Luận văn Thực trạng và một số giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Bắc Kạn
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Thực trạng và một số giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Bắc Kạn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- luan_van_thuc_trang_va_mot_so_giai_phap_phat_trien_kinh_te_t.pdf
Nội dung text: Luận văn Thực trạng và một số giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Bắc Kạn
- §¹i häc th¸i nguyªn TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH NguyÔn §×nh V¨n Thùc tr¹ng vµ mét sè gi¶i ph¸p ph¸t triÓn kinh tÕ trang tr¹i ë tØnh B¾c K¹n Chuyªn ngµnh: Kinh tÕ n«ng nghiÖp M· sè: 60 - 31 - 10 LuËn v¨n th¹c sÜ kinh tÕ Người hướng dẫn khoa học: T.S §ç Quang Quý Th¸i Nguyªn - 2008
- ii LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu trích dẫn trong quá trình nghiên cứu đều được chỉ rõ nguồn gốc. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Đình Văn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- iii LỜI CẢM ƠN! Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các cơ quan, các cấp lãnh đạo và các cá nhân. Tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc và kính trọng tới tất cả các tập thể, các cá nhân đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong qúa trình học tập và nghiên cứu. Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Tiến sỹ Đỗ Quang Quý là thầy đã trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu trường đại học Kinh tế và QTKD, Ban chủ nhiệm Khoa Đào tạo sau đại học trường Đại học Kinh tế và QTKD Thái Nguyên đã tạo điều kiện cho tôi có cơ hội được tiếp cận và khẳng định bước đầu trong công việc nghiên cứu khoa học của mình. Tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của các giáo sư, tiến sỹ và cán bộ Khoa Sau đại học Trường Đại học Kinh tế và QTKD những người đã trang bị cho tôi những kiến thức quý báu và tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu luận văn. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu đã để lại những tài liệu nghiên cứu có giá trị, liên quan đến lĩnh vực mà luận văn của tôi đề cập và sử dụng làm tiền đề nghiên cứu luận văn này. Tôi xin chân thành cám ơn sự giúp đỡ của lãnh đạo, các chuyên gia của Sở Nông nghiệp và PTNT Bắc Kạn, Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bắc Kạn, Cục Thống kê tỉnh Bắc Kạn và các đồng nghiệp, lãnh đạo chính quyền các địa phuơng và các chủ trang trại đã giúp đỡ nhiệt tình trong quá trình làm luận văn. Tôi xin cảm ơn những người thân trong gia định đã giúp tôi lúc khó khăn, vất vả để hoàn thành luận văn. Tôi xin cảm ơn các bạn bè đồng nghiệp gần xa đã đóng góp nhiều ý kiến quý báu để giúp tôi hoàn thành luận văn này. Thái Nguyên, tháng 9 năm 2008 Nguyễn Đình Văn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- iv DANH MỤC TÀI LIỆU VIẾT TẮT STT Chữ viết tắt Nguyên nghĩa 1 TBCN Tư bản chủ nghĩa 2 PGS-TS Phó Giáo sư - Tiến sỹ 3 TT Trang trại 4 KTTT Kinh tế trang trại 5 CNH Công nghiệp hoá 6 HĐH Hiện đại hoá 7 CSDL Cơ sở dữ liệu 8 SPSS Statiscal Package for Social Sciences 9 GTSX Giá trị sản xuất 10 SXKD Sản xuất kinh doanh 11 UBND Uỷ ban nhân dân 12 KH &CN Khoa học và công nghệ 13 PTNT Phát triển nông thôn 14 HTX Hợp tác xã 15 DĐĐT Dồn điền đổi thửa Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- v MỤC LỤC Trang Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài 1 2. Mục tiêu nghiên cứu . 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3 4. Ý nghĩa khoa học của luận văn và đóng góp của luận văn . 4 5. Bố cục của luận văn . 4 Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 5 1.1. Tổng quan tài liệu nghiên cứu 5 1.1.1. Cơ sở lý luận về kinh tế trang trại .5 1.1.2. Kinh nghiệm trên thế giới và Việt nam về phát triển KTTT. 23 1.1.3. Lịch sử hình thành và tồn tại trang trại ở Việt Nam và Bắc Kạn . 26 1.1.4. Quá trình phát triển kinh tế trang trại ở nước ta từ khi đổi mới theo nền kinh tế thị trường 31 1.1.5. Một số kết luận rút ra từ nghiên cứu lý luận và thực tiễn 37 1.2. Phương pháp nghiên cứu 38 1.2.1. Các câu hỏi đặt ra mà đề tài cần giải quyết 38 1.2.2. Phuơng pháp nghiên cứu 38 1.2.3. Các chỉ tiêu nghiên cứu 42 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI TỈNH BẮC KẠN 43 2.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 43 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên 43 2.1.2. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2001-2007 54 1.1.3. Phân tích SWOT về chiến lược phát triển của Bắc Kạn 68 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- vi 2.2. Thực trạng phát triển kinh tế trang trại Bắc Kạn những năm gần đây 70 2.2.1. Tình hình phát triển kinh tế trang trại thời gian qua 70 2.3. Phân tích, đánh giá 73 2.3.1. Đặc điểm và phương hướng sản xuất của các trang trại tỉnh Bắc Kạn 73 2.3.2. Tổ chức quản lý sản xuất, kinh doanh của các trang trại. 74 2.3.3. Vấn đề trong phát triển của các trang trại hiện có 85 2.3.4. Nguyên nhân kìm hãm sự phát triển kinh tế trang trại ở Bắc Kạn 86 Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI TỈNH BẮC KẠN THỜI GIAN TỚI. 89 3.1. Quan điểm phát triển kinh tế trang trại 89 3.1.1. Quan điểm phát triển kinh tế trang trại trong thời kỳ Công nghiệp hóa - Hiện đại hoá ở Việt nam 89 3.1.2. Quan điểm riêng đối với tỉnh Bắc Kạn 94 3.2. Những định hướng phát triển kinh tế trang trại tỉnh Bắc Kạn 96 3.2.1. Căn cứ để định hướng 96 3.2.2. Phương hướng phát triển kinh tế trang trại tỉnh Bắc Kạn 96 3.3. Mục tiêu phát triển kinh tế trang trại 99 3.3.1. Mục tiêu tổng quát 99 3.3.2. Mục tiêu cụ thể 99 3.4. Giải pháp thực hiện 100 3.4.1. Giải pháp chung cho toàn bộ các trang trại 100 3.4.2. Giải pháp cho nhóm trang trại 109 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 111 Kết luận 111 Kiến nghị .112 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 113 PHỤ LỤC 116 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 1 MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU Trang trại là một loại hình sản xuất nông nghiệp được hình thành tương đối sớm trên thế giới, tuỳ từng thời kỳ mà có những hình thức, tên gọi khác nhau nhưng đều có đặc điểm chung là sản xuất hàng hoá tự chủ với quy mô lớn. Phát triển kinh tế trang trại là xu hướng tất yếu trong sản xuất nông nghiệp, nông thôn hiện nay. Ngày nay, trang trại là loại hình tổ chức sản xuất phổ biến trong nền nông nghiệp của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Ở nước ta, trang trại đã hình thành và trải qua các giai đoạn lịch sử khác nhau của sự phát triển. Tuy nhiên, trang trại gia đình chỉ phát triển từ đầu thập niên 1990 sau khi có Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị và Luật đất đai ra đời năm 1993, giao quyền sử dụng đất sản xuất ổn định và lâu dài cho hộ gia đình nông dân. Từ khi có chủ trương đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của Đảng, kinh tế hộ nông dân đã phát huy tác dụng to lớn, tạo sức mạnh mới trong sự nghiệp phát triển nông nghiệp và nông thôn. Trên nền tảng kinh tế tự chủ của các hộ nông dân đã hình thành các trang trại được đầu tư vốn, lao động với trình độ chuyên môn cao đóng góp ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội. Mới hình thành và phát triển nhưng kinh tế trang trại đã khơi dậy tiềm năng đất đai, lao động, vốn trong dân cư để đầu tư phát triển sản xuất, cải thiện bộ mặt nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế trang trại đã nảy sinh nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đòi hỏi phải giải quyết kịp thời liên quan đến nhận thức, cơ chế chính sách của Nhà nước: về đất đai, lao động, vốn đầu tư, tư cách pháp nhân, quyền lợi và nghĩa vụ của chủ trang trại trước pháp luật.v.v nhằm củng cố và phát triển loại hình này một cách tích cực, ổn định và bền vững. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 2 Đã có nhiều công trình nghiên cứu trên các cấp độ khác nhau về kinh tế trang trại ở khắp các vùng, miền trong cả nước. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đã nêu ra và đều mong muốn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của kinh tế trang trại để tìm ra hướng đi, đề xuất những giải pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn vướng mắc để phát huy vai trò của kinh tế trang trại trong nền nông nghiệp của nước ta hiện nay. Tuy vậy, vì sản xuất nông nghiệp được diễn ra trên không gian rộng lớn, mỗi vùng, thậm chí mỗi tiểu vùng cũng có sự khác biệt về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội, nên các trang trại ở mỗi vùng cũng có những đặc điểm khác nhau. Bắc Kạn là một tỉnh miền núi thuộc vùng Đông Bắc Bắc bộ, có tiềm năng thế mạnh về đất đai đồi rừng, nhưng kinh tế trang trại Bắc Kạn còn rất nhỏ bé cả về số lượng và chất lượng, chưa có đóng góp nhiều cho kinh tế của tỉnh mà loại hình này có nhiều cơ hội phát triển. Để xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa, phát triển kinh tế trang trại là hướng đi đúng đắn, cần được quan tâm giúp đỡ bằng những chính sách hợp lý, góp phần khai thác một cách có hiệu quả và bền vững tiềm năng về đất đai ở Bắc Kạn. Việc nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn về kinh tế trang trại trong tỉnh, từ đó đề ra một số giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn tỉnh có một ý nghĩa rất quan trọng. Xuất phát từ thực tế địa phương, với kinh nghiệm công tác trong ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn của tác giả thời gian qua, đề tài: “Thực trạng và một số giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Bắc Kạn” đã được chọn để nghiên cứu. 2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 2.1. Mục tiêu chung Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Bắc Kạn, từ đó tìm giải pháp thúc đẩy kinh tế trang trại phát triển, góp phần xây dựng một nền Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 3 sản xuất nông nghiệp sản xuất hàng hoá có khả năng cạnh tranh cao, hiệu quả và bền vững trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn thời gian tới. 2.2. Mục tiêu cụ thể - Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế trang trại. - Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế trang trại nhằm phát hiện ra các yếu tố trở ngại và những tiềm năng để phát triển kinh tế trang trại tỉnh Bắc Kạn. - Phân tích hoạt động kinh tế trong trang trại ở tỉnh Bắc Kạn, từ đó tìm ra được những nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp ảnh hưởng đến kết quả sản xuất và hiệu quả kinh tế của trang trại. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu thúc đẩy phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn thời gian tới. 3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu - Hoạt động kinh tế của các trang trại cũng như ảnh hưởng của nó đến sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn. - Đối tượng khảo sát: 100% số lượng trang trại hiện có tại thời điểm điều tra ở tỉnh Bắc Kạn. 3.2. Phạm vi nghiên cứu 3.3.1. Nội dung - Số lượng, cơ cấu, loại hình, phương hướng sản xuất của các trang trại ở tỉnh Bắc Kạn. - Tình hình sử dụng đất đai, lao động, vốn, thu nhập, bố trí sản xuất, bố trí cây trồng của các trang trại. - Phân tích một số chỉ tiêu đánh gía kết quả, hiệu quả kinh tế của các trang trại. 3.3.2. Phạm vi về không gian: Toàn bộ tỉnh Bắc Kạn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 4 3.3.3. Phạm vi thời gian - Số liệu lịch sử: 7 năm từ 2001-2007. - Số liệu hiện trạng năm 2006 (tiến hành điều tra năm 2007). 4. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN - Tổng hợp và phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức cho phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Bắc Kạn. - Tìm ra và đánh giá tác động của những yếu tố nội hàm và ngoại hàm ảnh hưởng đến kết qủa sản xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế các trang trại ở vùng nghiên cứu. - Đề xuất hệ thống quan điểm, phương hướng và mục tiêu để phát triển kinh tế trang trại thời gian tới. - Khuyến nghị những giải pháp chủ yếu để tiếp tục thúc đẩy kinh tế trang trại phát triển. 5. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN Chương 1: Tổng quan tài liệu nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế trang trại tỉnh Bắc Kạn Chương 3: Một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế trang trại thời gian tới Nội dung cụ thể các chƣơng nhƣ sau: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 5 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1.1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 1.1.1. Cơ sở lý luận về kinh tế trang trại 1.1.1.1. Sự hình thành và phát triển trang trại a) Quan niệm về trang trại Lịch sử phát triển của nền nông nghiệp thế giới luôn tồn tại hai hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp tập trung và sản xuất phân tán [26]. Hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp tập trung trên quy mô diện tích đất đủ lớn mang tính độc lập đã có từ rất lâu đời. Ngay từ thời đế quốc La mã đã tồn tại hình thức sản xuất tập trung trên diện tích lớn, lực lượng của yếu là tù binh và nô lệ. Thời phong kiến ở một số nước châu Âu có hình thức lãnh địa phong kiến và các trang viên. Ở Trung quốc thời nhà Hán đã có các hoàng trang, điền trang, đồn điền. Ở Việt nam hình thức sản xuất tập trung đã có từ thời phong kiến phương Bắc đô hộ. Về mặt sở hữu thì trang trại hội tụ đủ mọi hình thức sở hữu. Để biểu đạt loại hình kinh tế này, các nước đều có ngôn từ dùng để chỉ các hình thức tổ chức sản xuất tập trung (Farm, Farm stedd, Farm house (Anh); Ferme (Pháp); Fepma (Nga) ) khi chuyển sang tiếng Việt dịch là trang trại hay nông trại [25]; [19]. - Theo quan điểm của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO) và Ngân hàng thế giới (WB): “Nông trại (Farm) của các nước châu Á gió mùa dùng để chỉ một khu đất canh tác nông nghiệp”. - Theo PGS -TS Lê Trọng: “Trang trại là cơ sở, là doanh nghiệp kinh doanh nông nghiệp của một hoặc một số nhóm nhà kinh doanh” [17]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 6 Qua đó “Trang trại” là thuật ngữ dùng để mô tả, chỉ và gắn liền với hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung trên một diện tích đủ lớn, với quy mô hộ gia đình là chủ yếu, trong điều kiện sản xuất hàng hoá của nền kinh tế thị trường. b) Phân loại trang trại * Phân loại theo nguồn gốc hình thành: Có 3 con đường chính hình thành trang trại - Trang trại được hình thành từ khu đất từ thời phong kiến: Đây là các trang trại hình thành từ các khu đất thuộc sở hữu tư nhân của tầng lớp quý tộc, địa chủ. - Trang trại phát triển từ kinh tế hộ gia đình: Quá trình sản xuất đã diễn ra sự phân hoá giữa các hộ. Các hộ sản xuất thuận lợi sẽ phát triển cao hơn về quy mô và kết quả sản xuất mà hình thành các trang trại [22]. - Trang trại hình thành theo kiểu xí nghiệp TBCN: Các nhà tư bản đầu tư vốn vào sản xuất nông lâm nghiệp, họ bỏ tiền mua máy móc thiết bị, thuê đất đai và thuê lao động kinh doanh theo kiểu tư bản chủ nghĩa hình thành các trang trại. Hiện nay trang trại gia đình là loại hình trang trại phổ biến ở hầu hết các nước trên thế giới. Trang trại theo kiểu xí nghiệp tư bản còn tồn tại nhưng giới hạn trong một số ngành có giá trị cao như chăn nuôi gia súc, đại gia súc theo huớng xuất khẩu. * Phân loại trang trại theo hình thức quản lý: - Trang trại gia đình: Là loại trang trại độc lập tự sản xuất kinh doanh. Mỗi gia đình có tư cách pháp nhân do một người trong gia đình làm chủ điều hành. - Trang trại liên doanh: Do vài trang trại hợp nhất để tăng nguồn lực tạo sức cạnh tranh và sự ưu đãi của nhà nước (ở Mỹ số lượng trang trại này chiếm 10% số lượng và 16% diện tích). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 7 - Trang trại hợp doanh theo cổ phần: Trang trại loại này được tổ chức theo nguyên tắc công ty cổ phần (ở Mỹ trang trại loại này chiếm 2,7% và 13,7% diện tích đất đai [7]. - Trang trại uỷ thác: Trang trại mà người chủ uỷ quyền cho người nhà, bạn bè quản lý điều hành sản xuất (Đài loan thường có loại trang trại này) [15]. * Phân loại trang trại theo phương hướng sản xuất: - Trang trại kinh doanh tổng hợp: Trang trại này thường kết hợp sản xuất kinh doanh nông, lâm, ngư nghiệp kết hợp ngành nghề và dịch vụ. - Trang trại chuyên môn hoá: Phương hướng sản xuất chỉ phát triển một ngành hoặc một sản phẩm như sản xuất ngũ cốc, chăn nuôi gia súc. * Phân loại theo nguồn thu nhập: - Nguồn thu nhập chủ yếu từ nông nghiệp: Xu thế trang trại loại này đang giảm dần (năm 1985 Nhật Bản có 15% số trang trại thuộc loại này). - Trang trại có thu nhập thêm từ bên ngoài trang trại, loại này thường kinh doanh tổng hợp và xu thế ngày càng tăng. * Các phương thức điều hành sản xuất: - Chủ trang trại vừa điều hành vừa trực tiếp tham gia sản xuất: Loại trang trại này chủ hộ thường là nông dân, hiện nay hình thức này là phổ biến. - Chủ trang trại và gia đình không ở trang trại nhưng vẫn điều hành sản xuất: Hình thức này không nhiều nhưng đang có xu hướng phát triển ở các nước công nghiệp phát triển. - Chủ trang trại nhỏ có ít ruộng đất, không điều hành sản xuất mà uỷ quyền cho người thân quản lý trang trại của mình theo từng vụ hay nhiều năm. * Phân loại theo tiến trình hình thành và phát triển: Sự phát triển của các hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp đi từ bậc thấp lên bậc cao, từ nền sản xuất tự túc, tự cấp chuyển sang sản xuất hàng hoá mà hình thành các trang trại. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 8 - Hộ nông dân nhỏ: Quy mô sản xuất nhỏ, ruộng đất ít, sản xuất bằng công cụ thô sơ, mục đích đảm bảo thức ăn cho cuộc sống gia đình. - Trang trại truyền thống: Đất đai được khai khẩn thêm về diện tích, bắt đầu có sự tích tụ đất đai, lao động chủ yếu là lao động của gia đình. Sản phẩm sản xuất ra phần lớn dùng để tiêu dùng. - Trang trại sản xuất trồng trọt hoặc chăn nuôi nhỏ: Quy mô diện tích được tích tụ lớn hơn, sản xuất được phân định ra với vài loại cây trồng, vật nuôi chủ yếu, sản xuất phần lớn là thủ công, một phần máy móc. - Trang trại sản xuất đa dạng hoá: Sản xuất thâm canh có tưới nước, lao động kết hợp thủ công và máy móc, sản phẩm đa dạng hoá nhằm đảm bảo thu nhập bền vững, chủ yếu là sản xuất sản phẩm hàng hóa. - Trang trại chuyên môn hoá: Sử dụng lao động gia đình và thuê ngoài, sản xuất thâm canh đạt hiệu quả cao chủ yếu là sản xuất sản phẩm hàng hoá. - Trang trại tự động hoá: Đang phát triển ở các nước phát triển trên thế giới trong ngành chăn nuôi, sản phẩm chủ yếu xuất khẩu. 1.1.1.2. Khái niệm về kinh tế trang trại Hệ thống lại lý luận và thực tiễn về kinh tế trang trại, nhiều nhà nghiên cứu kinh tế Việt nam và thế giới đã đưa ra khái niệm về kinh tế trang trại như sau: - Theo một số học giả phương Tây: “Hình thức kinh tế trang trại ở các nước này dùng để chỉ một lĩnh vực tổ chức sản xuất kinh doanh nông sản hàng hoá lớn ở nông nghiệp nông thôn để phân biệt với hình thức tiểu nông tự túc, tự cấp”. - Theo PGS - TS Lê Trọng: “Kinh tế trang trại (hay kinh tế nông lâm ngư trại ) là một hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nền sản xuất xã hội, dựa trên cơ sở hợp tác và phân công lao động xã hội. Bao gồm một số người lao động nhất định được chủ trang trại tổ chức, trang bị những tư liệu sản xuất nhất định để tiến hành sản xuất kinh doanh, phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường và được nhà nước bảo hộ” [17]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 9 - Theo ông Trần Tác, Phó Vụ trưởng - Vụ Kinh tế Trung ương Đảng: “Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá lớn trong nông, lâm, ngư nghiệp của các thành phần kinh tế khác nhau ở nông thôn. Có sức đầu tư lớn, có năng lực quản lý trực tiếp quá trình sản xuất kinh doanh, có phương pháp tạo ra tỷ suất sinh lời cao hơn bình thường trên đồng vốn bỏ ra, có trình độ đưa các thành tựu khoa học, công nghệ mới kết tinh trong hàng hoá, tạo ra sức cạnh tranh cao hơn trên thị trường, mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao”. - Theo Phó Giáo sư Đào Công Tiên - trường Đại học Kinh tế thuộc Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh: “Kinh tế trang trại là một loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp, phổ biến được hình thành và phát triển trên nền tảng kinh tế hộ và về cơ bản giữ bản chất kinh tế hộ. Quá trình hình thành và phát triển kinh tế trang trại là quá trình nâng cao năng lực sản xuất dựa trên cơ sở tích tụ tập trung vốn và các yếu tố sản xuất khác, nhờ đó tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao”. Tóm lại: Theo Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP ngày 02/02/2000 về Kinh tế trang trại của Chính phủ, kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp, nông thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia đình nhằm mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, trồng rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông, lâm, thủy sản. Mặt khác, theo quy định tại Thông tư liên tịch số 69/2000/TTLT/BNN-TCTK ngày 23.6.2000 của Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn có hai nhóm đối tượng có thể tham gia đầu tư sản xuất theo mô hình trang trại, đó là hộ nông dân, hộ công nhân viên Nhà nước và lực lượng vũ trang đã nghỉ hưu, các loại hộ thành thị (gọi chung là hộ gia đình) và cá nhân. Từ đó, hình thành nên hai loại hình kinh doanh là trang trại gia đình và trang trại cá nhân. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 10 Trong phạm vi luận văn này tác giả có giới hạn việc nghiên cứu, chỉ tập trung vào loại hình trang trại gia đình trong hệ thống các loại hình trang trại đang hoạt động trong cơ chế thị trường ở nước ta. Để làm được điều đó, một trong những việc quan trọng đầu tiên phải làm là “nhận dạng” một cách đầy đủ, rõ ràng về loại hình kinh doanh mới này để từ đó có những biện pháp quản lý phát triển phù hợp. 1.1.1.3. Tính tất yếu khách quan của kinh tế trang trại Quan điểm của các nhà kinh điển về tính tất yếu tồn tại kinh tế hộ gia đình nông dân và kinh tế trang trại. * Tính tất yếu khách quan của tồn tại và phát triển kinh tế hộ nông dân Không phải bây giờ các nhà kinh tế mới bàn đến vai trò của kinh tế hộ nông dân đối với sự phát triển nông nghiệp mà ngay từ cuối thế kỷ XIX Mác, Ăng-ghen đã có nhiều công trình nghiên cứu về kinh tế hộ nông dân. Lúc đầu nghiên cứu con đường công nghiệp hoá đặc thù của nước Anh, Mác đã tiên đoán với quá trình tách người nông dân khỏi ruộng đất một cách ồ ạt thì giai cấp nông dân bị thủ tiêu và nông nghiệp sẽ được tổ chức lại thành nền đại sản xuất như trong công nghiệp. Nghĩa là trong nông nghiệp sẽ hình thành các “Đại điền trang” Tư bản chủ nghĩa sử dụng lao động làm thuê. Quá trình đó sẽ tách người nông dân ra khỏi tư liệu sản xuất, mà trước hết là ruộng đất. Sau này kinh nghiệm lịch sử của những nước công nghiệp phát triển đã làm chuyển biến nhận thức của Mác và ông phải công nhận là những tiên đoán khái quát ban đầu của mình trước kia về thực tiễn đã không được, không thiết lập ngay cả ở nước Anh siêu công nghiệp. Bất chấp xu hướng ban đầu theo kiểu “dọn sạch mặt đất”. Ở nước Anh công nghiệp phát triển, song nông trại gia đình trên thực tế không sử dụng lao động làm thuê vẫn ngày càng phát triển và càng tỏ rõ sức sống cũng như hiệu quả của nó. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 11 Chính vì thế khi viết quyển III của bộ Tư bản chủ nghĩa, Mác đã kết luận: “Ngay ở nước Anh với nền công nghiệp phát triển hình thức sản xuất nông nghiệp có lợi nhất không phải là các xí nghiệp nông nghiệp quy mô lớn mà là các trang trại gia đình không có lao động làm thuê”. Ở những nước còn giữ hình thức chia đất thành khoảnh nhỏ giá lúa mì rẻ hơn ở những nước có phương thức sản xuất Tư bản” [2]. Mác đã khẳng định do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp nên “hệ thống Tư bản chủ nghĩa mâu thuẫn với nghề nông hợp lý hay là nghề nông hợp lý không phù hợp (trái ngược) với hệ thống Tư bản chủ nghĩa (mặc dù hệ thống này có hỗ trợ cho sự phát triển kỹ thuật của nông nghiệp) và đòi hỏi phải có hoặc là bàn tay của người tiểu nông sống bằng lao động của mình, hoặc là sự kiểm soát của những người sản xuất có liên kết với nhau” [24]. Sau Mác, Ăng-ghen, C. Cauxlay là người kế tục và có những cấu hiến lớn trong việc truyền bá và phát triển Chủ nghĩa Mác. Trong đó cống hiến xuất sắc của C. Cauxlay là những công trình nghiên cứu của ông về vấn đề nông nghiệp. Theo C. Cauxlay nông nghiệp phát triển không cùng một kiểu với công nghiệp mà theo những đặc thù của nó. C. Cauxlay cho rằng sự khác nhau quan trọng nhất giữa công nghiệp và nông nghiệp là ở chỗ, trong nông nghiệp sản xuất thường gắn liền với kinh tế gia đình, lao động trong nông nghiệp khác với lao động trong công nghiệp. Sản xuất lớn trong nông nghiệp không phải luôn luôn có ưu thế tuyệt đối so với sản xuất nhỏ trong mọi điều kiện. Ông đã rất đúng khi cho rằng một doanh nghiệp lớn của nông dân nếu đem so sánh với một doanh nghiệp nhỏ của nông dân khác trong cùng một khu vực, cùng một loại cây trồng thì rõ ràng một doanh nghiệp lớn “ưu việt hơn, nếu không phải về mặt kỹ thuật, thì ít ra cũng về mặt kinh tế”. Cauxlay đã đi sâu vào nghiên cứu những nguyên nhân dẫn đến sức cạnh tranh đủ mạnh của sản xuất nhỏ để chống lại ưu thế của