đất trồng một vụ còn chiếm 27% đất trồng cây hàng năm Năng suất của đa số các cây trồng chính còn thấp. Ơ Việt nam tuy đất nông nghiệp đã chiếm 28,4% diện tích đất tự nhiên, song bình quân đầu người rất thấp: năm 1991 là 1042 m2, năm 1995 là 1022 m2, năm 2000 là 1202 m2. Tỷ lệ này sẽ hạ thấp hơn nữa trong những năm sắp tới do dân số còn tăng và đất thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp lại rất hạn chế, (chỉ chiếm 25% đất nông nghiệp) chủ yếu thuộc các vùng đồng bằng, phần còn lại là đất có nhiều nguy cơ bị thoái hoá, rửa trôi thuộc miền núi. Tính riêng các tỉnh miền núi , tuy đất rộng người thưa nhưng đất nông nghiệp lại hiếm, và cũng không đồng đều. Tỉnh Bình Phước có diện tích đất nông nghiệp cao nhất đạt 6280 m2/người vào năm 2000, 4 tỉnh Tây Nguyên đạt 2904 m2, 3 tỉnh Tây Bắc đạt 1781 m2, còn 11 tỉnh Đông Bắc thấp nhất chỉ đạt 1002 m2, thấp hơn bình quân diện tích nông nghiệp trên đầu người cả nước trong cùng thời gian. Thoái hoá đất Việt Nam có gần 25 triệu ha đất dốc (76% diện tích đất tự nhiên) với nhiều hạn chế cho sản xuất nông nghiệp, trong đó có hơn 12,5 triệu ha đất xấu và trên 50% diện tích đồng bằng là "đất có vấn đề". Cụ thể là 0,82 triệu ha đất phèn, 0,54 triệu ha đất cát, 2,06 triệu ha đất xám bạc màu, 0,5 triệu ha đất xói mòn mạnh trơ sỏi đá, 0,24 triệu đất ngập mặn, 0,47 ha đất lầy úng, 8,5 triệu ha đất có tầng mặt mỏng ở vùng đồi núi. Các loại đất có nhiều hạn chế nói trên chiếm 14,13 triệu hay 42,8% đất tự nhiên cả nước . Những quan trắc từ nhiều năm qua cho thấy : Thoái hoá đất là xu thế phổ biến đối với nhiều vùng đất rộng lớn, đặc biệt là vùng đồi núi, nơi tập trung hơn 3/4 quỹ đất, nơi cân bằng sinh thái đã bị phá vỡ nghiêm trọng do không có rừng che phủ. Mặn hoá, phèn hoá, lầy hoá trên quy mô diện tích hàng triệu ha vùng đồng bằng cũng là nguyên nhân chủ yếu làm ngừng trệ khả năng sản xuất của đất. Tại nhiều vùng sự suy thoái đất còn kéo theo cả suy thoái về hệ thực vật, động vật và môi trường địa phương và đồng thời làm cho diện tích đất nông nghiệp trên đầu người giảm xuống đến mức báo động. Trong thời kỳ đổi mới , cùng với những thành tựu về phát triển kinh tế – xã hội , những biến động về tài nguyên đất ngày càng trở nên rõ rệt. Về môi trường đất , lượng phân bón dùng trên một hec ta gieo trồng còn thấp so với mức trung bình thế giới (80 kg/ha so với 87 kg/ha), và mới chỉ bù đắp được khoảng 30% lượng dinh dưỡng do cây trồng lấy đi. Mặt khác, sự mất cân bằng trong sử dụng phân hoá học đang là thực trạng phổ biến. Tình hình đó là nguyên nhân của việc giảm độ phì nhiêu của đất và hiện tượng thiếu kali hoặc lưu huỳnh ở một số nơi, ảnh hưởng tới năng suất cây trồng. Về hoá chất bảo vệ thực vật, trong danh mục 109 loại đang được sử dụng tại Đồng bằng Sông Hồng, có những loại đã bị cấm sử dụng” Trong các vùng thâm canh, tần suất sử dụng thuốc khá cao, nhất là đối với rau quả, cho nên dư lượng trong đất khá cao, kể cả trong sản phẩm (Báo cáo tổng kết chương trình “Sử dụng hợp lý Tài nguyên và Bảo vệ Môi trương “ Mã số KHCN 07, tháng 12 năm 2001).
  17. Tác động của việc thoái hoá đất làm cho nước ta đang đứng trước những thử thách lớn phải giải quyết nhiều vấn đề nghiêm trọng về môi trường đất, nhằm đảm bảo sự an toàn lương thực và sự tồn tại của cả dân tộc với gần 100 triệu dân vào những năm 2010. Nguyên nhân suy thoái đất ở nước ta rất phức tạp và thường bắt nguồn từ điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và hậu quả chiến tranh. Về tự nhiên: Đa số diện tích là đồi núi mà độ che phủ rừng lại thấp , mưa tập trung vào một số tháng với lượng mưa trên 20% dưới dạng mưa rào, tạo nên quá trình rửa trôi xói mòn đất mạnh; hạn hán, lũ lụt, bão tố xẩy ra thường xuyên . Về kinh tế xã hội: Nguyên nhân kinh tế xã hội ảnh hưởng đến suy thoái đất rất phức tạp . Sau đây là những nguyên nhân chính: . Phương thức canh tác nương rẫy vẫn diễn ra ở miền núi; . Tình trạng chặt phá, đốt rừng bừa bãi do khai thác không hợp lý; . Việc chuyển dân lên trung du, miền núi định cư chưa được chuẩn bị tốt về quy hoạch, kế hoạch và đầu tư; . Di dân tự do không được quản lý; . Việc quản lý đất đai chưa có hiệu lực; . Sức ép tăng dân số và tình trạng đói nghèo; . Kỷ thuật tiến bộ về nông lâm nghiệp chưa được phổ biến rộng rãi; . Dân trí còn thấp, việc thực thi pháp luật còn hạn chế. . Sự tàn phá của chiến tranh, nhất là chất độc hoá học. Trong mấy năm qua, nhà nước đã có những biện pháp để đẩy mạnh việc trồng rừng, đặc biệt là trên các vùng đất trống đồi núi trọc. Đã áp dụng những chiến lược để từng bước giảm bớt việc chặt phá rừng và đốt nương làm rẫy. Cũng đã tiến hành một số biện pháp để duy trì và tăng thêm dộ phì của đất như canh tác theo đường đồng mức, dùng phân bón hữu cơ và vô cơ , xây dựng hệ thống tưới tiêu nước, thau chua rửa mặn, sống chung với lũ và cải tiến việc quản lý. Nhìn chung việc sử dụng đất ở Việt Nam đã có những tiến bộ đáng kể trong mấy năm qua, đóng góp một phần quan trọng trong việc cải thiện điều kiện sống cho nhân dân và cho việc ổn định và phát triển kinh tế nước nhà. Điều cần lưu ý là chất lượng đất ở nhiều nơi, đặc biệt là ở miền Bắc và Cao nguyên Trung bộ đã suy giảm nghiêm trọng, do thâm canh, đốt nương làm rẫy và phá rừng. Tất cả những hoạt động đó đã làm mất đi lớp đất mặt và các chất dinh dưỡng trong đó nguyên nhân xói mòn và rửa trôi là chính. Bởi vậy tại nhiều vùng trên rẻo cao và trung du có dân cư đông đúc, như ở một số tỉnh thuộc các vùng Tây Bắc và Đông Bắc nạn xói mòn đất và những vấn đề
  18. về cuộc sống của dân địa phương sẽ khó khắc phục nếu không tìm được nguồn thu nhập khác thay thế và không giảm nhẹ được sức ép về dân số. Tại cao nguyên Tây Nguyên, nơi có nhiều tiềm năng về nông nghiệp, nhưng do bị mất rừng quá nhanh, tạo nên mất cân bằng sinh thái mà đất đã bị xuống cấp, hiện đang bị chua hoá, hàm lượng chất dinh dưỡng bị suy thoái và có nhiều nguy cơ bị thiếu nước vào mùa khô. Kết quả nghiên cứu đã cho biết : qua trồng chè ở vùng đất bazan, đất bị mất khoảng 120 tấn khô/năm; chất dinh dưỡng bị mất như sau: . Chất hữu cơ 5.600 kg/ha/năm . Nitrogen 199,2 kg/ha/năm . Phốt pho 163.2 kg/ha/năm . Ca-Mg 33-24 kg/ha/năm Đại bộ phận đất trồng trọt ở châu thổ sông Cửu Long, trong đó có tới 40% là vùng phù sa trẻ đã bị ảnh hưởng. Do hàm lượng chất hữu cơ thấp, khả năng trao đổi ion thấp, độ a xít cao và bị nhiễm mặn theo mùa, mà việc canh tác gặp nhiều khó khăn. 3- Hiện tượng thiếu nước ngọt và sự nhiễm bẩn nước ngọt ở nhiều nơi đã trở thành nhân tố quan trọng Việt Nam là một trong những nước có tài nguyên nước phong phú trên thế giới. Lượng mưa bình quân nhiều năm là 1960 mm. Mùa mưa kéo dài 6-7 tháng, tuy nhiên thời kỳ bắt đầu và kết thúc mùa mưa có sự khác nhau giữa các vùng. Nhờ có mạng lưới sông ngòi dày nên nước được phân bố tương đối đều trong cả nước, đáp ứng được nhu cầu nước khá đồng đều trong các khu vực. Tài nguyên nước mặt có thể khai thác để phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của nhân dân cũng như làm thuỷ điện, nông nghiệp và phát triển giao thông vận tải. Tiềm năng nước ngầm khoảng 48 tỷ m3/năm (131,5 triệu m3/ngày) và trữ lượng khai thác dự báo 6-7 tỷ m3/năm (17-20 triệu m3 ngày). Nhìn chung tài nguyên nước ngọt Việt nam tương đối cao, ước tính 64.000 m3/người/năm. Tuy nhiên, do hạn chế về tài chính và kỷ thuật nên tài nguyên này còn chưa được bảo tồn và sử dụng tốt (Hiện trạng môi trường năm 2000). Việc phá rừng mà hậu quả là việc bồi lắng ở mức độ cao do xói mòn đất đã làm giảm hiệu năng của những dòng kênh và tuổi thọ của các hồ chứa. Năm 1991 hai công trình thuỷ điện quan trọng ở miền Trung là Đa Nhim và Trị An đã không vận hành được bình thường vào mùa khô vì thiếu nước nghiêm trọng. Những hồ nhỏ hơn như Cấm Sơn , Sông Hiếu, Bộc Nguyên ở miền Bắc đã bị bồi lắng trầm trọng sau 10 năm hoàn thành công trình. Do độ che phủ của rừng đang giảm dần nên lụt lội và hạn hán trên nhiều vùng xẩy ra thường xuyên hơn, đặc biệt là ở miền Bắc và miền Trung kể cả ở Tây Nguyên. Trong hai thập kỷ qua , tần suất hạn hán có chiều hướng gia tăng. Ơ Đắc Lắc, trung bình ba năm xẩy ra một lần . Lũ quét-lũ bùn đá xuất hiện với tần suất cao hơn và mức độ
