Luận văn Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành tỉnh Thái Nguyên theo hướng phát triển bền vững

pdf 203 trang phuongnguyen 7960
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành tỉnh Thái Nguyên theo hướng phát triển bền vững", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_van_chuyen_dich_co_cau_kinh_te_nganh_tinh_thai_nguyen_t.pdf

Nội dung text: Luận văn Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành tỉnh Thái Nguyên theo hướng phát triển bền vững

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM THỊ NGA CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH TỈNH THÁI NGUYÊN THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ Hà Nội, năm 2016
  2. i VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM THỊ NGA CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH TỈNH THÁI NGUYÊN THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Chuyên ngành : Kinh tế chính trị Mã số : 62.31.01.02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Hà Huy Thành 2. TS. Trần Ngọc Ngoạn Hà Nội, năm 2016
  3. ii LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận án
  4. iii MỤC LỤC TRANG BÌA i LỜI CAM ĐOAN ii MỤC LỤC iii DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT vi PHẦN MỞ ĐẦU 1 1. Tính cấp thiết của đề tài 1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2 2.1. Mục đích nghiên cứu 2 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 3 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5 3.1. Đối tượng nghiên cứu 5 3.2. Phạm vi nghiên cứu 5 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5 4.1. Cơ sở lý luận 5 4.2. Phương pháp nghiên cứu 6 5. Những đóng góp mới của luận án 8 6. Kết cấu của luận án 8 Chương 1:TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 9 1.1. Các công trình nghiên cứu về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế 9 1.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới 9 1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam 11 1.2. Các công trình nghiên cứu về phát triển bền vững 14 1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới 14 1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam 17 1.3. Các công trình nghiên cứu về chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với phát triển bền vững 22 1.4. Những vấn đề đặt ra và hướng nghiên cứu của luận án 23 1.4.1. Những vấn đề đặt ra cần được tiếp tục nghiên cứu 23 1.4.2. Hướng nghiên cứu của luận án 24
  5. iv Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 26 2.1. Cơ sở lý luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng phát triển bền vững 26 2.1.1. Lý luận về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành 26 2.1.2. Lý luận về phát triển bền vững 36 2.1.3. Lý luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng phát triển bền vững 40 2.2. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng phát triển bền vững của các nước trên thế giới và một số tỉnh thành ở Việt Nam 50 2.2.1. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới 50 2.2.2. Kinh nghiệm của một số tỉnh thành ở Việt Nam 54 2.3. Một số bài học rút ra cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng phát triển bền vững đối với tỉnh Thái Nguyên 56 Chương 3: THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN 61 3.1. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Thái Nguyên 61 3.2. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng phát triển bền vững trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2006 - 2014 63 3.2.1. Tăng trưởng kinh tế 63 3.2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành 68 3.3. Các nhân tố tác động tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng phát triển bền vững trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 75 3.3.1. Nhóm các nhân tố bên trong hệ thống kinh tế 75 3.3.2. Nhóm các nhân tố bên ngoài hệ thống kinh tế 83 3.4. Đánh giá tính bền vững của chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế 88 3.4.1. Đánh giá tính bền vững của chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 88 3.4.2. Nguyên nhân chủ yếu của những thành tựu và hạn chế của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng phát triển bền vững trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 107
  6. v Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN 118 4.1. Tác động của bối cảnh mới và cơ hội, thách thức đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng phát triển bền vững trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 118 4.1.1. Tác động của bối cảnh mới tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng phát triển bền vững trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 118 4.1.2. Cơ hội và thách thức đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng phát triển bền vững trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 123 4.2. Quan điểm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng phát triển bền vững trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 128 4.2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước 128 4.2.2. Quan điểm của tác giả 129 4.3. Giải pháp thúc đầy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng phát triển bền vững trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 134 4.3.1. Nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với phát triển bền vững 134 4.3.2. Phát triển nguồn nhân lực và khoa học công nghệ 140 4.3.3. Giải pháp huy động và sử dụng và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư 142 4.3.4. Giải pháp mở rộng hợp tác, liên kết tỉnh, vùng, cả nước, chủ động hội nhập quốc tế 144 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 147 TÀI LIỆU THAM KHẢO 153 PHỤ LỤC
  7. vi DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Viết tắt Viết đầy đủ tiếng Việt Viết đầy đủ tiếng Anh Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Asia- Pacific Economic APEC : Thái Bình Dương Cooperation Forum Ủy ban phát triển bền vững của Liên Commission on Sustainable CDS : hợp quốc Development Danish International DANIDA : Cơ quan phát triển quốc tế Đan Mạch Development Authority FDI : Đầu tư trực tiếp nước ngoài Foreign Direct Investment GDP : Tổng sản phẩm quốc nội Gross Domestic Product GNP : Tổng sản phẩm quốc dân Gross National Product IMF : Quỹ tiền tệ quốc tế International Monetary Fund Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên và tài International Union for IUCN : nguyên thiên nhiên thế giới Conservation Natural Misnistry of Planning and MPI : Bộ kế hoạch và đầu tư Investment NSNN : Ngân sách nhà nước Official Development ODA : Hỗ trợ phát triển chính thức Assistance PCI : Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh Provincial Competitiveness Index PTBV : Phát triển bền vững Swedish International SIDA : Cơ quan phát triển quốc tế Thụy Điển Development Authority United Netional Development UNDP : Chương trình phát triển Liên hợp quốc Programme WB : Ngân hàng Thế giới World Bank Ủy ban Thế giới về môi trường và World Commission on WCED : phát triển Environment and Development WTO : Tổ chức Thương mại Thế giới World Trade Organization ASXH : An sinh xã hội BVMT : Bảo vệ môi trường CCKT : Cơ cấu kinh tế
  8. vii CDCCKT : Chuyển dịch cơ cấu kinh tế CLPT : Chiến lược phát triển CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa DN : Doanh nghiệp HNKTQT : Hội nhập kinh tế quốc tế KCN : Khu công nghiệp KHCN : Khoa học công nghệ PTBV : Phát triển bền vững TNHH : Trách nhiệm hữu hạn UBND : Ủy ban nhân dân
  9. 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong quá trình theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế, các quốc gia đều đạt được những thành tựu to lớn: Quy mô GDP và GDP/người/năm ngày càng tăng; thu nhập, mức sống của người dân ngày càng được cải thiện. Tuy nhiên, gắn liền với những thành tựu kinh tế là những hệ lụy nghiêm trọng nảy sinh: khoảng cách về thu nhập - sự phân hóa giàu nghèo ngày càng rộng giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng, tiềm ẩn sự bất ổn về xã hội: tài nguyên thiên nhiên bị khai thác cạn kiệt, môi trường sinh thái bị hủy hoại . Sự tăng trưởng kinh tế trên đây hoàn toàn không phải là sự phát triển kinh tế, không phải là sự phát triển bền vững (PTBV), bởi những mục tiêu kinh tế bị trả giá bởi những mục tiêu xã hội và môi trường. Trong điều kiện hiện nay, khi mà vấn đề môi trường sống đã trở thành một vấn đề toàn cầu, cả hai khuynh hướng hoặc là tuyệt đối hoá yêu cầu bảo vệ môi trường đến mức cực đoan, hoặc là chỉ quan đến tăng trưởng kinh tế đều không đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội hiện đại. Bởi vậy, PTBV, trong đó bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa mục tiêu kinh tế, mục tiêu xã hội mục tiêu bảo vệ môi trường, là sự lựa chọn đúng đắn và phù hợp với quy luật khách quan. Mặc dù, hiện nay cách hiểu và ứng dụng triết lý "phát triển bền vững" vẫn còn khác nhau, nhưng nói đến PTBV là nói đến yêu cầu cân đối, hài hoà giữa ba mặt kinh tế, xã hội và môi trường. PTBV đòi hỏi phải đạt được cả 3 mục tiêu: về kinh tế (quy mô GDP và GDP/người/năm ngày càng tăng); về xã hội (thu nhập, mức sống của các tầng lớp dân cư ngày càng được cải thiện, chênh lệch giàu - nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng ngày càng giảm xuống, trình độ dân trí, tuổi thọ bình quân tăng lên) - hay nói cách khác, phải đạt được sự tiến bộ và công bằng xã hội; và về môi trường (bảo vệ và khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường sinh thái). Nếu bỏ sót một trong ba yêu cầu này thì ý nghĩa bền vững của sự phát triển không còn đầy đủ. Phát triển bền vững là trạng thái phát triển của một nền kinh tế gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế (trọng tâm là cơ cấu kinh tế ngành) theo hướng hoàn thiện hơn. Vì vậy, nhiệm vụ đặt ra là phải làm rõ những nội hàm căn bản của CDCCKT ngành theo hướng PTBV và ứng dụng nó trong thực tiễn. Việc lựa chọn con đường, biện pháp và thể chế chính sách đảm bảo PTBV đang là mối quan tâm hàng đầu của mọi quốc gia trong quá trình phát triển.
  10. 2 Thái Nguyên là một tỉnh thuộc vùng Trung du và miền núi phía Bắc, có nhiều lợi thế so sánh về vị trí địa lý, khí hậu thuận lợi, tài nguyên khoáng sản, nguồn nhân lực dồi dào, có trình độ tay nghề cao để có thể xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại và hiệu quả. Sau gần 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Thái Nguyên đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ. Năm 2014, Thái Nguyên đã đạt và vượt các chỉ tiêu đã đề ra. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt trên 18,6% cao nhất trong nhiều năm trở lại đây, là tỉnh có tốc độ tăng trưởng cao đột biến so với cả nước. Giá trị sản xuất công nghiệp có mức tăng cao đạt gần 175 ngàn tỷ đồng, là năm đạt cao nhất. Kim ngạch xuất khẩu 8,2 tỷ USD Mỹ, bằng 820% kế hoạch, gấp 33 lần năm 2013, đưa Thái Nguyên nằm trong tốp các tỉnh dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu.Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trên 3,2 tỷ USD, xếp thứ nhất cả nước. Giải quyết việc làm nhiều nhất, với trên 22.000 lao động. Lĩnh vực xã hội được quan tâm, đảm bảo an sinh xã hội; tạo việc làm mới và chuyển dịch lao động cho trên 4 vạn người [97, tr.15]. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, Thái Nguyên cũng đang đối mặt với những thách thức gay gắt trong phát triển bền vững (PTBV) cả về kinh tế, xã hội và môi trường: phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thái Nguyên chủ yếu dựa nhiều vào việc khai thác tài nguyên; năng suất lao động thấp; tỷ lệ hộ nghèo cao. Công nghệ sản xuất lạc hậu, do vậy tiêu tốn nhiều năng lượng, nguyên liệu và thải ra nhiều chất thải. Nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên đang có xu hướng bị khai thác quá mức, sử dụng lãng phí và kém hiệu quả. Môi trường thiên nhiên ở nhiều nơi bị xuống cấp, ô nhiễm và suy thoái đã và đang là những vấn đề bức xúc. Đặc biệt, trong các quy hoạch tổng thể và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, 3 mặt quan trọng của PTBV cũng chưa thực sự được kết hợp và lồng ghép chặt chẽ với nhau. Xuất phát từ những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài: “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành tỉnh Thái Nguyên theo hướng phát triển bền vững” là một yêu cầu cấp bách và quan trọng trong bối cảnh phát triển hiện nay của tỉnh Thái Nguyên. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về CDCCKT ngành trong mối quan hệ với yêu cầu PTBV, trên cơ sở đó đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp CDCCKT ngành theo hướng PTBV trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2015 - 2020 và có tính đến năm 2030.
  11. 3 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm rõ cơ sở lý luận về CDCCKT ngành theo hướng PTBV. - Phân tích, đánh giá thực trạng CDCCKT ngành theo hướng PTBV tỉnh Thái Nguyên trên cả ba mặt kinh tế, xã hội và môi trường giai đoạn 2006 - 2014. - Đề xuất quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh CDCCKT ngành theo hướng PTBV trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2015 - 2020 và có tính đến năm 2030. * Câu hỏi nghiên cứu 1. Chiến lược CDCCKT ngành trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên thời gian qua thực hiện theo mô hình lý thuyết nào và có phù hợp hay không? còn tồn tại những hạn chế gì trong quá trình thực hiện? 2. Những nhân tố nào tác động tới quá trình CDCCKT ngành theo hướng PTBV trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên? 3. Thực trạng cơ cấu kinh tế ngành tỉnh Thái Nguyên thời gian qua (giai đoạn 2006 – 2014) diễn ra như thế nào? Đã đảm bảo yêu cầu phát triển bền vững hay chưa? 4. Giải pháp nào tạo ra bước đột phá nhằm thực hiện CDCCKT tỉnh Thái Nguyên theo hướng PTBV đến năm 2020 và có tính đến năm 2030? * Giả thuyết nghiên cứu 1. Cơ cấu kinh tế ngành tỉnh Thái Nguyên thời gian qua (giai đoạn 2006 – 2014) là mất cân đối và thiếu tính bền vững mà nguyên nhân chủ yếu là do chính sách phát triển kinh tế của tỉnh được xây dựng dựa trên tư duy khai thác triệt để về điều kiện tài nguyên thiên nhiên và sự phát triển công nghiệp nặng gây ô nhiễm nguồn nước, không khí nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Trong khi đó, các chính sách nhằm bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và ổn định, công bằng xã hội chưa được chú trọng đúng mức. 2. Cơ cấu kinh tế ngành tỉnh Thái Nguyên phải chú trọng vào tăng trưởng cao về kinh tế mà vẫn đảm bảo cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường. 3. Xây dựng chính sách thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành tỉnh Thái Nguyên theo hướng phát triển bền vững cần dựa trên tính đặc thù của tỉnh Thái Nguyên trong mối quan hệ với các tỉnh khác trong vùng. Trên cơ sở phân tích khung lý thuyết và các khái niệm nêu trên, nghiên cứu này sẽ được phân tích theo sơ đồ khung phân tích như sau:
  12. 4 Các yếu tố Phát triển Kinh tế thuận lợi (Nhất là tăng trưởng kinh tế ) Quan điểm và giải pháp thúc đẩy GIẢI PHÁP Chuyển dịch Yếu tố tác cơ cấu kinh tế Đánh CDCCKT động Tác ngành theo Động ngành tỉnh giá Thái Nguyên hướng PTBV trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên Bảo vệ môi Phát triển xã trường (nhất là hội (nhất là xử lý, khắc phục thực hiện tiến Các yếu tố ô nhiễm, phục hồi bộ, công bằng hạn chế và cải thiện chất lượng môi xã hội ) trường .) Các yếu tố tác động Thực trạng CDCCKT ngành tỉnh Đánh giá đề xuất quan điểm, giải pháp ngành Thái Nguyên theo hướng PTBV
  13. 5 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề liên quan đến CDCCKT ngành trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên đặt trong mối quan hệ với yêu cầu PTBV (xét trên 3 khía cạnh: kinh tế - xã hội - môi trường) dưới góc độ kinh tế chính trị học. 3.2. Phạm vi nghiên cứu (i) Phạm vi về nội dung Trong khuôn khổ luận án, tác giả tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của CDCCKT ngành, PTBV và mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng trên phương diện Kinh tế chính trị học. Quan điểm PTBV được sử dụng trong nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào 3 yếu tố cơ bản là: Kinh tế, xã hội, môi trường. (ii) Phạm vi thời gian Luận án dự định phần lớn thông tin, số liệu sẽ được thu thập, cập nhật và tính toán chủ yếu trong giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2014. Đề xuất các giải pháp nhằm CDCCKT ngành trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên theo hướng PTBV đến năm 2020 và có tính đến 2030. (iii) Phạm vi không gian Luận án tập trung nghiên cứu vấn đề CDCCKT ngành trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên đặt trong mối quan hệ với Hà Nội và một số tỉnh lân cận trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Để thực hiện đề tài này, Luận án dựa vào những cơ sở lý luận sau: - Cơ sở phương pháp luận của luận án là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin; - Những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề CCKT, CDCCKT; - Những quan điểm, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước Việt Nam về các vấn đề CCKT, CDCCKT và PTBV; - Các lý thuyết về CDCCKT và PTBV; - Kế thừa kết quả của một số công trình nghiên cứu đã công bố có liên quan đến đề tài Luận án.
  14. 6 4.2. Phương pháp nghiên cứu - Nhóm phương pháp tiếp cận nghiên cứu: Phương pháp duy vật biện chứng; phương pháp lôgic - lịch sử Phương pháp biện chứng duy vật: phương pháp này được sử dụng trong việc nghiên cứu vấn đề CDCCKT ngành trong mối quan hệ với PTBV, đặt vấn đề nghiên cứu trong mối quan hệ giữa tỉnh Thái Nguyên với các tỉnh lân cận trong khu vực trung du và miền núi phía Bắc dựa trên việc phân tích lợi thế đặc thù của tỉnh Thái Nguyên để đưa ra những nhận định, đánh giá phù hợp. Nghiên cứu vấn đề trong sự vận động và phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đây là phương pháp được sử dụng trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận án. Phương pháp lôgic - lịch sử được sử dụng chủ yếu để tìm ra nguyên nhân cơ bản của thực trạng CDCC ngành kinh tế theo hướng PTBV trên địa bàn tỉnh thời gian qua. - Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Phương pháp tập hợp, phân loại và xử lý số liệu; phương pháp hệ thống hóa lý thuyết; phương pháp phân tích, tổng hợp. Nhóm phương pháp này được sử dụng trong cả từ chương 1 đến chương 4, nhưng nhiều nhất là ở chương 3 nhằm đưa ra những nhận xét, đánh giá sát thực tình hình CDCCKT ngành theo hướng PTBV tỉnh Thái Nguyên trên cả 3 mặt: kinh tế, xã hội và môi trường trong thời gian qua, chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế đó. Phương pháp tập hợp, phân loại và xử lý thông tin được sử dụng trong tất cả các chương của luận án, nhằm kế thừa kết quả nghiên cứu của những người đi trước và phát triển nó một cách hiệu quả nhất. Phương pháp phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức (SWOT: Strength, Weakness, Opportunity, Threaten): mục đích của phương pháp này là xem xét chiến lược phát triển trong bối cảnh những thuận lợi và khó khăn hiện tại, và khả năng đối mặt với những thay đổi trong bối cảnh mới. Phương pháp này sẽ được sử dụng để xem xét những lợi thế và bất lợi thế của tỉnh Thái Nguyên, những cơ hội và thách thức của quá trình CDCCKT ngành của tỉnh Thái Nguyên trong bối cảnh mới, trên cơ sở đó đề xuất định hướng CDCCKT ngành nhằm phát huy tối đa lợi thế, giảm thiểu bất lợi thế, đồng thời có những giải pháp nhằm khắc phục những thách thức mà quá trình phát triển đặt ra. Phương pháp này được sử dụng chủ yếu trong chương 4 của luận án.
  15. 7 Phương pháp phân tích tổng hợp tác động của các nhân tố về thể chế/chính trị, kinh tế, môi trường, xã hội và công nghệ (PEEST: Political/legal, Economic, Environmental, Socio – cultural, Technological): Phương pháp này được sử dụng nhằm xem xét phát triển kinh tế của tỉnh Thái Nguyên một cách toàn diện trong mối quan hệ với các yếu tố tác động như thể chế/chính trị, kinh tế, môi trường, xã hội và công nghệ, trên cơ sở đó lựa chọn những ngành kinh tế mũi nhọn nhằm phát huy được lợi thế và tiềm năng tổng thể của tỉnh, đồng thời giảm thiểu những xung đột giữa phát triển và môi trường. - Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: phương pháp thống kê, so sánh; phương pháp phân tích mô hình thực tiễn Nhóm phương pháp này được sử dụng trong cả chương 2 và chương 3, đặc biệt trong phần nghiên cứu kinh nghiệm trong và ngoài nước, đánh giá thực trạng CDCCKT ngành theo hướng PTBV trên cả 3 mặt: kinh tế, xã hội và môi trường. Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin, số liệu của tỉnh Thái Nguyên. Số liệu sử dụng trong luận án là số liệu thứ cấp thu thập từ các nguồn: Tổng cục Thống kê, Viện Công nghệ môi trường Việt Nam, Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên, Cục Thống kê tỉnh Thái Nguyên và các sở, ban, ngành của tỉnh Thái Nguyên Trên cơ sở số liệu đó tính toán và phân tích nhằm đánh giá tác động của các nhóm nhân tố đến quá trình CDCCKT ngành, từ đó đánh giá mức độ và xu hướng phát triển của tỉnh Thái Nguyên. Phương pháp này chủ yếu được sử dụng trong chương 3. Phương pháp nghiên cứu tổng hợp, thống kê, so sánh và phân tích hệ thống, sử dụng số liệu theo chuỗi thời gian và tại một thời điểm để so sánh dọc, so sánh chéo giữa các lĩnh vực, các ngành với nhau, giữa Thái Nguyên với các địa phương khác và với cả nước. Phân tích hệ thống đòi hỏi sự phân tích các mối tương tác giữa các phân hệ của hệ thống kinh tế - xã hội, từ đó xác định vị trí, vai trò của từng yếu tố trong hệ thống (vị trí vai trò của từng ngành đối với phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thái Nguyên theo hướng phát triển bền vững). Phương pháp này chủ yếu được sử dụng trong chương 2 và chương 3. Ngoài ra, phương pháp trừu tượng hóa khoa học được sử dụng khá phổ biến trong luận án để tạm gác bỏ khỏi đối tượng nghiên cứu những vấn đề ít có ảnh hưởng đến quá trình CDCCKT để đi vào nghiên cứu những vấn đề mang tính cốt yếu, có ảnh hưởng quyết định đến quá trình chuyển dịch đó, như sự phát triển của
  16. 8 kinh tế thị trường, quá trình hội nhập quốc tế và cạnh tranh Phương pháp này được áp dụng chủ yếu ở chương 2 và chương 3. 5. Những đóng góp mới của luận án Luận án sau khi hoàn thành, có thể có một số đóng góp mới về mặt lý luận và thực tiễn sau: - Trên cơ sở phân tích lý luận và kinh nghiệm CDCCKT ngành của một số nước trên thế giới và một số tỉnh thành ở Việt Nam, luận án đã tổng kết, rút ra những bài học có thể áp dụng đối với tỉnh Thái Nguyên trong giai đoạn trước mắt và lâu dài. Những bài học kinh nghiệm được đúc kết trên cơ sở phân tích cả những mặt làm được và những vấn đề còn tồn tại, trên cơ sở đó tỉnh Thái Nguyên có thể tiếp thu, rút kinh nghiệm với tư cách là tỉnh đi sau để có thể tận dụng tối đa lợi thế, giảm thiểu bất lợi thế nhằm thực hiện tốt mục tiêu CDCCKT nói chung và CCKT ngành nói riêng theo hướng PTBV. - Dựa trên phân tích tiềm năng, lợi thế của tỉnh Thái Nguyên, luận án đã tập trung phân tích thực trạng CDCCKT ngành theo hướng PTBV trên ba phương diện kinh tế, xã hội, môi trường trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, thông qua đó đánh giá những mặt làm được và những tồn tại, hạn chế, từ đó luận giải nguyên nhân của những mặt tồn tại hạn chế nói trên; - Đề xuất hệ thống giải pháp nhằm thúc đấy quá trình CDCCKT ngành trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên theo hướng PTBV gắn với mục tiêu phấn đấu đưa tỉnh Thái Nguyên trở thành tỉnh công nghiệp trước năm 2020. Với kết quả trên, tác giả hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ nhằm làm rõ cơ sở lý thuyết và thực tiễn về CDCCKT ngành theo hướng PTBV đối với một tỉnh cụ thể là tỉnh Thái Nguyên. 6. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận án có kết cấu gồm 4 chương. Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương 2: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng phát triển bền vững Chương 3: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng phát triển bền vững trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Chương 4: Quan điểm và giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng phát triển bền vững trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
  17. 9 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Trong chương 1 "Tổng quan tình hình nghiên cứu" bao gồm 3 nội dung chính: (1) Nghiên cứu về CDCCKT nói chung và CCKT ngành nói riêng; (2) Nghiên cứu về phát triển bền vững; (3) Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng phát triển bền vững. 1.1. Các công trình nghiên cứu về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế 1.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới Cơ cấu kinh tế (CCKT), chuyển dịch cơ cấu kinh tế (CDCCKT), phát triển bền vững (PTBV) là những vấn đề được rất nhiều học giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu và là chủ đề được đưa ra trao đổi, bàn luận trong nhiều hội thảo, hội nghị trong nước và quốc tế. Vấn đề CDCCKT đã được C. Mác đề cập trong học thuyết về phân công lao động xã hội và học thuyết về tái sản xuất xã hội. Kinh tế học thuộc trào lưu chính đã đi sâu phân tích các điều kiện bảo đảm sự hoạt động hữu hiệu của thị trường, coi đây là động lực phát triển kinh tế, nhưng cũng đã đề cao vai trò can thiệp của nhà nước thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm bảo đảm hoạt động bình thường của thị trường, duy trì ổn định vĩ mô. Lý luận về giai đoạn phát triển kinh tế với đại biểu nổi bật W. W. Rostow đã chia quá trình phát triển kinh tế của một nước thành 5 giai đoạn: xã hội truyền thống, chuẩn bị cất cánh, cất cánh, tăng trưởng và mức tiêu dùng cao. Cùng quan điểm với nhà kinh tế học D. Bell, mới đây, học giả Tatyana P. Soubbotina đã làm rõ thêm quá trình phát triển kinh tế qua các giai đoạn nông nghiệp, công nghiệp hoá, hậu công nghiệp. Học giả Tatyana cũng rất quan tâm đến cuộc cách mạng tri thức, trong đó đề cao vai trò của khoa học, công nghệ và chất xám trong quá trình phát triển của các quốc gia. Ngân hàng Thế giới (WB) cho rằng quá trình phát triển kinh tế bao gồm các giai đoạn nghèo đói, công nghiệp hoá, phát triển tiêu thụ. Đằng sau sự phát triển kinh tế là mối quan hệ khăng khít giữa tăng trưởng kinh tế với CDCCKT. Nếu không có chiến lược PTBV thì mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường hay mâu thuẫn giữa CDCCKT và bảo vệ môi trường sẽ không thể giải quyết được. Hiện nay đã xuất hiện "Trường phái cơ cấu luận" với những quan điểm về phát triển CCKT trong bối cảnh toàn cầu hoá và sự bành trướng của chuỗi giá trị toàn cầu. Trong đó, lý luận về sự biến động cơ cấu của trường phái cổ điển giữ vị trí
  18. 10 chủ yếu, tiêu biểu là "mô hình kinh tế nhị nguyên của Lewis - Fellner- Ranis" và mô hình phân tích cơ cấu của Chenery. Vấn đề cốt lõi là các nước đang phát triển phải vận dụng CCKT nào để nhanh chóng chuyển từ một xã hội nông nghiệp truyền thống là chủ yếu thành xã hội CNH, HĐH, đô thị hoá, đa dạng hoá lấy ngành chế tạo, ngành dịch vụ làm nòng cốt. Trong những năm 1950, 1960, "mô hình kinh tế nhị nguyên" đã được thừa nhận là nguyên lý phổ biến để giải thích quá trình, cơ chế phát triển của những nước dư thừa lao động. Về cơ bản, nó cũng đã phản ánh được một số quy luật khách quan của sự vận động đối lập, chuyển hoá giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa thành thị và nông thôn, giữa chuyển dịch dân cư và đô thị hoá trong quá trình phát triển kinh tế của các nước đang phát triển. Tuy nhiên, mô hình này đã có một số khiếm khuyết do các giả thuyết đưa ra không phù hợp với thực tế của các nước đang phát triển hiện nay. Ngân hàng thế giới (WB) có hai công trình nghiên cứu lớn: “Sự thần kỳ Đông Á” và “Suy ngẫm lại sự thần kỳ Đông Á”. Hai công trình này xem xét chính sách cơ cấu của các nước Đông Á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapo ). Trong cuốn “Sự thần kỳ Đông Á”, WB cho rằng chính sách CCKT là một trong những nhân tố quyết định đến sự phát triển thần kỳ của Đông Á. Điều này hàm ý rằng, vai trò của Nhà nước là rất lớn quyết định đến sự phát triển thần kỳ của khu vực này. Tuy nhiên, ở trong cuốn “Suy ngẫm lại sự thần kỳ Đông Á” các tác giả, trong đó có J.Stinglirt, người được giải thưởng Nobel Kinh tế 2002, sau khi xem xét lại, ông lại cho rằng về cơ bản chính sách cơ cấu ít có tác động, mà sự CDCCKT chủ yếu do thị trường chi phối, quyết định Những nghiên cứu của hai công trình này cung cấp những gợi ý về việc thận trọng trong khi xem xét, đánh giá những nhân tố chi phối đến quá trình CDCCKT ngành - nhân tố thị trường và nhân tố chính sách (nhân tố tác động của Nhà nước). Dovring (1959) cho rằng quy mô lớn của khu vực nông nghiệp làm khó khăn cho việc dịch chuyển lao động nông nghiệp sang lĩnh vực phi nông nghiệp. Trong khi Johnston và Kilby (1975) thì lại cho rằng sự chuyển dịch cơ cấu lao động chậm là do nhu cầu của khu vực công nghiệp còn nhỏ và lương của người lao động còn thấp. Trong tác phẩm “Điều Chỉnh cơ cấu nông nghiệp Trung Quốc và hướng đi trong tương lai” của học giả Nhung Điện Tân (Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2003) đã đề cập tới vấn đề CDCC trong nông nghiệp, tới những vấn đề đáng chú ý sau: Khuyến khích phát triển các TPKT trong nông nghiệp, nông thôn; tập trung đầu tư cho khoa học, công nghệ; đẩy mạnh chăn nuôi, đa dạng hóa sản phẩm trồng trọt hướng về xuất khẩu; điều chỉnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng hội nhập Những vấn đề tác giả đưa ra nhằm mục đích chuyển dịch nền nông nghiệp Trung Quốc từ phát triển chiều
  19. 11 rộng, số lượng sang chiều sâu, chất lượng, bên cạnh đó là việc giảm dần diện tích đất nông nghiệp để sử dụng cho mục đích khác hoặc cho tương lai Mục tiêu cuối cùng được tổng kết lại: trong ngắn hạn là nâng cao chất lượng và phát triển sản phẩm có lợi thế, tăng cường ý thức về thương hiệu; trong dài hạn là xây dựng một nền nông nghiệp hiện đại hóa, nhất thể hóa với sản phẩm chất lượng và năng suất cao, có thể bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và PTBV [25, tr.12]. 1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam Ở Việt Nam, vấn đề CDCCKT nói chung và CDCCKT ngành nói riêng đã được nhiều nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh khác nhau: Đề tài KHXH.02.04 (1994) “Luận cứ khoa học và kiến nghị những giải pháp đồng bộ thúc đẩy CDCCKT ngành, vùng, thành phần trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá” do Ngô Đình Giao chủ nhiệm. Theo quan điểm của đề tài, đẩy mạnh xuất khẩu là phương hướng cơ bản và ưu tiên trong CDCCKT trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá; từ đó xây dựng các tiêu chí lựa chọn các ngành kinh tế trọng điểm và ngành kinh tế mũi nhọn trong giai đoạn phát triển đến năm 2000. Đề tài đã cung cấp những luận cứ khoa học quan trọng để tham khảo đối với luận án về những giải pháp thúc đẩy quá trình CDCCKT ngành của tỉnh Thái Nguyên, đặc biệt trong điều kiện thu hút FDI và xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao như hiện nay. “CDCCKT ngành và phát triển các ngành trọng điểm, mũi nhọn ở Việt Nam” do Đỗ Hoài Nam chủ biên (1996). Công trình nghiên cứu đã luận giải một số vấn đề lý thuyết cơ bản và kinh nghiệm thế giới về CDCCKT ngành. Nghiên cứu đã chỉ ra những tiêu chí có tính chủ đạo để xác định ngành kinh tế mũi nhọn trong quá trình phát triển kinh tế, đó là định hướng sử dụng lợi thế so sánh và chỉ số ICOR thấp. Luận án sẽ áp dụng một số tiêu chí quan trọng của nghiên cứu này để xác định một số ngành mũi nhọn trong việc thực hiện CDCCKT của tỉnh Thái Nguyên trong quá trình hội nhập và hướng tới phát triển bền vững. Luận giải về các nhân tố ảnh hưởng tới CDCCKT ngành có các công trình: “Các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hoá ở Việt Nam” (1997) do Bùi Tất Thắng chủ biên. Nhóm các tác giả đã phân tích các nhân tố kinh tế quốc tế ảnh hưởng đến sự CDCCKT trong quá trình công nghiệp hoá; các lợi thế so sánh và tác động của các nguồn lực đối với sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá ở Việt Nam. Công trình nghiên cứu cung cấp cho tác giả luận án phương pháp xem xét tác động của các nguồn lực trong trạng thái động đối với sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh
  20. 12 tế cũng như một số gợi ý mở về định hướng CDCCKT tỉnh Thái Nguyên trên cơ sở khai thác các lợi thế so sánh hiện có của tỉnh theo hướng phát triển bền vững. “Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam” (2006) do Bùi Tất Thắng chủ biên. Nghiên cứu đã phân tích các nhân tố mới ảnh hưởng tới CDCCKT ở Việt Nam trong quá trình CNH, HĐH như: các nhân tố đầu vào của sản xuất (nguồn lực tự nhiên, nguồn lực con người, nguồn lực tài chính ), các nhân tố đầu ra của sản xuất (dung lượng thị trường, thói quen tiêu dùng, các chính sách của Nhà nước, các nhân tố về cơ chế chính sách ). Đồng thời, với điểm xuất phát mới của kinh tế Việt Nam đặt ra tính cấp thiết của nhu cầu rút ngắn quá trình công nghiệp hoá. Nghiên cứu đã cung cấp cho luận án cách tiếp cận phân tích CCKT ngành theo cơ cấu GDP và cơ cấu lao động, những tiêu chí đánh giá quá trình CDCCKT ngành, phân tích những động thái mới của thị trường thế giới để từ đó có những định hướng cho quá trình CDCCKT ngành tỉnh Thái Nguyên. Cũng liên quan đến vấn đề nhân tố ảnh hưởng tới CDCCKT ngành địa phương, có Luận án tiến sỹ của Đào Văn Hiệp (2005) "Đầu tư trực tiếp nước ngoài và ảnh hưởng của nó đến CDCCKT ngành theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hải Phòng". Đề tài đã cung cấp một gợi ý quan trọng trong việc phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới CDCCKT ngành ở Thái Nguyên đó là nhân tố FDI. Tuy nhiên, việc CDCCKT ngành mà đề tài đề cập chưa gắn với mục tiêu phát triển bền vững, đây là vấn đề rất đáng lưu tâm trước thực trạng phát triển công, nông nghiệp và dịch vụ của Thái Nguyên thời gian qua. “CDCCKT trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới” của GS.TSKH. Lê Du Phong và PGS.TS. Nguyễn Thành Độ (1999) đề cập tới luận cứ khoa học của CDCCKT theo hướng hội nhập, thực trạng chuyển dịch cơ cấu theo ngành kinh tế nước ta những năm 1991-1997, thực trạng CDCCKT một số vùng, phương hướng và giải pháp CDCCKT nước ta theo hướng hội nhập với nền kinh tế khu vực và trên thế giới. Trong tài liệu này, việc phân tích CDCCKT nói chung và CCKT ngành nói riêng theo hướng phát triển bền vững chưa được đề cập đến. Đề tài khoa học cấp Nhà nước, mã số KH 02 – 05 “CDCCKT ngành trong quá trình CNH, HĐH” (2005) do Bùi Tất Thắng chủ biên. Đề tài đã góp phần xác định rõ những luận cứ khoa học của mô hình tăng trưởng hiện đại và xu hướng CDCCKT ngành trong giai đoạn hiện nay. Bên cạnh đó, đề tài đã luận giải sự CDCCKT ngành trong một số mô hình công nghiệp hóa, từ đó cung cấp những gợi ý quan trọng trong việc xây dựng hệ thống giải pháp nhằm thúc đẩy CDCCKT ngành tỉnh Thái Nguyên theo hướng PTBV.
  21. 13 “Luận cứ khoa học cho việc điều chỉnh chính sách cơ cấu ngành trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam” Báo cáo tổng hợp Đề tài khoa học cấp Bộ của Đặng Thị Hiếu Lá. Đề tài đã phân tích về CDCCKT ngành trong bối cảnh mới – hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Đề tài đã cung cấp những luận cứ khoa học quan trọng về những giải pháp cho việc điều chỉnh chính sách cơ cấu ngành của tỉnh Thái Nguyên trong điều kiện hội nhập hiện nay. Mặt khác, trong quá trình phân tích về CDCCKT, công trình mới xem xét dựa trên khai thác lợi thế tĩnh của vùng, chủ yếu phân tích dưới góc độ sự biến đổi về cơ cấu ngành sản xuất. Tác giả cũng có đề cập đến sự tác động của quá trình đô thị hoá đến sự CDCCKT công – nông nghiệp của vùng ở mức độ thấp. Hệ thống các giải pháp chưa đặt CCKT công – nông nghiệp trong mối quan hệ của vùng, mới nhấn mạnh đến sự liên kết công – nông nghiệp, chưa đặt sự phát triển trong xu thế toàn cầu hoá. Học giả Trần Du Lịch thông qua bài viết “Tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng cạnh tranh và PTBV” và học giả Nguyễn Minh Phong thông qua bài viết “Tái cấu trúc nền kinh tế Việt Nam” đã bàn về các vấn đề tái cấu trúc nền kinh tế như: xu hướng phát triển của sản phẩm, của các công ty, của nền kinh tế nước ta và nền kinh tế thế giới; cơ hội tái cấu trúc nền kinh tế, những định hướng cơ bản của tái cấu trúc nền kinh tế từ đó chỉ ra những yêu cầu cơ bản đối với tái cấu trúc nền kinh tế Việt Nam. Bên cạnh đó, tác giả còn tham khảo các công trình nghiên cứu đăng trên các tạp chí như: Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Kinh tế và phát triển, Tạp chí Kinh tế và dự báo, Tạp chí nông nghiệp và các tạp chí khác. Ở các mức độ khác nhau, các bài trên các Tạp chí đều khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về CCKT và CDCCKT ngành; tập trung đánh giá về đặc điểm, tính chất CDCCKT ngành của Việt Nam nói chung, phân tích nguyên nhân của thực trạng chuyển dịch chậm của CCKT ngành, nêu những giải pháp cụ thể cho việc thúc đẩy quá trình CDCCKT ngành. Tuy nhiên, bên cạnh những vấn đề đạt được, những nghiên cứu trong các luận án nói trên còn một số tồn tại: chưa đặt CDCCKT ngành vào sự phát triển chung của nền kinh tế, chưa xem xét CDCCKT ngành trong điều kiện mới hiện nay đặc biệt chưa có công trình nào nghiên cứu về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế gắn với PTBV. Từ những phân tích trên có thể kết luận: Thứ nhất, trong quá trình nghiên cứu, tác giả hy vọng sẽ kế thừa được những thành quả nghiên cứu của các nhà khoa học nêu trên. Đồng thời tham khảo được các bài viết có liên quan, những quan điểm mới, chủ trương mới về CDCCKT ngành theo hướng PTBV.
  22. 14 Thứ hai, nếu các nghiên cứu trước đây chủ yếu nghiên cứu về mặt lượng, tức là xem xét sự thay đổi trong tương quan tỷ lệ, hay các cân bằng kinh tế, từ đó xem xét, xác định những nhân tố nào thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng sức sản xuất, tăng hiệu quả kinh tế; thì từ góc độ kinh tế chính trị, đề tài đặc biệt chú ý mặt chất của quá trình CDCCKT ngành, tức là quá trình cấu trúc lại nền kinh tế thành những ngành, bộ phận đặc thù của hệ thống công nghiệp, hệ thống nông nghiệp, hệ thống kinh doanh của nền kinh tế. Đồng thời đó là quá trình thay đổi sức sản xuất, từ đó thay đổi trong năng lực của nền sản xuất. Nói cách khác, phân tích sự thay đổi CCKT ngành với tính cách là nội dung của phát triển kinh tế. Thứ ba, khác với các nghiên cứu về CDCCKT ngành trước đây (chỉ tập trung chủ yếu vào cơ cấu sản xuất), nghiên cứu này xem xét CCKT ngành trong mối quan hệ tổng hợp giữa các vấn đề kinh tế, xã hội, môi trường theo hướng PTBV; đồng thời đánh giá vai trò và tác động của các nhân tố: các nhân tố bên trong hệ thống kinh tế (nguồn lực tự nhiên, nguồn lực con người, nguồn lực tài chính), các nhân tố bên ngoài hệ thống kinh tế (dung lượng thị trường, thói quen tiêu dùng, hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô ) đến quá trình CDCCKT ngành của tỉnh thời gian qua cũng như trong giai đoạn sắp tới. 1.2. Các công trình nghiên cứu về phát triển bền vững 1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới * Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về phát triển bền vững Ngay khi mới hình thành các quan niệm có tính chất nền tảng của Chủ nghĩa duy vật lịch sử, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã coi mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, lịch sử con người và tự nhiên là một thể thống nhất hữu cơ, không thể tách rời. Mọi hành vi phá hoại tự nhiên, phá vỡ sự hài hòa giữa con người - tự nhiên là đồng nghĩa với sự hủy hoại cuộc sống của mỗi con người cũng như cả cộng đồng. Triết lý của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã chỉ rõ cơ sở hiện thực của chiến lược phát triển bền vững, nó không chỉ khẳng định vai trò của con người, mà còn làm nổi bật sư quy định lẫn nhau của lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội. Theo quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, thế giới thống nhất ở tính chất của nó, giữa con người và giới tự nhiên có mối quan hệ gắn bó hữu cơ. Trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, C. Mác đã viết: “ “Giới tự nhiên” là thân thể vô cơ của con người. Con người sống bằng giới tự nhiên. Như thế có nghĩa là giới tự nhiên là thân thể của con người mà với nó con người phải ở lại trong quá trình thường xuyên giao tiếp để tồn tại. Nói rằng đời sống thể xác và tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên, nói như thế, chẳng qua chỉ có nghĩa là
  23. 15 giới tự nhiên gắn liền với bản thân giới tự nhiên vì con người là một bộ phận của giới tự nhiên” [C. Mác và Ph. Ăng-ghen - Toàn tập - NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 2002, Tập 42, tr.135]. Điều đó cũng có nghĩa là con người sống trong (và với) giới tự nhiên sẽ được tự nhiên nuôi dưỡng, nhưng sự nuôi dưỡng này chỉ có thể tạo dựng trên cơ sở con người có nhận thức, có cách ứng xử khoa học phù hợp với các quy luật của tự nhiên. Con người tác động tới giới tự nhiên một cách mù quáng, tự phát, hoang dại với tham vọng tước đoạt, thống trị, bất chấp quy luật khách quan nội tại của giới tự nhiên thì sẽ phải nhận hậu quả khôn lường. Và thực tế hiện nay đang chứng minh điều đó. Với quan niệm đó, C.Mác kết luận rằng, chừng nào mà loài người còn tồn tại thì lịch sử của họ và lịch sử tự nhiên quy định lẫn nhau. Theo đó, con người và xã hội loài người không thể có sự phát triển ổn định, bền vững và hài hoà nếu con người đối xử thô bạo với tự nhiên - cái "nôi", cội nguồn, "thân thể vô cơ" của mình. Do vậy, để tạo nên quan hệ hài hoà giữa con người và tự nhiên - nền tảng cho sự phát triển bền vừng của xã hội, con người phải có sự thay đổi trong nhận thức về vai trò của giới tự nhiên, về vị trí của con người trong hệ thống tự nhiên - xã hội - con người, cần phải nâng cao sự hiểu biết về cái "thân thể vô cơ” cái thân thể mà thiếu nó, cũng không có sự tồn tại, phát triển của con người, đồng thời tự giác điều chỉnh hoạt động của mình phù hợp với quy luật của giới tự nhiên. Trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên, Ph. Ăng-ghen đã xác định thái độ ứng xử phù hợp với tự nhiên trên tinh thần khoa học: “ Và những sự việc đó nhắc nhở chúng ta từng giờ từng phút rằng chúng ta hoàn toàn không thống trị được giới tự nhiên như một kẻ xâm lược thống trị một dân tộc khác, như một kẻ sống ngoài giới tự nhiên, mà trái lại, bản thân chúng ta, với cả xương thịt, máu mủ và đầu óc chúng ta, là thuộc về giới tự nhiên, chúng ta nằm trong lòng giới tự nhiên và tất cả sự thống trị của chúng ta đối với giới tự nhiên là ở chỗ chúng ta, khác với tất cả các sinh vật khác là chúng ta nhận thức được quy luật tự nhiên và sử dụng được những quy luật đó một cách chính xác” [C. Mác và Ph. Ăng-ghen - Toàn tập - NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 20, tr.655]. Quan điểm của ông làm rõ tính quy định lẫn nhau giữa lịch sử tự nhiên và lịch sử con người, qua đó khẳng định sự chung sống hài hòa giữa con người và tự nhiên là quan hệ, là giá trị vĩnh hằng, từ đó làm nên sức sống trường tồn trong suốt tiến trình thường xuyên cải tạo, và biến đổi tự nhiên của con người. Những điều này hoàn toàn đồng nhất với quan điểm hiện đại trước các vấn đề toàn cầu về ứng phó với các thảm họa tự nhiên và biến đổi khí hậu đang diễn ra hôm nay. Đây thực sự là cơ sở lý luận cho chiến lược phát triển bền vững của từng quốc gia cũng như của cả nhân loại.
  24. 16 * Về khái niệm phát triển bền vững - WCED trong báo cáo “Tương lai của chúng ta” (Our common future) đưa ra năm 1987 đã phân tích các nguy cơ và thách thưc đe dọa sự PTBV của các quốc gia trên thế giới. Trong đó, quan trọng nhất phải kể đến khái niệm về PTBV là “sự phát triển đáp ứng nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không gây trở ngại cho các thế hệ mai sau trong việc đáp ứng các nhu cầu của họ” đang được sử dụng rộng rãi hiện nay [127, tr. 20]. Từ sau báo cáo Brundtland – có tên gọi Tương lai chung của chúng ta, do Hội đồng Thế giới về Môi trường và phát triển ấn hành năm 1987, các nhà kinh tế học đã tập trung nhiều vào vấn đề phát triển bền vững. Barbier và Markandya (1990) đã tổng hợp các lý thuyết và chia các định nghĩa thành hai nhóm. Một là, định nghĩa rộng, theo đó sự bền vững liên quan đến ba khía cạnh: kinh tế, môi trường tự nhiên và xã hội. Hai là, định nghĩa hẹp: phát triển bền vững về môi trường, nghĩa là khai thác một cách tối ưu tài nguyên thiên nhiên theo thời gian. Ở đây, cần phải hiểu rằng tài nguyên thiên nhiên là một loại vốn (natural capital) và có hai vai trò cơ bản đối với các hoạt động kinh tế: cung cấp nguyên vật liệu và hấp thu chất thải. Vai trò hỗ trợ sự sống không được xem xét ở đây. Tiếp đó, Hofkes (1996) đã đưa ra mô hình tăng trưởng trong đó đưa vào các yếu tố tài nguyên thiên nhiên để từ đó có thể tính toán mức khai thác tối ưu theo nghĩa bền vững về môi trường. Mô hình này chủ yếu dựa vào hàm sản xuất của các nhà kinh tế học Tân Cổ điển. * Các nghiên cứu về hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững Năm 1995, Ủy ban kinh tế và các vấn đề xã hội Liên hợp quốc hợp quốc đã xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê gồm 134 chỉ tiêu quốc gia về PTBV, những chỉ tiêu này được tổng hợp trong "sách xanh" được ban hành và phổ biến rộng rãi. Năm 2001, UN CDS đã đưa ra hệ thống chỉ tiêu khuyến nghị gồm 15 chủ đề chính, 38 chủ đề nhánh và 58 chỉ tiêu. Năm 2006, hệ thống chỉ tiêu này được tiếp tục chỉnh sửa và được Ủy ban kinh tế về các vấn đề xã hội giới thiệu trong ấn phẩm "chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững: hướng dẫn và phương pháp luận". Đây là hệ thống chỉ tiêu tổng quát, phản ánh đa dạng các khía cạnh của PTBV và là cơ sở để các nước xây dựng hệ thống chỉ tiêu PTBV cho riêng mình. Các tổ chức khác của Liên hợp quốc cũng giới thiệu hệ thống chỉ tiêu đánh giá PTBV. Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) lại chia hệ thống chỉ tiêu PTBV thành 2 nhóm chính: nhóm chỉ tiêu phản ánh chất lượng cuộc sống và nhóm chỉ tiêu bền vững về sinh thái. Trong đó, tập trung nhấn mạnh 2 chỉ tiêu: chỉ tiêu chỉ số phát triển con người (HDI: Human Development Index) và chỉ
  25. 17 tiêu về quyền tự do của con người (HFI: Human Freedom Index). Ngoài ra, tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) giới thiệu chỉ số cuộc sống tốt đẹp hơn (BLI: Your Better Life Index) và hệ thống chỉ tiêu cho chiến lược phát triển xanh (Green Growth Strategy). Trên cơ sở khuyến nghị của UN CDS và thực tế phát triển, nhiều quốc gia đã đưa ra các chiến lược phát triển bền vững AGENDA - 21, cùng với đó là hệ thống chỉ tiêu thống kê PTBV của mình: Indonesia (21 chỉ tiêu), Thái Lan (16 chỉ tiêu), Thụy Điển (30 chỉ tiêu), Anh (15 chỉ tiêu), Mỹ (32 chỉ tiêu) và Trung Quốc (80 chỉ tiêu). Mặc dù khác nhau về số lượng, song các quốc gia đã sử dụng một số chỉ tiêu đặc thù như: hệ số GINI, tỷ lệ thất nghiệp, GDP bình quân đầu người phản ánh tổng quát tình hình PTBV. Ngoài ra, rất nhiều các học giả quan tâm nghiên cứu về vấn đề này, cụ thể: - Peter P. Rogers, Kazi F.Jalal và John A. Boyd trong cuốn “Giới thiệu về phát triển bền vững” (An Introduction to Sustainable Development), xuất bản năm 2007 đã giới thiệu những kiến thức cơ sở về PTBV, trong đó đã tập trung phân tích những vấn đề đo lường và chỉ số đánh giá tính bền vững; vấn đề đánh giá, quản lý và chính sách đối với môi trường; cách tiếp cận và mối liên kết với giảm nghèo; những ảnh hưởng và phát triển cơ sở hạ tầng; các vấn đề về kinh tế. sản xuất, tiêu dùng, những trục trặc của thị trường và về vai trò của xã hội dân sự [119, tr. 8]. - John Blewitt trong cuốn “Tìm hiếu về phát triển bền vững” (Understanding Susstainable Development) xuất bản năm 2008 cũng đóng góp một phần quan trọng vào lý thuyết về PTBV, trong đó phải kể đến những nhân tố về mối quan hệ giữa xã hội và môi trường, PTBV và điều hành của Chính phủ; các công cụ, hệ thống để PTBV, phác thảo về một xã hội bền vững [115. tr. 60]. - Simon Bell và Stephen Morse trong cuốn “Các chỉ số phát triển bền vững: đo lường những thứ không thể đo” (Sustainbility Indicators: Measuring the Immeasurable) xuất bản năm 2008 đã có đóng góp lớn về lý luận và thực tiễn trong việc sử dụng các chỉ số PTBV. Các tác giả đã giới thiệu hệ thống các quan điểm và một loạt các công cụ, kỹ thuật có khả năng giúp làm sáng tỏ hơn những vấn đề phức tạp trên cơ sở tiếp cận định tính hơn là tiến hành các biện pháp đo lường định lượng [120, tr. 45]. 1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam Khái niệm PTBV được biết đến ở Việt Nam vào khoảng cuối thập niên 80 đầu thập niên 90. Mặc dù xuất hiện ở Việt Nam khá muộn nhưng nó lại sớm được thể hiện ở nhiều cấp độ.
  26. 18 * PTBV trong chính sách phát triển của Việt Nam Ngay sau Tuyên bố Rio năm 1992, PTBV được xem là tư tưởng chủ đạo định hướng các chính sách của Việt Nam. Quan điểm PTBV được đặc biệt khẳng định rõ nét trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 1991 - 2000 được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII thông qua với chủ trương: "Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường". Đại hôi VIII tiếp tục khẳng định: "Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái". Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25/6/1998 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước đã nhấn mạnh: "Bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước". Quan điểm PTBV được khẳng định và nhấn mạnh trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng và trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001 - 2010), Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2001 - 2005) đã khẳng định: "phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường", "phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hòa giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học" [16, tr. 8]. Nghị quyết Đại hội lần thứ X cũng đã nhấn mạnh "việc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế" và "nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển" [17, tr. 7]. Với giai đoạn 10 năm tiếp theo, từ 2011 - 2020, PTBV là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược kinh tế - xã hội mà Đại hội đại biểu lần thứ XI của Đảng cộng sản Việt Nam đề ra: "phát triển bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo nguồn lực cho phát triển bền vững. Phát triển nhanh và phát triển bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế - xã hội" [18, tr.9]. Trên cơ sở quan điểm phát triển đề ra trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, quan điểm PTBV được khẳng định trong quan điểm phát triển kinh tế - xã hội tại Đại hội XII của Đảng: "Bảo đảm phát triển nhanh, bền vững trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô và không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh" và "Phát triển kinh tế tri thức, kinh tế xanh. Phát triển kinh tế phải gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu" [18, tr.270].
  27. 19 Để cụ thể hoá đường lối và quan điểm của Đảng về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, Quốc hội đã thông qua Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi); Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam). Định hướng xác định: “Mục tiêu tổng quát của phát triển bền vững là đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự giàu có về tinh thần và văn hoá, sự bình đẳng của các công dân và sự đồng thuận của xã hội, sự hài hoà giữa con người và tự nhiên; phát triển phải kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà được ba mặt là phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường” [48, tr.21]. Về phương hướng phát triển bền vững trong giai đoạn sắp tới, gần đây, vào tháng 4/2012, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã phê duyệt Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020. Các định hướng ưu tiên nhằm phát triển bền vững trong giai đoạn 2011-2020 về kinh tế là duy trì tăng trưởng kinh tế bền vững, phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; nâng cao chất lượng tăng trưởng, chuyển đổi mô hình tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng sang kết hợp hài hòa giữa chiều rộng và chiều sâu, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên và các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến để tăng năng suất lao động và nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ. Chiến lược nhấn mạnh vai trò của chiến lược tăng trưởng xanh, đảm bảo phát triển nền kinh tế theo hướng các bon thấp. Về tài nguyên môi trường, chiến lược đề ra mục tiêu chống thoái hóa, sử dụng hiệu quả và bền vững tài nguyên đất; bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền vững tài nguyên nước; khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm, bền vững tài nguyên khoáng sản; bảo vệ môi trường biển, ven biển, hải đảo và phát triển tài nguyên biển; bảo vệ và phát triển rừng (MORNE, 2012). Đây là những gợi ý quan trọng quá trình định hướng những giải pháp cơ bản cho quá trình CDCCKT ngành tỉnh Thái Nguyên theo hướng PTBV. * Các nghiên cứu về PTBV tại Việt Nam Nghiên cứu cơ bản và có hệ thống nhất về vấn đề PTBV ở Việt Nam được thực hiện trong khuôn khổ Dự án “Hỗ trợ xây dựng và thực hiện Chương trình nghị sự 21 quốc gia Việt Nam”– VIE/01/021 do Bộ Kế hoạch và Đầu tư (MPI) chủ trì thực hiện với sự tham gia của các bộ, ngành, địa phương và sự hỗ trợ hợp tác của Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP), Cơ quan phát triển quốc tế Đan Mạch (DANIDA), Cơ quan phát triển quốc tế Thuỵ Điển (SIDA), gồm 4 hợp phần chính trong đó có hợp phần nghiên cứu chính sách PTBV. Nghiên cứu này (được thực hiện bởi nhiều nhà nghiên cứu trong các lĩnh vực khác nhau) đã hệ thống, phân
  28. 20 tích và cụ thể hoá chính sách PTBV vào điều kiện cụ thể của Việt Nam trên các lĩnh vực: nông, lâm nghiệp, thuỷ sản; phát triển các KCN; chính sách phát triển công nghiệp; chính sách năng lượng; chính sách đô thị hoá; chính sách khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài; tổng kết các mô hình PTBV. Về mặt học thuật, đã có hàng loạt công trình nghiên cứu liên quan mà đầu tiên phải kể đến là công trình do giới nghiên cứu môi trường tiến hành như: “Tiến tới môi trường bền vững” (1995) của Trung tâm Nghiên cứu tài nguyên và môi trường, Đại học Tổng hợp Hà Nội. Công trình này đã tiếp thu và thao tác hóa khái niệm PTBV theo báo cáo Brundtland như một tiến trình đòi hỏi đồng thời trên bốn lĩnh vực: Bền vững về kinh tế, bền vững về mặt nhân văn, bền vững về môi trường, bền vững về mặt kỹ thuật. “ Nghiên cứu tiêu chí phát triển bền vững cấp quốc gia ở Việt Nam – giai đoạn I” (2003) do Viện Nghiên cứu môi trường và phát triển bền vững, Hội Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật Việt Nam tiến hành. Trên cơ sở tham khảo bộ tiêu chí PTBV của Brundtland và kinh nghiệm các nước: Trung Quốc, Anh, Mỹ, các tác giả đã đưa ra các tiêu chí cụ thể về PTBV đối với một quốc gia là bền vững kinh tế, bền vững xã hội và bền vững môi trường. Đồng thời cũng đề xuất một số phương án lựa chọn bộ tiêu chí PTBV cho Việt Nam. PGS.TS Hà Huy Thành – PGS.TS Nguyễn Ngọc Khánh (đồng chủ biên) (2009), “Phát triển bền vững từ quan niệm đến hành động”, Nxb KHXH, Hà Nội. Công trình đã góp phần nghiên cứu tổng quan nội dung cơ bản và quá trình hình thành và phát triển của khái niệm, khuôn khổ, chương trình hành động, chỉ tiêu PTBV của Liên hợp quốc và các quốc gia, khu vực trên thế giới. Từ đó làm cơ sở cho việc rút ra những bài học bổ ích cho Việt Nam nói chung và tỉnh Thái Nguyên nói riêng trong quá trình hiện thực hóa định hướng chiến lược phát triển bền vững. PGS.TS Bùi Tất Thắng, TS Lưu Đức Hải, TS Trần Hồng Quang (2014), "Hướng tới một nền kinh tế phát triển bền vững", Nxb KHXH, Hà Nội. Công trình tập trung làm rõ những vấn đề lý luận về phát triển kinh tế bền vững ở Việt Nam và ứng dụng nghiên cứu với một số vùng kinh tế trọng điểm. Từ đó luận giải những vấn đề liên quan đến chính sách phát triển bền vững nền kinh tế. Đây là những gợi ý quan trọng cho tác giả trong việc làm rõ những vấn đề lý luận về PTBV nói chung và PTBV về kinh tế nói riêng. * Các nghiên cứu về hệ thống chỉ tiêu phát triển bền vững ở Việt Nam Trên cơ sở luận giải về mặt học thuật, các tác giả tiếp tục nghiên cứu và đưa ra các tiêu chí cũng như mô hình PTBV như:“Quản lý môi trường cho sự phát triển bền vững” (2000) do Lưu Đức Hải và cộng sự tiến hành đã trình bày hệ thống quan điểm lý thuyết và hành động quản lý môi trường cho PTBV. Công trình này đã xác
  29. 21 định PTBV qua các tiêu chí: bền vững kinh tế, bền vững môi trường, bền vững văn hóa, công trình đã tổng quan nhiều mô hình PTBV như mô hình 3 vòng tròn kinh tế, xã hội, môi trường giao nhau của Jacob và Sadler (1990), mô hình tương tác đa lĩnh vực kinh tế, chính trị, hành chính, công nghệ, quốc tế, sản xuất, xã hội của WCED (1987), mô hình liên hệ thống kinh tế, xã hội, sinh thái của Villen (1990), mô hình 3 nhóm mục tiêu kinh tế, xã hội, môi trường của World Bank. Hay“Đổi mới chính sách xã hội – Luận cứ và giải pháp” (1997) của Phạm Xuân Nam. Trong công trình này, tác giả làm rõ 5 hệ chỉ báo thể hiện quan điểm PTBV: Phát triển xã hội, phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường, phát triển chính trị, tinh thần, trí tuệ, văn hóa, vai trò phụ nữ và chỉ báo quốc tế. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu này có một điểm chung là thao tác hóa khái niệm PTBV trên quan điểm của Brundtland. Tuy nhiên, cần nói thêm rằng, những thao tác này còn mang tính liệt kê, tính thích ứng của các chỉ báo với thực tế Việt Nam, cụ thể là ở cấp độ địa phương, vùng, miền, hay các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội vẫn chưa được làm rõ. Lê Bảo Lâm với tác phẩm “Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế dài hạn: Lý thuyết và thực tiễn ở Việt Nam” (2007) và một số tác phẩm khác của các tác giả: Nguyễn Mạnh Hùng, “Kinh tế - xã hội Việt Nam hướng tới chất lượng tăng trưởng, hội nhập và phát triển bền vững”, Nguyễn Văn Thương: “Tăng trưởng kinh tế Việt Nam – những rào cản cần vượt qua”, Phạm Ngọc Trung: “Chất lượng tăng trưởng của Việt Nam” nghiên cứu và bàn luận đến những vấn đề xoay quanh việc sử dụng các nhân tố được chú ý và cần phải tiếp tục sử dụng một cách có hiệu quả để nhằm tạo ra sự tăng trưởng của kinh tế Việt Nam. Các vấn đề đã được nghiên cứu trong nhóm các tác giả trên cũng chỉ mới đưa ra một cách rời rạc và chưa có tính chất hệ thống lý thuyết về sự PTBV về kinh tế, chỉ đưa ra những phân tích, đánh giá về vấn đề xã hội, môi trường và một số tiêu chí trong nghiên cứu sự phát triển một cách “bền vững” đối với Việt Nam. Trong tác phẩm “Phát triển bền vững Việt Nam: Thành tựu, thách thức và triển vọng”, Nxb Lao động – xã hội, Hà Nội, 2007, GS, TSKH Nguyễn Quang Thái và PGS.TS Ngô Thắng Lợi đã nghiên cứu, phân tích thực trạng phát triển của kinh tế - xã hội Việt Nam trong thời gian đổi mới, phân tích những yếu tố hay điều kiện để có thể giúp Việt Nam đạt được những tiến bộ khả quan để thực hiện PTBV, trong đó có đề cập đến những nội dung của vấn đề tăng trưởng với chất lượng cao thể hiện ở những tiêu chí như xác định CCKT và CDCCKT theo hướng tiến bộ. * Ngoài ra còn có rất nhiều các nghiên cứu về PTBV vùng như: Phan Văn Hùng chủ biên (2007): “Phát triển bền vững vùng dân tộc thiểu số và miền núi Việt
  30. 22 Nam”, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội: Cuốn sách trình bày một số vấn đề lí luận liên quan đến phát triển bền vững, cũng như thực trạng phát triển, định hướng chiến lược phát triển bền vững vùng dân tộc thiểu số và miền núi; Giới thiệu các mô hình phát triển bền vững; Tác giả Bùi Minh Đạo (2011) với công trình “Thực trạng phát triển Tây Nguyên và một số vấn đề phát triển bền vững”, Nxb KHXH, Hà Nội: Trình bày một số vấn đề cơ bản về phát triển bền vững và phát triển bền vững vùng; Từ đó, nêu thực trạng phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá, tôn giáo, môi trường, cùng một số vấn đề đặt ra, quan điểm và giải pháp trong phát triển bền vững đối với khu vực Tây Nguyên; Dương Bá Phượng chủ biên (2012), “Phát triển bền vững vùng Trung Bộ: Thực trạng, vấn đề và giải pháp”, Nxb KHXH, Hà Nội: Cơ sở lí luận về phát triển bền vững vùng lãnh thổ. Thực trạng phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, nguồn lực con người và môi trường theo hướng bền vững vùng Trung bộ giai đoạn 2001 - 2010, Dự báo tác động của bối cảnh quốc tế, trong nước và quan điểm, mục tiêu, phương hướng, giải pháp phát triển bền vững vùng giai đoạn 2011 – 2020; Nhiều tác giả (2012): “Một số vấn đề cơ bản về phát triển bền vững vùng duyên hải Nam Trung Bộ giai đoạn 2011 – 2020”, Nxb KHXH, Hà Nội: Cuốn sách trình bày một số vấn đề lí luận và thực tiễn về phát triển bền vững cấp vùng; Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội vùng duyên hải Nam Trung Bộ và định hướng một số vấn đề giải pháp chiến lược phát triển bền vững vùng duyên hải Nam Trung Bộ. Đối với tỉnh Thái Nguyên, liên quan đến vấn đề PTBV, Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã ban hành “Định hướng chiến lược phát triển bền vững tỉnh Thái Nguyên đến năm 2020 (Chương trình nghị sự 21 Thái Nguyên)” . Đây là văn kiện cụ thể hóa định hướng chiến lược PTBV của quốc gia vào điều kiện cụ thể của tỉnh Thái Nguyên, trong đó khái quát thực trạng kinh tế - xã hội tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2001 – 2005 gắn với PTBV, đưa ra định hướng chiến lược PTBV tỉnh Thái Nguyên đến năm 2020 với những lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường cần ưu tiên PTBV. Tuy nhiên, tài liệu này mới chỉ dừng lại ở việc xác định một khung pháp lý nhằm hướng tới PTBV cho các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thái Nguyên, chưa đặt trọng tâm vào việc nghiên cứu vấn vấn đề CDCCKT ngành tỉnh Thái Nguyên theo hướng PTBV. 1.3. Các công trình nghiên cứu về chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với phát triển bền vững Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên quan điểm phát triển bền vững của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ - Việt Nam, Luận án tiến sỹ của tác giả Tạ Đình Thi năm 2007,
  31. 23 Trường Đại học Kinh tế Quốc dân; đã nêu ra những vấn đề lý luận và thực tiễn của CDCCKT trên quan điểm PTBV, từ đó làm rõ thực trạng CDCCKT của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Đây là những cơ sở lý luận quan trọng được tác giả tham khảo sử dụng trong luận án khi phân tích về CDCCKT ngành theo hướng PTBV. Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững ở Việt Nam, đề tài cấp Bộ đặc biệt năm 2009, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương. Đề tài đã làm rõ cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế về mối quan hệ giữa TTKT và PTBV; phân tích mối quan hệ giữa TTKT và PTBV ở nước ta. Từ đó đưa ra quan điểm, định hướng về mối quan hệ giữa TTKT và PTBV ở nước ta đến năm 2020. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển bền vững ở Việt Nam, Sách chuyên khảo, PGS.TS Phạm Thị Khanh, NXB Chính trị Quốc gia, 2010. Công trình đã làm rõ tính tất yếu và các nhân tố ảnh hưởng tới CDCCKT theo hướng PTBV. Những quan điểm và giải pháp thúc đẩy CDCCKT ngành theo hướng PTBV được tác giả đưa ra trên cơ sở phân tích thực trạng CDCCKT theo hướng PTBV ở Việt Nam. Đây là những gợi ý quan trọng cho tác giả trong việc định hướng khung phân tích của luận án khi phân tích vấn đề CDCCKT ngành tỉnh Thái Nguyên theo hướng PTBV. Một trong những nghiên cứu gần đây nhất được tác giả cập nhật và tham khảo là luận án tiến sỹ của Ngô Thái Hà là nghiên cứu về "chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển bền vững ở Việt Nam". Tác giả đã đánh giá quá trình CDCCKT theo hướng PTBV ở Việt Nam, đồng thời xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá mức độ bền vững của CDCCKT ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả luận giải hệ thống giải pháp nhằm CDCCKT ở Việt Nam theo hướng PTBV. Công trình là một gợi ý quan trọng cho tác giả trong việc xác định hệ thống chỉ tiêu đánh giá mức độ bền vững và xây dựng hệ thống giải pháp nhằm đảm bảo tính bền vững của CDCCKT ngành đối với tỉnh Thái Nguyên dựa trên lợi thế đặc thù của tỉnh. 1.4. Những vấn đề đặt ra và hướng nghiên cứu của luận án 1.4.1. Những vấn đề đặt ra cần được tiếp tục nghiên cứu Qua khảo sát các công trình nghiên cứu trên thế giới và trong nước, cho thấy: Thứ nhất, cho đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu vấn đề CDCCKT ngành theo hướng PTBV đối với một tỉnh cụ thể là tỉnh Thái Nguyên. Nhất là trong bối cảnh mới hiện nay của tỉnh: tình hình thu hút FDI đạt được những kết quả vượt trội đã tác động tới sự phát triển chung của tỉnh. Bên cạnh những tác động tích cực còn tồn tại nhiều hạn chế đe dọa tính bền vững trên cả ba phương diện: kinh tế (thay đổi cơ cấu ngành nói chung và cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp nói riêng theo hướng không bền
  32. 24 vững), những tác động về mặt xã hội (trình độ học vấn, những vấn đề việc làm, tệ nạn xã hội ), những vấn đề môi trường kèm theo lượng rác thải độc hại của dự án Đây là những vấn đề đặt ra cần có câu trả lời và cũng là những gợi ý quan trọng cho tác giả khi thực hiện đề tài này. Thứ hai, hiện nay việc định hướng CDCCKT ngành của tỉnh vẫn chưa được dựa trên những luận cứ khoa học trên cơ sở phân tích kỹ lưỡng những lợi thế về tự nhiên và xã hội của tỉnh Thái Nguyên, nhất là đặt trong bối cảnh mới nền kinh tế hội nhập và tác động của biến đổi khí hậu đối với toàn cầu hiện nay còn nhiều vấn đề đặt ra cả về mặt lý luận và thực tiễn đòi hỏi cần có sự tiếp tục nghiên cứu một cách nghiêm túc, kỹ lưỡng; từ đó đưa ra hướng giải quyết thấu đáo. Vì vậy, trong luận án này, tác giả đi sâu phân tích, luận giải những vấn đề chủ yếu về lý luận và thực tiễn CDCCKT ngành theo hướng PTBV đối với một tỉnh cụ thể là tỉnh Thái Nguyên - một tỉnh được coi là có nhiều tiềm năng, lợi thế để có thể thực hiện bước tiến nhanh trong lộ trình CDCCKT trước những bối cảnh mới hiện nay. Từ đó, luận án đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm bảo đảm sự bền vững của quá trình chuyển dịch đó. 1.4.2. Hướng nghiên cứu của luận án - Về cách tiếp cận: Luận án nghiên cứu CDCCKT ngành tỉnh Thái Nguyên theo hướng PTBV trên 3 phương diện: kinh tế, xã hội và môi trường. Nghiên cứu được thực hiện dưới góc độ kinh tế chính trị học. - Về mặt lý luận: Luận án làm rõ cơ sở lý luận, tiêu chí đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng tới quá trình CDCCKT ngành theo hướng PTBV. Vấn đề PTBV chủ yếu được tác giả tập trung đề cập trên 3 phương diện: kinh tế, xã hội, môi trường. - Về mặt thực tiễn: + Bài học rút ra cho quá trình CDCCKT ngành theo hướng PTBV trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên được rút ra trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn kinh nghiệm của một số nước trên thế giới (Hàn Quốc, Trung Quốc) và một số tỉnh thành của Việt Nam (Vĩnh Phúc, Đà Nẵng). + Những phân tích đánh giá tính bền vững của CDCCKT ngành tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2006 - 2015 được thực hiện trên cơ sở lý luận đã làm rõ ở chương 2. + Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng ở chương 3, luận án sẽ đề xuất quan điểm và giải pháp thực hiện CDCCKT ngành theo hướng PTBV trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên đến năm 2020 và có tính đến năm 2030.
  33. 25 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế (CDCCKT) nói chung, CDCCKT ngành nói riêng và phát triển bền vững (PTBV) đã được rất nhiều các học giả trong và ngoài nước nghiên cứu. Việc phân tích và làm rõ những thành tựu cũng như những mặt hạn chế của các công trình trước đây có vai trò quan trọng trong việc thực hiện nghiên cứu vấn đề CDCCKT ngành theo hướng PTBV trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên - vấn đề mà tác giả sẽ tập trung giải quyết trong luận án này. Trong chương 1, luận án đã tập trung giải quyết một số vấn đề sau: Thứ nhất, tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề CCKT, PTBV và CDCCKT ngành theo hướng PTBV; Thứ hai, làm rõ những vấn đề mà các công trình nghiên cứu liên quan đến nội dung của luận án đã đạt được. Đó là những vấn đề quan trọng mà tác giả luận án kế thừa được trong quá trình nghiên cứu của mình. Thứ ba, phân tích và làm rõ khoảng trống của những nghiên cứu trước đây về vấn đề CDCCKT ngành theo hướng PTBV đặc biệt nghiên cứu trên địa bàn cụ thể là tỉnh Thái Nguyên. Đây là điều mà tác giả đặt mục tiêu cho việc nghiên cứu và thực hiện trong luận án này
  34. 26 Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 2.1. Cơ sở lý luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng phát triển bền vững 2.1.1. Lý luận về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành 2.1.1.1 Cơ cấu kinh tế, cơ cấu kinh tế ngành * Cơ cấu kinh tế Hiện nay có nhiều quan niệm về cơ cấu của nền kinh tế (CCKT). CCKT là một tổng thể hợp thành bởi nhiều yếu tố kinh tế của nền kinh tế quốc dân, giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ, tác động qua lại với nhau trong những không gian, thời gian nhất định và trong điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể [2, tr.8]. Nó thể hiện đầy đủ cả mặt định tính và định lượng, cả mặt chất lượng và số lượng, và vận động hướng vào những mục tiêu nhất định của nền kinh tế. Trong đó, mặt chất lượng qui định vai trò, vị trí quan trọng khác nhau của các yếu tố, các bộ phận cấu thành của CCKT; mặt số lượng thể hiện quan hệ tỷ lệ hình thành của của cơ cấu phù hợp với mặt chất lượng đã xác định. Nhưng khi mặt số lượng (quan hệ tỷ lệ, tốc độ ) thay đổi tạo ra khả năng thay đổi về chất, và lúc đó có sự thay đổi về CCKT. Do vậy, nói CDCCKT tức là nói tới sự chuyển dịch cả về chất lượng và số lượng tương ứng với chất lượng đó. Theo Từ điển bách khoa Việt Nam:“Cơ cấu kinh tế là tổng thể các ngành, các lĩnh vực, bộ phận kinh tế có quan hệ hữu ơc tương đối ổn định hợp thành”[83, tr.80]. Từ góc độ nhìn nhận của quá trình PCLĐXH và tái sản xuất xã hội, có thể phân chia cơ cấu kinh tế thành: CCKT ngành, xét theo góc độ PCLĐXH theo ngành; CCKT lãnh thổ, xét theo góc độ phân công lao động theo vùng lãnh thổ; cơ cấu TPKT, xét theo góc độ quan hệ sở hữu (Hình 2.1). Trong đó, CCKT ngành giữ vai trò quyết định Tuy nhiên, việc phân chia các loại CCKT như trên không phải là cách phân chia duy nhất, lại càng không phải chỉ có từng ấy loại CCKT. Thực tế, tùy theo mục tiêu nghiên cứu mà người ta có thể phân chia theo những cách khác nhau, và trong mỗi loại cơ cấu này, đến lượt nó lại bao hàm nhiều kiểu cơ cấu khác nữa. Trong phạm vi luận án, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu CCKT ngành.
  35. 27 Hình 2.1. Cơ cấu của nền kinh tế (yếu tố hình thành và hình thức kết cấu) Nguồn: [105, tr.222] * Cơ cấu kinh tế ngành CCKT ngành là tổng hợp các ngành kinh tế và mối quan hệ tỷ lệ giữa các ngành thể hiện ở vị trí và tỷ trọng của mỗi ngành rongt tổng thể nền kinh tế quốc dân. CCKT ngành phản ánh trình độ phân công lao động xã hội của nền kinh tế và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất [28, tr.20]. Một số đặc trưng của CCKT bao gồm: bị chi phối bởi các quy trình kỹ thuật, công nghệ và yêu cầu thị trường; bị ràng buộc bởi tính hệ thống và yêu cầu cân đối (hay ở chừng mực nào đó là yêu cầu đồng bộ); đan xen tính hiện đại và tính lạc hậu; bị chi phối nhiều bởi các yếu tố chính trị, xã hội. Để xem xét số lượng các ngành tạo nên nền kinh tế và chất lượng các mối quan hệ giữa chúng với nhau ra sao, người ta thường chia nền kinh tế thành các nhóm ngành để quan sát. Về mặt định lượng, cơ cấu ngành kinh tế bao gồm số ngành kinh tế và tỷ trọng mỗi ngành đó trong tổng thể nền kinh tế quốc dân; về mặt định tính, cơ cấu ngành thể hiện mối quan hệ giữa các ngành kinh tế và vị trí của mỗi ngành trong nền kinh tế quốc dân. Trong mối quan hệ giữa các ngành kinh tế thường biểu hiện hai mối quan hệ chủ yếu, gồm: ngành có mối quan hệ trực tiếp, trong đó có các ngành quan hệ ngược chiều, các ngành quan hệ xuôi chiều và ngành quan hệ gián tiếp [105, tr.221-228].
  36. 28 Một CCKT ngành hợp lý, hiệu quả trước hết phải huy động được nội lực các ngành, thu hút tối đa đầu tư từ nhiều nguồn khác nhau, khai thác tối đa công nghệ và chất xám Việc xác định CCKT ngành hợp lý sẽ đảm bảo thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, phát triển kinh tế xã hội bền vững, khả năng tích lũy và thu hút đầu tư phát triển cao và mang lại sức cạnh tranh cao cho nền kinh tế. [13, tr.28]. Cơ cấu ngành kinh tế còn được biểu hiện ra dưới các hình thức ngành lớn: Ngành cấp I, bao gồm 3 khu vực kinh tế: nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ; Ngành cấp II bao gồm: chăn nuôi, trồng trọt trong nông nghiệp; cơ khí, luyện kim, năng lượng trong công nghiệp; Ngành cấp III bao gồm lúa, màu trong trồng trọt Tuy nhiên, đối tượng nghiên cứu của luận án là cơ cấu ngành kinh tế vĩ mô, do đó, đề tài chỉ hướng sự nghiên cứu vào cấp độ ngành cấp I với 3 nhóm ngành chính: Ngành nông nghiệp (trong nông nghiệp bao gồm 3 ngành nhỏ là nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản), Ngành công nghiệp (bao gồm ngành công nghiệp và xây dựng), Ngành dịch vụ (bao gồm thương mại, bưu điện và du lịch ) [13, tr.29]. 2.1.1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành CDCCKT ngành là quá trình chuyển cơ cấu ngành kinh tế từ dạng này sang dạng khác phù hợp với sự phát triển của phân công lao động xã hội và phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, phát triển khoa học và công nghệ. Đây không phải đơn thuần là sự thay đổi vị trí, mà là sự thay đổi cả về lượng và chất trong nội bộ cơ cấu ngành [13, tr.30]. CDCCKT ngành không chỉ là thay đổi về số lượng các ngành mà còn bao gồm sự thay đổi về vị trí, tính chất mối quan hệ trong nội bộ cơ cấu ngành. Việc CDCCKT ngành phải dựa trên một cơ cấu hiện có và nội dung của sự chuyển dịch là cải tạo cơ cấu cũ, lạc hậu hoặc chưa phù hợp để xây dựng cơ cấu mới, tiên tiến, hoàn thiện và bổ sung cơ cấu cũ nhằm biến cơ cấu cũ thành cơ cấu mới, hiện đại và phù hợp hơn. Việc CDCCKT chỉ diễn ra khi: (i) có những thay đổi lớn về điều kiện phát triển; (ii) có khả năng và giải pháp mới làm thay đổi phương thức khai thác các điều kiện hiện tại; (iii) trong quan hệ phát triển giữa các bộ phận của CCKT có những trở ngại làm hạn chế lẫn nhau và ảnh hưởng đến sự phát triển chung [13, tr.31] Vấn đề CDCCKT ngành đã được các trường phái lý thuyết kinh tế đề cập đến từ nhiều góc độ tiếp cận khác nhau. Ba trường phái kinh tế lớn là: Kinh tế học Mác xít; Kinh tế học thuộc trào lưu chính và Kinh tế học phát triển.
  37. 29 (1) Kinh tế học Mác xít Trong Kinh tế học Mác xít, vấn đề CDCCKT ngành được trình bày tập trung trong hai học thuyết: Học thuyết về phân công lao động xã hội và Học thuyết về tái sản xuất tư bản xã hội [72, tr.20]. Trong Học thuyết về phân công lao động xã hội, Kinh tế học Mác xít không những chỉ rõ những điều kiện tiền đề cần thiết mà còn vạch ra khuôn khổ thể chế quy định sự thay đổi về chất của các cuộc cách mạng công nghiệp – cơ sở vật chất của phương thức sản xuất hiện đại. Những tiền đề ấy là: - Sự tách rời giữa thành thị và nông thôn; - Số lượng dân cư và mật độ dân số; - Năng suất lao động trong nông nghiệp được nâng cao đủ để cung cấp sản phẩm “tất yếu” cho cả những người lao động trong nông nghiệp lẫn những người lao động thuộc những ngành sản xuất khác; - Điều kiện thể chế có ý nghĩa quyết định cuộc các mạng công nghiệp trong CNTB lả sản xuất hàng hóa, là kinh tế thị trường. Học thuyết về tái sản xuất (nhất là tái sản xuất mở rộng) tư bản xã hội đã phân tích mối quan hệ giữa các ngành sản xuất trong quá trình vận động và phát triển. Bên cạnh đó, V.I.Lênin cũng luận giải về mối quan hệ giữa các ngành trong học thuyết về tái sản xuất tư bản xã hội như sau: “Sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất tư liệu sản xuất tăng nhanh nhất, sau đó đến sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất tư liệu tiêu dùng; và chậm nhất là sự phát triển của sản xuất tư liệu tiêu dùng”[72, tr.25]. (2) Kinh tế học thuộc trào lưu chính Kinh tế học thuộc trào lưu chính một mặt đi sâu phân tích các điều kiện đảm bảo sự hoạt động hữu hiệu của thị trường với tư cách là động lực phát triển kinh tế, mặt khác đề cao vai trò can thiệp của Nhà nước thông qua một loạt các chính sách kinh tế vĩ mô với chức năng đảm bảo cho thị trường hoạt động tốt và duy trì sự ổn định vĩ mô [72, tr.28]. (3) Các lý thuyết phát triển Các lý thuyết phát triển bao gồm một số lý thuyết chủ yếu sau. * Lý thuyết phân kỳ phát triển kinh tế: đại diện cho tư tưởng cơ bản của lý thuyết này là nhà kinh tế học người Mỹ Walt Rostow đã đưa ra lý thuyết cất cánh nhằm nhấn mạnh những giai đoạn tăng trưởng kinh tế. Theo đó, quá trình phát triển kinh tế của
  38. 30 một nước có thể chia ra làm 5 giai đoạn: xã hội truyền thống, chuẩn bị cất cánh, cất cánh, tăng trưởng và mức tiêu dùng cao (xem Bảng 2.1 và Hộp 2.1 phần Phụ lục). Mới đây khi bàn về tăng trưởng kinh tế, học giả Tatyana P. Soubbotina đã làm sáng tỏ thêm lý thuyết trên và cho rằng tất cả các nền kinh tế đang phát triển đều phải trải qua ba giai đoạn phát triển: nông nghiệp, công nghiệp hoá và hậu công nghiệp (xem Bảng 2.2 và Hộp 2.2 phần Phụ lục). Theo Ngân hàng Thế giới, quá trình phát triển kinh tế có thể chia thành các giai đoạn: nghèo đói, công nghiệp hoá, phát triển tiêu thụ. Theo đó, nếu không có chiến lược phát triển bền vững thì quan hệ giữa phát triển kinh tế và ô nhiễm môi trường có ba dạng sơ đồ tương ứng với ba giai đoạn phát triển kinh tế. (xem Hình 2.2 và Hộp 2.3 phần Phụ lục). * Lý thuyết nhị nguyên Lý thuyết nhị nguyên do A. Lewis khởi xướng, ông đưa ra các giải thích về mối quan hệ giữa nông nghiệp và công nghiệp trong quá trình tăng trưởng (xem Hộp 2.4 phần Phụ lục). Mô hình của Lewis có những hạn chế, những hạn chế này xuất phát từ chính những giả định do ông đặt ra có thể không xảy ra trên thực tế: Giả định thứ nhất rằng tỷ lệ lao động thu hút từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp tương ứng với tỷ lệ vốn tích lũy của khu vực này. Trong thực tế, khi khu vực công nghiệp thu được lợi nhuận, vốn tích lũy có thể được thu hút và sử dụng vào những ngành sản xuất sản phẩm có dung lượng vốn cao và như vậy ý nghĩa của việc giải quyết việc làm cho khu vực nông nghiệp sẽ không còn nữa. Trong điều kiện nền kinh tế mở, sẽ không có gì đảm bảo rằng nhà tư bản công nghiệp khi thu được lợi nhuận chỉ có tái đầu tư trong nước, họ phải tìm nơi đầu tư có lợi nhất và đó rất có thể là đầu tư ra nước ngoài, nơi có giá đầu tư rẻ hơn [69, tr.32]. Giả định thứ hai rằng nông thôn là khu vực dư thừa lao động còn thành thị thì không. Điều này đôi khi không đúng vì trong thực tế, khu vực thành thị vẫn có tỷ lệ dư thừa lao động cao [69, tr.32]. Giả định thứ ba rằng khu vực công nghiệp không phải tăng lương cho số lao động từ nông thôn chuyển sang khi ở đây còn dư thừa lao động. Ở các nước đang phát triển mức tiền công khu vực công nghiệp vẫn có thể tăng lên kể cả khi ở nông thôn có dư thừa lao động vì khu vực công nghiệp đòi hỏi tay nghề lao động ngày càng cao hơn nên vẫn phải trả một mức tiền công lao động cao hơn [69, tr.33].
  39. 31 Như vậy, có thể rút ra từ lý thuyết này một nhận định là ểđ thúc đẩy sự phát triển, các quốc gia đang phát triển cần phải mở rộng khu vực công nghiệp hiện đại bằng mọi giá mà không quan tâm đến khu vực truyền thống. Sự tăng trưởng của khu vực công nghiệp tự nó sẽ thu hút hút hết lượng lao động dư thừa trong nông nghiệp chuyển sang và từ trạng thái nhị nguyên, nền kinh tế sẽ chuyển sang một nền kinh tế công nghiệp phát triển. Một hướng phân tích khác dựa trên lý thuyết nhị nguyên là phân tích khả năng di chuyển lao động từ nông thôn (khu vực nông nghiệp) ra thành thị (khu vực công nghiệp) mà Todaro là một điển hình. Quá trình dịch chuyển lao động chỉ diễn ra suôn sẻ khi tổng cung về lao động từ nông nghiệp phù hợp với tổng cầu ở khu vực công nghiệp. Sự di chuyển lao động này không những phụ thuộc vào chênh lệch thu nhập mà còn phụ thuộc vào xác suất tìm được việc làm đối với lao động nông nghiệp [118, tr.23]. Khi đưa thêm yếu tố “xác suất tìm được việc làm” vào phân tích, người ta thấy xuất hiện các tình huống làm yếu đi khả năng di chuyển lao động giữa hai khu vực như sau: - Sự năng động của bản thân khu vực công nghiệp: về mặt này, so với nền công nghiệp ở các nước phát trển, khu vực được gọi là “công nghiệp hiện đại” thì ở các nước chậm phát triển yếu kém hơn rất nhiều. Vì vậy, để vừa có thể tăng cường khả năng cạnh tranh với các nền công nghiệp nước ngoài khác, vừa làm đầu tàu lôi kéo sự tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế thì khu vực công nghiệp phải hướng tới những ngành kỹ thuật cao [118, tr.24]. Nhưng những ngành này cần tăng hàm lượng vốn đầu tư hơn là cần tăng hàm lượng lao động. Vì thế, khu vực “công nghiệp hiện đại” ở các nước chậm phát triển cũng có nguy cơ gặp phải vấn đề dư thừa lao động chứ không riêng gì khu vực nông nghiệp. - Khả năng đáp ứng yêu cầu về kỹ thuật của người lao động nông nghiệp khi chuyển sang lĩnh vực công nghiệp. Về mặt này, một thực tế là người lao động nông thôn có trình độ học vấn thấp hơn nhiều so với lao động thành thị, và thậm chí chưa quen với môi trường lao động công nghiệp [118, tr.25]. Việc đào tạo lao động công nghiệp kỹ năng cao chẳng những đòi hỏi nhiều thời gian mà còn phải có đầu tư lớn, đến mức người ta xem như một trong những lĩnh vưc đầu tư quan trọng nhất đối với một nền kinh tế. Với những phân tích trên, người ta thấy rằng xác suất tìm được việc làm mới ở khu vực công nghiệp đối với người nông dân rời bỏ đồng ruộng là có giới hạn. - Mô hình hai khu vực của trường phái tân cổ điển. Mô hình tân cổ điển về hai khu vực kinh tế được phân tích như sau: + Khu vực nông nghiệp Dưới sự tác động của khoa học công nghệ, các nhà kinh tế thuộc trường phái tân cổ điển cho rằng yếu tố ruộng đất trong nông nghiệp không có điểm dừng, con người
  40. 32 có thể cải tạo và nâng cao chất lượng ruộng đất. Với lập luận đó, đường biểu diễn hàm sản xuất trong nông nghiệp với yếu tố lao động biến đổi TP = F(L) của trường phái tân cổ điển sẽ luôn có xu thế dốc lên thể hiện dưới sơ đồ sau: Đường hàm sản xuất trong nông nghiệp tân cổ điển Nguồn: [12, tr.34] Sơ đồ cho thấy, mọi sự tăng lên của lao động đều dẫn đến tăng sản lượng nông nghiệp, tức là sản phẩm cận biên của lao động trong khu vực này luôn dương (MP > 0). Điều đó có nghĩa là sự tăng dân số không phải là hiện tượng bất lợi hoàn toàn và do đó không có lao động dư thừa để có thể chuyển sang khu vực khác mà không làm giảm đầu ra của nông nghiệp. Tuy vậy, qua sơ đồ ta thấy mặc dù đường biểu diễn hàm sản xuất trong nông nghiệp không có phần nằm ngang nhưng độ dốc cũng có xu thế giảm dần, tức là với một số lượng lao động tăng lên bằng nhau, càng về sau thì mức tăng lên của tổng sản phẩm ngày càng giảm đi. Đường cung lao động trong nông nghiệp Nguồn: [12, tr.35]
  41. 33 Biểu hiện trì trệ này được giải thích bởi quy luật lợi nhuận biên giảm dần theo quy mô, cho dù có sự tác động của khoa học công nghệ nhưng đất đai trong nông nghiệp vẫn có dấu hiệu giảm đi về số và chất lượng, nên sản phẩm biên của lao động không bằng 0 nhưng có chiều hướng giảm dần. Mức sản phẩm biên của lao động trong nông nghiệp luôn dương, điều này cũng có nghĩa là mức tiền công lao động trong nông nghiệp được trả theo mức sản phẩm cận biên của lao động chứ không phải trả theo mức sản phẩm trung bình của lao động như mô hình Lewis. Đường cung lao động trong nông nghiệp cũng luôn có xu thế dốc lên. Trên thực tế vì mức sản phẩm biên của lao động mặc dù không bằng 0 nhưng có xu thế giảm dần nên đường cung lao động trong nông nghiệp mặc dù không có đoạn nằm ngang nhưng có độ dốc giảm dần theo quy mô gia tăng lao động sử dụng. + Quan điểm đầu tư Trong điều kiện trên, để cho quá trình trao đổi giữa hai khu vực không tạo ra những bất lợi ngày càng nhiều cho công nghiệp thì các nhà tân cổ điển cho rằng cần phải đầu tư cả cho nông nghiệp ngay từ đầu chứ không phải chỉ quan tâm đến đầu tư cho công nghiệp. Việc đầu tư cho nông nghiệp phải được thể hiện theo hướng nâng cao năng suất lao động ở khu vực này để mặc dù rút bớt lao động trong nông nghiệp chuyển sang công nghiệp cũng không ảnh hưởng đến sản lượng lương thực, thực phẩm, giá nông sản không tăng, giảm sức ép tăng giá tiền công lao động công nghiệp [12, tr.35]. Mặt khác để giảm bớt áp lực, khu vực công nghiệp một mặt, cần đầu tư theo chiều sâu để giảm cầu lao đông; mặt khác, khu vực này cần tập trung đầu tư phát triển sản xuất hàng hóa xuất khẩu để đổi lấy lương thực, thực phẩm nhập khẩu từ nước ngoài về. Điều đó làm cho mặc dù lượng lương thực, thực phẩm sản xuất trong nước có thể giảm đi, nhưng giá nông sản không tăng do được thay thế bằng nông sản nhập khẩu. - Mô hình hai khu vực của Harry T.Oshima Harry T.Oshima là nhà kinh tế người Nhật, ông đã phân tích mối quan hệ của hai khu vực trong sự quá độ về cơ cấu từ nền kinh tế do nông nghiệp chiếm ưu thế sang nền kinh tế công nghiệp. Oshima đã phân tích quá trình tăng trưởng theo ba giai đoạn (xem Hộp 2.5 phần Phụ lục) Một cách tổng quát, khi phân tích sự CDCCKT của hai lĩnh vực sản xuất vật chất quan trọng nhất của nền kinh tế các nước đang phát triển, các lý thuyết nhị nguyên đã đi từ việc cho rằng chỉ cần tập trung vào phát triển công nghiệp mà không quan tâm
  42. 34 đến sự phát triển của khu vực nông nghiệp, đến việc chỉ ra những giới hạn của việc này và như vậy, khu vực nông nghiệp cũng cần được quan tâm thích đáng trong quá trình CDCCKT. * Lý thuyết phát triển cân đối liên ngành Những người ủng hộ quan điểm này như R.Nurkse, P.Rosenstein – Rodan cho rằng để nhanh chóng công nghiệp hóa, cần thúc đẩy sự phát triển đồng đều ở tất cả mọi ngành kinh tế quốc dân. Họ chủ yếu dựa trên những luận cứ sau: Trong quá trình phát triển, tất cả các ngành kinh tế liên quan mật thiết với nhau trong chu trình “đầu ra” của ngành này là “đầu vào” của ngành kia. Vì thế, sự phát triển đồng đều và cân đối chính là đòi hỏi sự cân bằng cung cầu trong sản xuất. Ở đây có hai vấn đề đặc biệt cần được xem xét lại là: Thứ nhất, việc phát triển một CCKT cân đối, hoàn chỉnh đã đưa nền kinh tế đến chỗ khép kín và tách biệt với thế giới bên ngoài. Điều này chẳng những ngược với xu hướng chung của mọi nền kinh tế trong điều kiện hiện đại là khu vực hóa và toàn cầu hóa, mà trong lúc ngăn ngừa những tác động tiêu cực của thị trường thế giới, đã bỏ qua cả những ảnh hưởng tích cực bên ngoài mang lại[72, tr.45]. Thứ hai, các nền kinh tế chậm phát triển không đủ khả năng về nhân, tài, vật lực để có thể thực hiện được những mục tiêu cơ cấu đặt ra ban đầu [72, tr.45]. Cả hai yếu tố này đều góp phần làm cho sự chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng công nghiệp hóa gặp khó khăn, bởi lẽ cách tiếp cận vấn đề trên đã làm phân tán các nguồn lực phát triển rất có hạn của quốc gia, khiến cho ngay cả việc sửa chữa lại di sản CCKT què quặt của thời kì thuộc địa cũ cũng bị trở ngại. Chính vì thế, chỉ sau một thời kì tăng trưởng, các nền kinh tế theo đuổi mô hình cơ cấu cân đối này đã nhanh chóng rơi vào tình trạng thiểu năng (maldevelopment) [72, tr.46]. * Lý thuyết phát triển cơ cấu ngành không cân đối hay các “cực tăng trưởng” Ngược lại với quan điểm phát triển kinh tế theo một cơ cấu cân đối khép kín nêu trên, lý thuyết phát triển cơ cấu ngành không cân đối (A.Hirschman, F.Perrons, G.Destanen de Bernis ) cho rằng không thể và không nhất thiết phải bảo đảm tăng trưởng bền vững bằng cách duy trì cơ cấu cân đối liên ngành đối với mọi quốc gia (xem Hộp 2.6 phần Phụ lục). Lúc đầu lý thuyết này tỏ ra không hấp dẫn lắm vì dường như nó bỏ qua những nỗ lực xây dựng một nền kinh tế độc lập có cơ cấu ngành cân đối. Mặt khác, đằng sau cách đặt vấn đề xây dựng một cơ cấu không cân đối và mở cửa ra bên ngoài là chấp nhận sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế mà thường thì các nền kinh tế chậm
  43. 35 phát triển gặp phải nhiều bất lợi hơn [73, tr.49]. Song, do những hạn chế ngày càng trở nên rõ ràng của ý tưởng thực hiện mô hình công nghiệp hóa hướng nội có cơ cấu ngành cân đối hoàn chỉnh và những thành công “thần kỳ” của một số nước đi tiên phong, điển hình là nhóm NICs Đông Á, lý thuyết phát triển cơ cấu ngành không cân đối hay các cực tăng trưởng ngày àngc được thừa nhận rộng rãi. * Lý thuyết phát triển theo mô hình “đàn nhạn bay” Từ sự phân tích thực tế lịch sử phát triển kinh tế của các quốc gia và dựa trên lý thuyết lợi thế so sánh trong quan hệ kinh tế quốc tế, người khởi xướng lý thuyết này là giáo sư Kaname Akamatsu đã đưa ra những kiến giải về quá trình “đuổi kịp” (catch up) các nước tiên tiến nhất của các nước kém phát triển hơn. Trong số những ý tưởng về sự “đuổi kịp” này, vấn đề cơ cấu ngành có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, quá trình “đuổi kịp” về mặt kinh tế và kỹ thuật của chúng được chia thành 4 giai đoạn (xem Hộp 2.7 phần Phụ lục). Như vậy, với việc phân chia quá trình công nghiệp hóa của các nước “đi sau” thành 4 giai đoạn trong mối liên quan với các nền kinh tế khác theo mô hình “đàn nhạn bay”, quan điểm chuyển dịch cơ cấu ngành của lý thuyết này có nhiều điểm tương đồng với lý thuyết phát triển cơ cấu ngành “không cân đối” hay các “cực tăng trưởng” ở đây cũng thay đổi theo từng giai đoạn và nhân tố có ý nghĩa quyết định sự thay đổi này là ợil thế so sánh trong quan hệ ngoại thương. Ngoài ra, điều cần lưu ý nữa là, việc “đuổi kịp” các nước công nghiệp phát triển đang diễn ra nhanh hay chậm một phần rất lớn phụ thuộc vào việc lựa chọn các “cực tăng trưởng” trong mỗi giai đoạn nhất định [73, tr.52]. Từ các lý thuyết về CDCCKT nêu trên, có thể rút ra kết luận sau: (i) Các lý thuyết đều tập trung luận giải các giai đoạn phát triển kinh tế gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ba nhóm ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, theo hai khu vực lãnh thổ thành thị và nông thôn, theo hai khu vực nông nghiệp và phi nông nghiệp [77, tr.59]. Trên cơ sởđ ó, luận giải các vấn đề về điều kiện, động lực để làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng; (ii) Một số lý thuyết của trường phái kinh tế học thuộc trào lưu chính, về các giai đoạn phát triển đã đề cao vai trò can thiệp của nhà nước vào quá trình phát triển và quá trình CDCCKT; thừa nhận tầm quan trọng của khoa học công nghệ và nền kinh tế tri thức. Lý thuyết kinh tế học trường phái hiện đại cũng đã đề cập đến những khuyết tật của "bàn tay vô hình" hệ thống kinh tế thị trường trong việc giải quyết những vấn đề ô nhiễm môi trường, khủng hoảng và thất nghiệp; và do đó, cần có sự can thiệp của "bàn tay hữu hình" của nhà nước [77, tr.60]. Quan điểm của Ngân hàng Thế giới cũng đã
  44. 36 luận giải phần nào về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và ô nhiễm môi trường; tuy nhiên những vấn đề cụ thể về mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế và ô nhiễm môi trường thì chưa được bàn luận một cách sâu sắc; (iii) Các lý thuyết chưa dựa trên phương pháp tiếp cận tổng thể trên quan điểm phát triển bền vững. 2.1.2. Lý luận về phát triển bền vững 2.1.2.1. Khái niệm phát triển bền vững Thuật ngữ "phát triển bền vững" xuất hiện trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung rất đơn giản: "Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái ". Khái niệm này được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 nhờ Báo cáo Brundtland (còn gọi là Báo cáo Our Common Future) của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới - WCED (nay là Ủy ban Brundtland). Báo cáo này ghi rõ: “Phát triển bền vững là sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai " [125, tr.37]. Sau đó, năm 1992, tại Rio de Janeiro, các đại biểu tham gia Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và Phát triển của Liên hiệp quốc đã xác nhận lại khái niệm này, và đã gửi đi một thông điệp rõ ràng tới tất cả các cấp của các chính phủ về sự cấp bách trong việc đẩy mạnh sự hòa hợp kinh tế, phát triển xã hội cùng với bảo vệ môi trường. Mười năm sau, Hội nghị thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững (còn gọi là Hội nghị Rio +10 hay Hội nghị thượng đỉnh Johannesburg) nhóm họp tại Johannesburg, Cộng hòa Nam Phi với sự tham gia của các nhà lãnh đạo cũng như các chuyên gia về kinh tế, xã hội và môi trường của gần 200 quốc gia. Lần đầu tiên khái niệm “phát triển bền vững” đã trở thành chủ đề của một diễn đàn quan trọng nhất thế giới. Tại đây, đã xác định “phát triển bền vững” là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa 3 mặt của sự phát triển, gồm: phát triển kinh tế (nhất là tăng trưởng kinh tế), phát triển xã hội (nhất là thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; xóa đói, giảm nghèo và giải quyết việc làm) và bảo vệ môi trường (nhất là xử lý, khắc phụ ô nhiễm, khôi phục và cải thiện chất lượng môi trường; phòng chống cháy và chặt phá rừng; khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên).
  45. 37 Trong cuốn “Cứu lấy trái đất: Chiến lược vì sự sống bền vững”, khái niệm phát triển bền vững tiếp tục được hoàn thiện. Theo đó, các khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường được lồng ghép với nhau (Hình 2.1a). Đến Hội nghị Liên Hợp quốc về Môi trường và Phát triển (năm 1992 tại Rio De Janeiro, Braxin), khái niệm về phát triển bền vững đã được chấp thuận một cách rộng rãi. Tại Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất lần này, các nước đã thông qua Chương trình Nghị sự 21, một chương trình hành động toàn cầu nhằm giải quyết các vấn đề môi trường và phát triển. Đến đây, nhiều người lập luận rằng cuộc tranh luận về môi trường và phát triển đã được hội tụ tại Nguyên tắc 4 của Tuyên bố Rio: “để đạt được sự phát triển bền vững, bảo vệ môi trường phải là một phần không thể tách rời của quá trình phát triển và không thể tách biệt khỏi quá trình đó”. Uỷ ban phát triển bền vững của Liên hợp quốc (CDS) đã bổ sung một khía cạnh thứ 4 của phát triển bền vững, đó là thể chế. Sự PTBV phụ thuộc rất lớn vào thể chế và tính bền vững của thể chế. Đó là sự minh bạch, rõ ràng, có hiệu lực của hệ thống pháp luật, chính sách; sự đồng thuận của xã hội, sự ổn định về chính trị. Muốn vậy, bản thân thể chế cũng phải có tính bền vững. Tính bền vững của thể chế không phải chỉ thể hiện ở những giai đoạn kinh tế đang ở chu kỳ hưng thịnh, mà đặc biệt thể hiện ở giai đoạn khủng hoảng do những "cú sốc" không lường tính được gây ra, nhưng nhờ có thể chế tốt đã giúp cho nền kinh tế nhanh chóng khắc phục, vượt qua khó khăn với mức chi phí thấp nhất [77, tr40]. Bốn khía cạnh này hiện nay là khuôn khổ báo cáo về thực hiện Chương trình nghị sự 21. Hội nghị cũng khuyến nghị từng nước căn cứ vào điều kiện và đặc điểm cụ thể để xây dựng Chương trình nghị sự 21 ở cấp quốc gia, cấp ngành và địa phương (xem Hình 2.1 phần Phụ lục). Trong xu thế toàn cầu hoá, quan điểm về PTBV được chú trọng với nội dung cụ thể là thu hẹp khoảng cách giữa các nước giàu và các nước nghèo, xoá bỏ nghèo đói, nhưng không làm ảnh hưởngđ ến môi sinh. Ngày nay, nói về PTBV, thường người ta dùng hai định nghĩa: i) PTBV là sự phát triển đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng của các thế hệ tương lai trong việc đáp ứng những nhu cầu của họ. ii) PTBV là sự phát triển không làm tổn hại đến môi trường, không gây ra những thảm họa về sinh thái, thế hệ hôm nay phải khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lý nhằm thỏa mãn những nhu cầu của mình sao cho không ảnh hưởng đến việc thỏa mãn những nhu cầu của thế hệ mai sau.
  46. 38 Cả hai cách diễn đạt trên về PTBV đều đưa ra hai thông điệp chính: (1) phát triển bền vững là phát triển trong mối quan hệ duy trì những giá trị môi trường sống. Hay giá trị môi trường sinh thái là một trong những cấu phần của những giá trị nhằm đạt tới trong quá trình phát triển. (2) phát triển bền vững là phát triển dài hạn, là đặt trong quá trình tái sản xuất liên tục [59, tr.23-24]. Như vậy, các khái niệm đều có ba đặc điểm chung: (i) điều kiện con người mong muốn: duy trì một xã hội đáp ứng các nhu cầu chung của họ; (ii) điều kiện hệ sinh thái bền vững: hệ sinh thái duy trì khả năng hỗ trợ sự sống của con người và bản thân hệ sinh thái; (iii) tính bình đẳng: sự chia sẻ công bằng các lợi ích và các gánh nặng - giữa các thế hệ hiện tại và thế hệ tương lai và trong bản thân thế hệ hiện tại. Một số học giả Việt Nam, trong đó tiêu biểu là Ngô Doãn Vịnh đã đưa ra khái niệm phát triển tới ngưỡng cho phép. Theo đó, “sự phát triển phải bảo đảm không phá hoại môi trường sống, đồng thời phải đem lại sự thịnh vượng về kinh tế cho đại đa số nhân dân, giải quyết hài hoà các vấn đề xã hội” [105, tr.37]. Mặc dù, chưa có một khái niệm "chuẩn tắc", nhưng các học giả đã cảnh báo về sự không lường trước được những khiếm khuyết của sự phát triển bền vững. Vì vậy, việc làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển bền vững vận dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Trong mục 4, Điều 3, Luật Bảo vệ môi trường, phát triển bền vững được định nghĩa: “Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường”. Đây là định nghĩa có tính tổng quát, nêu bật những yêu cầu và mục tiêu trọng yếu nhất của phát triển bền vững, phù hợp với điều kiện và tình hình ở Việt Nam. Trên cơ sở phân tích trên, tác giả đề xuất một cách định nghĩa cụ thể hơn về PTBV:“PTBV là một phương thức phát triển kinh tế- xã hội nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội và BVMT với mục tiêu đáp ứng tốt hơn các nhu cầu của thế hệ hiện tại đồng thời không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau”. Định nghĩa này có thể mở rộng với ba cấu thành cơ bản về sự PTBV: kinh tế - xã hội - môi trường Các mô hình PTBV bao gồm: mô hình PTBV kiểu ba vòng tròn, mô hình PTBV kiểu tam giác, mô hình PTBV kiểu quả trứng. Mỗi mô hình có những thế mạnh cũng như những hạn chế nhất định. Tác giả đồng nhất lựa chọn và sử dụng mô hình PTBV kiểu ba vòng tròn để phân tích, do mô hình này phản ánh rõ nhất PTBV là miền giao thoa giữa phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội và BVMT. Nói cách khác, PTBV đạt được trên cơ sở đảm bảo hài hoà được cả ba mục tiêu: kinh tế, xã hội và môi trường.
  47. 39 2.1.2.2. Nội dung phát triển bền vững Từ nội hàm khái niệm PTBV, cho thấy, để đạt được mục tiêu PTBV cần giải quyết hàng loạt các vấn đề thuộc ba lĩnh vực là kinh tế, xã hội và môi trường: (i) Phát triển bền vững về kinh tế: Sự bền vững về kinh tế phụ thuộc vào mối quan hệ giữa lợi ích và chi phí, hay chính xác hơn nó yêu cầu lợi ích phải lớn hơn hoặc cân bằng với chi phí. Độ bền vững về kinh tế chủ yếu quy định bởi tính hữu ích và chi phí đầu vào, chi phí khai thác và chế biến và nhu cầu đối với sản phẩm [37, tr.18]. Tuy nhiên, nếu sự phát triển kinh tế quá phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên thì dễ rơi vào khủng hoảng khi tài nguyên bị cạn kiệt và có những tài nguyên thiên nhiên không thể tái tạo được. Việc khai thác tài nguyên như vậy sẽ vượt quá sức chịu đựng của các hệ sinh thái, gây ô nhiễm, suy thoái môi trường và tạo ra những nguy cơ tiềm ẩn mà con người có thể còn chưa biết đến, hoặc chưa lường hết được. Vì vậy, đây không phải là phương thức phát triển bền vững. Nói cách khác, "mục tiêu PTBV về kinh tế là đạt được sự tăng trưởng ổn định với cơ cấu kinh tế hợp lý, đáp ứng được yêu cầu nâng cao đời sống của nhân dân, tránh được sự suy thoái hoặc đình trệ trong tương lai, tránh để lại gánh nặng nợ nần cho các thế hệ mai sau" [48, tr.21]. (ii) Phát triển bền vững về xã hội, sự bền vững xã hội phản ánh mối quan hệ giữa phát triển và những tiêu chuẩn xã hội hiện đại [37, tr.19]. Một hoạt động có tính bền vững về mặt xã hội nếu nó phù hợp với những tiêu chuẩn xã hội, hoặc không vượt quá sức chịu đựng sự thay đổi của cộng đồng. Bất kỳ một hoạt động nào phá vỡ những giới hạn xã hội đang tồn tại sẽ bị thất bại. Nói cách khác, "mục tiêu PTBV về xã hội là đạt kết quả cao trong việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, đảm bảo chế độ dinh dưỡng và chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân ngày càng được nâng cao, mọi người đều có cơ hội học hành và có việc làm, giảm tình trạng nghèo đói và hạn chế khoảng cách giàu - nghèo giữa các tầng lớp và nhóm xã hội, giảm các tệ nạn xã hội, nâng cao mức độ công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các thành viên và giữa các thế hệ trong một xã hội" [48, tr.21]. (iii) Phát triển bền vững về môi trường, sự bền vững về tài nguyên môi trường đảm bảo phải sử dụng có hiệu quả tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên không tái tạo. Phát triển không vượt quá ngưỡng chịu tải của hệ sinh thái, bảo vệ đa dạng sinh học, kiểm soát và giảm thiểu phát thải khí nhà kính, đồng thời bảo vệ chặt chẽ các hệ sinh thái nhạy cảm. Giảm thiểu xả thải, khắc phục ô nhiễm (nước, không khí, đất, lương thực thực phẩm), cải thiện và khôi phục môi trường những khu vực ô nhiễm [37, tr.20]. Hay nói cách khác, "mục tiêu của PTBV về môi trường là khai thác hợp lý, sử dụng tiết
  48. 40 kiệm và có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý và kiểm soát có hiệu quả ô nhiễm môi trường, bảo vệ tốt môi trường sống; khắc phục suy thoái và cải thiện chất lượng môi trường" [48, tr.21]. 2.1.3. Lý luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng phát triển bền vững 2.1.3.1. Khái niệm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng phát triển bền vững Tác giả đồng nhất với tác giả Tạ Đình Thi trong cách định nghĩa về CDCCKT ngành theo hướng PTBV: "CDCCKT ngành theo hướng PTBV chính là sự CDCCKT bảo đảm sự phát triển cân đối, hài hoà giữa các mặt kinh tế, xã hội và môi trường; hay nói một cách cụ thể hơn CDCCKT theo hướng PTBV là sự CDCCKT phải bảo đảm có được sự TTKT dương, hiệu quả, ổn định và đạt ở mức cao; bảo đảm sự vững chắc cần thiết của hệ thống kinh tế, tránh và giảm thiểu rủi ro, có khả năng cạnh tranh; tránh được sự trì trệ, suy thoái và đổ vỡ kết cấu của nền kinh tế, ít bị tổn thương từ những thay đổi ở bên ngoài; ít hoặc không gây phương hại cho môi trường tự nhiên; bảo đảm xã hội phát triển tiến bộ, giữ gìn an ninh, trật tự an toàn xã hội; tham gia hợp tác quốc tế chủ động và có hiệu quả"[77, tr.61]. Theo khái niệm này, để bảo đảm sự PTBV, CDCCKT ngành phải đáp ứng các yêu cầu sau đây: (i) CDCCKT ngành phải thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả, ổn định, cân đối, hài hoà giữa các địa phương, các vùng, đặc biệt giữa nông thôn và thành thị [76, tr.62]. CDCCKT ngành phải đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng về quy mô, chất lượng, khả năng cạnh tranh, phát huy có hiệu quả các lợi thế so sánh của từng vùng và địa phương trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, toàn cầu hoá và tiến bộ khoa học - công nghệ. CDCCKT nói chung và CCKT ngành nói riêng theo hướng CNH, HĐH là nhiệm vụ trung tâm đối với công cuộc PTBV của nước ta hiện nay. (ii) CDCCKT ngành phải bảo đảm sử dụng hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, duy trì đa dạng sinh học và hạn chế tối đa các tác động xấu đến môi trường [76, tr.63]. Quá trình CDCCKT ngành phải đáp ứng yêu cầu về giảm thiểu ONMT và thân thiện với môi trường (bao gồm môi trường đất, môi trường nước, môi trường không khí, đa dạng sinh học ). Nếu sự CDCCKT ngành bảo đảm sự bền vững về môi trường thì cũng sẽ góp phần bảo đảm sự bền vững về các mặt kinh tế, xã hội.