sản xuất lớn trong nông nghiệp. Đó là “sự Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 12 chuyên cần hơn và sự chăm chỉ cần mẫn hơn của người lao động khi anh làm cho chính bản thân anh ta (đây là điểm khác căn bản với lao động làm thuê) thấp hơn cả nhu cầu của chính bản thân công nhân nông nghiệp nữa”. A.V. Trai-a-nốp nhà nông học nổi tiếng của thế giới trong nhiều năm nghiên cứu phong trào hợp tác xã ở nhiều nước: Italia, Bỉ, Anh, Đức và cả ở Mỹ la-tinh) để tìm cách vận dụng vào nước Nga Xô-viết đã khẳng định “Hợp tác xã nông nghiệp là sự bổ sung cho kinh tế nông dân, sau đó phục vụ cho nó, và vì thế mà thiếu kinh tế hộ nông dân thì hợp tác xã sẽ không có ý nghĩa gì cả? Ông còn cho rằng: HTX chỉ xã hội hoá một phần sản xuất và quá trình này có thể thực hiện không phá vỡ kinh tế hộ nông dân, nghĩa là các hộ nông dân chỉ hợp tác với nhau phần sản phẩm sản xuất mà làm ăn tập thể có ưu thế hơn làm ăn của từng hộ riêng lẻ. V.I. Lê-nin đã kế thừa và phát triển về kinh tế hộ nông dân của C. Mác, Ăng-ghen và tiếp thu những hạt nhân hợp lý của C. Cauxlay và A.V. Trai-a-nốp. Lê-nin cho rằng nhân vật chính trong sản xuất nông nghiệp phải là “một chủ trại tự do trên mảnh đất tự do”, nghĩa là mảnh đất đã dọn sạch khỏi những tàn tích trung cổ. Đó là kiểu Mỹ” [13]. * Quá trình chuyển từ kinh tế hộ nông dân thành kinh tế trang trại Các trang trại gia đình được hình thành từ cơ sở của các hộ tiểu nông, sau khi phá vỡ cái vỏ bọc tự túc, tự cấp vươn lên sản xuất hàng hoá. Về bản chất kinh tế trang trại là kinh tế sản xuất hàng hoá khác với nền kinh tế tự cấp tự túc, Mác đã phân biệt người chủ trang trại với người tiểu nông: “Người chủ trang trại bán ra thị trường toàn bộ sản phẩm làm ra, còn người tiểu nông thì dùng đại bộ phận sản phẩm làm ra và mua bán càng ít càng tốt”. Trong quá trình phát triển kinh tế hộ sẽ vận động theo quy luật là mở rộng sản xuất hàng hoá, tất yếu sẽ diễn ra quá trình phân hoá giữa các hộ gia đình. Các hộ sản xuất thành công sẽ trở lên giàu có, những hộ sản xuất không Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 13 thành công hoặc rủi ro trong kinh doanh sẽ trở lên nghèo. Quá trình này thường xuyên lặp đi lặp lại sẽ tạo nên sự ngăn cách ngày càng sâu về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư [20]. Trong nền kinh tế thị trường các hộ nông dân chịu sự chi phối của các quy luật của nền kinh tế thị trường. Những hộ nông dân làm ăn có lãi sẽ mở rộng quy mô sản xuất, mua thêm đất đai, máy móc, tư liệu sản xuất nên quy mô càng lớn hơn và thành các hộ giàu trong nông thôn [20]. Ngoài ra dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật nên lao động thủ công dần dần được thay thế bằng lao động cơ giới, hộ nông dân thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ chuyển thành hộ sản xuất hàng hoá. Sự điều tiết của nền kinh tế thị trường, sự tác động của khoa học kỹ thuật, sự phát triển của lực lượng sản xuất làm quá trình phân hoá diễn ra ngày càng nhanh hơn, các hộ giàu sẽ phát triển thành kinh tế trang trại. Quá trình biến đổi từ hộ nông dân thành kinh tế trang trại là quá trình tự phát hợp quy luật phát triển của xã hội. * Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về kinh tế hộ và kinh tế trang trại Ở Việt Nam, từ năm 1986 đến nay nhờ đường lối đổi mới của Đảng và chính sách khuyến khích của Nhà nước, hộ nông dân được thừa nhận là đơn vị kinh tế tự chủ đã tạo ra động lực mới khơi dậy tiềm năng đất đai, lao động, tiền vốn và kinh nghiệm sản xuất, quản lý của hàng chục triệu hộ nông dân. Nhờ đó kinh tế nông nghiệp nông thôn nước ta đã có một bước chuyển biến tương đối toàn diện, mô hình trang trại ra đời và phát triển khá phổ biến ở tất cả các vùng của đất nước. Từ kinh nghiệm của các nước và thực tế phát triển của mô hình trang trại trong thời gian qua cho thấy, ở nước ta hiện nay và trong tương lai loại hình phổ biến và chủ yếu nhất vẫn là trang trại gia đình của hộ nông dân. Về vấn đề này, Nghị quyết 06 NQ/TƯ ngày 10.11.1998 của Bộ Chính trị Trung ương Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 14 Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “ở nông thôn hiện nay đang phát triển mô hình trang trại nông nghiệp, phổ biến là các trang trại gia đình, thực chất là kinh tế hộ sản xuất hàng hoá với quy mô lớn hơn, sử dụng lao động, tiền vốn của gia đình là chủ yếu để sản xuất kinh doanh có hiệu quả ”. Đảng và Nhà nước cũng đã có những chủ trương, chính sách và bước đầu cũng đã tạo dựng được những cơ sở pháp lý cần thiết tạo điều kiện để các trang trại gia đình hình thành và phát triển. Tuy nhiên, khung pháp luật về loại hình này còn ở mức độ rất ban đầu, cần phải được tiếp tục xây dựng và hoàn thiện. Bên cạnh đó, dưới góc độ pháp lý, còn có nhiều vấn đề lý luận đặt ra, cần được nghiên cứu, lý giải để tạo cơ sở lý luận vững chắc cho các quyết tâm chính trị và pháp lý. 1.1.1.4. Đặc trưng của kinh tế trang trại Căn cứ vào các quy định tại Nghị quyết 03/2000/NQ-CP ngày 02.02.2000 của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn thi hành, cũng như thực trạng hình thành và phát triển của trang trại gia đình thời gian vừa qua, có thể thấy trang trại gia đình ở Việt Nam có một số đặc điểm cơ bản sau [16]: Thứ nhất: Trang trại gia đình là một đơn vị kinh tế trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp. - Trang trại gia đình là đơn vị trực tiếp sản xuất ra những sản phẩm vật chất cần thiết cho xã hội, bao gồm nông, lâm, thủy sản, đồng thời quá trình kinh tế trong trang trại gia đình là quá trình khép kín với các khâu của quá trình tái sản xuất luôn kế tiếp nhau, bao gồm: sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng. - Trang trại gia đình là một đơn vị kinh tế có một cơ cấu thống nhất, đó là dựa trên cơ sở hộ gia đình bao gồm chủ hộ và các thành viên khác trong gia đình. Chủ trang trại (thường là chủ hộ) là người đại diện cho trang trại gia đình trong các quan hệ liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của trang Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 15 trại. Chủ trang trại là người có kiến thức, có kinh nghiệm kinh doanh, am hiểu thị trường và trực tiếp điều hành sản xuất kinh doanh tại trang trại. Đây là những tố chất rất cần thiết cho một nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường và về cơ bản chúng không có ở người chủ hộ nông dân sản xuất tự cung tự cấp. - Tài sản và vốn sản xuất kinh doanh của trang trại gia đình thuộc quyền sở hữu hoặc sử dụng (đối với đất đai) chung của các thành viên trong hộ gia đình. Bằng công sức, tài sản và vốn chung các thành viên của hộ gia đình tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh nông, lâm, ngư nghiệp dưới hình thức trang trại gia đình. Đồng thời chịu trách nhiệm về các hoạt động sản xuất kinh doanh bằng những tài sản chung đó. - Xuất phát từ bản chất kinh tế của trang trại, nên hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại gia đình luôn gắn liền với một vị trí diện tích đất đai nhất định. Thực tế cho thấy, đây vừa là địa điểm sản xuất kinh doanh đồng thời cũng là trụ sở giao dịch của trang trại gia đình trong các quan hệ nhằm phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, để thuận lợi hơn trong việc tiếp cận thị trường, không ít trang trại gia đình đã mở thêm các địa điểm giao dịch gần các trung tâm thương mại lớn nhằm tiếp thị và tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của mình. - Theo pháp luật hiện nay, trang trại gia đình bước đầu cũng đã được quy định cho một số quyền và nghĩa vụ trong sản xuất kinh doanh ở một số lĩnh vực như: đất đai, thuế, đầu tư, tín dụng, lao động, khoa học, công nghệ và môi trường, bảo hộ, v.v Trên cơ sở những quyền và nghĩa vụ này, trang trại gia đình hoàn toàn tự chủ trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, từ lựa chọn phương hướng sản xuất, quyết định kỹ thuật và công nghệ sản xuất, tổ chức sản xuất, đến tiếp cận thị trường, tiêu thụ sản phẩm, - Hiện nay, theo Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 3.2.2000 về đăng ký kinh doanh, trang trại gia đình đang phải đăng ký kinh doanh dưới danh nghĩa Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 16 hộ kinh doanh cá thể. Vấn đề đăng ký kinh doanh cho trang trại gia đình hiện vẫn chưa được đề cập đến trong các văn bản pháp luật. Tuy nhiên, đây là một việc làm hết sức cần thiết để thể hiện sự chính thức thừa nhận và bảo hộ của Nhà nước đối với trang trại gia đình, đây còn là cơ sở để một hộ là trang trại gia đình được hưởng các chính sách ưu tiên và làm nghĩa vụ đối với Nhà nước. Nghị quyết 03/2000/NQ-CP, ngày 02/02/2000 của Chính phủ về kinh tế trang trại đã xác định đây là một trong những vấn đề bất cập, cần phải được giải quyết kịp thời. Thứ hai: Mục đích chủ yếu của trang trại gia đình là kinh doanh nông sản phẩm hàng hoá theo nhu cầu thị trường. Đây là đặc điểm quan trọng nhất của trang trại gia đình. Mục tiêu của trang trại gia đình là sản xuất nông, lâm, thủy sản để bán, khác hẳn với kinh tế hộ tự cấp tực túc là chính. Trang trại gia đình là một hình thức tổ chức sản xuất nông lâm ngư nghiệp được hình thành trên cơ sở kinh tế hộ tự chủ trong cơ chế thị trường mang tính chất sản xuất hàng hoá rõ rệt. Vì vậy, đặc trưng cơ bản của trang trại gia đình là sản xuất nông, lâm, thuỷ sản hàng hoá. Kinh nghiệm các nước trên thế giới cho thấy tiêu chí giá trị nông sản hàng hoá và tỷ suất hàng hoá bán ra trong năm luôn luôn được sử dụng làm thước đo chủ yếu của trang trại. Ở Việt Nam, thực tiễn sản xuất của các trang trại gia đình trong những năm vừa qua cho thấy, trang trại nào cũng lấy sản xuất hàng hoá là hướng chính và tỷ suất hàng hoá của các trang trại trại phổ biến từ 70 - 80% đối với những trang trại đã đi vào sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Theo một kết quả điều tra năm 2001 cho thấy: ở nước ta trong năm 2000, giá trị hàng hoá của các trang trại trong cả nước đạt 4.965,9 tỷ đồng, bình quân một trang trại đạt 81,7 triệu đồng, tỷ suất hàng hoá là 92,6%. Đặc trưng sản xuất hàng hoá cho phép phân biệt rõ ràng ranh giới giữa trang trại gia đình với kinh tế hộ nông dân, sản xuất tự cấp tự túc và với hộ phi nông nghiệp ở khu vực nông thôn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 17 Thứ ba: Trong trang trại gia đình, các yếu tố sản xuất trước hết là ruộng đất và tiền vốn được tập trung tới quy mô nhất định theo yêu cầu phát triển sản xuất hàng hoá. Trong nông nghiệp cũng như trong các ngành sản xuất vật chất khác, sản xuất hàng hoá chỉ có thể được tiến hành khi các yếu tố sản xuất được tập trung với quy mô nào đó. Do đó, ở các trang trại gia đình sản xuất hàng hoá chỉ có thể được thực hiện khi ruộng đất, tiền vốn, tư liệu sản xuất, được tập trung tới quy mô đủ lớn. Đặc điểm này được quy định bởi chính đặc điểm về mục đích sản xuất của trang trại. Theo quy định tại Thông tư liên tịch số 69/2000/TTLT/BNN-TCTK, ngày 23/6/2000 của Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn và Tổng cục thống kê, sự tập trung các yếu tố sản xuất của trang trại gia đình được biểu thị về mặt lượng bằng những chỉ tiêu chủ yếu, đó là: Quy mô diện tích ruộng đất của trang trại (nếu là trang trại chăn nuôi thì là số lượng gia súc, gia cầm, ) và quy mô vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh của trang trại. Thực tế cho thấy, các trang trại gia đình có quy mô lớn hơn rất nhiều so với kinh tế hộ gia đình nông dân. Theo số liệu điều tra năm 1999 của Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội cho thấy: bình quân một trang trại gia đình có số vốn là 291,43 triệu đồng, trong đó 91,03% là vốn tự có, quy mô đất đai bình quân của một trang trại gia đình là 6,338 ha, trong khi đó bình quân đất đai sản xuất nông nghiệp của một hộ gia đình chỉ là 0,68 ha. Thứ tư: Lao động trong các trang trại gia đình chủ yếu là dựa trên các thành viên trong hộ, ngoài ra có thuê mướn lao động. Lực lượng lao động trong trang trại chủ yếu là chủ trang trại và các thành viên trong gia đình, đây là những người có quan hệ huyết thống, gần gũi như: Cha mẹ, vợ chồng, anh em. Lao động được tổ chức gọn nhẹ, đơn giản, quản lý điều hành linh hoạt, dễ dàng, hiệu quả lao động cao. Ngoài ra, để phục vụ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 18 cho nhu cầu sản xuất kinh doanh, trang trại gia đình còn phải thuê mướn lao động bên ngoài nhất là vào thời vụ gieo trồng, thu hoạch. Quy mô thuê muớn lao động trong trang trại tuỳ thuộc vào quy mô sản xuất kinh doanh của trang trại. Có hai hình thức thuê mướn lao động trong các trang trại gia đình, đó là : thuê lao động thường xuyên và thuê lao động theo thời vụ. Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, bình quân 1 trang trại sử dụng 6 lao động (quy ra thường xuyên), lao động trong gia đình chiếm 45%; hầu hết trang trại đều có sử dụng lao động thuê ngoài, số lượng lao động thuê ngoài trong các trang trại chiếm khoảng 55% tổng số lao động trong các trang trại, trong đó chủ yếu là lao động thời vụ (khoảng 70%). Trang trại chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản do tính chất sản xuất khá ổn định nên sử dụng lao động thời vụ ít hơn (từ 10 - 20%). Thứ năm: Cách thức tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh trong trang trại gia đình ngày càng mang tính khoa học, chuyên nghiệp. Trong kinh tế hộ gia đình nông dân do tính chất sản xuất đơn giản và quy mô sản xuất nhỏ với mục đích tự cung tự cấp là chính do vậy việc điều hành sản xuất của chủ hộ vẫn còn mang nặng tính gia trưởng, người chủ hộ chỉ cần có kinh nghiệm sản xuất và cần cù lao động theo kinh nghiệm cha truyền con nối. Nhưng đối với trang trại gia đình, với mục đích chính là sản xuất hàng hoá và bị các yếu tố lợi nhuận, giá cả, cạnh tranh chi phối ngày càng nhiều thì cách quản lý theo kiểu gia trưởng không còn phù hợp nữa. Sản xuất đòi hỏi phải có phương án hợp lý lựa chọn cây trồng, vật nuôi, quy hoạch ruộng đất, xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật sản xuất, áp dụng các công nghệ và quy trình sản xuất thâm canh, kế hoạch tài chính, hạch toán giá thành, lợi nhuận, phân tích kinh doanh Do vậy việc quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại đòi hỏi phải dựa trên cơ sở những kiến thức khoa học và ngày càng mang tính chuyên nghiệp, đi vào chiều sâu. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 19 Như vậy, mặc dù cũng dựa trên cơ sở hộ gia đình, nhưng trang trại gia đình có sự khác biệt rất lớn so với hộ gia đình thể hiện ở mục đích, quy mô và trình độ sản xuất. Trang trại gia đình đã và đang ngày càng thể hiện rõ tính chất của một loại hình doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn ở nước ta. Từ những đặc điểm nêu trên, theo chúng tôi, dưới góc độ pháp lý khái niệm về trang trại gia đình với tư cách là một chủ thể kinh doanh độc lập trong nền kinh tế thị trường có thể hiểu như sau: “Trang trại gia đình là một đơn vị kinh tế hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, dựa trên cơ sở hộ gia đình, có mục đích chủ yếu là kinh doanh nông sản hàng hoá, trên quy mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất được tập trung đủ lớn với cách thức tổ chức quản lý tiến bộ, tự chủ trong các hoạt động sản xuất kinh doanh”. Khái niệm này vừa thể hiện được bản chất về mặt kinh tế của trang trại nhưng đồng thời cũng thể hiện được những đặc trưng của loại hình trang trại gia đình, là cở sở để phân biệt trang trại gia đình với các loại hình kinh doanh khác đang tồn tại trong nền kinh tế thị trường ở Việt nam hiện nay. 1.1.1.5. Tiêu chí nhận dạng Một hộ sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản được xác định là trang trại theo qui định tại Thông tư số 69/2000/TTLT/BNN-TCTK ngày 23/6/2000 liên Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Tổng cục Thống kê; Thông tư số 74/2003/TT - BNN ngày 4/7/2003 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (sửa đổi, bổ sung Mục III của Thông tư liên tịch số 69/2000/ TTLT/BNN- TCTK) phải đạt một trong hai tiêu chí về giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ bình quân 1 năm, hoặc về quy mô sản xuất của trang trại sau đây: 1. Giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ bình quân 1 năm: - Đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung từ 40 triệu đồng trở lên; Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 20 2. Qui mô sản xuất phải tương đối lớn và vượt trội so với kinh tế nông hộ tương ứng với từng ngành sản xuất và vùng kinh tế: a. Đối với trang trại trồng trọt: (1) Trang trại trồng cây hàng năm: - Từ 2 ha trở lên đối với phía Bắc và Duyên hải miền Trung; (2) Trang trại trồng cây lâu năm: - Từ 3 ha trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung; (3) Trang trại lâm nghiệp: Từ 10 ha trở lên đối với các vùng trong cả nước. b. Đối với trang trại chăn nuôi: (1) Chăn nuôi đại gia súc: trâu, bò,v.v - Chăn nuôi sinh sản, lấy sữa có thường xuyên từ 10 con trở lên; - Chăn nuôi lấy thịt có thường xuyên từ 50 con trở lên. (2) Chăn nuôi gia súc: lợn, dê, v.v - Chăn nuôi sinh sản có thường xuyên đối với lợn từ 20 con trở lên, đối với dê, cừu từ 100 con trở lên; - Chăn nuôi lợn thịt có thường xuyên từ 100 con trở lên (không kể lợn sữa), dê thịt từ 200 con trở lên. (3) Chăn nuôi gia cầm: gà, vịt, ngan, ngỗng, v.v có thường xuyên từ 2000 con trở lên (không tính số đầu con dưới 7 ngày tuổi). c. Trang trại nuôi trồng thuỷ sản: - Diện tích nuôi trồng thuỷ sản có từ 2 ha trở lên (riêng đối với nuôi tôm thịt theo kiểu công nghiệp từ 1 ha trở lên). d. Trang trại sản xuất kinh doanh tổng hợp: Là những trang trại có từ hai hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản khác nhau trở lên và mỗi hoạt động đều đạt về qui mô hoặc mức giá trị hàng hoá và dịch vụ như quy định cho trang trại. Việc công nhận và cấp giấy chứng nhận trang trại gia đình là việc làm cần thiết tạo điều kiện cho loại hình KTTT phát triển. Tuy nhiên để làm được Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 21 điều đó, một trong những việc quan trọng đầu tiên phải làm là xác định một cách đầy đủ về phạm vi và số lượng của loại hình KTTT để từ đó có những biện pháp quản lý phù hợp. 1.1.1.6. Vai trò của kinh tế trang trại trong quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn * Theo “ủy ban Quốc gia về Trang trại nhỏ” (NCFS) của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA) cũng đã công bố một bản báo cáo có tính bước ngoặt vào năm 1998 với nhan đề “Thời gian hành động”. Trong đó USDA thừa nhận “Những giá trị công cộng” của trang trại gia đình bao gồm [8]: - Tính đa dạng: Các trang trại nhỏ chứa đựng tính đa dạng của quan hệ sở hữu, của hệ thống canh tác, của cảnh quan môi trường, của sự đa dạng sinh học, của văn hoá và các giá trị truyền thống. Sự phát triển của các trang trại nhỏ góp phần làm tăng tính đa dạng sinh học, làm tăng sự hấp dẫn của phong cảnh nông thôn và làm mở rộng không gian sống. - Những lợi ích về môi trường: Trang trại gia đình có vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra những lợi ích môi trường cho xã hội. Việc đầu tư vào các trang trại này sẽ cung cấp cho chính phủ một sự chia sẻ trong cương vị quản lý hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên của quốc gia. - Trao quyền hợp pháp và chịu trách nhiệm cộng đồng: Các trang trại nhỏ đã mang lại cho người nông dân một ý nghĩa lớn hơn đối với trách nhiệm cá nhân và cảm giác được kiểm soát cuộc sống của chính mình, đặc điểm này không dễ có được đối với công nhân trong các nhà máy. Những chủ trang trại hoạt động dựa vào những doanh nghiệp và các cơ sở cung cấp dịch vụ tại địa phương để đáp ứng các nhu cầu của mình. Điều này có tác dụng rất lớn trong việc tạo ra cơ hội để mang lại lợi ích lớn hơn đối với cộng đồng và hạnh phúc của bản thân những người trong trang trại. Ngược lại, những chủ trang trại nhỏ ở địa phương sẽ tự cảm thấy phải có trách nhiệm cao hơn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 22 trong việc kiểm soát bất cứ hoạt động tiêu cực nào mà nó có thể gây ra tác hại đối với cộng đồng. - Bổn phận của gia đình: Trang trại gia đình có bổn phận nuôi dưỡng những đứa trẻ lớn lên và thu nhận những giá trị truyền thống. Những kỹ năng canh tác đã trải qua từ thế hệ này đến thế hệ khác dưới cấu trúc sở hữu gia đình. Khi những đứa trẻ không tiếp tục làm nông, những kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm canh tác có thể sẽ bị mất. Một hình mẫu tương tự ở các nước đang phát triển, trong những cộng đồng canh tác truyền thống, trang trại gia đình là trung tâm để duy trì cộng đồng và để tăng cường khả năng chịu đựng của nền sản xuất nông nghiệp. Trong các trang trại gia đình, hoạt động sản xuất, động viên lao động, hình thức tiêu thụ, kiến thức về sinh thái và những mối quan tâm chung trong việc duy trì sự tồn tại lâu dài của trang trại được xem như là một thứ tài nguyên, nó đóng góp cho sự ổn định và phát triển bền vững của toàn bộ nền kinh tế cũng như với mỗi đơn vị kinh tế cơ sở là gia đình. * Theo đánh giá của Chính phủ Việt nam tại Nghị quyết số 03/2000/NQ- CP ngày 02/02/2000 về Kinh tế trang trại: Những năm gần đây, kinh tế trang trại đã đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế, đồng thời góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho lao động của các hộ nông nghiệp và nông thôn. Sự phát triển của kinh tế trang trại là động lực mới cho phát triển kinh tế hộ nông dân, bên cạnh đó đã tạo ra các vùng sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hàng hoá tập trung, làm tăng khối lượng và giá trị hàng hoá, tạo tiền đề cho công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản và thực phẩm phát triển, mở rộng các ngành nghề dịch vụ ở nông thôn. Nói cách khác: sự phát triển kinh tế trang trại góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, thay đổi cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng CNH, HĐH. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 23 1.1.2. Kinh nghiệm về phát triển kinh tế trang trại trên thế giới Theo các nhà nghiên cứu, kinh tế trang trại được hình thành từ rất sớm, từ khi phương thức sản xuất tư bản thay thế phương thức sản xuất phong kiến, từ khi bắt đầu cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất ở châu Âu, nghĩa là kinh tế trang trại ra đời gắn liền với quá trình công nghiệp hóa. Kinh tế trang trại được xem là xuất hiện sớm nhất ở Pháp. Sau cuộc đại cách mạng tư sản Pháp năm 1789, ở Pháp xuất hiện những chủ trại (ferrmier) trong nông nghiệp. Từ đó kinh tế trang trại phát triển và lan rộng khắp thế giới. Có thể nói, đến nay trang trại gia đình trở thành mô hình phổ biến nhất của nông nghiệp thế giới, nó chiếm tỷ trọng lớn tuyệt đối về đất đai canh tác và số lượng nông sản làm ra. Ví dụ hiện nay ở Mỹ với 2,2 triệu trang trại đã sản xuất ra hơn 50% sản lượng đậu tương và ngô của toàn thế giới. ở Malayxia năm 1992 các trang trại đã xuất ra 40 nước trên 6 triệu tấn [11]. Quá trình phát triển kinh tế trang trại gia dình có sự biến đổi về số lượng cũng như quy mô. Thực tiễn ở nhiều nước cho thấy trong thời kỳ đầu CNH do lao động nông nghiệp còn đông, khả năng phân công lao động xã hội còn hạn chế thì số lượng trang trại gia đình tăng lên. Đến thời kỳ công nghiệp hoá phát triển, khả năng thu hút lao động của công nghiệp, dịch vụ tăng lên nhanh chóng thì số lượng trang trại nông nghiệp bắt đầu giảm đi. Cuối thế kỷ XX số lượng ở các trang trại gia đình ở các nước đang phát triển ở châu Á tăng 2,5% mỗi năm, trong khi dó ở các nước công nghiệp phát triển châu Âu giảm 2,35% mỗi năm. - Quy mô trang trại gia đình lại biến động theo chiều hướng ngược lại với số lượng trang trại của mỗi quốc gia. Tuỳ điều kiện các nước mà quy mô trang trại có thể rất khác nhau. Trang trại của các nước châu Á có diện tích nhỏ, quy mô trang trại chỉ trên dưới một ha như Nhật bản (1,2 ha). Trang trại của các nước châu Âu lớn hơn, quy mô bình quân trang trại hàng chục ha như Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 24 Pháp (29,2 ha); Đan mạch 31,7 ha. Ở một số nước quy mô trang trại gia đình lên tới hàng trăm ha như ở Mỹ trang trại bình quân 180 ha [4]. Biểu 1.1: Diện tích bình quân 1 TT ở một số nƣớc trên thế giới 1990 Nƣớc Diện tích (ha) Nƣớc Diện tích (ha) Mỹ 180 Bỉ 14 Anh 64 Pakistan 3,86 Đan mạch 31,7 Thái Lan 4,5 Pháp 29,2 Italia 2 Ấn Độ 20 Inđônêxia 1,77 Hà Lan 16,4 Nhật Bản 1,2 Nhìn chung các trang trại gia đình trên thế giới có những đặc trưng chung là có trang bị kỹ thuật hiện đại, ứng dụng ngày càng nhiều khoa học kỹ thuật và công nghệ sinh học các trang trại gia đình chủ yếu sử dụng lao động của hộ gia đình và một số ít lao động thuê ngoài (chủ yếu theo thời vụ). - Việc cơ giới hoá, hiện đại hoá nông nghiệp trong các trang trại không chỉ diễn ra ở các nước phát triển mà ngay cả đối với các trang trại tại các nước đang phát triển: “Năm 1985, cơ cấu động lực nông nghiệp của các trang trại ở các nước công nghiệp phát triển có 7% sức người, 10% sức súc vật và 82% sức máy, cơ điện còn các trang trại của các nước đang phát triển có 25 đến 30% sức người, 50% sức súc vật và 20% sức máy ”. Ngoài ra, các trang trại còn ứng dụng những tiến bộ kỹ thuật trong các lĩnh vực sinh học, tin học: “Ở Mỹ, đến nay đã có 20% trang trại gia đình sử dụng