  19. ác liệt hơn. Qua tính toán thử trên một số lưu vực cho phép dự báo nhiều lưu vực nhỏ ở Tây Nguyên đều có nguy cơ xẩy ra lũ quét (Báo cáo tổng kết chương trình “Sử dụng hợp lý Tài nguyên và Bảo vệ Môi trương “ Mã số KHCN 07, tháng 12 năm 2001). Nhiều vùng bị thiếu nước trầm trọng, nhất là Đồng Văn, Lai Châu, Hà Tĩnh và Quảng Trị, ở đó vào mùa khô , nhiều nơi nhân dân phải đi 5-10 cây số để kiếm nước. Một số làng bản đã phải rời đi nơi khác vì thiếu nước trong mùa khô. Tình trạng ô nhiễm nước do nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp đã trở thành vấn đề quan trọng tại nhiều thành phố, thị xã, đặc biệt là tại các thành phố lớn như Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Hà Nội, và tại các khu công nghiệp. Ô nhiễm nước do hoạt động nông nghiệp cũng là vấn đề nghiêm trọng tại nhiều miền thôn quê, đặc biệt tại châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long. Hiện tượng nhiễm mặn hay chua hoá do quá trình tự nhiên và do hoạt động của con người đang là vấn đề nghiêm trọng ở vùng châu thổ sông Cửu Long. Ơ một số vùng ven biển, nguồn nước ngầm đã bị nhiễm bẩn do thấm mặn hoặc thấm chua phèn trong quá trình thăm dò hoặc khai thác (Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Quảng Ninh, Vinh). Trong mấy năm qua việc khai thác nước ngầm quá mức đã làm giảm lượng nước, như ở thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và Tây Nguyên. Việc khai thác nước ngầm tại Hà Nội trong những năm qua đã làm giảm từ 29 cm đến 35 cm. Thành phần hoá học của nước ngầm biến động theo xu hướng làm suy giảm chất lượng nước, chủ yếu do nguyên nhân tự nhiên. Nhiễm bẩn vi sinh vật xẩy ra ở một số nơi, chủ yếu do nhiễm bẩn từ trên mặt đất. Mặc dù Việt nam có tài nguyên nước phong phú, nhưng thực tế ở nhiều vùng vấn đề thiếu nước và nhiễm bẩn nước do hoá chất nông nghiệp, công nghịệp, nước thải sinh hoạt đã trở thành vấn đề quan trọng và ngày càng gia tăng. Tỷ lệ dân số sử dụng nước sạch hiện nay là khoảng 50%, trong đó đô thị chiếm 70% và nông thôn chỉ 30%. Từ nay cho đến năm 2040, tổng nhu cầu nước ở Việt nam có thể chưa vượt quá 50% tổng nguồn nước, song vì có sự khác biệt lớn về nguồn nước tại các vùng khác nhau và vào các mùa khác nhau và do nạn ô nhiễm gia tăng cho nên nếu không có chính sách đúng đắn thì nhiều nơi sẽ bị thiếu nước trầm trọng. 4- Môi trường biển và vùng ven biển đã xuống cấp trầm trọng Việt Nam có bờ biển dài hơn 3.260 km, với đặc điểm có nhiều vùng đất ngập nước và nhiều kiểu hệ sinh thái biển, kể cả khoảng 100 hệ thống cửa sông lớn nhỏ, cùng với rừng ngập mặn và bãi bùn (khoảng 290.000 ha), những đầm lầy ngập nước theo mùa, những đụn cát ven biển, những đầm phá nước mặn và nước lợ (khoảng 100.000 ha), và nhiều rạn san hô gần bờ, thảm cỏ biển, và khoảng 10.000 đảo lớn nhỏ. Biển và ven biển đem lại lợi ích kinh tế trực tiếp, như nông nghiệp, thuỷ sản, lâm nghiệp đồng thời đem lại lợi ích gián tiếp cho con người. Các vùng đầm lầy có rừng ngập mặn và các cữa sông có ý nghĩa sinh thái đặc biệt, là chỗ đẻ trứng, nuôi ấu trùng, nơi kiếm ăn cho nhiều loài có giá trị kinh tế như cá, ốc, tôm, cua và nhiều loài hai mãnh vỏ và là nơi cung cấp thực phẩm quan trọng cho người nghèo. Các đầm phá ven bờ là hệ sinh thái có sức sinh sản cao do ở đây có hàm lượng chất dinh dưỡng cao hơn vùng biển, ngay cả trong mùa khô. Ơ đây có thể khai thác
  20. nhiều loài động vật, nhất là cá, tôm, cua, ốc, hàu và rong câu. Những rạn san hô là nơi quy tụ nhiều chất dinh dưỡng, nhiều loài sinh vật biển và là nơi ẩn nấp và sinh sản của nhiều loài hải sản quan trọng. Các đụn cát, rừng ngập mặn và các rạn san hô cũng tạo nên vùng đệm, ngăn cản tác hại của lũ lụt, xói mòn đất, sóng bão. Tài nguyên biển đa dạng là nguồn thực phẩm và là nguồn thu nhập quan trọng cho phần lớn nhân dân ở ven biển. Trữ lượng các loài cá biển khoảng 3 triệu tấn; trữ lượng tôm he và tôm vỗ khoảng 57.330 tấn với khả năng khai thác 20.000 tấn. Các loài cua, ghẹ, ngao đá, nghêu, sò huyết có khả năng khai thác lớn. Ngoài ra còn có các loài đặc sản có giá trị như tu hài, vẹm xanh, điệp, hàu, bào ngư, ốc hương, tổ yến cũng là nguồn lợi lớn từ biển và ven biển nước ta. (Hiện trạng môi trường Việt Nam năm 2000). Hàng năm lượng cá đánh bắt được lên tới hàng triệu tấn, trong đó phần quan trọng dành cho xuất khẩu. Khoảng 80-90% sản lượng cá biển đánh bắt được là từ vùng nước nông ven bờ. Nghề biển đã cung cấp khoảng 30% lượng đạm động vật cho nhân dân Việt nam. Những hệ sinh thái biển và ven biển nước ta đang nhanh chóng bị xuống cấp hoặc bị biến đổi. Mặc dù trong chiến tranh hàng loạt những vùng rừng ngập mặn ở phía Nam đã bị tàn phá, rồi đã được trồng lại, nhưng áp lực kinh tế hiện thời đã biến rừng ngập mặn thành nơi cày cấy hoặc nuôi trồng thuỷ hải sản theo kiểu không bền vững. Nghề đánh bắt cá ven bờ đang khai thác quá mức, các rạn san hô bị xuống cấp do những cách đánh bắt có tính huỷ diệt, và bị cạy lên để nung vôi. Do phần lớn dân cư sinh sống ở vùng gần ven biển, việc sản xuất nông nghiệp và việc phát triển công nghiệp đều tập trung ở vùng này như ở châu thổ sông Hồng, sông Cửu Long, nên tình trạng ô nhiễm công nghiệp và đô thị cùng nhiều hình thức phát triển khác trong vùng lưu vực sông là mối đe doạ nghiêm trọng đối với tài nguyên ven biển và tài nguyên biển. Trong những năm tới, dự kiến mức tăng trưởng trong hoạt động kinh tế, nhất là việc đẩy mạnh nông nghiệp, phát triển tài nguyên nước và công nghiệp, xây dựng bến cảng, khai thác và vận chuyển dầu sẽ tăng thêm sức ép lên vùng ven biển và tài nguyên biển. Ngành du lịch sẽ nhanh chóng được mở rộng ở Việt nam, và cũng sẽ gây thêm sức ép lên nhiều vùng bờ biển quý giá như vịnh Hạ long, Vũng Tàu và vùng bờ biển dài miền Trung. 5- Diện tích vùng đất ngập nước đã bị giảm đi nhanh vì hoạt động của con người Việt Nam có vùng đất ngập nước đa dạng gồm những vùng cửa sông và châu thổ rộng lớn với nhiều rừng ngập mặn, bãi bùn theo thuỷ triều, những vùng trồng lúa hoặc rừng tràm ngập nước theo mùa, nhiều đảo ven bờ, những đầm phá nước lợ và nước mặn rộng lớn, những bãi ruộng muối và ao nuôi thuỷ sản, nhiều hồ đầm nước ngọt, hồ chứa nước và vô số sông suối. Đa số vùng đất ngập nước nằm ở phía nam đất nước, trong lưu vực sông Cửu Long với hệ thống sông ngòi và kênh mương chằng chịt, và vùng đồng lúa rộng lớn, hoặc rừng ngập mặn, rừng tràm, bãi bùn theo thuỷ triều, ao đầm nuôi tôm cá. Ơ miền trung, đa số đất ngập nước là các đầm phá ven biển và hồ chứa nước, còn ở miền Bắc lại
  21. có rất nhiều hồ , đầm trong vùng lưu vực sông Hồng, những bãi triều và rừng ngập mặn trải dài suốt vùng bờ châu thổ. Ngoài chức năng sinh thái, đất ngập nước ở Việt nam đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, và khả năng khai thác vùng này trong cả nước là rất cao. Đất ngập nước Việt nam là nơi sinh sống của nhiều loài hoang dã. Đầm lầy ven biển là địa bàn khá quan trọng cho các loài chim nước di trú và chỗ trú đông cho chừng 100 loài . Hàng đàn vịt và ngỗng trời, chừng hàng vạn con về đây vào mùa đông kiếm ăn ở các đầm lầy lưu vực sông Hồng, mặc dù số lượng của chúng có giảm đi đáng kể trong thập kỷ qua. Rừng ngập mặn và rừng tràm ở lưu vực sông Cửu Long là nơi sinh sống của nhiều loài chim như các loài cò diệc, cốc, cò quắm, vịt trời và các loài chim nước khác và một số loài chim hiếm như sếu đầu đỏ, cò ốc, già đẫy lớn và cò lạo Java. Những năm qua tại tỉnh Minh Hải và một số tỉnh lân cận đã có nhiều nơi chim tập trung làm tổ tạo thành các sân chim, máng chim khá lớn. Do nhu cầu lớn về sản lượng lương thực, nhiều vùng đất ngập nước rộng lớn đã bị tiêu nước để canh tác. Ơ lưu vực sông Cửu Long, trong thời kỳ chiến tranh ước tính có khoảng 124.000 hec ta rừng ngập mặn (chiếm khoảng 40-50%) đã bị phá huỷ do chất độc hoá học, và sau đó rừng ngập mặn và rừng tràm lại tiếp tục bị chặt phá làm than củi, gỗ xây dựng và để làm ao nuôi cá, tôm. Vì rừng đất ngập nước có chức năng sinh thái quan trọng trong việc tạo nơi sinh sản và nuôi dưỡng nhiều loài động vật nên việc mất rừng ở đây (rừng ngập mặn và rừng tràm) có ảnh hưởng nghiêm trọng hơn mất rừng ở vùng cao