máy tính phục vụ việc lập trình sản xuất kinh doanh trên đồng ruộng và trong trang trại. Ở Đức 50% các trang trại quy mô 50 ha trở lên đã sử dụng máy vi tính vào quá trình điều hành sản xuất ”[5]. - Lao động sử dụng trong trang trại ở Tây Âu và Mỹ đang có xu hướng giảm dần. Hiện nay ở Mỹ chỉ có từ 1 - 2 lao động/ trang trại; Nhật bản khoảng 3 lao động/ trang trại (1990); Đài loan mỗi trang trại chỉ có 1,3 lao động [7]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 25 Biểu 1.2: Lao động sử dụng trong 1 TT ở một số nƣớc trên thế giới 1990 Đơn vị tính: Người Tên nƣớc Thái Lan Hàn Quốc Pháp Đức Lao động/ Tr.Trại (người) 3,7 2,1 2,1 1,2 Số lao động của một trang trại của các nước trên thế giới là từ 2 đến 4 lao động/ trang trại. Số lượng lao động trong các trang trại không phụ thuộc vào quy mô sản xuất của trang trại mà phụ thuộc vào trình độ công nghệ sản xuất. Thực tiễn phát triển nông nghiệp của các nước trên Thế giới đã khẳng định điều kiện cần và đủ cho việc phát triển kinh tế trang trại gia đình là sự hình thành nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá đất nước. Ngoài ra trang trại gia đình muốn hoạt động có hiệu quả cần phải có sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của Nhà nước thông qua các chính sách và các công cụ quản lý vĩ mô như: Chính sách thuế, chính sách tài chính, tín dụng, chính sách bảo trợ nông nghiệp, bảo hộ lao động Kinh tế trang trại là những đơn vị kinh tế tự chủ sản xuất kinh doanh, nhưng các trang trại gia đình có thể tham gia kinh tế hợp tác với nội dung và hình thức khác nhau. Các hợp tác xã để bảo đảm đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất với chi phí thấp, lợi nhuận cao để bảo vệ lợi ích lâu dài của trang trại. * Những bài học kinh nghiệm rút ra từ quá trình phát triển kinh tế trang trại của thế giới - Trang trại có vai trò quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá của các nước. Kinh tế trang trại gắn liền quá trình công nghiệp hoá của các nước từ thấp đến cao, chính công nghiệp hoá đặt ra yêu cầu khách quan để phát triển trang trại, cơ chế thị trường tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế trang trại phát triển. Trong qúa trình công nghiệp hoá kinh tế trang trại đều giữ vị trí xung kích cung cấp nông sản hàng hoá cho xuất khẩu. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 26 - Kinh tế trang trại có nhiều loại hình khác nhau, nhưng phổ biến nhất là trang trại gia đình, có nguồn gốc từ hộ gia đình vì thế nó phát huy thế mạnh vốn có của hộ gia đình trong sản xuất nông nghiệp. - Thực tế phát triển trang trại tại nhiều quốc gia trên thế giới lại cho phép đi đến kết luận: chính các trang trại gia đình quy mô nhỏ mới thực sự là chìa khóa để phát triển một nền nông nghiệp bền vững, lâu dài. - Trong các giai đoạn ban đầu kinh tế trang trại phát triển theo hướng kinh doanh tổng hợp bằng cách đa dạng hoá sản phẩm, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường sẽ từng bước đi vào chuyên môn hoá. - Hiệu quả sản xuất kinh doanh của trang trại không hoàn toàn phụ thuộc vào quy mô đất đai. ở các nước châu Á như Nhật bản, Hàn quốc, Đài loan diện tích các trang trại nhỏ nhưng hiệu quả sản xuất lại rất lớn. 1.1.3. Lịch sử hình thành và tồn tại trang trại ở Việt nam và Bắc Kạn Nhìn lại lịch sử ta thấy trang trại ở nước ta đã hình thành từ thời nhà Trần, thời đó gọi là điền trang - nhưng điền trang lúc này chủ yếu là trang trại của quý tộc phong kiến [9], [10]. Trong sách “Lịch sử nông nghiệp Việt Nam” có ghi: “Năm 1266, triều đình nhà Trần cho phép các vương hầu, công chúa, phò mã, cung phi triệu tập dân nghèo khổ không có đất làm nô tỳ đi khai hoang miền ven biển, đắp đê ngăn mặn, khai phá đất bồi sông Hồng lập thành điền trang rộng lớn” [20]. Khác với thái ấp thời nhà Lý và điền trang thời nhà Lý, điền trang thời nhà Trần thuộc sở hữu của quý tộc. Nô tỳ bị bóc lột như nông nô. Tức là như những người nông dân bị phụ thuộc vào ruộng đất - điền trang rộng lớn của bọn địa chủ quý tộc. Họ bị bóc lột bằng địa tô và lao dịch, có thể bị bán theo ruộng đất dưới chế độ phong kiến. Đến thời nhà hậu Lê, nhà nước phong kiến chủ trương mở rộng khai hoang lập đồn điền (đồn điền cũng đồng nghĩa với trang trại). Lượng lao động Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 27 khai hoang lập đồn điền chủ yếu là phạm nhân, tù binh và một số binh lính đóng đồn ở các địa phương. Đến năm 1481, cả nước có 43 sở đồn điền để cấp cho họ hàng nhà vua và quan lại từ tứ phẩm trở lên (gọi là cấp lộc điền). Lực lượng sản xuất trong các đồn điền - trang trại - vừa áp dụng chế độ nô tỳ, vừa chủ yếu là bóc lột trực tiếp bởi phong kiến và phụ thuộc trực tiếp bởi nhà nước vì luật pháp cấm nông dân bỏ làng ra đi để bắt nông dân không ruộng phải cày ruộng, nộp thuế, lao dịch và binh dịch. Đến đời nhà Nguyễn từ năm 1802 - 1855 triều đình đã ban hành 25 quyết định về khai hoang với hình thức chủ yếu là chiêu mộ dân phiêu tán để khai hoang lập ấp trại hoặc xã. Đồng thời, nhà nước dùng binh lính và tù nhân bị lưu đày để khai hoang, hoặc giao cho tư nhân chiêu mộ dân khai phá đất hoang để lập đồn điền - trang trại - phát canh - thu tô. Đặc biệt thời kỳ thực dân Pháp đô hộ, họ đã thực hiện chính sách khai thác thuộc địa làm giàu cho chính quốc. Họ thấy ngành nông nghiệp là ngành đấu tư ít vốn mà dễ dàng thu được lợi nhuận cao vì vừa có thể bóc lột được độ phì nhiêu của đất vừa bóc lột được sức lao động làm thuê đến cùng tận. Năm 1888, Toàn quyền Đông dương ra các Nghị định cho địa chủ thực dân được quyền lập các đồn điền, Nghị định còn cho phép địa chủ thực dân được quyền lập các đồn điền rộng lớn mà họ gọi là đất vô chủ. Chỉ sau 2 năm, năm 1890, số đồn điền trại ấp khắp ba miền Bắc - Trung - Nam được họ thành lập đã lên tới 108 cái, với diện tích 10.898 ha, quy mô bình quân 100 ha/ 1 đồn điền. Đến giữa những năm 20, tổng diện tích mà họ chiếm đoạt dưới nhiều thủ đoạn đã lên đến 270.000 ha (trong đó ở Nam kỳ 308.000; ở Trung kỳ 26.000 và ở Bắc kỳ 136.000 ha). Tổng số trang trại (đồn điền) đã lên tới 2.350 cái chuyên trồng cao su, chè, hồ tiêu, dừa, lúa, mía, bông quy mô vừa, lớn, nhở khác nhau. Có cái ở Bắc kỳ lên đến 8.515ha. Nhưng bình quân chung ước chừng 200 ha/cái [11], [36]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 28 Kết quả lợi nhuận siêu gạch họ vơ vét ngày càng nhiều, họ càng thi nhau phát triển trang trại cả về số lượng và quy mô diện tích đất đai kinh doanh. Tính đến năm 1930, thực dân Pháp đã chiếm đọat 1,2 triệu ha, bằng 1/7 trong tổng diện tích đất canh tác của nước ta lúc bấy giờ để lập trên dưới 4.000 đồn điền - trang trại với quy mô bình quân chừng 300 ha/cái. Phương thức kinh doanh của các chủ đồn điền - trang trại như sau: - Từ đầu đến giữa những năm 1920 là phát canh thu tô theo lối phong kiến. - Từ sau những năm 1920 đến trước cách mạng tháng Tám 1945 họ cưỡng mộ công nhân vào làm các đồn điền - trang trại và bóc lột người lao động hết sức tàn nhẫn, vô nhân đạo, thậm chí họ còn dùng xác chết của công nhân ở các đồn điền để bón cho cây cao su - Từ cách mạng tháng 8 năm 1945 đến năm 1975. + Ở miền Nam: các loại đồn điền tư bản, thực dân ở những vùng địch tạm chiến vẫn tồn tại và phát triển. + Ở miền Bắc: Nhà nước tiến hành tịch thu các đồn điền của thực dân Pháp và địa chủ phản động đem chia cho nông dân không ruộng và chuyển một số thành cơ sở sản xuất nông nghiệp của nhà nước. Đến năm 1957, nhà nước đã chính thức thành lập các nông, lâm trường quốc doanh. Từ những năm 1958 đến năm 1960 các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp bậc thấp, quy mô thôn đã được thành lập, rồi lên bậc cao, quy mô liên thôn, đến quy mô xã có tính phổ biến trên toàn miền Bắc. Các hình thức đó đã có tác dụng lớn trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cũng như xây dựng hệ thống thủy lợi, cải tạo đồng ruộng nên sau năm 1975 cũng được áp dụng ở miền Nam đã được quốc hữu hóa như ở miền Bắc trước đây. - Từ 1975 đến 1986: Như trên đã nói, sau khi giải phóng miền nam những đồn điền - trang trại kiểu Tư bản chủ nghĩa đã được Nhà nước tịch thu và chuyển thành những nông trường quốc doanh. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 29 Nói chung, thời kì hòa bình, khôi phục và phát triển nền kinh tế cả nước theo hướng quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội và vẫn áp dụng mô hình cũ - xây dựng nền kinh tế nông nghiệp mang nặng tính kế hoạch, tập trung. Chỉ có 2 hình thức kinh tế chủ yếu (trong thành phần kinh tế Xã hội chủ nghĩa) là nông trường quốc doanh và hợp tác xã nông nghiệp đã bộc lộ nhiều khuyết tật cần được đổi mới. - Từ 1986 đến nay: Đảng và Chính phủ đã công nhận sự tồn tại tất yếu, vai trò của kinh tế trang trại và đã ban hành một số chính sách hỗ trợ phát triển. + Nghị quyết 10 (tháng 4 năm 1987) của Bộ Chính trị về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp khẳng định: Hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ, khuyến khích phát triển. + Luật đất đai năm 1993 khẳng định ruộng đất là của Nhà nước, Nhà nước giao cho hộ nông dân và các tổ chức kinh tế sử dụng ổn định, lâu dài. + Nghị định 02/CP (1994) quy định giao đất lâm nghiệp cho các tổ chức và cá nhân, hộ gia đình thời hạn 50 năm. + Nghị định 03/CP (1994) quy định giao khoán kinh doanh rừng và đất rừng lâu dài cho các cá nhân, hộ gia đình. + Nghị định 64/CP (1999) quy định giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình và các cá nhân ổn định lâu dài, thời hạn 20 năm. + Nghị quyết số: 03/2000/NQ-CP ngày 02 /02/2000 của Chính phủ về kinh tế trang trại; + Thông tư số: 82/2000/TT-BTC ngày 14/8/2000 của Bộ Tài chính hướng dẫn chính sách tài chính nhằm phát triển kinh tế trang trại; + Thông tư số: 23/2000/TT-BLĐTBXH ngày 28/9/2000 của Bộ Lao động thương binh và xã hội hướng dẫn áp dụng một số chế độ đối với người lao động làm việc trong các trang trại [1]; Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 30 + Các Thông tư Liên tịch số: 69/2000/TTLT/BNN-TCTK ngày 23/6/2000 và 62/TTLT/BNN-TCTK ngày 20/5/2003 của liên Bộ Nông nghiệp và PTNT, Tổng cục Thống kê và hướng dẫn tiêu chí để xác định kinh tế trang trại [12]; Các chính sách trên đã đi vào cuộc sống làm chuyển biến nền nông nghiệp nước ta. Trong quá trình phát triển này, một loại hình tổ chức sản xuất mới trong nông nghiệp ra đời: Một số hộ nông dân, cá nhân đã tích luỹ kinh nghiệm sản xuất, tích tụ đất đai, đầu tư thâm canh chuyển sang sản xuất hàng hoá hình thành nên các trang trại đóng góp ngày càng lớn vào sự nghiệp phát triển kinh tế nước ta. * Tóm lược lịch sử hình thành kinh tế trang trại ở Bắc Kạn - Thời kỳ phong kiến, pháp thuộc Bắc Kạn là một tỉnh có chế độ “Thổ ty” của người Tày là tộc người đa số ở địa phương. Việc một số quan lại được vua chúa ban thưởng nhiều đất đai trong thời kỳ phong kiến là một thực tế, tuy nhiên với đặc điểm của nền kinh tế tự cấp tự túc nên có thể nói trang trại chưa hình thành vào thời gian này. - Thời kỳ thuộc pháp: Thực dân pháp thực hiện việc khai thác thuộc địa rất mạnh ở Bắc Kạn, tuy nhiên chỉ đơn thuần là khai thác khoáng sản. Việc lập đồn điền trồng cây hàng hoá tập trung tại địa phương là không có, họ chỉ du nhập một số giống cây để trồng thử nghiệm ở địa phương. - Trong thời kỳ kháng chiến chống pháp và xây dựng CNXH ở miền Bắc: Các hợp tác xã nông nghiệp ra đời cũng là việc các hộ gia đình có nhiều ruộng đất đã hiến hoặc góp hoa lợi vào hợp tác. Cùng với nó là việc vận động định canh định cư đưa người Dao và Mông “hạ sơn” và vào hợp tác xã để cùng có ruộng. - Thời kỳ đổi mới kinh tế: Vấn đề đổ vỡ của các hợp tác xã nông nghiệp cũng dẫn tới việc tự phát đòi lại ruộng đất ông cha. Rất nhiều hộ gia đình kinh tế mới và định canh định cư vì không còn ruộng nước canh tác đã tiến hành Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 31 lập trại tại các vùng đầu nguồn sông, suối để làm kinh tế nông lâm kết hợp. Chính sách hỗ trợ trồng rừng phủ xanh đất trống đồi núi trọc theo chương trình 327 đã được chính quyền địa phương triển khai và nhân dân tích cực tham gia. Bên cạnh đó, Nhà nước còn thực hiện chính sách hỗ trợ dãn dân thực hiện chương trình 327 cho hàng nghìn hộ trên địa bàn tỉnh. Trong bối cảnh như vậy đã hình thành nên một loại hình kinh tế mới, đó là các trang trại tách biệt ra khỏi các khu dân cư làng bản lâu đời. Đại đa số các trang trại này là của những gia đình nông dân bị sức ép do mất đất canh tác sau thời kỳ đòi lại “ruộng đất ông cha” ở Bắc Kạn cuối những năm 1980, còn lại một số ít là của công nhân viên chức, bộ đội phục viên và tiểu thương có điều kiện về kinh tế. 1.1.4. Quá trình phát