hay rừng đầu nguồn về nhiều phương diện. Diện tích rừng ngập nước hiện nay chỉ còn khoảng 30% (gần 1,2 triệu hec ta) của độ che phủ của loại rừng này vào những năm 1940. Phần lớn diện tích rừng tự nhiên còn lại và rừng trồng sau ngày giải phóng lại bị phá huỷ để mở rộng tràn lan việc nuôi tôm theo kiểu không bền vững trên vùng đất chua phèn của lưu vực sông Cửu Long. Do việc đắp bờ và quản lý kém và chưa thích hợp, các ao nuôi tôm kiểu này chỉ dùng được thời gian ngắn. Riêng ở tỉnh Minh Hải, nơi đã từng có 50.000 hecta (54%) rừng ngập mặn bị phá huỷ trong năm 1982 đến năm 1992, cái giá phải trả cho việc nuôi tôm quảng canh này lên tới 140 triệu đô la Mỹ. Nếu cứ tiếp tục cách làm trên thì một thập kỷ nữa mức thiệt hại sẽ lên đến 249 triệu (WB) . Tình hình tương tự cũng đang xẩy ra với các rừng tràm, nơi giàu tính đa dạng sinh học và các lâm sản hơn cả vùng rừng ngập mặn ven biển. Nói chung đất ngập nước Việt Nam đang gặp những mối nguy hại vì những lý do sau: . Dân số ngày càng tăng . Sự can thiệp của con người làm rối loạn hệ thống tự nhiên . Ô nhiễm nước do nước thải công nghiệp và sinh hoạt, đặc biệt do thuốc trừ sâu từ các vùng nông nghiệp . Đánh bắt quá mức và các hoạt động phá huỷ sinh thái
  22. . Phá rừng ngập mặn và rừng tràm lấy gỗ củi, đốt than và làm ao nuôi tôm , nuôi trồng thuỷ sản thíếu quy hoạch 6- Đa dạng sinh học đang giảm sút nhanh chóng Ở Việt Nam do sự khác biệt lớn về khí hậu từ vùng gần xích đạo tới giáp vùng cận nhiệt đới, cùng với sự đa dạng về địa hình đã tạo nên sự đa dạng về thiên nhiên và cũng do đó mà Việt Nam có tính đa dạng sinh học cao. Một dải rộng các thảm thực vật bao gồm nhiều kiểu rừng phong phú đã được hình thành ở các độ cao khác nhau, như các rừng thông chiếm ưu thế ở vùng ôn đới và cận nhiệt đới, rừng hỗn loại lá kim và lá rộng, rừng khô cây họ Dầu ở các tỉnh vùng cao, rừng họ Dầu địa hình thấp, rừng ngập mặn chiếm ưu thế ở ven biển châu thổ Sông Cửu Long và Sông Hồng, rừng tràm ở đồng bằng Nam bộ và rừng hỗn lọai tre nứa ở nhiều nơi. Mặc dù có những tổn thất quan trọng về diện tích rừng trong một thời kỳ kéo dài nhiều thế kỷ, hệ thực vật rừng Việt nam vẫn còn phong phú về chủng loại. Cho đến nay đã thống kê được 11.373 loài thực vật bậc cao có mạch, và 2.393 loài thực vật bậc thấp (Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật), trong đó có 793 loài Rêu (Bryophyta), 2 loài Quyết trần (Psilotophyta), 57 loài Thông đất (Lycopodiophyta), 2 loài Cỏ Tháp bút (Equisetophyta), 664 loài Dương xỉ (Polypodiophyta), 63 loài Thực vật Hạt trần (Gymnospermatophyta) và 9812 loài Thực vật Hạt kín (Angiospermatophyta) (Nguyễn Nghĩa Thìn , 1997). Trong số các loài thực vật đã thống kê có gần 2000 loài cây lấy gỗ, 3000 cây làm thuốc, hơn 100 loài tre nứa và khoảng 50 loài song mây. Theo dự đoán của các nhà thực vật học số loài thực vật bậc cao có mạch ít nhất sẽ lên đến gần 20.000 loài, trong đó có nhiều loài đã được nhân dân ta dùng làm nguồn lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thức ăn cho gia súc, lấy gỗ, tinh dầu và nhiều nguyên vật liệu khác. Chắc rằng trong hệ thực vật Việt Nam còn nhiều loài mà chúng ta chưa biết công dụng của chúng. Cũng có thể có rất nhiều loài có tiềm năng là một nguồn cung cấp sản vật quan trọng - dược liệu chẳng hạn. Hơn nữa hệ thực vật Việt Nam có mức độ đặc hữu cao. Tuy rằng hệ thực vật Việt Nam không có các họ đặc hữu và chỉ có khoảng 3% số Chi là đặc hữu (như các Chi Ducampopinus, Colobogyne) nhưng số loài đặc hữu chiếm khoảng 33% số loài thực vật ở miền Bắc Việt Nam (Pocs Tamas, 1965) và hơn 40% tổng số loài thực vật toàn quốc (Thái văn Trừng, 1970). Phần lớn số loài đặc hữu này tập trung ở bốn khu vực chính: khu vực núi cao Hoàng Liên Sơn ở phía Bắc, khu vực núi cao Ngọc Linh ở miền Trung, cao nguyên Lâm Viên ở phía Nam và khu vực rừng mưa ở phần Bắc Trung Bộ. Nhiều loài là đặc hữu địa phương chỉ gặp trong một vùng rất hẹp với số cá thể rất thấp. Các loài này thường rất hiếm vì rằng các khu rừng ở đây thường bị chia cắt thành những mảnh nhỏ hay bị khai thác một cách mạnh mẽ. Bên cạnh đó, do đặc điểm cấu trúc, các kiểu rừng nhiệt đới ẩm thường không có loài chiếm ưu thế rõ rệt nên số lượng cá thể của từng loài thường hạn chế và một khi đã bị khai thác, nhất là khai thác không hợp lý thì chúng chóng bị kiệt quệ. Đó là tình trạng hiện nay của một số loài cây gỗ quý như Gõ đỏ (Afzelia xylocarpa) Gụ mật (Sindora siamensis) nhiều loài cây làm thuốc như Hoàng liên chân gà (Coptis chinensis), Ba kích (Morinda officinalis) thậm chí có nhiều loài đã trở nên rất hiếm hay có nguy cơ bị tiêu diệt như Thuỷ tùng (Glyptostrobus
  23. pensilis) Hoàng đàn (Cupressus torulosa) Bách xanh (Calocedrus macrolepis), Cẩm lai (Dalbergia bariensis), Pơ Mu (Fokienia hodginsii) v.v Hệ động vật Việt Nam cũng hết sức phong phú. Hiện đẫ thống kê được 275 loài thú, 830 loài chim, 258 loài bò sát, 82 loài ếch nhái, 544 loài cá nước ngọt, 2.038 loài cá biển và thêm vào đó có hàng chục nghìn loài động vật không xương sống ở cạn, ở biển và nước ngọt (Đào Văn Tiến, 1985, Võ Quý 1997, Đặng Huy Huỳnh, 1978, Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật, 2000). Hệ động vật Việt Nam không những giàu về thành phần loài mà còn có nhiều nét độc đáo, đại diện cho vùng Đông Nam Á. Cũng như thực vật giới, động vật giới Việt Nam có nhiều dạng đặc hữu : hơn 100 loài và phân loài chim và 78 loài và phân lòai thú là đặc hữu. Có rất nhiều loài động vật có giá trị thực tiễn cao và nhiều loài có ý nghĩa lớn về bảo vệ như Voi, Tê Giác Java, Bò rừng, Bò tót, Trâu rừng, Bò xám, Nai cà tông, Hổ , Báo, Cu ly, Vượn, Voọc vá, Voọc xám, Voọc mông trắng, Voọc mũi hếch, Voọc đầu trắng, Sếu đầu đỏ, Cò quắm cánh xanh, Cò quắm lớn, Ngan cánh trắng, nhiều loài trĩ, cá sấu, trăn, rắn và rùa biển. Theo tài liệu "Xem lại hệ thống các khu bảo vệ vùng Đông Dương - Mã Lai" của IUCN/CNPPA (Review of the Protected Areas System in the Indo - Malayan Realm, MacKinnon, MacKinnon, 1986) thì Việt Nam khá giàu về thành phần loài và có mức độ cao về tính đặc hữu so với các nước trong vùng phụ Đông Dương. Trong số 21 loài khỉ có trong vùng phụ này thì ở Việt Nam có 15 loài, trong đó có 7 loài đặc hữu của vùng phụ (Eudey, 1987). Có 49 loài chim đặc hữu trong vùng phụ, ở Việt Nam có 33 loài, trong đó có 13 loài đặc hữu của Việt Nam, so với Miến Điện, Thái Lan, Mã Lai, Hải Nam, mỗi nơi chỉ có 2 loài, Lào một loài và Cam pu chia không có loài đặc hữu nào cả. Khi xem xét về sự phân bố của các loài động vật nói chung và các loài chim và loài thú nói riêng ở trong vùng phụ Đông Dương, chúng ta có thể nhận rõ rằng Việt Nam là một trong những vùng xứng đáng có ưu tiên cao về vấn đề bảo vệ. Không những thế, hiện nay ở Việt Nam vẫn còn có những phát hiện mới rất lý thú. Chỉ trong 2 năm 1992 và 1994 đã phát hiện được ba loài thú lớn, trong đó có hai loài thuộc vùng rừng Hà Tĩnh là loài Sao la (Pseudoryx nghetinhensis) và loài Mang lớn hay còn gọi là Mang bầm (Megamuntiacus vuquangensis), nơi mà trước đây không lâu đã phát hiện loài trĩ cuối cùng trên thế giới, loài Gà lam đuôi trắng hay còn gọi là Gà lừng (Lophura hatinhensis). Năm 1994 một loài thú lớn mới thứ ba là loài Pseudonovibos spiralis ở Tây Nguyên, tạm gọi là lòai bò sừng xoắn được công bố và năm 1997 một loài thú lớn mới nữa cho khoa học được mô tả, đó là lòai Mang Trường Sơn (Muntiacus truongsonensis) tìm thấy lần đầu tiên ở Vùng Hiên, thuộc tỉnh Quảng Nam và đã chụp được ảnh tại Pù Mát, Nghệ An. Cũng tại đây vào năm 1998 đã chụp được ảnh của một loài thỏ lạ mà từ trước đến nay khoa học chưa biết là loài thỏ vằn (Nesolagus temminsi). Gần đây ba lòai chim mới được phát hiện ở Tây Nguyên là loài khướu Ngọc Linh (Garrulax ngoclinhensis), lòai khướu vằn mào đen (Actinodura sodangorum) và loài khướu Kong Ka Kinh (Garrulax konkakingensis). Một điều kỳ lạ nữa là loài rùa nước ngọt lớn nhất thế giới, sống trong hồ Hoàn Kiếm giữa thủ đô Hà Nội mà nhân dân Việt Nam đã biết từ nhiều trăm năm về trước vừa được công bố là một loài mới cho khoa học. Chúng ta tin rằng ở Việt Nam chắc chắn còn rất nhiều loài động, thực vật chưa được các nhà khoa học biết đến.