triển kinh tế trang trại ở nƣớc ta từ khi đổi mới theo nền kinh tế thị trƣờng * Giai đoạn 1989-1999: Để “đổi mới” về kinh tế, ở Đại hội VI (12/1986) Đảng đã chỉ ra, trong thời kỳ quá độ ở nước ta là “nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần” và tiếp đến (4/1989) trong nông nghiệp có Nghị Quyết VI năm 1989, Đảng chỉ ra rằng “gia đình xã viên trở thành những đơn vị kinh doanh tự chủ” đồng thời, luật doanh nghiệp tư nhân cũng được công bố ngày 3/1/1991. Đó chính là những cơ sở để hệ thống trang trại phát triển với tốc độ và quy mô càng cao lớn hơn. Trên thực tế từ năm 1989 đến 1999, từ Nam Bộ đến các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long, miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên hoặc tới các tỉnh miền núi phía Bắc đã hình thành từng loại trang trại. Các loại trang trại này chuyên môn hóa sản xuất lúa, mía, cà phê, cao su, cây ăn quả, chè, và chăn nuôi các loại lợn, gia cầm, trâu bò. Hoặc chuyên môn hóa lúa kết hợp hợp lý các ngành với quy mô từ nhỏ, vừa, lớn đến cực lớn. quy mô diện tích đất kinh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 32 doanh phổ biến là trên dưới 5 ha đến 10 - 20 - 30, thậm chí đến hàng trăm ha (như ngư trại khai hoang lấn biển nuôi trồng thủy sản nông thôn của ông Nguyễn Văn Khanh ở huyện An Hải - Hải Phòng có diện tích kinh doanh từ 246 - 300 ha). Có trang trại rộng hàng nghìn hoặc hơn 200 ha đất canh tác hay làm trại trồng rừng cũng có hơn 200 ha. Các chủ trang trại hầu hết đã sử dụng lực lượng cơ khí, nhất là máy kéo và lao động làm thuê. Giá trị tổng sản phẩm của các trang trại loại nhỏ phổ biến là trên dưới 100 đến 200 triệu, loại vừa 200 triệu đến 1 tỷ, loại lớn 1 tỷ đến 5 tỷ, loại cực lớn là trên 5 tỷ. Nhìn chung, các trang trại đã xuất hiện và phát triển ở nhiều nơi kể cả vùng đồng bằng sông Hồng là nơi đất hẹp người đông. Nhưng phát triển nhanh nhất là ở các tỉnh huyện trung du, miền núi và nhiều tỉnh của Nam Bộ hoặc ở vùng đất mới khai hoang, lấn biển. Theo số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê, năm 1989 tổng số có 5.125 trang trại, đến năm 1992 đã tăng lên đến 13.246 trang trại, nhiều hơn gấp 2,53 lần. Đến ngày 1/7/1999 cả nước có 90.167 trang trại, tăng gấp 6,8 lần so với năm 1989. Diện tích đất trong kinh doanh nông nghiệp trong cùng thời gian từ năm 1989 đến năm 1992 đã tăng từ 22.946 ha lên 58.282 ha, gấp 2,54 lần, đến năm 1999 tăng lên 396.282 ha, gấp 6,81 lần so với năm 1992 và gấp 17,29 lần so với năm 1989. Vốn đầu tư của các trang trại cả nước, nếu tính từ khi mới thành lập ở năm 1989 của 5.125 trang trại có chừng 513.677 triệu đồng thì đến năm 1999 của 90.167 trang trại đã đầu từ đến 18.030.000 triệu đồng nhiều hơn gấp 35,1 lần. Điều đó phản ánh trình độ đầu tư thâm canh, áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá của các trang trại trong 10 năm qua đã dần dần tăng lên. Tổng giá trị sản phẩm bình quân của các trang trại trong những năm 1997-1999 được chừng 9.575 tỷ đồng/năm chiếm 7,89% giá trị tổng sản phẩm nông nghiệp. Đặc biệt là tỷ suất Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 33 nông sản hàng hoá của các trang trại ở năm 1992 chiếm 78,6% thì năm 1999 đã tăng lên đến 86,74% [17]. Như vậy, trong 10 năm (1989-1999) kinh tế trang trại đã phát triển với tốc độ ở những năm sau tăng nhanh hơn những năm trước. Thêm vào đó cần lưu ý là ở những vùng có bình quân diện tích ruộng đất nông nghiệp cao và có truyền thống sản xuất hàng hoá như đồng bằng sông Cửu Long và những vùng trung du miền núi (có nhiều đất trống đồi trọc) hoặc ở các vùng khai hoang lấn biển (như Cồn Ngạn, H. Giao Thuỷ, T. Nam Định) thì tốc độ và quy mô phát triển trang trại rất nhanh. * Giai đoạn 2000-2006: Sau khi có Nghị quyết 03/2000/NQ-CP của Chính phủ về kinh tế trang trại, kinh tế trang trại tiếp tục phát triển và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản [21]. - Số lượng trang trại (1) tăng nhanh, loại hình sản xuất đa dạng đã góp phần tích cực vào quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Biểu 1.3: Số lƣợng trang trại phân theo vùng ở Việt nam 2000 - 2006 Đơn vị tính: Trang trại Danh mục 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Cả nƣớc 57.069 61.017 61.787 86.141 110.832 114.362 113.730 Đồng bằng sông Hồng 1646 1834 1939 5.031 8.131 9.637 13.863 Đông Bắc 2793 3201 3210 4.859 4.984 5.473 4704 Tây Bắc 282 135 163 367 400 395 522 Bắc Trung Bộ 4084 3013 3216 4.842 5.882 6.706 6.756 Duyên hải Nam Trung Bộ 3122 2904 2943 6.509 6.936 7.138 7.808 Tây Nguyên 3589 6035 6223 6.650 9.450 9.623 8.785 Đông Nam Bộ 9586 12705 12126 14.938 18.921 18.808 16.867 Đồng bằng sông Cửu Long 31967 31190 31967 42.945 56.128 56.582 54.425 Nguồn: Tổng cục Thống kê (1) Theo tiêu chí trang trại được qui định trong Thông tư số 74/2003/TT-BNN ngày 4/7/2003 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 34 Kinh tế trang trại phát triển nhanh về số lượng ở tất cả các vùng trong cả nước, đến thời điểm 01/7/2006, cả nước có 113.730 trang trại, so với năm 2001 tăng 52.713 trang trại (-86,4%), so với năm 2004 tăng 2.898 trang trại (-2,5%). Đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ và Tây Nguyên là những vùng có nhiều đất đai, mặt nước thuận lợi để mở rộng qui mô trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ sản là những vùng tập trung số lượng trang trại nhiều nhất. Ba vùng này có 80.077 trang trại, chiếm 70,4%. Riêng Đồng bằng sông Cửu Long hiện có 54.425 trang trại chiếm gần 50% số trang trại cả nước. Loại hình sản xuất của trang trại ngày càng đa dạng và có sự chuyển dịch về cơ cấu theo hướng giảm tỷ trọng các trang trại trồng cây hàng năm và cây lâu năm và tăng tỷ trọng các loại trang trại chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản và sản xuất kinh doanh tổng hợp. Tỷ trọng trang trại trồng cây hàng năm giảm từ 35,6% (năm 2001), xuống còn 28,7% (năm 2006); trang trại trồng cây lâu năm từ 27,2% giảm xuống còn 20,2%; trang trại chăn nuôi từ 2,9% tăng lên 14,7%; trang trại nuôi trồng thuỷ sản từ 27,9% tăng lên 30,1% trong thời gian tương ứng. Vùng Đồng bằng sông Cửu Long có 54.425 trang trại; trong đó 24.425 trang trại trồng cây hàng năm, chiếm 44,9% số lượng trang trại của vùng, 25.147 trang trại nuôi trồng thuỷ sản, chiếm 46,2%. Đông Nam Bộ có 16.867 trang trại chiếm 14,8% của cả nước; trong đó 9537 trang trại trồng cây lâu năm, chiếm 56,5% số lượng trang trại của vùng, 3.839 trang trại chăn nuôi, chiếm 22,8%. Tây Nguyên có 8.785 trang trại, chiếm 7,7% của cả nước; trong đó 7.046 trang trại trồng cây lâu năm, chiếm 80,2% số lượng trang trại của vùng. Đồng bằng sông Hồng có 13.863 trang trại chiếm 12,2% của cả nước, trong đó 7.562 trang trại chăn nuôi, chiếm 54,5% của vùng. - Trang trại sử dụng ngày càng nhiều ruộng đất, dấu hiệu tích tụ ruộng đất - điều kiện tiên quyết cho nền sản xuất lớn nông nghiệp. Tại thời điểm 01/7/2006, diện tích đất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản do Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 35 các trang trại đang sử dụng là 663,5 nghìn ha, tăng 290,3 nghìn ha so năm 2001 (bình quân 1 trang trại sử dụng 5,8 ha). Trong cơ cấu đất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản trang trại đang sử dụng năm 2006, đất trồng cây hàng năm chiếm tỷ trọng lớn nhất với 286,4 nghìn ha (43,2%); đất trồng cây lâu năm 148 nghìn ha (22,3%); đất lâm nghiệp 94,7 nghìn ha (14,3%) và đất nuôi trồng thuỷ sản 134,4 nghìn ha (20,2%). Diện tích đất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản bình quân 1 trang trại cao nhất là ở vùng Tây Bắc 9,82 ha, Đông Bắc 8,87 ha, Bắc Trung Bộ 7 ha, chủ yếu là do các vùng này có nhiều trang trại lâm nghiệp (tiêu chí qui định từ 10 ha trở lên). Đặc điểm đất đai của các trang trại là đất sản xuất liền bờ, liền khoảnh, qui mô lớn nên rất thuận lợi cho việc tổ chức sản xuất, bảo vệ, vận chuyển sản phẩm và nhất là cơ giới hoá, thủy lợi hoá, xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật. - Kinh tế trang trại phát triển góp phần tạo việc làm và tăng thu nhập cho lao động nông thôn. Tại thời điểm 01/7/2006, các trang trại đã sử dụng 395,9 nghìn lao động làm việc thường xuyên, gấp 1,7 lần so năm 2001; trong đó lao động của hộ chủ trang trại là 291,6 nghìn người, chiếm 73,6% tổng số lao động, còn lại là lao động thuê mướn. Do tính chất thời vụ của sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản nên ngoài lao động thuê mướn thường xuyên, các trang trại còn thuê mướn lao động thời vụ. Những trang trại trồng cây hàng năm, trồng cây lâu năm, nuôi trồng thuỷ sản sử dụng nhiều lao động thường xuyên nhất. Thu nhập bình quân 1 lao động làm việc thường xuyên của trang trại là 17,5 triệu đồng/năm cao gấp trên 2 lần so lao động khu vực nông thôn. Tuy nhiên, lao động làm việc trong trang trại chủ yếu vẫn là lao động phổ thông, chưa qua đào tạo chỉ có khả năng đảm nhiệm những công việc giản đơn như làm đất, trồng cây, chăn dắt gia súc, gia cầm, chế biến thức ăn, có rất ít lao động đảm nhiệm các khâu yêu cầu trình độ kỹ thuật như điều khiển máy móc, chọn giống cây, con, kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, mua vật tư, bán sản Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 36 phẩm, Điều đó đang đặt ra yêu cầu cấp bách đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn kỹ thuật cho khu vực nông nghiệp, nông thôn. - Qui mô vốn sản xuất, kinh doanh của trang trại tăng nhanh do các chủ trang trại tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất, thâm canh cây trồng vật nuôi. Tại thời điểm 01/7/2006, tổng vốn sản xuất, kinh doanh của các trang trại là 29320,1 tỷ đồng, bình quân một trang trại 257,8 triệu đồng, tăng 122,7 triệu đồng so năm 2001 (-90,8%). Vốn sản xuất, kinh doanh bình quân 1 trang trại cao nhất là vùng Đông Nam Bộ 575,5 triệu đồng (tăng 341,6 triệu đồng so năm 2001) do chủ yếu trang trại trồng cao su, cà phê, hồ tiêu, điều, tiếp đến là Tây Nguyên 279,6 triệu đồng (-100,7 triệu đồng); Đồng bằng sông Cửu Long 206,6 triệu đồng (-135,2 triệu đồng); Đồng bằng sông Hồng 200,9 triệu đồng (-94,3 triệu đồng); Tây Bắc 200 triệu đồng (-90,5 triệu đồng); Đông Bắc 192,1 triệu đồng (-107,2 triệu đồng); thấp nhất là Duyên hải Nam Trung Bộ 144,4 triệu đồng do chủ yếu trang trại trồng cây hàng năm cần ít vốn hơn. Những tỉnh có vốn sản xuất, kinh doanh bình quân 1 trang trại từ 500 triệu đồng trở lên là: Lâm Đồng, Bình Phước, Tây Ninh, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu. - Kinh tế trang trại phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá ngày càng lớn, gắn với thị trường. Tổng thu sản xuất, kinh doanh của các trang trại năm 2006 đạt 19.826 tỷ đồng, gấp 3,6 lần năm 2001, bình quân 174,9 triệu đồng 1 trang trại, gấp 1,9 lần so năm 2001. Tổng thu sản xuất, kinh doanh bình quân 1 trang trại cao nhất là vùng Đông Nam Bộ 221 triệu đồng; Đồng bằng sông Hồng 193 triệu đồng; Đồng bằng sông Cửu Long 181 triệu đồng; Tây Nguyên 148,6 triệu đồng; Đông Bắc 139 triệu đồng; Duyên hải Nam Trung Bộ 112 triệu đồng; Tây Bắc 100 triệu đồng và thấp nhất là Bắc Trung Bộ 105 triệu đồng. Giá trị sản phẩm và dịch vụ nông, lâm nghiệp và thuỷ sản bán ra năm 2006 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 37 là 18031 tỷ đồng, gấp 3,6 lần so năm 2001, bình quân 1 trang trại 159 triệu đồng gấp 1,9 lần, tỷ suất hàng hoá là 95,2%. Các vùng có tỷ suất hàng hoá cao là: Đông Nam Bộ 98,2%, Duyên hải Nam Trung Bộ 98,1%, Tây Nguyên 96,2%, Đồng bằng sông Hồng 95,6%, thấp nhất là Tây Bắc 89,8%. Thu nhập trước thuế của các trang trại năm 2006 đạt 6.979 tỷ đồng gấp 3,5 lần so năm 2001, tỷ lệ thu nhập trước thuế so tổng thu là 35,2% (giảm 0,2% so năm 2001). Thu nhập trước thuế bình quân 1 trang trại 61,4 triệu đồng gấp 1,9 lần so năm 2001. Mức chênh lệch giữa các vùng, các địa phương về thu nhập bình quân 1 trang trại còn lớn: cao nhất là Đông Nam Bộ 85,2 triệu đồng gấp hơn 2 lần vùng thấp nhất là Duyên hải Nam Trung Bộ 38,3 triệu đồng, Đồng bằng sông Cửu Long 64 triệu đồng, Đông Bắc 52,3 triệu đồng, Đồng bằng sông Hồng 47,6 triệu đồng. Tỷ lệ thu nhập trước thuế so tổng thu sản xuất, kinh doanh của trang trại cũng có sự chênh lệch lớn giữa các vùng do chịu ảnh hưởng của loại hình sản xuất và hiệu quả của sản xuất, kinh doanh: cao nhất là Tây Bắc 47,1%, Tây Nguyên 43,4%, Đông Nam Bộ 38,6%, thấp nhất là Đồng bằng sông Hồng 24,6%. 