  24. Về mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ kiểu rừng rậm thường xanh đến kiểu rừng rụng lá ở các độ cao khác nhau, từ đai thấp (lowlands), cận núi (sub-montane), núi (montane), cận núi cao (sub- alpine), các kiểu rừng núi đất, rừng núi đá vôi, rừng ngập mặn, rừng tràm, rừng tre nứa Việt Nam cũng có vùng đất ngập nước khá rộng, trải ra khắp đất nước nhưng chủ yếu ở vùng đồng bằng Sông Cửu Long và vùng đồng bằng Sông Hồng. Đây không những là vùng sản xuất nông nghiệp quan trọng của Việt Nam mà còn là nơi sinh sống của 39 loài động vật được coi là những loài có nguy cơ bị tiêu diệt ở vùng Đông Nam Á thuộc các nhóm thú, chim và bò sát (AWB, 1989). Ngoài ra Việt Nam còn có phần nội thuỷ và lãnh hải rộng khoảng 226.000 km2 trong đó có hàng nghìn hòn đảo lớn nhỏ và nhiều rạn san hô phong phú. Ở Việt Nam các rạn san hô phân bố rải rác suốt từ Bắc vào Nam của Biển Đông và càng vào phía Nam cấu trúc và số lòai càng phong phú. Phần lớn các rạn san hô ở biển miền Bắc là những đám hẹp hoặc tạo thành từng cụm nhỏ, độ sâu tối đa chỉ giới hạn trong vòng mươi mét . Ở phía Nam điều kiện tự nhiên thuận lợi hơn cho sự phát triển của san hô. Từ vùng bờ biển Đà Nẵng đến Bình Thuận có nhiều rạn san hô ở xung quanh các đảo và các bãi ngầm, và xung quanh các đảo ở vịnh Thái Lan ở phía Tây nam. Các đảo và bãi ngầm thuộc quần đảo Hòang Sa và Trường Sa có những bãi san hô rộng lớn và đa dạng nhất trong vùng biển Việt Nam. Các rạn san hô phía Tây nam có cấu trúc đa dạng và có đỉnh cao đến 8-10 mét, và nằm ở độ sâu chừng 15 mét. Tại quần đảo Trường Sa các rạn san hô có thể đạt tới độ sâu nhất là 40 mét và có đỉnh cao từ 5-15 mét. Cũng như rừng nhiệt đới, các rạn san hô là nơi có tính đa dạng sinh học cao, chứa đựng nhiều lọai tài nguyên quý giá và có nhiều tiềm năng cho sự phát triển khoa học và kinh tế trong tương lai. Nguồn tài nguyên thiên nhiên giàu có về sinh giới này, có thể đáp ứng những nhu cầu hiện tại và tương lai của nhân dân Việt Nam trong quá trình phát triển, cũng như đã đáp ứng những nhu cầu ấy trong quá khứ. Nguồn tài nguyên thiên nhiên này không những là cơ sở vững chắc của sự tồn tại của nhân dân Việt Nam thuộc nhiều thế hệ đã qua mà còn là cơ sở cho sự phát triển của dân tộc Việt Nam trong những năm sắp tới. Tuy nhiên thay vì bảo tồn nguồn tài nguyên quý giá này và sử dụng một cách hợp lý, nhân dân Việt Nam dưới danh nghĩa phát triển kinh tế đang khai thác quá mức và phí phạm , không những thế còn sử dụng các biện pháp huỷ diệt như các chất độc, kích điện . Nhiều lòai hiện đã trở nên hiếm, một số lòai đang có nguy cơ bị diệt vong. Nếu biết sử dụng đúng mức và quản lý tốt, nguồn tài nguyên sinh học của Việt nam có thể trở thành nguồn tài nguyên tái tạo rất có giá trị, thế nhưng nguồn tài nguyên này đang suy thóai nhanh chóng. II- Dân số và môi trường Như đã trình bày ở trên nước ta đang phải đương đầu với một số vấn đề môi trường nghiêm trọng và những vấn đề này lại đang ngày càng khó gỉai quyết do sự tăng nhanh dân số và đói nghèo. Theo kết quả Tổng điều tra dân số gần đây nhất thì vào thời điểm 0 giờ ngày 1/4/1999 dân số Việt Nam là 76.327.919 người, trong đó nữ chiếm 38.809.372 người. Dân số thành thị cả nước chiếm 23,5% tổng dân số. Tính từ cuộc điều tra dân số lần trước (1/4/1989), số dân nước ta tăng thêm 11,9 triệu người . Như vậy sau 10 năm , số
  25. dân tăng thêm của nước ta đã tương đương với số dân của một nước trung bình (trên thế giới có khoảng 120 nước) có số dân dưới 12 triệu người. Tỷ suất tăng dân số bình quân nước ta từ năm 1989 đến 1999 là 1,7%, giảm 0,5% so với tốc độ tăng dân số của 10 năm trước. Dân số năm 2000 cả nước là 77.685,500 người (Niên giám thống kê năm 2000), tăng thêm khoảng 1,358 triệu người, tương đương dân số một tỉnh có số dân trung bình. So sánh tỷ trọng dân số của các vùng trong tổng số dân của cả nước qua hai lần tổng điều tra dân số đã có sự thay đổi như sau: tăng lên ở 3 vùng : Đông Nam bộ, Tây Nguyên và Tây Bắc và giảm đi ở các vùng còn lại, trong đó Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng bằng sông Hồng giảm nhiều nhất. Mật độ dân số Việt Nam đã tăng từ 195ng/km2 năm 1989 lên 213 ng/km2 năm 1999, thuộc loại cao trên thế giới và đứng hàng thứ ba ở khu vực Đông Nam Á (chỉ sau Singapore và Philippin) và đứng thứ 13 trong số 42 nước thuộc khu vực châu Á và Thái Bình Dương. Những tỉnh có mật độ dân số cao (từ 500 ng/km2 trở lên) đều nằm dọc theo hai con sông lớn là sông Hồng và sông Cửu Long. Hai vùng Tây Nguyên và Đông Nam bộ là địa điểm chủ yếu thu hút các luồng dân di cư, còn các vùng Bắc Trung bộ, Đồng bằng sông Cửu Long, Duyên hải Nam Trung bộ , Đồng bằng sông Hồng và Đông bắc là những vùng có mức xuất cư cao. Trong 5 năm 1994-1999, có 1,2 triệu người từ khu vực nông thôn đã nhập cư vào thành thị để làm ăn sinh sống ổn định, trong khi đó chỉ có 422.000 người di cư theo chiều ngược lại, nghĩa là luồng di cư nông thôn-thành thị cao gấp 3 lần so với luồng di cư thành thị-nông thôn. Đó là chưa kể số người từ nông thôn ra kiếm ăn tại các thành thị trong thời kỳ nông nhàn hay không đăng ký chính thức. Nước ta là một nước nông nghiệp có dân số đông, mà cuộc sống và sự phát triển lại đang dựa chính vào khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên, mà tài nguyên lại đang cạn kiệt dần do đó mà khi chưa ổn định được dân số thì mâu thuẫn giữa phát triển và môi trường là điều khó tránh khỏi. Vốn là một trong những quốc gia có bình quân đất canh tác theo đầu người thấp nhất thế giới với gần 80% dân số làm kinh tế nông nghiệp, mà số dân vẫn gia tăng nhanh , đặc biệt tại khu vực nông thôn và miền núi, do vậy mà bình quân đất canh tác theo đầu người đang giảm dần. Đây là điều đáng lo ngại nhất Do dân số tăng nhanh nên sản lượng lương thực quy ra thóc tính theo đầu người cũng chỉ ở mức thấp và tăng hàng năm không nhiều (năm 1990 là 326,0 kg/ng, năm 1999 là khoảng 448,8 kg/ng). Để đảm bảo nhu cầu lương thực , cần phải thâm canh tăng vụ để tăng năng suất. Do đó việc sử dụng phân khoáng, chất kích thích hoá học và thuốc trừ sâu diệt cỏ ngày càng tăng, trực tiếp đe doạ đến sự thoái hoá đất, nước ngầm, nước ao hồ, sông ngòi ,các hệ sinh thái và đa dạng sinh học. Vấn đề dân số đã được Đảng và Nhà nước Việt Nam quan tâm từ những năm 1960, nhiều chính sách dân số và chính sách kinh tế xã hội có liên quan đến dân số đã được ban hành và thực thi. Nhờ thế mà nghèo khó đã giảm mạnh trong 5 năm qua, nhưng do dân số tăng nhanh nên vẫn còn khoảng 1/5 dân nông thôn bị nghèo về lương thực thực phẩm và gần 1/2 còn phải sống trong cảnh nghèo chung ( Hiện trạng môi trường năm 2000).