1.1.5. Một số kết luận rút ra từ nghiên cứu lý luận và thực tiễn - Kinh tế trang trại gắn liền quá trình công nghiệp hoá của các nước từ thấp đến cao, chính công nghiệp hoá đặt ra yêu cầu khách quan để phát triển trang trại, cơ chế thị trường tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế trang trại phát triển. - Kinh tế trang trại có nhiều loại hình khác nhau, nhưng phổ biến nhất là trang trại gia đình. Chính các trang trại gia đình quy mô nhỏ mới thực sự là chìa khóa để phát triển một nền nông nghiệp bền vững, lâu dài. - Điều kiện cần và đủ cho việc phát triển kinh tế trang trại gia đình là sự hình thành nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá đất nước. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 38 - Trang trại gia đình muốn hoạt động có hiệu quả cần phải có sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của nhà nước thông qua các chính sách và các công cụ quản lý vĩ mô như: Chính sách thuế, chính sách tài chính, tín dụng, chính sách bảo trợ nông nghiệp, bảo hộ lao động - Hiệu quả sản xuất kinh doanh của trang trại không hoàn toàn phụ thuộc vào quy mô đất đai. - Số lượng lao động trong các trang trại không phụ thuộc vào quy mô sản xuất của trang trại mà phụ thuộc vào trình độ công nghệ sản xuất. - Các trang trại gia đình chủ yếu sử dụng lao động của hộ gia đình và một số ít lao động thuê ngoài (chủ yếu theo thời vụ). - Trang trại ngày nay được trang bị kỹ thuật hiện đại, ứng dụng ngày càng nhiều khoa học kỹ thuật và công nghệ sinh học 1.2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1.2.1. Các câu hỏi đặt ra mà đề tài cần giải quyết - Trong những năm qua, kinh tế trang trại của tỉnh Bắc Kạn đã phát triển thế nào? - Yếu tố nào ảnh hưởng tới sự phát triển của kinh tế trang trại của tỉnh Bắc Kạn? - Hiệu quả kinh tế của các trang trại tỉnh Bắc Kạn thế nào? - Giải pháp nào thúc đẩy phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Bắc Kạn? 1.2.2. Phuơng pháp nghiên cứu 1.2.2.1. Cơ sở phương pháp luận đề tài * Phương pháp tiếp cận duy vật: Nghiên cứu trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin. Đây được coi là phương pháp chung, định hướng cho cả quá trình nghiên cứu luận văn này. * Phương pháp tiếp cận dựa trên quan điểm kinh tế: Tiếp cận kinh tế trang trại theo hướng nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội kết hợp phát triển bền vững. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 39 - Tiếp cận kinh tế trang trại theo hướng kinh tế thị trường: Mối quan hệ giữa chủ trang trại với thị trường các yếu tố đầu vào, thị trường đầu ra; xem xét, xác định thế mạnh là gì? Lợi thế so sánh cụ thể? So sánh về mức độ gắn bó với thị trường, tìm ra điểm mạnh, điểm yếu để từ đó có hướng khắc phục; định hướng đầu tư để phát triển kinh tế trang trại như thế nào, chọn hướng sản xuất kinh doanh dịch vụ nào cho phù hợp với yêu cầu của thị trường; vấn đề liên kết liên doanh, cạnh tranh trong sản xuất trang trại - Tiếp cận kinh tế trang trại theo hướng kinh tế hộ: Đây là phương pháp tiếp cận cơ bản và xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu kinh tế trang trại. Kinh tế trang trại chủ yếu được hình thành từ nền tảng kinh tế hộ. Do vậy tiếp cận để nghiên cứu, phân tích nó phải vận dụng các lý thuyết liên quan đến kinh tế hộ. * Phương pháp tiếp cận hệ thống. Tiếp cận hệ thống có nghĩa là khi tiếp cận một đối tượng nghiên cứu cụ thể phải xem xét, đặt nó trong một hệ thống mối quan hệ nhất định. - Tiếp cận hệ thống dọc: Tiếp cận theo hệ thống dọc ở đây chủ yếu là theo quản lý xã hội gồm: Trung ương - tỉnh - huyện - xã - làng, bản, thôn, xóm - hộ gia đình ; theo hệ thống chính sách có: hệ thống các chủ trương, chính sách vĩ mô của nhà nước có liên quan đến phát triển nông nghiệp, nông dân, trang trại; hệ thống các chính sách, quy định của các bộ ngành Trung ương để triển khai các chủ trương chính sách vĩ mô nêu trên; hệ thống các chủ trương, quy định của địa phương có liên quan - Tiếp cận hệ thống ngang: Chủ yếu là hệ thống các trang trại có cùng một ngành nghề sản xuất; hệ thống các trang trại có trong cùng một thời điểm, một giới hạn địa lý nhất định như một xã, một huyện, hay trong toàn tỉnh Trang trại là một bộ phận gắn bó hữu cơ trong hệ sinh thái miền núi, gắn với môi trường, nguồn nước Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 40 1.2.2.2. Các phương pháp nghiên cứu khoa học - Thu thập tài liệu thứ cấp: Những số liệu, thông tin liên quan trực tiếp và gián tiếp đến quá trình nghiên cứu đã được công bố chính thức của cơ quan thống kê các cấp, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các trường đại học, các cơ quan nghiên cứu; thông tin trên internet, các báo cáo chuyên đề, các tài liệu, xuất bản phẩm của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. - Thu thập các dữ liệu trực tiếp thông qua điều tra, khảo sát: Điều tra trực tiếp qua phỏng vấn các chủ trang trại để lấy thông tin theo nội dung phiếu điều tra đã được chuẩn bị. Tác giả là người trực tiếp thực hiện công việc này, bởi số trang trại ở Bắc Kạn không lớn và hơn nữa là thông tin được đầy đủ và tin cậy hơn. Bao gồm các công việc sau đây: + Xây dựng mục tiêu, lĩnh vực điều tra và đối tượng điều tra, từ đó lập phiếu điều tra để tiến hành điều tra; + Tiến hành điều tra tổng thể các trang trại hiện có trong tỉnh tại thời điểm điều tra; + Xây dựng cơ sở dữ liệu (CSDL) thông tin sơ cấp bằng hệ thống bảng tính Excel phục vụ cho việc phân tích, đánh giá. - Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn - RRA (Rapid Rural Appraisal): Dựa trên các thông tin được thu thập từ trước, quan sát trực tiếp và phỏng vấn khi cần thiết các đối tượng khác ngoài chủ trang trại với câu hỏi không được chuẩn bị trước. Phương pháp này chủ yếu để kiểm chứng lại thông tin điều tra chủ trang trại. - Phương pháp chuyên gia: Phỏng vấn bán cấu trúc để lấy thông tin từ một cá nhân hoặc một nhóm nhỏ chuyên gia đại diện các ngành, địa phương trong lĩnh vực nghiên cứu. Từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá chung về vấn đề đang nghiên cứu, giúp cho quá trình phân tích được chính xác hơn, không mang tính chủ quan của người làm luận văn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 41 - Phương pháp thống kê, mô tả: Lập danh sách và sắp xếp theo trình tự riêng biệt các yếu tố kinh tế, xã hội môi trường; đặc tính giống nhau, tiêu biểu, chung, phổ biến của các trang trại tỉnh Bắc Kạn; cập nhật, hệ thống hoá những thông tin, vấn đề phục vụ cho nội dung nghiên cứu của đề tài. Phương pháp thống kê, mô tả được sử dụng chủ yếu trong phần phân tích tiềm năng và đánh giá thực trạng. - Phương pháp phân tích, đánh giá theo cách so sánh chuỗi: Trên cơ sở chuỗi số liệu có được, tiến hành phân tích, rút ra các quy luật phát triển của vấn đề nghiên cứu và trực tiếp đưa ra các phán đoán định tính dựa trên các số liệu đã có: tăng hay giảm; mức và tốc độ tăng, giảm diễn ra như thế nào, so sánh với khả năng của địa phương là thấp hay cao - Phương pháp phân tích, đánh giá thông qua so sánh chéo: So sánh chéo với các địa phương khác để xác định một cách khách quan mục tiêu, kết quả của vấn đề nghiên cứu. - Phương pháp phân tổ thống kê đối tượng nghiên cứu: Phân tổ các trang trại thành những nhóm loại hình sản xuất kinh doanh trên cơ sở tiêu chí trang trại hiện hành và diễn tả bằng các biểu thống kê. Việc phân tổ theo tiêu chí như vậy sẽ đảm bảo tính thống nhất từ quá trình nghiên cứu đến công tác quản lý nhà nước về kinh tế trang trại. - Phương pháp phân tích, tính toán những chỉ số thống kê, những đại lượng trung bình và hệ số tương đối tính hiệu quả, đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả sản xuất của trang trại (vốn, đất đai, lao động), so sánh kết quả các loại hình trang trại, dự báo xu hướng phát triển của trang trại. - Kiểm định thống kê bằng phương pháp so sánh cặp đôi sử dụng phần mềm SPSS (Statiscal Package for Social Sciences). - Phương pháp phân tích SWOT (Strength Weakness Opportunity Threat) để phát hiện vấn đề cơ bản phát triển kinh tế trang trại. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 42 1.2.3. Các chỉ tiêu nghiên cứu 1.2.3.1. Chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất - Giá trị sản xuất: GO (Gross output) là giá trị bằng tiền của các sản phẩm được bán ra ở trang trại, bao gồm phần giá trị để lại để tiêu dùng và giá trị bán ra thị trường sau một chu kỳ sản xuất, thường là một năm. Được tính bằng sản lượng của từng loại sản phẩm nhân với đơn giá một đơn vị sản phẩm. Cách tính: GO = ∑PiQi Trong đó: GO: Giá trị sản xuất Pi: Giá của sản phẩm hàng hoá thứ i Qi: Lượng sản phẩm hàng hoá i - Chi phí trung gian: (IC: Intermediate cost) là toàn bộ các khoản chi phí vật chất bao gồm các khoản chi phí nguyên vật liệu, giống, phân bón, chi phí dịch vụ và lao động thuê. Cách tính: IC = ∑Cij Trong đó: IC: là chi phí trung gian Cij: là chi phí nguyên vật liệu thứ i cho sản phẩm j - Giá trị gia tăng: VA (Value Added) là giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ cho các ngành sản xuất sáng tạo ra trong một năm hay một chu kỳ sản xuất kinh doanh (ở đây tính là năm). Cách tính: VA = GO - IC 1.2.3.2. Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất - Hiệu quả sử dụng lao động: Giá trị gia tăng (VA)/ lao động; - Hiệu quả sử dụng vốn: Giá trị gia tăng (VA)/ vốn; - Hiệu quả sử dụng đất: Giá trị gia tăng (VA)/ ha đất trang trại; - Tỷ suất hàng hoá. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 43 Chƣơng 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI TỈNH BẮC KẠN 2.1. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU Tỉnh Bắc Kạn được tái lập từ ngày 01/01/1997, đến nay tỉnh có 8 đơn vị hành chính, gồm 7 huyện và 1 thị xã tỉnh lỵ với 122 xã, phường, thị trấn. Tổng diện tích tự nhiên 4.857,21 km2, dân số trung bình năm 2006 trên 30 vạn người, với 7 dân tộc anh em gồm Tày, Nùng, Dao, Kinh, Mông, Hoa, Sán Chay, trong đó dân tộc thiểu số chiếm trên 80%. 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên 2.1.1.1. Vị trí địa lý Bắc Kạn là tỉnh miền núi thuộc vùng Đông Bắc Bắc Bộ, ở vị trí trung tâm các tỉnh thuộc Việt Bắc cũ, có toạ độ địa lý 21o48’ đến 22o44’ độ vĩ Bắc, 105o26’ đến 106o15’ độ kinh Đông. Phía Đông giáp tỉnh Lạng Sơn, phía Tây giáp tỉnh Tuyên Quang, phía Nam giáp tỉnh Thái Nguyên và phía Bắc giáp tỉnh Cao Bằng. Thị xã tỉnh lỵ Bắc Kạn cách thủ đô Hà Nội 170 km về phía Bắc. Quốc lộ 3 qua tỉnh dài 123,5 km là tuyến giao thông quan trọng để giao lưu kinh tế, xã hội của Bắc Kạn với Hà Nội và các tỉnh khác trong vùng. Vị trí địa lý của Bắc Kạn ở vào thế khó khăn so với nhiều tỉnh khác trong vùng, xa trung tâm phát triển kinh tế của vùng, lại không có cửa khẩu biên giới nên việc giao lưu kinh tế, thu hút nguồn lực để đầu tư. 2.1.1.2. Đặc điểm địa hình Bắc Kạn là tỉnh miền núi là nơi hội tụ của một hệ thống nếp núi có dạng hình cánh cung như: cánh cung Sông Gâm; cánh cung Ngân Sơn - Yến Lạc nên có địa hình tương đối phức tạp, đa dạng, độ chia cắt mạnh gồm nhiều dạng địa hình như: thung lũng, núi cao, núi trung bình và núi đá vôi núi đá Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 44 xen lẫn núi đất dễ gây sạt lở. - Phía Tây của tỉnh có độ cao thấp dần từ Đông Bắc xuống Đông Nam, có nhiều đỉnh cao trên 1000 m, địa hình chia cắt mạnh, độ dốc bình quân 26- 30o, nhiều dãy núi đá đồ sộ nằm ở phía Bắc huyện Chợ Đồn và phía Nam huyện Ba Bể xen kẽ núi đất tạo thành những thung lũng hẹp. - Phía Đông địa hình hiểm trở nằm trong phần cuối của cánh cung Ngân Sơn - Yến Lạc, có dãy núi đá vôi Kim Hỉ là khối đá đồ sộ, dân cư thưa thớt. - Phía Tây Bắc là hồ Ba Bể có diện tích tự nhiên khoảng 500 ha, độ sâu khoảng 20 - 30 m, thiên nhiên đã tạo ra nơi đây một phong cảnh đẹp, một khu du lịch lý tưởng. - Phía Nam của tỉnh là vùng đồi núi thấp như vùng chuyển tiếp từ trung du lên miền núi, độ cao bình quân từ 300 - 400 m so với mặt nước biển, đây là phần cuối cùng của cánh cung Sông Gâm, Ngân Sơn - Yến Lạc. Tuy độ cao không lớn, độ dốc bình quân 26o nhưng địa hình bị chia cắt mạnh, tạo nên các thung lũng nhiều hơn và rộng hơn điển hình là các thung lũng ven sông Cầu. 2.1.1.3. Điều kiện thời tiết - khí hậu, thuỷ văn Thời tiết - khí hậu: Bắc Kạn nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa vùng Đông Bắc Việt Nam, một năm có 2 mùa rõ rệt: Mùa đông lạnh và mùa hè nóng ẩm. Nhiệt độ bình quân năm khoảng 22,50C, tháng 2 có nhiệt độ thấp nhất khoảng 15,70C, tháng nóng nhất là tháng 6 có nhiệt độ khoảng 280C. Do địa hình phức tạp nên đã hình thành các vùng tiểu khí hậu khác nhau, nhìn chung khí hậu của Bắc Kạn tương đối thuận lợi cho việc phát triển một hệ sinh thái đa dạng. Bắc Kạn chịu ảnh hưởng của gió Đông Nam về mùa hè và gió mùa Đông Bắc về mùa Đông. Tổng lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 1400-1900 mm, cao nhất vào tháng 7 và thấp nhất vào tháng 2, mùa mưa từ tháng 2 đến tháng 9 chiểm khoảng 75-80% tổng lượng mưa trong năm. Độ ẩm không khí Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 45 trung bình 82-85%. 