  26. Nghèo khó và tăng dân số là tác nhân tàn phá môi trường nhưng cũng là hậu quả của chính sự tàn phá môi trường ấy. Do nhu cầu cuộc sống, nhiều người nghèo đã buộc phải khai thác tài nguyên một cách bừa bãi, không theo quy hoạnh, gây ra sự cạn kiệt nhanh chóng tài nguyên, gây ô nhiễm và suy thoái môi trường, làm cho năng suất cây trồng và vật nuôi giảm, các điều kiện vệ sinh môi trường xấu đi. Điều này lại trở lại làm cho cuộc sống của con người càng nghèo đói hơn và cũng vì thế mà khó có điều kiện để nâng cao kinh tế, xã hội, văn hoá và cải thiện môi trường. Do đông dân và cuộc sống khó khăn nên di dân tự do diễn ra khắp nơi, đã và đang gây ra những vấn đề bức xúc như nạn phá rừng, sử dụng tài nguyên đất không hợp lý, săn bắt động vật bừa bãi, gây ô nhiễm môi trường, đó là chưa nói đến sự gia tăng nhiều tệ nạn xã hội khó kiểm soát và cả những mâu thuẫn giữa các cộng đồng cùng chung sống. Bước vào thế kỷ 21, sức ép của gia tăng dân số nước ta vẫn còn là một thách thức lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hôi và cải thiện đời sống nhân dân và bảo vệ môi trường sống và tài nguyên thiên nhiên. Dự báo (theo phương án trung bình) đến năm 2024 dân số nước ta sẽ là 100,491 triệu người. Như vậy nước ta sẽ phải đảm bảo cuộc sống cho thêm 22 triệu người nữa, gần bằng dân số nước ta trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, trong khi đó tài nguyên thiên nhiên lại có xu hường suy giảm. Điều này sẽ gây sức ép to lớn lên tài nguyên thiên nhiên vốn đã cạn kiệt trên phạm vi toàn quốc như nạn phá rừng và đất ngập nước, suy thoái đất , thiếu nước và ô nhiễn nước, suy thoái đa dạng sinh học, tất và cả những yếu tố đó có khả năng sẽ tạo nên sự mất cân bằng sinh thái trầm trọng khó hồi phục và nạn ô nhiễm môi trường. III- Ô nhiễm và suy thoái môi trường 1- Phát triển đô thị và vấn đề môi trường Hiện nay nước ta có 623 thành phố , thị xã, thị trấn, trong đó có 4 thành phố trực thuộc trung ương, 82 thành phố, thị xã trực thuộc tỉnh. Tỷ lệ dân số trên tổng dân số năm 1986 là 19%; năm 1990 là 20%, năm 1999 là 23,5%; năm 2000 là 23,97%; dự báo đến năm 2010 sẽ là 33% và năm 2020 là 45%. Môi trường ở nhiều đô thị ở nước ta đang bị ô nhiễm chất thải rắn chưa thu gom, nước thải chưa xử lý theo đúng quy định. Trong khi đó khí thải, tiếng ồn, bụi từ các phương tiện giao thông nội thị và mạng lưới sản xuất quy mô vừa và nhỏ cùng với cơ sở hạ tầng yếu kém càng làm cho điều kiện vệ sinh môi trường ở nhiều đô thị đang thực sự lâm vào tình trạng báo động. Hệ thống cấp thoát nước lạc hậu, xuống cấp, không đáp ứng được yêu cầu ngày càng tăng. Mức ô nhiễm về bụi và các khí thải độc hại nhiều nơi vượt tiêu chuẩn cho phép nhiều lần, đặc biệt là tại một số thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, vượt tiêu chuẩn cho phép 2-3 lần. Môi trường công nghiệp, đặc biệt ở các khu công nghiệp cũ, các ngành hoá chất, luyện kim, xi măng, chế biến đang bị ô nhiễm do chất thải rắn, nước thải, khí thải và các chất thải nguy hại chưa được xử lý theo đúng quy định. Các cơ sở công nghiệp trong nước chủ yếu có quy mô nhỏ, công nghệ sản xuất lạc hậu (chỉ có khoảng 20% xí
  27. nghiệp cũ đã đổi mới công nghệ). Khoảng 90% cơ sở sản xuất cũ chưa có thiết bị xử lý nước thải. Hiện nay đã hình thành gần 70 khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, nhưng chỉ có khoảng 1/3 trong số đó đã xây dựng cơ sở hạ tầng kỷ thuật và rất ít khu có hệ thống xử lý nước thải tập trung. 2- Chất lượng môi trường nông thôn có xu hướng xuống cấp nhanh Môi trường nông thôn đang bị ô nhiễm do các điều kiện vệ sinh và cơ sở hạ tầng yếu kém. Việc sử dụng không hợp lý các loại hoá chất nông nghiệp cũng đã và đang làm cho môi trường nông thôn bị ô nhiễm và suy thoái. Việc phát triển tiểu thủ công nghiệp, các làng nghề và cơ sở chế biến ở một số vùng do công nghệ sản xuất lạc hậu, quy mô sản xuất nhỏ, phân tán xen kẽ trong khu dân cư và hầu như không có thiết bị thu gom và xử lý chất thải, đã gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Hiện nay Việt Nam có khoảng 1.450 làng nghề truyền thống, trong đó 2/3 số làng tập trung ở vùng đồng bằng sông Hồng. Nhiều làng nghề khác đang trên đường phục hồi. Kết quả điều tra mới đây cho biết (năm 2000) cho biết : điều kiện và môi trường lao động tại các làng nghề là đáng lo ngại , 60-90% số người lao động tiếp xúc với bụi, hoá chất, độ nóng không có trang thiết bị phòng hộ. Tình trạng ô nhiễm môi trường tại các làng nghề ngày càng gia tăng. Các chất thải rắn, lỏng, khí trong quá trình sản xuất không được xử lý, không được thu gom, thải bừa bãi ra môi trường xung quanh ngay trong các khu dân cư đã làm ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường ở các vùng nông thôn là vấn đề cấp bách. Điều kiện vệ sinh môi trường nông thôn vẫn chưa được cải thiện đáng kể, tỷ lệ số hộ có hố xí hợp vệ sinh chỉ đạt 28-30% và số hộ ở nông thôn được dùng nước hợp vệ sinh là 30-40%. (Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia năm 2000-2010). Như đa trình bày ở trên sự tăng dân số, việc đẩy mạnh công nghiệp hóa , mở rộng đô thị, phát triển nông thôn, nâng cao cuộc sống cho nhân dân, xây dựng hạ tầng cơ sở đang gây áp lực ngày càng nặng lên môi trường . Tài nguyên thiên nhiên, nhất là rừng, đất, nước mặt và nước ngầm, các hệ sinh thái tự nhiên ngày càng có nguy cơ bị suy thoái, các loài động vật, thực vật hoang dã, các nguồn gen quý và đa dạng sinh học nói chung đang có nguy cơ bị giảm sút nhanh chóng. Trong giai đoạn đầu của công cuộc công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, thử thách đối với công tác BVMT đang trở nên phức tạp hơn và khó khăn hơn, đòi hỏi việc sử dụng các tài nguyên thiên nhiên và công tác quản ly môi trường tốt hơn. Điều này lại phải có những chính sách, chiến lược, pháp chế rõ ràng. Cũng cần phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu, giáo dục, đào tạo, nâng cao ý thức cho mọi người dân về bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Công việc này cũng đòi hỏi phải có những thiết bị kỷ thuật tốt hơn cho công tác quan trắc, kiểm soát và thông tin. Tất cả những yếu tố này ở nước ta còn thiếu nghiêm trọng. Tình hình này có thể dẫn đến một số khó khăn trong công tác quản lý môi trường và tài nguyên ở cấp trung ương và địa phương.
  28. IV- Tình hình công tác quản lý môi trường Phát triển hệ thống quản lý nhà nước về bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường Từ khi luật bảo vệ môi trường được ban hành ( 1994) , hệ thống quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường từ trung ương đến các địa phương và các bộ/ngành đã hình thành và phát triển. Nhờ đó mà công tác bảo vệ môi trường trên toàn quốc đã được triển khai. Nhiều mô hình tự quản về môi trường ở một số địa phương và cộng đồng dân cư đã được tổ chức và phát huy tác dụng. Tuy nhiên hệ thống tổ chức quản lý môi trường còn nhiều điều bất cập như: tổ chức cơ quan quản lý nhà nước về môi trường ở cấp trung ương chưa tương xứng với nhiệm vụ đặt ra. Lực lượng quản lý ở địa phương quá mỏng, thiếu hẳn tổ chức cần thiết ở cấp cơ sở như quận/huyện, phường/xã; tổ chức quản lý môi trường ở các bộ ngành hiện thiếu hoặc yếu về chất lượng. Ơ nước ta số lượng các bộ của Cục Môi trường chỉ có 70 người, số cán bộ quản lý ở các tỉnh trung bình 2-4 người, tính chung cả nước chỉ mới đạt tỷ lệ khoảng 4 người trên 1 triệu dân, trong khi đó tại các nước lân cận tỷ lệ này cao hơn nhiều lần, như Trung Quốc : 20 người/ 1 triệu dân, Thái Lan 30 người, Campuchia 55 người, và Malaysia 100 người. 1- Xây dựng chính sách , chiến lược và văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường Chính sách , chiến lược và văn bản pháp luật về BVMT Trong những năm qua nhiều văn bản pháp luật, chính sách liên quan đến bảo vệ môi trường đã được ban hành như luật Bảo vệ môi trường, Nghị định 175 CP về "Hướng dẫn thi hành Luật BVMT, Nghị định 26/CP về "Xử phạt vi phạm hành chích trong lĩnh vực BVMT" và nhiều chỉ thị, thông tư, tiêu chuẩn về lĩnh vực môi trường do Thủ tướng chính phủ, các bộ/ngành và các địa phương đã được ban hành theo thẩm quyền. Bên cạnh Luật BVMT, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật trực tiếp điều chỉnh các hoạt động có liên quan đến khai thác và quản lý tài nguyên thiên nhiên cũng được ban hành, như Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Luật Khoáng sản, Luật Đất đai, Luật Tài nguyên nước, Luật Khoa học và Công nghệ, Quy định trách nhiệm và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực BVMT cũng được đề cập và bổ sung ở nhiều bộ lụật khác , kể cả Bộ luật Dân sự và Bộ luật Hình sự sửa đổi (1999) . Đặc biệt năm 1998, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị 36/CT-TW về "Tăng cường công tác BVMT trong thời kỳ công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước". Tháng 7 năm 2000, Chiến lược BVMT quốc gia 2001-2010 cũng đã được trình lên chính phủ. Công tác kế hoạch hoá về BVMT Kế hoạch hàng năm, 5 năm về BVMT của các bộ, ngành, địa phương đều được xem xét và thảo luận với Bộ KHCN&MT để các nội dung nhiệm vụ BVMT phù hợp với nội dung kế hoạch chung của Nhà nước. Tuy vậy hiện nay công tác lập kế hoạch về BVMT ở các bộ, ngành, địa phương còn rất yếu: công tác xây dựng kế hoạch BVMT của các ngành, các cấp chưa có một phương pháp luận thống nhất, do đó nhiều kế hoạch đưa lên các cấp xét duyệt chưa hợp lý, gây khó khăn trong khâu xét duyệt cũng như thực hiện.
  29. Đầu tư cho công tác BVMT Trong những năm 1991-2000, vồn đầu tư cho công tác BVMT từ ngân sách nhà nước vào khoảng 2.000 tỷ đồng để thực hiện hơn 200 dự án, ước tính khoảng 150-200 tỷ đông/năm bao gồm cả công tác điều tra cơ bản, cải tạo, BVMT. Hàng năm trung bình khoảng 2% kinh phí chi cho hoạt động BVMT của các địa phương được lấy từ vốn sự nghiệp khoa học công nghệ. Do vốn đầu tư cho lĩnh vực môi trường còn hạn chế và chưa được hoạch định thành một nguồn vốn riêng nên rất khó có thể xác định, thống nhất việc quản lý sử dụng. Tác dụng và hiệu quả sử dụng vốn còn hạn chế , phân bổ vốn còn dàn trải, quản lý và phân cấp quản lý vốn chưa chặt chẽ, chưa có cơ chế khuyến khích và huy động vốn từ các thành phần kinh tế và trong nhân dân. Vốn viện trợ nước ngoài cho môi trường có chiều hướng tăng từ sau năm 1995. Số dự án viện trợ về môi trường trực tiếp cho các địa phương có tỷ lệ thấp, phần lớn tập trung ở các cơ quan trung ương. Hợp tác quốc tế về BVMT Trong thời gian qua nước ta đã tích cực tham gia vào các hoạt động hợp tác quốc tế và khu vực nhằm hoà nhập với sự nghiệp BVMT của cộng đồng quốc tế và nâng cao năng lực BVMT quốc gia. Việt Nam đến nay đã phê chuẩn 13 công ước quốc tế về môi trường và đang nổ lực thực hiện cam kết và nghĩa vụ của một nước thành viên. Các công ước về môi trường mà Việt nam đã tham gia STT Tên công ước Ngày VN là thành viên 1 Công ước liên quan đến bảo vệ di sản văn hoá và tự nhiên thế giói 19/10/1982 2 Công ước vê thông báo sớm các sự cố hạt nhân 29/9/1987 3 Công ước về hỗ trợ trong tường hợp sự cố hạt nhân hoặc cấp cứu về 29/9/1997 phóng xạ 4 Công ước về vùng đất ngập nước có tầm quan trọng trong quốc tế, đặc 20/9/1989 biệt là nơi cư trú của các loài chim nước RAMSAR 5 Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm do tầu biển MARPOL 29/8/1991 6 Công ước về buôn bán quốc tế những loài động thực vật có nguy cơ bị 20/1/1994 đe doạ (Công ước CITES) 7 Nghi định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ôzon 26/1/1994 8 Công ước Viên về bảo vệ tầng ô zon 26/1/1994
  30. 9 Công ước Liên hiệp quốc về Luật biển 5/7/1994 10 Công ước khung của Liên hiệp quốc về biến đổi khí hậu 16/11/1994 11 Công ước về Đa dạng Sinh học 16/11/1994 12 Công ước về kiếm soát việc vận chuyển xuyên biên giới các chất thải 13/3/1995 nguy hại và việc loại bỏ chúng ( Công ước Basel) 13 Công ước chống sa mạc hoá 8/ 1998 2- Quan trắc môi trường và kiểm soát ô nhiễm Đánh giá tác động môi trường (ĐTM) Công tác ĐTM trong thời gian qua đã đáp ứng kịp thời về mặt thể chế, chính sách nhằm tăng cường biện pháp khuyến khích đầu tư phát triển kinh tế song song với BVMT. Quy trình thẩm định ĐTM không ngừng được cải tiến và hoàn thiện. Với sự trợ giúp của các dự án do chính phủ Hà Lan và Canada tài trợ , nhiều đợt tập huấn nhằm nâng cao kỷ năng thẩm định báo cáo ĐTM cho các cấp trung ương và địa phương đã được tổ chức thực hiện có kết quả. Tính đến tháng 6/2000, trên qui mô toàn quốc đã có 5.818 báo cáo ĐTM được thẩm định; 9.625 cơ sở đang hoạt động đã lập "Bản kê khai các hoạt động sản xuất có ảnh hưởng đến môi trường" và 350 dự án lập "Bản đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường". Ơ cấp trung ương đã có 570 báo cáo ĐTM được thẩm định. Ngoài ra Bộ KHCN&MT cũng đã nhận xét về mặt môi trường cho 1.236 hồ sơ dự án ở giai đoạn xin cấp phép đầu tư. Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác ĐTM cũng còn nhiều tồn tại cần được khắc phục như: sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng của nhà nước trong quá trình lập và thẩm định báo cáo ĐTM và cấp phép đầu tư chưa tốt; nhiều công trình lớn mang tầm chiến lược như các chương trình quốc gia , các quy hoạch phát triển đã được phê duyệt mà không thông qua thẩm định báo cáo ĐTM; kinh phí cho việc lập và thẩm định báo cáo ĐTM chưa được nhà nước quy định rõ; công tác giám sát sau thẩm định hầu như chưa được triển khai ở cấp trung ương và còn yếu ở cấp điạ phương (Hiện trạng môi trường Việt Nam năm 2000) . Quan trắc môi trường Từ năm 1994, Bộ KHCN&MT đã bắt đầu xây dựng Mạng lưới các trạm quan trắc và phân tích môi trường quốc gia và đến năm 1999 đã có 19 trạm được thành lập theo cơ chế phối thuộc giữa Bộ KHCN&MT và 8 bộ/ngành/địa phương liên quan. Từ năm 1995 mạng lưới quốc gia đã tiến hành quan trắc thường xuyên các thành phần môi trường nước lục địa, nước biển, không khí, đất, mưa a xit, phóng xạ trên địa bàn khoảng 40 địa phương, tỉnh, thành. Kết qủa quan trắc đã được sử dụng cho báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia hàng năm và cung cấp cho một số mục đích quản lý khác. Đã có 12 địa phương xây dựng được trạm quản trắc môi trường và nhiều địa phương đã có kế hoạch quan trắc định kỳ để phục vụ các mục tiêu quản lý môi trương tại địa phương.
  31. Kiểm soát ô nhiễm môi trường Về công tác kiểm soát ô nhiễm môi trường trong thời gian qua đã đề xuất các phương án kiểm soát ô nhiễm các vùng kinh tế trọng điểm; nghiên cứu đánh giá mức độ ô nhiễm môi trường các vùng trọng điểm sản xuất thực phẩm, nông nghiệp, thuỷ sản; định hướng quy hoạch vùng sản xuất an toàn và đề xuất quy trình kiểm soát ô nhiễm. Bộ KHCN&MT đã chủ trì phối hợp với các bộ, ngành và địa phương có liên quan khẩn trương triển khai Đề án xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng theo tinh thần Chỉ thị 36/CT-TW. Tiến hành kiểm kê, đánh giá nguồn thải trên phạm vi toàn quốc. Tiến hành thống kê, dự báo chất thải rắn nguy hại và đề xuất quy hoạch tổng thể các cở sở xử lý chất thải rắn nguy hại trên cả nước; đánh giá tổng quan tình hình sử dụng hoá chất và thuốc bảo vệ thực vật trong nông nghiệp ở nước ta. Những khó khăn trong lĩnh vực kiểm soát ô nhiễm là : hệ thống văn bản quy định pháp luật về quản lý chất thải, kiểm soát ô nhiễm, khắc phục sự cố còn thiếu, chưa đồng bộ và chưa được tuân thủ một cách nghiêm minh; cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho việc xử lý chất thải còn rất thiếu; việc đầu tư kinh phí cho xây dựng bãi chôn lấp thất thải đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh còn hạn chế. Thanh tra nhà nước về môi trường Hệ thống thanh tra nhà nước về BVMT đã được thành lập từ trung ương đến địa phương và hoạt động của các tổ chức thanh tra các cấp đã từng bước đi vào nề nếp, mang lại hiệu quả bước đầu. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, trong vòng 3 năm gần đây (1977 đến 1999) , thanh tra môi trường các cấp đã thanh tra được 17.741 cơ sở, trong đó xử phạt vi phạm hành chính về BVMT 6.510 cơ sở. Hàng năm thanh tra môi trường các cấp đã giải quyết hàng nghìn đơn, thư khiếu nại. Năm 1999, thanh tra Cục Môi trường và thanh tra của một số sở KHCN&MT đã buộc các cơ sở gây ô nhiễm làm thiệt hại tới môi trường và sức khoẻ nhân dân thực hiện đền bù với tổng số tiền là 1.367.320.000 đồng. Số lượng cơ sở bị xử phạt vi phạm hành chính về BVMT đã giảm dần theo năm. Năm 1997 số cơ sở bị xét phạt về BVMT chiếm 47% số cơ sở thanh tra, năm 1999 chỉ có 23%. 3- Giáo dục, nâng cao nhận thức về môi trường Vấn đề truyền thông và nâng cao nhận thức về môi trường cho nhân dân đã được đề cập đến tại hầu hết các quy định luật pháp và chính sách của Đảng, Nhà nước. Nhiều hình thức hoạt động truyền thông và nâng cao nhận thức về môi trường đã được thực hiện tại hầu khắp các vùng và qua các phương tiện truyển thông như báo chí, phát thanh, truyền hình đạt những kết quả bước đầu. Tuy nhiên kiến thức và nhận thức về môi trường và phát triển bền vững chưa được nâng cao cho các nhà ra quyết định, các nhà quản lý, các doanh nghiệp và cộng đồng. Các chương trình giáo dục, nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường chưa được tiến hành rộng khắp, chưa phát huy được vai trò của các đoàn thể, các tổ chức chính trị và xã hội, cũng như các phong trào quần chúng tham gia công tác bảo vệ môi trường (Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia 2001-2010).
  32. Các kiến thức phổ cập về môi trường chưa được đưa vào hệ thống giáo dục ở các cấp học, bậc học. Các thông tin về môi trường, về chính sách, pháp luật chưa được cung cấp và phổ biến thường xuyên đến cộng đồng. Tình trạng này còn kéo dài và sẽ tạo ra rất nhiều phức tạp, nhầm lẫn, sai sót trong việc giải quyết các vấn đề môi trường ở tất cả các cấp, các ngành, các địa phương và cộng đồng. Kết luận Quá trình phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn công nghiệp hoá, đi theo là đô thị hoá, cùng với sự gia tăng dân số nhanh trong điều kiện nền kinh tế còn nghèo và lạc hậu ở nước ta đã và đang gây ra áp lực ngày càng nặng nề lên môi trường và tại nguyên thiên nhiên. Làm thế nào để đáp ứng những nhu cầu ngày càng cao và hoài vọng của nhân dân vào sự nghiệp phát triển của đất nước mà không tàn phá tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ được môi trường trong lành, để xây dựng được một nền kinh tế mạnh từ một nền kinh tế còn yếu kém? Đây là nhiệm vụ to lớn và đầy khó khăn. Để hoàn thành nhiệm vụ này , đòi hỏi phải có một chương trình lâu dài dựa trên những nguyên tắc về sinh thái (bảo tồn) và kinh tế (phát triển). Chúng ta cũng nhận thức được rằng tương lai và phúc lợi của nhân dân Việt Nam tuỳ thuộc vào khả năng sản xuất của tài nguyên và môi trường Việt nam, và khi chúng ta làm cho nguồn tài nguyên thiên nhiên bị giảm sút, môi trường bị suy thoái là chúng ta đã làm giảm khả năng, triển vọng và nguồn lực cho sự phát triển. Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để có thể động viên được toàn thể nhân dân dựa vào sức mình để gìn giữ và khai thác một cách bền vững tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường sống của chính họ, cho lợi ích của chính họ qua nhận thức sâu sắc về tính chất quan trọng của nhiệm vụ đó. Để đạt được kết quả trên, cần thiết phải nâng cao nhận thức cho nhân dân về môi trường, điều mà hiện nay chúng ta đang cố gắng thực hiện. Như đã nói ở các phần trên, Việt nam đang đứng trước những khó khăn trong qúa trình phát triển, do những thảm hoạ về sinh thái gây ra do sức ép dân số, do quy hoạch và quản lý còn kém hiệu quả. Bằng cách học tập kinh nghiệm của các nước khác và phân tích các mẫu hình thất bại và thành công của quá trình phát triển của chính mình, nước ta đã chọn một cách phát triển mới, tập trung vào kế hoạch hoá gia đình, sớm ổn định dân số và sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách khôn khéo hơn, để đạt được những mục tiêu phát triển trong đó vấn đề môi trường đóng vai trò quan trọng. Đây là nhiệm vụ chủ yếu và là một nhiệm vụ khó khăn, nhưng chúng ta lạc quan về triển vọng tương lai của mình, bởi vì chúng ta tin chắc rằng những tai hoạ nói trên là không thể tránh khỏi, rằng tài nguyên cơ bản của đất nước chúng ta còn có thể tái tạo, và bản thân dân tộc Việt nam có đủ sức, đủ ý thức kỷ luật và tài năng để đối phó với những thách thức mới đang đe dọa mình. I. KHÁI NIỆM VỀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG "Quản lý môi trường là tổng hợp các biện pháp, luật pháp, chính sách kinh tế, kỹ thuật, xã hội thích hợp nhằm bảo vệ chất lượng môi trường sống và phát triển bền vững kinh tế xã hội quốc gia"
  33. Phát triển bền vững là một mô hình chuyển đổi mà nó tối ưu các lợi ích kinh tế và xã hội trong hiện tại nhưng không hề gây hại cho tiềm năng của những lợi ích tương tự trong tương lai (Gôdian và Hecdue, 1988, GS. Grima Lino) [11]. Về nguyên tắc, phát triển bền vững là quá trình vận hành đồng thời ba bình diện phát triển: kinh tế tăng trưởng bền vững, xã hội thịnh vượng, công bằng, ổn định, văn hoá đa dạng và môi trường được trong lành, tài nguyên được duy trì bền vững. Do vậy, hệ thống hoàn chỉnh các nguyên tắc đạo đức cho phát triển bền vững bao gồm các nguyên tắc phát triển bền vững trong cả “ba thế chân kiềng” kinh tế, xã hội, môi trường Nói cách khác, muốn phát triển bền vững thì phải cùng đồng thời thực hiện 3 mục tiêu: (1) Phát triển có hiệu quả về kinh tế; (2) Phát triển hài hòa các mặt xã hội; nâng cao mức sống, trình độ sống của các tầng lớp dân cư và (3) cải thiện môi trường môi sinh, bảo đảm phát triển lâu dài vững chắc cho thế hệ hôm nay và mai sau. - Môi trường bền vững: Khía cạnh môi trường trong phát triển bền vững đòi hỏi chúng ta duy trì sự cân bằng giữa bảo vệ môi trường tự nhiên với sự khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ lợi ích con người nhằm mục đích duy trì mức độ khai thác những nguồn tài nguyên ở một giới hạn nhất định cho phép môi trường tiếp tục hỗ trợ điều kiện sống cho con người và các sinh vật sống trên trái đất. - Xã hội bền vững: Khía cạnh xã hội của phát triển bền vững cần được chú trọng vào sự phát triển sự công bằng và xã hội luôn cần tạo điều kiện thuận lợi cho lĩnh vực phát triển con người và cố gắng cho tất cả mọi người cơ hội phát triển tiềm năng bản thân và có điều kiện sống chấp nhận được. - Kinh tế bền vững: Yếu tố kinh tế đóng một vai trò không thể thiếu trong phát triển bền vững. Nó đòi hỏi sự phát triển của hệ thống kinh tế trong đó cơ hội để tiếp xúc với những nguồn tài nguyên được tạo điều kiện thuận lợi và quyền sử dụng những nguồn tài nguyên thiên nhiên cho các hoạt động kinh tế được chia sẻ một cách bình đẳng. Khẳng định sự tồn tại cũng như phát triển của bất cứ ngành kinh doanh, sản xuất nào cũng được dựa trên những nguyên tắc đạo lý cơ bản. Yếu tố được chú trọng ở đây là tạo ra sự thịnh vượng chung cho tất cả mọi người, không chỉ tập trung mang lại lợi nhuận cho một số ít, trong một giới hạn cho phép của hệ sinh thái cũng như không xâm phạm những quyền cơ bản của con người [3]. Mỗi mục tiêu phát triển có vị trí riêng của nó nhưng luôn được gắn một cách hữu cơ với mục tiêu khác. Sự hoà nhập hài hoà hữu cơ này tạo nên sự phát triển tối ưu cho cả nhu cầu hiện tại và tương lai vì xã hội loài người.
  34. II.3. Các nguyên tắc xây dựng xã hội phát triển bền vững Hội nghị Thượng đỉnh về Môi trường và Phát triển bền vững diễn ra ở Rio de Janeiro (Braxin) năm 1992 và Johannesburg (Nam Phi) năm 2002, khái niệm phát triển bền vững đã được cộng đồng thế giới thừa nhận và đưa ra chương trình nghị sự 21 toàn cầu- chương trình về sự phát triển bền vững của thế giới trong thế kỷ XXI. Có 9 nguyên tắc được đưa ra chỉ sự Phát triển bền vững như sau [2]: (1). Tôn trọng và quan tâm đến đời sống cộng đồng. - Nền đạo đức dựa vào sự tôn trọng và quan tâm lẫn nhau và Trái đất là nền tảng cho sự sống bền vững. Sự phát triển không được làm tổn hại đến lợi ích của các nhóm khác hay các thế hệ mai sau, đồng thời không đe dọa đến sự tồn tại của những loại khác. - Bốn đối tượng cần thiết để thực hiện nguyên tắc này: + Đạo đức và lối sống bền vững cần phải được tạo ra bằng cách đối thoại giữa những người lãnh đạo tôn giáo, những nhà tư tưởng, những nhà lãnh đạo xã hội, các nhóm công dân và tất cả những người quan tâm. + Các quốc gia cần soạn thảo bản tuyên ngôn chung và bản giao kèo về sự bền vững để tham gia vào nền đạo đức thế giới và phải biết kết hợp những nguyên tắc của sự bền vững vào Hiến pháp và Luật pháp của nước mình. + Con người nên thể hiện đạo đức này vào tất cả những hành vi cá nhân và tư cách nghề nghiệp ở tất cả các hoạt động của cuộc đời. + Một cơ quan quốc tế mới cần được thành lập để theo dõi sự thực hiện nền đạo đức thế giới và hướng sự quan tâm của quần chúng vào những điểm quan trọng của nó. (2). Cải thiện chất lượng cuộc sống con người. Mục tiêu của phát triển là cải thiện chất lượng cuộc sống con người. Con người có những mục tiêu khác nhau trong việc phát triển, nhưng một số mục tiêu nói chung là phổ biến. Phát triển chỉ đúng vào nghĩa của nó khi nó làm cho cuộc sống của chúng ta tốt hơn trong toàn bộ những khía cạnh này. (3). Bảo vệ sức sống và tính đa dạng trên Trái đất. Phát triển phải dựa vào bảo vệ: nó phải bảo vệ cấu trúc, chức năng và tính đa dạng của những hệ tự nhiên thế giới mà loài người chúng ta phải phụ thuộc vào chúng. Để đạt được điều đó cần phải: - Bảo vệ các hệ duy trì sự sống - Bảo vệ tính đa dạng sinh học - Bảo đảm cho việc sử dụng bền vững các tài nguyên tái tạo. (4). Giảm đến mức thấp nhất sự khánh kiệt nguồn tài nguyên không tái tạo. Sự khánh kiệt nguồn tài nguyên không tái tạo như khoáng sản, dầu khí và than phải được giảm đến mức thấp nhất. “Tuổi thọ” của những tài nguyên không tái tạo có thể được tăng lên bằng cách tái chế. (5). Tôn trọng khả năng chịu đựng của Trái đất. Sức chịu đựng của các hệ sinh thái của Trái đất là rất có hạn, mỗi khi bị tác động vào, các hệ sinh thái và sinh quyển khó có thể tránh khỏi những suy thoái nguy hiểm. Để đảm bảo cho việc sử dụng nguồn tài nguyên tái tạo một cách bền vững, cần có 3 hoạt động:
  35. Sự tăng dân số và tiêu thụ tài nguyên cần phải được đặt trong một giải pháp tổng hợp và hiện thực trong quy hoạch và chính sách phát triển quốc gia. - Cần tạo ra những sản phẩm mới để bảo vệ tài nguyên và tránh những lãng phí, thử nghiệm chúng và áp dụng chúng. - Hoạt động nhằm ổn định dân số phải dựa trên sự hiểu biết các nhân tố tương tác với nhau để xác định KÍCH THƯỚC của gia đình. - Muốn đứng vững trong khả năng chịu tải của Trái đất và điều kiện để cải thiện chất lượng cuộc sống của con người, cần có những hoạt động nhằm quản lý và bảo vệ các hệ sinh thái bền vững. (6). Thay đổi thái độ và hành vi cá nhân. Để thay đổi thái độ và hành vi của con người cần phải có một chiến dịch thông tin do phong trào phi Chính phủ đảm nhiệm được các Chính phủ khác khuyến khích. Nền giáo dục chính thống về môi trường cho trẻ em và người lớn cần phải được phổ cập và kết hợp với giáo dục ở tất cả các cấp. Cần phải có những hỗ trợ hơn nữa để giúp đào tạo về phát triển bền vững. (7). Giúp cho các cộng đồng có khả năng tự giữ gìn môi trường của mình. Môi trường là ngôi nhà chung, không phải của riêng một cá nhân nào, cộng đồng nào. Vì vậy, việc cứu lấy Trái đất và xây dựng một cuộc sống bền vững phụ thuộc vào niềm tin và sự đóng góp của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, những cộng đồng cần phải có được thẩm quyền, khả năng và kiến thức để hoạt động. Có 3 loại hoạt động: - Các cộng đồng cần có sự kiểm soát hữu hiệu công việc của chính họ. - Các cộng đồng phải được cung cấp nhu cầu thiết yếu của mình trong khi họ tiến hành bảo vệ môi trường. - Giao quyền lực để giúp các chính quyền địa phương và các cộng đồng thực hiện được vai trò của mình trong việc gìn giữ môi trường. (8). Đưa ra một khuôn mẫu quốc gia cho sự phát triển tổng hợp và bảo vệ. Để đạt tới một nền đạo đức cho lối sống bền vững, mỗi người cần kiểm tra lại phẩm chất của mình và thay đổi thái độ. Một xã hội muốn bền vững phải biết kết hợp hài hòa giữa phát triển và bảo vệ môi trường, phải xây dựng được một sự đồng tam nhất trí và đạo đức cuộc sống bền vững trong các cộng đồng. Một quốc gia muốn đạt tới tính bền vững cần phải bao gồm toàn bộ quyền lợi, phát hiện và ngăn chặn các vấn đề trước khi chúng nảy sinh. Chương trình này phải thích ứng, liên tục đính chính phương hướng hoạt động của mình để phù hợp với thực tế và những nhu cầu mới. Hội đồng quốc gia cần phải có 4 thành phần: - Phải có những tổ chức có quan điểm tổng hợp, nhìn xa trông rộng, quan hệ giữa các khu vực khi quyết định. - Tất cả các nước cần phải có một hệ thống toàn diện về luật môi trường nhằm bảo vệ quyền sống của con người, quyền lợi của các thế hệ mai sau, sức sản xuất và sự đa dạng của Trái đất.
  36. - Những chính sách kinh tế và cải tiến công nghệ để nâng cao phúc lợi từ một nguồn tài nguyên và duy trì sự giàu có của thiên nhiên. - Vấn đề kiến thức, dựa trên kết quả nghiên cứu và giám sát. (9). Xây dựng khối liên minh toàn cầu. Tính bền vững toàn cầu phụ thuộc vào sự liên minh vững chắc giữa tất cả các quốc gia nhưng mức độ phát triển trên thế giới lại không đồng đều và các nước có thu nhập thấp hơn được giúp đỡ để phát triển bền vững và để bảo vệ môi trường của mình. Cần thiết phải: - Tăng cường luật pháp quốc tế. - Giúp đỡ các nước có thu nhập thấp hơn xác định được những ưu tiên về môi trường. - Xoay vòng các dòng tài chính. - Tăng cường những cam kết và quyền lực quốc tế để đạt được sự bền vững. Mục tiêu của quản lý môi trường Mục tiêu cơ bản của công tác quản lý môi trường là phát triển bền vững, giữ cho được sự cân bằng giữa phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường (BVMT). Nói cách khác, phát triển kinh tế xã hội tạo ra tiềm lực kinh tế để BVMT, còn BVMT tạo ra các tiềm năng tự nhiên và xã hội mới cho công cuộc phát triển kinh tế xã hội trong tương lai [3]. Tùy thuộc vào điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, hệ thống pháp lý, mục tiêu phát triển ưu tiên của từng quốc gia, mục tiêu quản lý môi trường có thể thay đổi theo thời gian và có những ưu tiên riêng đối với mỗi quốc gia. Theo Chỉ thị 36 CT/TW của Bộ Chính trị, Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, một số mục tiêu cụ thể của công tác quản lý môi trường Việt Nam hiện nay là: - Khắc phục và phòng chống suy thoái, ô nhiễm môi trường phát sinh trong hoạt động sống của con người. - Tăng cường công tác quản lý nhà nước về môi trường từ Trung ương đến địa phương, công tác nghiên cứu, đào tạo cán bộ về môi trường - Hoàn chỉnh hệ thống văn bản luật pháp bảo vệ môi trường, ban hành các chính sách về phát triển kinh tế xã hội phải gắn với bảo vệ môi trường, nghiêm chỉnh thi hành luật bảo vệ môi trường. - Phát triển bền vững kinh tế và xã hội quốc gia theo 9 nguyên tắc của một xã hội bền vững do hội nghị Rio-92 đề xuất. Các khía cạnh của phát triển bền vững bao gồm: + Tôn trọng và quan tâm đến cuộc sống cộng đồng. + Cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. + Bảo vệ sức sống và tính đa dạng của trái đất. + Giữ vững trong khả năng chịu đựng của trái đất. + Thay đổi thái độ, hành vi và xây dựng đạo đức mới vì sự phát triển bền vững. + Tạo điều kiện để cho các cộng đồng tự quản lý lấy môi trường của mình. + Tạo ra một cơ cấu quốc gia thống nhất thuận lợi cho việc phát triển bền vững. + Xây dựng khối liên minh toàn thê giới về bảo vệ và phát triển.
  37. + Xây dựng một xã hội bền vững. - Phát triển bền vững kinh tế, bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên, không tạo ra ô nhiễm và suy thoái chất luợng môi trường sống, nâng cao sự văn minh và công bằng xã hội. - Xây dựng các công cụ có hiệu lực quản lý môi trường quốc gia và các vùng lãnh thổ. Các công cụ trên phải thích hợp cho từng ngành, từng địa phương và cộng đồng dân cư. III.2. Sự tác động qua lại giữa môi trường và con người III.2.1. Tác động của các yếu tố môi trường tự nhiên đến con người - Tích cực: Môi trường tự nhiên cung cấp nguyên liệu và không gian cho sản xuất xã hội. Con người sống trên Trái đất cần có không khí để hít thở, nước và thực phẩm để nuôi dưỡng cơ thể, đất đai để xây dựng nhà của, trồng cây, chăn nuôi và tiến hành các hoạt động sản xuất Môi trường tự nhiên gắn liền với sự tồn tại của con ngườivà là cơ sở để con người sống và phát triển - Tiêu cực: Môi trường tự nhiên cung cấp tài nguyên cần thiết cho con người duy trì sự sống. Tuy nhiên, cũng phải nói rằng môi trường tự nhiên cũng là nơi gây ra nhiều thảm họa cho con người (thiên tai), và các thảm họa này sẽ tăng lên nếu con người gia tăng các hoạt động mang tính tàn phá môi trường, gây mất cân bằng tự nhiên [17]. III.2.2. Tác động của con người đến môi trường tự nhiên - Tích cực: Con người cải tạo môi trường tự nhiên thông qua việc cải tạo đất, nguồn nước, trồng cây xanh, trồng rừng, bảo vệ các loài động thực vật quí hiếm. Tuy nhiên phần lớn hoạt động của con người điều mang lại tác động tiêu cực cho môi trường tự nhiên [17]. - Tiêu cực [17]: + Chặt phá rừng, chuyển đất rừng thành đất nông nghiệp làm mất đi nhiều loại động, thực vật quý hiếm, tăng xói mòn đất, thay đổi khả năng điều hoà nước và biến đổi khí hậu + Gây ô nhiễm môi trường do các loại chất thải sinh hoạt và công nghiệp + Các hoạt động của con người trên trái đất ngăn cản chu trình tuần hoàn nước, ví dụ đắp đập, xây nhà máy thuỷ điện, phá rừng đầu nguồn Việc này có thể gây ra úng ngập hoặc khô hạn nhiều khu vực, thay đổi điều kiện sống bình thường của các sinh vật nước + Gây mất cân bằng sinh thái thông qua việc: Săn bắn quá mức, đánh bắt quá mức. Săn bắt các loài động vật quý hiếm như rái cá, sếu đầu đỏ, lợn rừng có thể dẫn đến sự tuyệt chủng. Vai trò của quản lí môi trường đối với sự phát triển bền vững Thứ nhất, môi trường không những chỉ cung cấp “đầu vào” mà còn chứa đựng “đầu ra” cho các quá trình sản xuất và đời sống.