2.1.1.4. Tài nguyên đất Diện tích đất tự nhiên của Bắc Kạn năm 2006 là 486.842 ha, trong đó đất nông nghiệp (bao gồm cả đất lâm nghiệp) là 372.186 ha chiếm 76%, đất phi nông nghiệp là 18.816 ha chiếm 4,0% và đất chưa sử dụng là 95.839 ha chiếm 20%. Nhìn chung đất đai trong tỉnh Bắc Kạn tương đối màu mỡ, nhiều nơi tầng đất dầy, có hàm lượng mùn cao, thích hợp cho sản xuất nông, lâm nghiệp. Tuy nhiên ở một số nơi như Ngân Sơn, Bạch Thông do lớp thảm thực vật bị mất trong nhiều năm nên đất bị sói mòn, thoái hoá làm cho tầng đất mỏng, nghèo dinh dưỡng, khô cằn. Những loại đất chính của tỉnh Bắc Kạn như sau: - Đất phù sa sông: có diện tích khoảng 761 ha được phân bố ở ven sông Cầu, sông Năng, sông Bắc Kạn và tại các huyện Chợ Mới, Na Rì, Ba Bể, thị xã Bắc Kạn. Loại đất này giàu hàm lượng các chất dinh dưỡng, rất thuận lợi trong phát triển nông nghiệp thâm canh. - Đất phù sa ngòi suối: loại đất này có 10.067 ha phân bố dọc theo các triền suối thuộc lưu vực sông Năng, sông Cầu và sông Bắc Kạn. Đất có thành phần cơ giới nhẹ, cấp hạt lớn và tỷ lệ mùn trung bình, hàm lượng lân dễ tiêu khá. Tuy nhiên loại đất này chua, tỷ lệ các nguyên tố vi lượng nghèo và sắt nhôm di động cao. - Đất dốc tụ trồng lúa nước: với diện tích 2.249 ha, phân bố xen kẽ với các loại đất khác và có mặt ở hầu khắp các huyện. Loại đất này có địa hình phức tạp do nằm xen kẽ và các lòng máng lớn nhỏ tạo thành. Đất lẫn nhiều sỏi đá và thành phần dinh dưỡng nghèo, đất chua, thiếu lân. - Đất Ferelit biến đổi: có diện tích khoảng 2.242 ha phân bố rải rác ở các huyện thị nhưng tập trung ở huyện Bạch Thông. Đặc điểm do thường xuyên bị ngập nước nên đất chua nhưng hàm lượng dinh dưỡng ở mức trung bình. Tầng đất dày khoảng 50 cm và loại đất này khả năng giữ nước kém. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 46 - Đất Feralit nâu vàng phát triển trên phù sa cổ: với diện tích trên 400 ha phân bố ở huyện Chợ Mới, Bạch Thông và thị xã Bắc Kạn. Đất có tầng đất dày trên 1 m và nằm trên dườn đồi có độ dốc nhỏ dưới 120. Đất chua, nghèo lân và lượng nhôm di động cao. - Đất Feralit phát triển trên đá phiến thạch sét: loại đất này có diện tích lớn bằng 82.152 ha, phân bố ở tất cả các huyện thị trong tỉnh. Loại đất này có thành phần cơ giới nặng, tầng đất dày tuy nhiên cũng hay bị sụt lở. Hàm lượng dinh dưỡng phụ thuộc vào tình hình rừng ở phía trên. - Đất Feralit vàng đỏ phát triển trên đá granit: với 48.977 ha loại đất này phân bố ở Bạch Thông, Ba Bể, Chợ Mới và thị xã Bắc Kạn. Thành phần cơ giới trung bình và tầng đất từ trung bình đến dày. Hàm lượng mùn cao, đất có phản ứng trung tính. - Đất Feralit đỏ vàng phát triển trên đá biến chất: loại đất này có diện tích lớn nhất (162.255 ha), phân bố ở Ngân Sơn, Chợ Đồn, Ba Bể, Chợ Mới. Tầng đất dày và kết cấu đất tơi xốp nên rất dễ bị sụt lở, rửa trôi. Đạm và mùn có hàm lượng khá giàu nhưng lân dễ tiêu lịa nghèo, đất chua. - Đất Feralit nâu đỏ phát triển trên đá vôi: có diện tích 59.728 ha, phân bố ở hầu khắp các huyện song nhiều nhất là Na Rì, Ba Bể, Bạch Thông. Tầng đất mỏng nhưng cấu tượng của đất tốt. Hàm lượng các nguyên tố vi lượng trong loại đất này như Ca và Mg rất lớn. - Đất Feralit vàng nhạt phát triển trên sa thạch: với diện tích 14.632 ha, loại đất này phân bố chủ yếu ở Na Rì, Ba Bể, Ngân Sơn. Tầng đất trung bình, thành phần cơ giới nhẹ, hàm lượng mùn và chất hữu cơ nghèo. Đất chua, rất chua và dễ bị xói mòn, bị bạc màu. - Đất Feralit mùn trên núi cao trên 700 m: loại đất này có diện tích 64.200 ha, phân bố ở các huyện Ngân Sơn, Ba Bể, Chợ Đồn, Bạch Thông và Na Rì. Tầng đất mỏng nhưng hàm lượng mùn khá cao do chất hữu cơ phân giải. Loại đất này rất thích nghi với một số loại cây trồng ôn đới. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 47 Hiện trạng sử dụng tài nguyên đất của Bắc Kạn cụ thể như sau: Biểu 2.4: Tình hình sử dụng đất tỉnh Bắc Kạn 2001-2006 Đơn vị tính: ha Năm Năm Năm Loại đất 2001 2005 2006 Tổng diện tích tự nhiên 485.721 486.842 486.842 I. Đất nông nghiệp 332.232 371.767 372.186 1. Đất sản xuất nông nghiệp 30.024 37.798 37.710 2. Đất lâm nghiệp 301.718 333.058 333.564 3. Đất nuôi trồng thuỷ sản 486 861 877 4. Đất nông nghiệp khác 4 50 35 II. Đất phi nông nghiệp 15.622 18.582 18.816 1. Đất ở 2.124 2.345 2.346 2. Đất chuyên dùng 7.901 10.684 10.821 3. Đất tôn giáo, tín ngưỡng 4 4 3. Đất nghĩa trang, nghĩa địa 105 166 172 4. Đất sông, suối, mặt nước chuyên dụng 5.492 5.382 5.470 5. Đất phi nông nghiệp khác 1 3 III. Đất chƣa sử dụng 137.867 96.493 95.839 1. Đất bằng chưa sử dụng 5.334 3.345 3.423 2. Đất đồi núi chưa sử dụng 122.480 88.516 87.837 3. Núi đá không có rừng cây 10.053 4.632 4.579 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Bắc Kạn - Đất nông nghiệp: đây là nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội chiếm 76%, trong đó đất sản xuất nông nghiệp rất hạn chế chỉ có 37.710 ha chiếm 4,0% diện tích tự nhiên. Hiện tại hệ số sử dụng đất khoảng 1,91 lần Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 48 và so với các tỉnh khác trong vùng tương đối thấp. + Đất trồng cây hàng năm có 32.142 ha chiếm 6,7% trong đó trồng lúa là 18.736 ha . Đất trồng cây hàng năm còn lại có 13.965 ha chủ yếu gieo trồng các loại rau, màu, đậu tương (2.558 ha), ngô (14.637 ha), lạc, bông, vùng v.v. Đất trồng cây lâu năm có 5.567 ha chiếm 1,2% diện tích tự nhiên. Năng suất cây trồng hàng năm và lâu năm ở Bắc Kạn không cao, bình quân mới chỉ bằng 60 đến 70% so với năng suất có thể đạt được. Nguyên nhân cơ bản là nông dân chưa thâm canh mà chủ yếu là quảng canh với nguồn giống chưa bảo đảm. + Đất lâm nghiệp có 420.990,5 ha, chiếm 86,4% diện tích tự nhiên, trong đó rừng tự nhiên là chủ yếu khoảng 224.151,4 ha (chiếm đến 53,2% đất lâm nghiệp) nhưng chủ yếu là rừng nghèo, rừng mới phục hồi; rừng trồng 39.352,5 ha chiếm hơn 9,34% đất lâm nghiệp. - Đất phi nông nghiệp: trong 5 năm vừa qua diện tích đất phi nông nghiệp tăng chậm, năm 2000 có 15.622 ha (chiếm 3,22% diện tích tự nhiên) đến năm 2005 tăng lên 18.582 ha (chiếm 3,82% diện tích tự nhiên) và năm 2007 là 18.816 ha (chiếm 3,9% diện tích tự nhiên). - Đất chưa sử dụng: diện tích đất chưa sử dụng giảm xuống trong 5 năm vừa qua khoảng 42 nghìn ha xấp xỉ 8,6% và hiện nay còn 95.839 ha, chiếm khoảng 19,68%. Đất chưa sử dụng độ dốc thấp có diện tích rất hạn chế (ước tính dưới 15%) mà chủ yếu là đất chưa sử dụng có độ dốc lớn với diện tích chiếm trên 85% hiện nay, chủ yếu dùng vào phát triển lâm nghiệp (rừng phòng hộ). Từ kết quả trên cho thấy tiềm năng đất của tỉnh còn khá lớn, riêng đất chưa sử dụng có khả năng sản xuất nông lâm nghiệp là trên 80 ngàn ha. Hiện nay, hệ số sử dụng đất còn thấp, có thể nâng hệ số sử dụng đất lên. năng suất cây trồng, vật nuôi cũng còn tiềm ẩn khá, nếu áp dụng đưa giống mới vào sản Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 49 xuất, chế độ canh tác hợp lý thì sẽ đưa được năng suất lên ít nhất là 1,3 - 1,4 lần so với năng suất hiện nay. 2.1.1.5. Tài nguyên nước Bắc Kạn là đầu nguồn của 5 con sông lớn, với tổng chiều dài là 313 km, lưu lượng lớn 105,3 m3/s và có nước quanh năm. Các con sông Năng chảy qua huyện Ba Bể là phụ lưu của Sông Gâm, Sông Phó Đáy bắt nguồn từ huyện Chợ Đồn là phụ lưu của Sông Lô; Sông Bắc Giang bắt nguồn từ huyện Na Rì, Sông Ngân Sơn bắt nguồn từ huyện Ngân Sơn là phụ lưu của sông Kỳ Cùng; suối Nà Vài bắt nguồn từ huyện Ngân Sơn là phụ lưu của Sông Bằng Giang chảy về tỉnh Cao Bằng và sông Cầu bắt nguồn từ huyện Chợ Đồn chảy về tỉnh Thái Nguyên. Ngoài các con sông chính, trong tỉnh còn có các hệ thống suối lớn, nhỏ khá nhiều, song đa phần nhỏ và ngắn, độ dốc lớn nên nhiều thác ghềnh. Mùa khô các con suối thường cạn nước, nhưng mùa mưa nước lại dồn về rất nhanh nên thường gây nên lũ quét ở miền núi. Nguồn nước của tỉnh Bắc Kạn tương đối phong phú nhất là nước mặt (khoảng 3,7 tỷ m3, hàng năm tiếp nhận 2-2,5 tỷ m3 nước mưa. Hiện nay việc khai thác tài nguyên nước mới chỉ dừng lại ở mức tự nhiên là chính, chưa có giải pháp khai thác tổng hợp nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao và bảo vệ môi trường. Trong tương lai cần đẩy mạnh trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn để hạn chế dòng chảy chống lũ lụt, xói mòn, rửa trôi, xây dựng các phai, đập, hồ chứa nước cho sinh hoạt và sản xuất nhằm khai thác hợp lý, khoa học và có hiệu quả nguồn tài nguyên nước của tỉnh. 2.1.1.6. Tài nguyên khoáng sản Do đặc điểm lãnh thổ tỉnh Bắc Kạn nằm trong hai kiểu kiến trúc địa chất có chế độ địa động khác nhau đã tạo cho Bắc Kạn có tài nguyên khoáng sản tương đối đa dạng, phong phú rất đặc trưng. Trong các khoáng sản đa dạng và phong phú của Bắc Kạn thì vàng, chì, kẽm, quặng sắt là khoáng sản có tiềm năng lớn nhất. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 50 Tóm lại, tài nguyên khoáng sản tại Bắc Kạn tương đối phong phú, đa dạng và giầu tiềm năng, trong đó quặng chì-kẽm, quặng vàng, quặng sắt và khoáng sản làm vật liệu xây dựng là có trữ lượng công nghiệp. Song để khai thác và sử dụng có hiệu quả góp phần làm giầu cho tỉnh đòi hỏi phải có sự đầu tư lớn về điều tra khảo sát, kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật 2.1.1.7. Tài nguyên rừng Đến năm 2006 Bắc Kạn có 333.564,37 ha đất lâm nghiệp, trong đó đất có rừng là 263.503,9 ha, rừng tự nhiên 224.151,4 ha, rừng trồng là 39.352,5 ha và đất chưa có rừng là 157.484,6 ha. Độ che phủ của rừng chiếm 55%. Cơ cấu rừng so với tổng diện tích đất lâm nghiệp như sau: rừng sản xuất 276.557,3 ha, chiếm 65,69%; rừng phòng hộ 118.449,2 ha, chiếm 28,14%; rừng đặc dụng 25.984 ha, chiếm 6,17%. Sản lượng gỗ khai thác hàng năm trên 63.000 m3. Nếu như năm 1997 diện tích rừng tự nhiên của Bắc Kạn chiếm tới 95% thì đến năm 2005 diện tích rừng tự nhiên còn 85%. Trong diện tích rừng tự nhiên, rừng giàu và trung bình chỉ chiếm có khoảng 9%, diện tích rừng phục hồi và rừng nghèo chiếm khoảng 50% và rừng tre nứa hỗn giao khoảng 20%. Rừng của Bắc Kạn có vị trí quan trọng, ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp, môi trường sinh thái và đời sống nhân dân. Diện tích rừng sản xuất của Bắc Kạn chiếm khoảng 65 - 66%, Bắc Kạn có vị trí địa lý nằm ở vùng giao lưu giữa 2 khu hệ động, thực vật của vùng núi Tây Bắc và Đông Bắc. Tuy núi không cao nhưng rất đa dạng về địa hình, địa chất và dạng sinh cảnh. Rừng Bắc Kạn có hệ động thực vật phong phú với nhiều nguồn gien quý hiếm, hiện có khoảng 34 bộ, 110 họ và 336 loài chim, thú, bò sát, lưỡng cư đang sinh sống, trong đó có 64 loài đã đưa vào sách đỏ Việt nam, đặc biệt có 10 loài đặc hữu của Việt nam. Về thực vật có 148 họ, 537 chi và 826 loài đang sinh sống và phát triển, trong đó có 52 loài được xếp vào sách đỏ Việt nam. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
- 51 Tóm lại, rừng Bắc Kạn là một tài nguyên quý, phong phú và đa dạng, ngoài khả năng cung cấp gỗ và các loại lâm sản, đây còn là một trong những trung tâm bảo tồn gien động, thực vật quý hiếm của các tỉnh vùng Đông Bắc Việt nam. 2.1.1.8. Tài nguyên du lịch Bắc Kạn là tỉnh giàu tiềm năng du lịch bởi sự phong phú của tài nguyên, khoáng sản và nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc miền núi Đông Bắc Việt Nam. - Hồ Ba Bể là danh thắng thiên nhiên được công nhận là di tích lịch sử văn hoá Quốc gia năm 1996, hiện nay đang lập hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận là di sản thế giới. Hội xuân Ba Bể được tổ chức vào tháng giêng âm lịch hàng năm. - Căn cứ địa cách mạng - ATK Chợ Đồn: Đây là một trong những khu căn cứ mà Bác Hồ và các cán bộ cấp cao của Đảng ta đã lãnh đạo dân tộc trong suốt cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp. - Ngoài ra phải kể đến những danh thắng nổi tiếng như: động Puông, động Nà Poỏng, động Ba Cửa, hang Sơn Dương, khu bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ. 2.1.1.9. Về dân số và lao động Năm 2007 dân số toàn tỉnh ước khoảng 305,8 nghìn người với 7 dân tộc anh em đang sinh sống, trong đó dân tộc Tày chiếm 60,4%, dân tộc Kinh chiếm 19,3%, dân tộc Dao chiếm 9,5% và dân tộc Nùng chiếm 7,4%; mật độ dân số bình quân 62,8 người/km2, dân số nông thôn chiếm 85% và dân số thành thị 15%. Số người trong độ tuổi lao động là: 200.460 người (chiếm 65,5% tổng dân số). Số lao động tham gia hoạt động kinh tế thời điểm năm 2007 khoảng 169 nghìn người chiếm 85% so với số dân trong độ tuổi lao động, chủ yếu là lao Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên