Gợi ý thực hành Mô hình phân tích SWOT

doc 136 trang phuongnguyen 1980
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Gợi ý thực hành Mô hình phân tích SWOT", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docgoi_y_thuc_hanh_mo_hinh_phan_tich_swot.doc

Nội dung text: Gợi ý thực hành Mô hình phân tích SWOT

  1. Gợi ý thực hành Mô hình phân tích SWOT
  2. Gợi ý thực hành Mô hình phân tích SWOT! ( Bình chọn: 3 Thảo luận: 1 Số lần đọc: 11694) www.SAGA.vn - Albert Humphrey, nhà kinh tế, thành viên Ban quản trị của cùng lúc 5 công ty đồng thời là chuyên gia cố vấn cho hơn 100 công ty tại Anh, Mỹ, Mê-hi-cô, Pháp, Thụy Sĩ, Đức, Na Uy và Đan Mạch, đã cụ thể hóa SWOT thành 6 mục hành động sau: 1. Sản phẩm (Chúng ta sẽ bán cái gì?) 2. Quá trình (Chúng ta bán bằng cách nào?) 3. Khách hàng (Chúng ta bán cho ai?) 4. Phân phối (Chúng ta tiếp cận khách hàng bằng cách nào?) 5. Tài chính (Giá, chi phí và đầu tư bằng bao nhiêu?) 6. Quản lý (Làm thế nào chúng ta quản lý được tất cả những hoạt động đó?) 6 mục trên cung cấp một cái khung để phát triển các vấn đề trong SWOT. Đây có thể coi là một “bước đột phá”, vì vậy, chắc hẳn cần phải giải thích thêm đôi chút. Các yêu cầu trong SWOT được phân loại thành 6 mục như trên sẽ giúp đánh giá các mục theo cách định lượng hơn, giúp các nhóm làm việc có trách nhiệm hơn trong bối cảnh hoạt động của doanh nghiệp hay tổ chức, từ đó dễ dàng quản lý các hành động hơn. Mục tiêu hết sức quan trọng của quá trình là đạt được cam kết giữa các nhóm tham gia – phần này được giải thích bằng mô hình TAM (Team Action Management Model – Mô hình quản lý hoạt động nhóm) của Albert Humphrey. Chừng nào còn phải xác định các hành động được cụ thể hóa từ SWOT, các nguyên nhân và mục đích phân tích SWOT, chừng đó, khả năng và
  3. quyền hạn quản lý nhân viên của bạn còn đóng vai trò quan trọng trong việc đưa đến một sự nhất trí về ý tưởng và phương hướng hoạt động. Dựa vào bối cảnh cụ thể, một mô hình phân tích SWOT có thể đưa ra một, hay một vài mục trong danh sách 6 bước hành động nói trên. Dù trong trường hợp nào đi nữa, SWOT về cơ bản cũng sẽ cho bạn biết những gì là “tốt” và “xấu” trong công việc kinh doanh hiện tại hay đối với một đề xuất mới cho tưong lai. Nếu đối tượng phân tích SWOT của bạn là công việc kinh doanh, mục tiêu phân tích là cải thiện doanh nghiệp, thì SWOT sẽ được hiểu như sau: 1. Điểm mạnh (Duy trì, xây dựng và làm đòn bẩy). 2. Cơ hội (Đánh giá một cách lạc quan). 3. Điểm yếu (Phương thuốc để sửa chữa hoặc để thoát khỏi điểm yếu). 4. Nguy cơ(Các trở ngại). Nếu phân tích SWOT được dùng để đánh giá một ý tưởng hay đề xuất, nó có thể chỉ ra rằng ý tưởng hay đề xuất đó quá yếu (đặc biệt khi so sánh với việc phân tích các đề xuất khác) và không nên đầu tư vào đó. Trong trường hợp này, không cần đưa ra các kế hoạch hành động tiếp theo. Nếu phân tích cho thấy ý tưởng hay đề xuất nào đó thực sự có khả năng thành công, bạn có thể coi đây là một công việc kinh doanh, và chuyển các mục trong SWOT thành hành động phù hợp. Trên đây là nội dung chính lý thuyết của Albert Humphrey liên quan đến việc phát triển các mục trong phân tích SWOT thành hành động nhằm mục tiêu thay đổi doanh nghiệp hoặc tổ chức. Ngoài ra, SWOT còn có một số cách áp dụng khác, tùy theo hoàn cảnh và mục đích của bạn, chẳng hạn, nếu bạn chỉ tập trung vào một bộ phận chứ không phải cả doanh nghiệp, bạn nên sắp xếp lại 6 mục nêu trên sao cho nó có thể phản ánh đầy đủ các chức năng của bộ phận, sao cho các mục trong SWOT có thể được đánh giá cụ thể nhất và được quản lý tốt nhất.
  4. Khung phân tích SWOT Mô hình phân tích SWOT được áp dụng trong việc đánh giá một đơn vị kinh doanh, một đề xuất hay một ý tưởng. Đó là cách đánh giá chủ quan các dữ liệu được tổ chức theo một trình tự lô-gíc nhằm giúp chúng ta hiểu rõ vấn đề, từ đó có thể thảo luận, ra quyết định hợp lý và chính xác nhất. Khung phân tích SWOT dưới đây sẽ giúp chúng ta suy nghĩ một cách chuyên nghiệp và đưa ra quyết định ở thế chủ động chứ không chỉ dựa vào các phản ứng bản năng hay thói quen cảm tính. Khung phân tích SWOT thường được trình bày dưới dạng lưới, bao gồm 4 phần chính thể hiện 4 nội dung chính của SWOT: điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và nguy cơ. Một số các câu hỏi mẫu và câu trả lời được điền vào các phần tương ứng trong khung. Những câu hỏi nêu dưới đây chỉ là ví dụ, người đọc có thể thay đổi cho phù hợp với từng đối tượng phân tích cụ thể. Một điều cần hết sức lưu ý, đó là đối tượng phân tích cần được xác định rõ ràng, vì SWOT chính là tổng quan của một đối tượng – có thể là một công ty, một sản phẩm, một dự án, một ý tưởng, một phương pháp hay một lựa chọn Sau đây là ví dụ về những đối tượng tiềm năng có thể được đánh giá thông qua phân tích SWOT: Một công ty (Vị thế của công ty trên thị trường, khả năng tồn tại ). Một phương pháp phân phối hoặc bán hàng. Một sản phẩm hoặc một nhãn hiệu. Một ý tưởng kinh doanh. Một sự lựa chọn chiến lược, chẳng hạn như thâm nhập thị trường mới hay tung ra sản phẩm mới. Một cơ hội thực hiện sát nhập. Một đối tác kinh doanh tiềm năng. Khả năng thay đổi nhà cung cấp. Khả năng thuê ngoài (outsource) một dịch vụ hay nguồn lực. Một cơ hội đầu tư. Cần đảm bảo miêu tả đối tượng phân tích thật rõ ràng để những người tham gia vào việc phân tích hay những người xem kết quả phân tích có thể hiểu đúng mục đích của việc đánh giá và các gợi ý của SWOT.
  5. Sau đây là khung phân tích SWOT
  6. Ví dụ về phân tích SWOT Ví dụ về phân tích SWOT dưới đây là một tình huống tưởng tượng. Kịch bản được phóng tác dựa trên thực tế hoạt động của một công ty chế tạo, cung cấp đầu vào cho các công ty khác – công ty này từ trước đến nay thường dựa vào các nhà phân phối để đưa sản phẩm tới thị trường người tiêu dùng. Vì thế, cơ hội – chính là đối tượng phân tích SWOT – với nhà sản xuất này là tạo ra một công ty mới để phân phối các sản phẩm trực tiếp tới một số mảng thị trường mà các nhà phân phối hiện tại chưa tiếp cận.
  7. Phân tích SWOT Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Bước tới: menu, tìm kiếm Sơ đồ minh hoạ của Phân tích SWOT Phân tích SWOT là một trong 5 bước hình thành chiến lược sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp; bao gồm: xác lập tôn chỉ của doanh nghiệp, phân tích SWOT, xác định mục tiêu chiến lược, hình thành các mục tiêu và kế hoạch chiến lược, xác định cơ chế kiểm soát chiến lược. SWOT là tập hợp viết tắt những chữ cái đầu tiên của các từ tiếng Anh: Strengths (Điểm mạnh), Weaknesses (Điểm yếu), Opportunities (Cơ hội) và Threats (Thách thức) - là một mô hình nổi tiếng trong phân tích kinh doanh của doanh nghiệp. Mục lục [ẩn] 1 Nguồn gốc của mô hình SWOT 2 Nội dung phân tích SWOT 3 Ý nghĩa các thành phần o 3.1 Điểm mạnh o 3.2 Điểm yếu o 3.3 Cơ hội o 3.4 Thách thức 4 Thực hiện mô hình SWOT như thế nào?
  8. [sửa] Nguồn gốc của mô hình SWOT Vào những năm 1960 đến năm 1970, Viện Nghiên cứu Standford, Menlo Park, California đã tiến hành một cuộc khảo sát tại hơn 500 công ty có doanh thu cao nhất do Tạp chí Fortune bình chọn, nhằm mục đích tìm ra nguyên nhân vì sao nhiều công ty thất bại trong việc thực hiện kế hoạch. Nhóm nghiên cứu gồm các nhà kinh tế học Marion Dosher, Ts. Otis Benepe, Albert Humphrey, Robert F. Stewart và Birger Lie đã đưa ra "Mô hình phân tích SWOT" nhằm mục đích tìm hiểu quá trình lập kế hoạch của doanh nghiệp, tìm ra giải pháp giúp các nhà lãnh đạo đồng thuận và tiếp tục thực hiện việc hoạch định, thay đổi cung cách quản lý. Công trình nghiên cứu này được thực hiện trong 9 năm, với hơn 5000 nhân viên làm việc cật lực để hoàn thành bản thu thập ý kiến gồm 250 nội dung thực hiện trên 1100 công ty, đơn vị. Kết thúc, nhóm nghiên cứu này đã tìm ra 7 vấn đề chính trong việc tổ chức, điều hành doanh nghiệp hiệu quả. Đã xác định ra "Chuỗi lôgíc", hạt nhân của hệ thống như sau: 1. Values (Giá trị); 2. Appraise (Đánh giá); 3. Motivation (Động cơ); 4. Search (Tìm kiếm); 5. Select (Lựa chọn); 6. Programme (Lập chương trình); 7. Act (Hành động); 8. Monitor and repeat steps 1, 2 and 3 (Giám sát và lặp lại các bước 1, 2 và 3). Nhóm nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Standford cho rằng, nên bắt đầu bước thứ nhất bằng cách yêu cầu đánh giá ưu điểm và nhược điểm của doanh nghiệp. Lãnh đạo doanh nghiệp nên bắt đầu hệ thống này bằng cách tự đặt câu hỏi về những điều "tốt" và "xấu" cho hiện tại và tương lai. Những điều "tốt" ở hiện tại là "Những điều hài lòng" (Satisfactory), và những điều "tốt" trong tương lai được gọi là "Cơ hội" (Opportunity); những điều "xấu" ở hiện tại là "Sai lầm" (Fault) và những điều "xấu" trong tương lai là "Nguy cơ" (Threat). Công việc này được gọi là phân tích SOFT. Năm 1964, nhóm nghiên cứu quyết định đổi chữ F thành chữ W và từ đó SOFT đã chính thức được đổi thành SWOT. [sửa] Nội dung phân tích SWOT Nội dung phân tích SWOT bao gồm 6 bước sau: 1. Sản phẩm - Bán cái gì?; 2. Quá trình - Bán bằng cách nào?; 3. Khách hàng - Bán cho ai?; 4. Phân phối - Tiếp cận khách hàng bằng cách nào?; 5. Tài chính - Giá, chi phí và đầu tư bằng bao nhiêu?; 6. Quản lý - Làm thế nào quản lý được tất cả những hoạt động đó?. [sửa] Ý nghĩa các thành phần
  9. [sửa] Điểm mạnh Điểm mạnh (duy trì, xây dựng và làm đòn bẩy), là những tố chất nổi trội xác thực và rõ ràng. Bao gồm: Trình độ chuyên môn Các kỹ năng có liên quan, kinh nghiệm công tác Có nền tảng giáo dục tốt Có mối quan hệ rộng và vững chắc Có trách nhiệm, sự tận tâm và niềm đam mê công việc Có khă năng phản ứng nhạy bén nhanh đối với công việc [sửa] Điểm yếu Điểm yếu (phương thuốc để sửa chữa hoặc để thoát khỏi điểm yếu). Bạn cũng phải nắm bắt và kiểm soát được các mặt còn hạn chế của bản thân, như: Những tính cách không phù hợp với công việc, những thói quen làm việc tiêu cực. Thiếu kinh nghiệm công tác hoặc kinh nghiệm không thích hợp. Thiếu sự đào tạo chính quy, bài bản. Hạn chế về các mối quan hệ. Thiếu sự định hướng hay chưa có mục tiêu rõ ràng. Kỹ năng nghề nghiệp chưa cao. [sửa] Cơ hội Cơ hội (đánh giá một cách lạc quan), là những sự việc bên ngoài không thể kiểm soát được, chúng có thể là những đòn bẩy tiềm năng mang lại cho bạn nhiều cơ hội thành công, bao gồm: Các xu hướng triển vọng. Nền kinh tế phát triển bùng nổ. Cơ hội nghề nghiệp mới rộng mở. Một dự án đầy hứa hẹn mà bạn được giao phó. Học hỏi được những kỹ năng hay kinh nghiệm mới. Sự xuất hiện của công nghệ mới. [sửa] Thách thức Thách thức (các trở ngại), là những yếu tố gây ra các tác động tiêu cực cho sự nghiệp của bạn, mức độ ảnh hưởng của chúng còn tùy thuộc vào những hành động ứng biến của bạn. Các thách thức hay gặp là: Sự cơ cấu và tổ chức lại ngành nghề. Những áp lực khi thị trường biến động. Một số kỹ năng của bạn trở nên lỗi thời. Bạn không sẵn sàng với phát triển của công nghệ.
  10. Sự cạnh tranh gay gắt, với công ty cũng như với cá nhân bạn. [sửa] Thực hiện mô hình SWOT như thế nào? 1. Lập một bảng gồm bốn ô, tương ứng với bốn yếu tố của mô hình SWOT. 2. Trong mỗi ô, nhìn nhận lại và viết ra các đánh giá dưới dạng gạch đầu dòng, càng rõ ràng càng tốt. 3. Thẳng thắn và không bỏ sót trong quá trình thống kê. Bạn cũng nên quan tâm đến những quan điểm của mọi người. 4. Biên tập lại. Xóa bỏ những đặc điểm trùng lặp, gạch chân những đặc điểm riêng biệt, quan trọng. 5. Phân tích ý nghĩa của chúng. 6. Vạch rõ những hành động cần làm, như củng cố các kỹ năng quan trọng, loại bỏ các mặt còn hạn chế, khai thác các cơ hội, bảo vệ bản thân khỏi các nguy cơ, rủi ro. 7. Định kỳ cập nhật biểu đồ SWOT của bạn, làm tăng thêm tính hoàn thiện và hiệu quả cho kế hoạch gây dựng sự nghiệp, chắc chắn bạn sẽ tìm ra con đường dẫn đến thành công. Các phong cách lãnh đạo Có nhiều cách tiếp cận, hay nói chính xác hơn là phong cách trong lãnh đạo và quản lý. Những phong cách này được hình thành dựa trên hệ thống những giả định và luận thuyết riêng. Mỗi người sẽ lựa chọn cho mình một phong cách lãnh đạo/quản lý riêng dựa trên kết hợp các yếu tố bao gồm niềm tin, giá trị và những tiêu chuẩn cá nhân liên quan, ở cấp độ lớn hơn đó là những yếu tố về văn hóa doanh nghiệp và các chuẩn mực chung mà trên một hệ thống tổng thể chung đó, có thể có một phong cách sẽ thích hợp, được ủng hộ nhưng phong cách khác lại không có điều kiện áp dụng. Những phong cách lãnh đạo thường được nhắc đến là: (ở đây xin giữ nguyên văn từ tiếng Anh do tiếng Việt chưa có khái niệm tương ứng) Charismatic Leadership Participative Leadership Situational Leadership Transactional Leadership Transformational Leadership Transformational Leadership The Quiet Leader
  11. Ngoài các phong cách được phân loại ở trên, nhiều nhà khoa học cũng tự nghiên cứu những phong cách lãnh đạo/quản lý riêng, chẳng hạn: Hệ thống lưới quản trị: Nghiên cứu của Blake và Mouton về sự cân đối nhiệm vụ của từng người. Phong cách lãnh đạo của Lewin: Ba phong cách cơ bản. Phong cách lãnh đạo của Likert: từ chuyên quyền đến chia sẻ và cùng tham gia. Sáu phong cách lãnh đạo cảm xúc: từ "Ngài Trí thông minh của Cảm xúc" Daniel Goleman và các bạn. Chúng tôi sẽ lần lượt giới thiệu từng phong cách lãnh đạo và những nghiên cứu liên quan đến phong cách đó. Trước tiên chúng tôi giới thiệu về Charismatic Leadership. Charismatic Leadership Các giả định Sự thu hút/uy tín cá nhân và phong cách đặc trưng của một người cao quý là những cái đủ để thu hút những người đi theo. Tự tin là yêu cầu căn bản của người lãnh đạo. Con người sẽ nghe và đi theo người mà bản thân họ khâm phục. Phong cách Người lãnh đạo Charismatic là người thu hút được những người đi theo bởi những đặc điểm, uy tín và sự thu hút của cá nhân người đó chứ không dựa vào các dạng quyền lực bên ngoài.
  12. Tập trung sự quan tâm Khi nhìn một người lãnh đạo charismatic đi trong phòng họp, gặp từ người này đến người khác ta sẽ thấy rất thú vị. Con người này khi gặp từng người để nói chuyện sẽ dành hầu hết sự quan tâm đến chính người đang nói với mình. Chính điều này làm cho người nói chuyện cùng cảm thấy mình, trong thời điểm đó, là người có vai trò quan trọng nhất thế giới. Người lãnh đạo charismatic dành rất nhiều sự quan tâm và chú ý của mình để theo dõi và "đọc" môi trường xung quanh mình. Họ có khả năng rất tốt trong việc ghi nhận được tình cảm và mối quan tâm/lo lắng của mỗi cá nhân cũng như cả đám đông. Nắm được điều đó, những người lãnh đạo này sẽ điều chỉnh hành động và ngôn ngữ cho phù hợp. Người lãnh đạo phong cách charismatic sử dụng nhiều phương thức khác nhau để điều chỉnh hình ảnh cá nhân mình. Nếu bản thân họ không có những đặc tính charismatic một cách tự nhiên, họ có thể luyện tập cần mẫn để có được những kĩ năng của một nhà lãnh đạo như thế. Họ có thể gây dựng niềm tin thông qua những ấn tượng mang lại từ sự hy sinh lợi ích bản thân và chấp nhận rủi ro cá nhân với niềm tin của mình. Những người lãnh đạo này thể hiện với người đi theo mình sự tự tin gần như tuyệt đối. Bên cạnh đó họ cũng là những người có tài trong khả năng thuyết phục, sử dụng rất hiệu quả các loại ngôn ngữ bao gồm cả ngôn từ và phi ngôn từ Trong quá trình tiếp xúc, phong thái và uy tín của người lãnh tụ là nền để người lãnh đạo đó diễn tác phẩm của mình và tạo ra ấn tượng mà họ mong muốn trong tư duy của "khán giả". Họ thường có khả năng sử dụng rất hiệu quả các kỹ năng kể chuyện, sử dụng các phương pháp hình tượng, ẩn dụ và so sánh.
  13. Nhiều chính trị gia sử dụng phong cách lãnh đạo này vì họ cần phải tạo cho mình lượng người ủng hộ lớn. Có một cách hiệu quả để tăng những phẩm chất lãnh đạo theo phong cách này của cá nhân là nghiên cứu và học tập những băng video về các bài thuyết trình, phương pháp giao tiếp, ứng xử với người khác của những người lãnh đạo nổi tiếng trong phong cách này. Những người lãnh đạo một tín ngưỡng, tôn giáo cũng là một ví dụ điển hình cho người lãnh đạo phong cách charisma. Lãnh đạo nhóm Người lãnh đạo theo phong cách charisma khi tiến hành xây dựng nhóm làm việc của mình, dù là nhóm chính trị, tôn giáo hay thuần túy kinh doanh, cũng thường có xu thế tập trung làm cho nhóm của mình rõ ràng, đặc trưng và khác biệt so với các nhóm khác. Tiếp đó những người lãnh đạo này sẽ xây dựng trong tư duy của những người đi theo mình hình tượng về một nhóm vượt trội hơn bất kỳ nhóm nào khác. Vị lãnh đạo cũng sẽ gắn chặt những đặc tính của nhóm với bản thân mình, do đó để tham gia vào nhóm này, người có nhu cầu tham gia sẽ trở thành một người đi theo người lãnh đạo đó. Các góc nhìn khác Những mô tả trên xoay quanh phân tích người có "sức hút của một lãnh đạo". Nhiều nhà nghiên cứu đã phân tích về người lãnh đạo này trên cái nhìn rộng hơn. Chẳng hạn Conger & Kanungo (1998) đã chỉ ra năm đặc điểm hành vi của một người lãnh đạo charismatic: Có tầm nhìn xa và chi tiết, rõ ràng từng bước; Nhạy cảm với điều kiện môi trường; Nhạy cảm với những nhu cầu của các thành viên; Dám nhận rủi ro cá nhân; Thực hiện những hành vi không theo thói quen cũ
  14. Musser (1987) cho rằng người lãnh đạo charismatic là người truyền đạt được đồng thuận chung, mục tiêu lý tưởng và lòng nhiệt tình cá nhân. Những động lực cơ bản cũng như những nhu cầu của chính người lãnh đạo sẽ quyết định mục tiêu chính của của nhóm. Thảo luận Người lãnh đạo theo phong cách Charismatic có một số đặc điểm giống với người lãnh đạo theo phong cách Transformational mà ta sẽ nghiên cứu trong những bài tiếp theo - một người lãnh đạo theo phong cách Transformational có thể có đủ các đặc trưng của của một lãnh đạo Charismatic. Điểm khác biệt giữa họ là người lãnh đạo theo phong cách Transformational có mối quan tâm cơ bản là việc biến đổi (transform) tổ chức của mình, và trong nhiều trường hợp là biến đổi cả chính những người đi theo mình; trong khi đó người lãnh đạo theo phong cách Charismatic lại không muốn thay đổi gì. Ngoài những mối quan tâm về uy tín, danh tiếng và những điều hiện hữu khác mà ta có thể nhận thấy bên ngoài, người lãnh đạo theo phong cách Charismatic thường quan tâm nhiều đến chính bản thân mình hơn là đến người khác. Một ví dụ diển hình cho điều này là cảm giác ở trong một bầu không khí "ấm áp và thoải mái" khi nói chuyện với họ, khi đó bạn cảm thấy họ là những người có sức thuyết phục cao. Tuy nhiên chỉ ngay sau đó, khi họ hướng sự quan tâm và đồng thời cả những cảm giác choáng ngợp đó đến người khác, bạn sẽ bắt đầu tự hỏi họ đã nói gì với mình (hay thâm chí là liệu họ có nói về cái gì đó có ý nghĩa hay không). Giá trị mà những nhà lãnh đạo theo phong cách Charismatic tạo ra có tác động rất lớn. Nếu như họ thể hiện được sự quan tâm đầy đủ với tất cả mọi người, họ có thể làm hứng khởi và thay đổi toàn bộ doanh nghiệp. Ngược lại nếu họ ích kỷ, "gian xảo" thì họ có thể mang lại những tác động tiêu cực cho doanh nghiệp (hay những người đi theo họ).
  15. Jack Welch - CEO của General Electric, người có ảnh hưởng và uy tín cá nhân lớn tới toàn bộ GE Những người này thường rất tự tin vào bản thân, do đó họ cũng dễ có cảm giác mình không bao giờ sai. Điều này có thể đưa toàn bộ những người đang đi theo họ đến "vực thẳm" ngay cả khi đã được cảnh báo trước. Ở mức độ cao hơn, sự tự tin quá mức có thể làm dẫn đến tình trạng bệnh lý tâm thần mà người ta quá tôn sùng bản thân, dẫn đến yêu cầu sự thán phục, tồn sùng từ những người đi theo mình, kết quả làm chính những người ủng hộ nghi ngờ về khả năng lãnh đạo của họ. Một đặc điểm khác là họ thường sẽ không khoan dung với những người cạnh tranh với mình và chính đặc điểm không thể thay thế này làm cho không có người kế tục họ khi họ ra đi. Kỳ sau: Lãnh đạo theo phong cách Participative < Tài liệu giảng dạy của InvestVietnam và Sag Participative Leadership (Phong cách lãnh đạo hợp tác) Các giả định Việc cùng tham gia vào quá trình ra quyết định giúp cho những người sẽ phải đưa ra quyết định nắm bắt tốt hơn vấn đề cần giải quyết. Con người thường sẽ tích cực tham gia vào những việc mà trước đó bản hân họ có tham gia, ở mức độ nhất định, vào quá trình ra quyết định. Con người sẽ ít tranh đua và hỗ trợ nhau tốt hơn nếu họ cùng làm vì mục đích chung.
  16. Khi nhiều người cùng nhau ra quyết định, sự cam kết của mỗi người vào người khác sẽ cao hơn và do đó cam kết chung vào công việc sẽ cao hơn. Một quyết định do nhiều người cùng đưa ra sẽ tốt hơn do một người thực hiện. Phong cách Người lãnh đạo theo phong cách Participative thường không chuyên quyền tự mình ra quyết định. Trái lại, con người này thường có xu hướng đưa thêm người khác vào quá trình ra quyết định, bao gồm cả người dưới quyền, đồng nghiệp, những người giỏi hơn và những người có liên quan khác. Tuy nhiên, do việc trao truyền hoặc từ chối cho một người cấp dưới tham gia vào quá trình ra quyết định thường là ý định "chợt nảy ra" của người quản lý nên hầu hết các hoạt động tham gia ra quyết định kể trên thường được thực hiện với một nhóm mang tính tức thời. Câu hỏi về khả năng tham gia và tác động đến quyết định mà mỗi người trong nhóm này được cho phép hoàn toàn tùy thuộc vào các cơ sở tham chiếu và niềm tin của người quản lý, sẽ có nhiều mức độ tham gia khác nhau, mô tả như trong bảng dưới ← Không có tham gia Mức độ tham gia cao→ Quyết định Người lãnh Cả nhóm đề Người lãnh Người lãnh hoàn toàn đạo đề xuất xuất đạo hợp tác đạo giao do người phương án, phương án, công bằng toàn bộ lãnh đạo lắng nghe người lãnh với các trách nhiệm đưa ra phản hồi để đạo đưa ra thành viên ra quyết có quyết quyết định khác cùng định cho định cuối cuối cùng ra quyết nhóm cùng định
  17. Ngoài năm khoảng cơ bản này, có rất nhiều mức độ biến thể khác, chẳng hạn mức độ khi người lãnh đạo truyền đạt lại ý tưởng và yêu cầu với nhóm sẽ tham gia làm. Một dạng khác cũng được áp dụng trong phong cách lãnh đạo này là người lãnh đạo sẽ mô tả mục tiêu/đối tượng của công việc là gì và để cả nhóm cũng như mỗi cá nhân quyết định làm như thế nào và cách thức tiến hành triển khai phù hợp - phương pháp này còn được gọi là "Quản trị theo Mục tiêu". Mức độ tham gia của nhóm vào công việc còn phụ thuộc vào loại quyết định cần được đưa ra. Những quyết định về cách thức để đạt mục tiêu có thể cần nhiều đến quá trình hợp tác, thảo luận ra quyết định, trong khi quyết định về những việc liên quan đến đánh giá công việc của người cấp dưới thường phải do chính người lãnh đạo thực hiện. Thảo luận Ngoài những lợi ích mô tả ở phần giả định, việc lãnh đạo theo xu hướng để mọi người cùng tham gia còn mang lại nhiều lợi ích khác. Cách tiếp cận theo phương thức này trong phong cách lãnh đạo còn được gọi là phương thức cố vấn (consultation), trao quyền (Empowerment), hợp tác ra quyết định (Joint decision-making), Quản trị theo mục tiêu (Management by Objective - MBO) và chia sẻ quyền lực (power-sharing). Ở mặt tiêu cực, phương pháp này thâm chí có thể làm cho người ta cảm thấy có mày sắc giả tạo nếu người lãnh đạo có hỏi ý kiến của các thành viên nhóm nhưng sau đó bỏ qua và không sử dụng. Điều này có thể tạo ra những ấn tượng và cảm giác không tốt trong người lao động. < Tài liệu giảng dạy của InvestVietnam và Saga
  18. Các phong cách lãnh đạo - Trường phái Chuyển giao Bài này thuộc sự kiện/chuyên đề: Các phong cách lãnh đạo trong doanh nghiệp ( Bình chọn: 3 Thảo luận: 2 Số lần đọc: 16631) Trường phái lãnh đạo Chuyển giao được xây dựng dựa trên bốn giả định cơ bản: Động lực của con người là thưởng và phạt. Hệ thống quan hệ xã hội làm việc hiệu quả nhất khi các mệnh lệnh được đưa ra thành chuỗi rõ ràng. Khi một người chấp nhận một công việc thì cũng có nghĩa là họ chấp nhận trao quyền điều khiển hoàn toàn cho người quản lý. Công việc chính của những người cấp dưới là làm theo những gì người quản lý của họ yêu cầu Cách thức làm việc của người lãnh đạo phong cách Chuyển giao là họ xây dựng lên một khung rõ ràng những việc mà người cấp dưới được yêu cầu phải thực thi và những phần thưởng tương ứng khi làm tốt công việc đó. Những hình phạt thường không được mô tả chi tiết nhưng những người tham gia trong hệ thống lãnh đạo này đều hiểu rất rõ và chấp nhận sự tồn tại của một hệ thống các hình phạt quy chuẩn. Hình thái đầu tiên của dạng thức lãnh đạo chuyển giao thể hiện qua thương lượng hợp đồng lao động trong đó người cấp dưới sẽ nhận được lương và các lợi ích khác, và công ty (cụ thể là người quản lý của người cấp dưới) có quyền chỉ huy với người đó. Khi người lãnh đạo trường phái chuyển giao phân công việc cho cấp dưới của mình, họ sẽ coi như người được giao sẽ chịu trách nhiệm hoàn toàn với công việc và không quan tâm người được giao có đủ các nguồn lực và năng lực cần thiết để triển khai công việc đó hay không. Khi có sai sót xảy ra, người cấp dưới sẽ phải chịu trách nhiệm cá nhân với toàn bộ sai sót và chịu hình phạt tương ứng - giống như cách họ được thưởng khi làm tốt.
  19. Áp dụng trong thực tế Mặc dù có nhiều nghiên cứu đã khẳng định phương pháp lãnh đạo này có nhiều hạn chế, thực tế vẫn cho thấy đây là phương pháp được những nhà quản lý sử dụng nhiều nhất. Nhìn trên góc độ so sánh Lãnh đạo - Quản lý thì phương pháp này nghiêng nhiều về phía quản lý hơn. Giới hạn cơ bản của phương thức lãnh đạo này là giả định "con người hợp lý" - giả định về người có thể được khuyến khích chủ yếu bằng tiền và các hình thức thưởng cơ bản, từ đó hành động của người đó cũng có thể dự đoán được. Cơ sở tâm lý được sử dụng ở đây là hệ thống Lý thuyết hành vi, bao gồm cả Thuyết Điều kiện Cổ điển của Pavlov và Thuyết Điều kiện Hiệu lực của Skinner. Những học thuyết này dựa rất nhiều trên những thí nghiệm thực tế điều khiển (thường với động vật) và bỏ qua các yếu tố cảm xúc phức tạp và các giá trị xã hội. Trên thực tế, các nghiên cứu cho thấy có đầy đủ các cơ sở tin cậy cho sự tồn tại của hướng tiếp cận theo trường phái Chuyển giao dựa trên Lý thuyết hành vi. Điều này càng được khẳng định bởi dạng thức cung- và-cầu của hầu hết người lao động, và tác động của hiệu ứng nhu cầu tăng dần trong lý thuyết bậc thang của Maslow. Tuy nhiên khi nhu cầu về lao động vượt quá lượng cung thì trường phái lãnh đạo Chuyển giao thường không còn thích hợp và cần đến những phương thức lãnh đạo khác hiệu quả hơn. Tương ứng với trường phái lãnh đạo này, các nhà nghiên cứu tâm lý nhận thấy sự hình thành một mối quan hệ đặc biệt, được chuyển thành lý thuyết với tên gọi "Lý thuyết Trao đổi Lãnh đạo-Thành viên" Lý thuyết Trao đổi Lãnh đạo-Thành viên (LMX - Leader-Member Exchange Theory, còn có tên là Vertical Dyad Linkage Theory - Lý thuyết Liên hệ Sóng đôi Chiều dọc) mô tả cách thức người lãnh đạo trong nhóm duy trì vị trí của mình bằng các thỏa thuận trao đổi ngầm với các thành viên trong nhóm. Thành viên "trong nhóm" và "ngoài nhóm" Một đặc trưng chung của những người lãnh đạo theo trường phái trao đổi là họ thường xây dựng một mạng lưới các mối quan hệ đặc biệt với một nhóm nội bộ (inner cycle) bên trong chính nhóm mình lãnh đạo, nhóm nội
  20. bộ thường bao gồm những người trợ lý hoặc cố vấn của họ. Với những người này họ trao cho nhiều trách nhiệm, quyền ảnh hưởng trong các quyết định và khả năng sử dụng những nguồn lực nhất định. Ngược lại những người này được chờ đợi sẽ cam kết trung thành tuyệt đối với người lãnh đạo của mình. Cách thức này rõ ràng sẽ tạo ra nhiều khó khăn cho công việc của người lãnh đạo. Họ phải khuyến khích, nuôi dưỡng mối liên hệ bên trong này đồng thời vẫn phải cân bằng để không trao quá nhiều quyền cho những người "bên trong" của mình để họ có thể vượt quá vị trí giới hạn của họ. Quá trình LMX Những mối quan hệ mô tả ở trên sẽ được hình thành rất nhanh theo ba bước ngay khi một người tham gia vào nhóm "bên trong" của người lãnh đạo. 1. Nhận vai trò Thành viên gia nhập nhóm và người lãnh đạo sẽ đánh giá năng lực của thành viên mới. Trên cơ sở này, người lãnh đạo sẽ đề xuất dành cho họ những cơ hội để chứng tỏ năng lực. Một yếu tố khác cũng rất quan trọng trong bước này là quá trình mà mỗi bên sẽ tìm hiểu cách mà bên còn lại muốn được người khác đối xử. 2. Thiết lập vai trò Trong bước thứ hai, người lãnh đạo và thành viên nhóm do mình lãnh đạo sẽ tham gia vào một quá trình đàm phán không chính thức và cũng không có cơ cấu cụ thể, trong đó họ xác định lên một vai trò cho người thành viên và những lời hứa/cam kết ngầm về lợi ích và quyền lực để đánh đổi cho dự tận câm và lòng trung thành. Xây dựng niềm tin là một công đoạn rất quan trọng trong bước này, mọi biểu hiện gây cảm giác không hết mình, phản bội,đặc biệt là cảm giác của chính người lãnh đạo, sẽ làm cho thành viên bị lọai ra và xếp vào loại "ngoài nhóm". Quá trình thương lượng nói trên bao gồm cả những yếu tố quan hệ và những yếu tố thuần túy trên góc độ công việc, và thông thường thì thành viên nào có nhiều điểm tương đồng với với người lãnh đạo sẽ có nhiều cơ hội thành công hơn. Điều này có thể giải thích tại sao những mối quan hệ khác giới thường ít thành công hơn những mối quan hệ đồng giới (một
  21. phần do những khó khăn có thể phát sinh trong quá trình tìm kiếm sự tôn trọng lẫn nhau ở bước một. Những ảnh hưởng tương tự cũng xuất hiện khi có sự khác biệt về văn hóa, sắc tộc. 3. Hình thành thói quen Trong bước này, dạng thức trao đổi liên tục trên góc độ quan hệ xã hội dần hình thành giữa người lãnh đạo và thành viên được thiết lập Nhân tố thành công Như đã giải thích, những thành viên thành công qua ba bước trên thường là những người có nhiều điểm tương đồng với người lãnh đạo (điều này cũng có thể giải thích một phần vì sao ở các công ty nước ngoài hầu hết người lãnh đạo cấp cao đều là nam giới, da trăng, thuộc tầng lớp trung lưu và ở độ tuổi trung tầm). Họ làm việc chăm chỉ và luôn cố gắng duy trì niềm tin và sự kính trọng. Để có thể thực hiện tốt những điều này, họ thường phải nhạy cảm, kiên nhẫn, hợp lý trong tư duy, có khả năng đồng cảm, và giỏi nắm bắt cách nhìn nhận của người khác (đặc biệt là người lãnh đạo). Hiếu chiến, thích chế nhạo và ích kỷ là những biểu hiện dễ dẫn đến bị loại ra nhất. Mức độ gắn kết trong các mối quan hệ LMX biến đổi theo một số yếu tố. Kỳ lạ là mối quan hệ này thường tốt hơn khi mức độ thách thức của công việc hoặc quá thấp hoặc quá cao. Quy mô của nhóm nội bộ này, nguồn lực tài chính sẵn có và khối lượng công việc chung cũng là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến mức độ gắn kết. Hướng về phía trước và Hướng lên trên Nguyên lý đang bàn đến ở trên cũng có tính tăng bậc. Người lãnh đạo của nhóm cũng có thể tìm kiếm quyền lực bổ sung của mình thông qua việc tham gia vào một "nhóm bên trong" của các nhà lãnh đạo và từ đó có thể chia sẻ xuống nhóm "bên trong" ở nhóm quản lý của mình.
  22. Những lý thuyết này có ý nghĩa gì? Áp dụng Khi gia nhập một nhóm làm việc, ta cần nỗ lực để tham gia vào được "nhóm bên trong" của nó. Cố gắng làm nhiều hơn mức độ công việc được giao, thể hiện sự trung thành của mình và quan sát cách thức nhìn nhận và đánh giá của người lãnh đạo. Tỏ ra hợp lý, có tinh thần đóng góp trong quá trình thương lượng và nắm lấy cơ hội một cách thận trọng. Nếu bạn là một người lãnh đạo, hãy lựa chọn người vào nhóm nội bộ của mình một cách cẩn trọng. Dành cho họ những phần thưởng xứng đáng cho sự chăm chỉ và lòng trung thành, đồng thời cẩn thận trong việc duy trì tinh thần cam kết làm việc của những người khác. Tự vệ Nếu bạn chỉ muốn là một thành viên bình thường trong nhóm làm việc, hãy cẩn trọng khi thực hiện công việc của mình. Trong nhóm sẽ có những người có nhiều quyền lực hơn bạn. Nếu bạn là người lãnh đạo và muốn duy trì vai trò công bằng cho mọi thành viên thì cần lưu ý trước những người có thói quen xu nịnh. Các bài cùng chủ đề: Phong cách lãnh đạo hợp tác Phong cách lãnh đạo thủ lĩnh tinh thần Tài liệu giảng dạy Investvietnam và www.saga.vn Điệu hổ ly sơn Bài này thuộc sự kiện/chuyên đề: Chùm bài viết của DNSGCT ( Bình chọn: 12 Thảo luận: 9 Số lần đọc: 4568) (12/06/2008) - Người xưa thường ví mãnh tướng như hổ. Trong quản trị nhân sự ngày nay, có thể nói, nhân tài cũng như mãnh tướng mà
  23. nhà quản lý cần phải thuần phục. “Điệu hổ ly sơn” - dụ cọp ra khỏi núi - là kế thứ hai trong 36 kế của Tôn Tử. Quản lý mới được bổ nhiệm, chưa đủ uy sẽ khó thuần phục được nhân viên cũ, nhất là trong trường hợp người cũ đã thạo việc và làm lâu năm, có sẵn uy tín với các nhân viên khác. “Ma cũ bắt nạt ma mới”, kể cả khi “ma mới” là sếp, là chuyện thường xảy ra ở các công ty. Với những môi trường làm việc càng tốt thì hình thức bắt nạt càng tinh vi, chẳng hạn: nhân viên không hỗ trợ tốt cho sếp, làm việc kém nhiệt tình hoặc lẳng lặng phớt lờ chỉ thị của cấp trên, hay thậm chí nói xấu sau lưng sếp Thái độ chống đối của nhân viên không có nghĩa là ganh tỵ hoặc muốn “lật đổ” cấp trên mà là chưa thực sự nể phục cấp trên, vô tình làm giảm đi hiệu quả hợp tác làm việc giữa hai phía. Vấn đề đặt ra cho nhà quản lý là làm sao để “dụ” được cấp dưới? Có câu “cọp xuống đồng bằng bị chó khi”, “điệu hổ ly sơn” là kế xử lý đối phương bằng cách khiến đối phương ra khỏi khu vực quen thuộc. Khu vực quen thuộc không chỉ là cứ địa, địa điểm cư trú mà còn là lĩnh vực sở trường hay công cụ sở trường. Ra khỏi phạm vi sở trường, “cọp” trở nên thiếu tự tin. Điều này giống như một người cận thị nếu thiếu mắt kính sẽ rất bối rối. Đối với một nhà quản lý, nếu khéo léo tạo ra tình huống đưa được nhân viên ra khỏi lĩnh vực của họ và thể hiện để cho họ nể phục thì sẽ “an toàn” hơn là thể hiện mình trên “đất” của họ. Ví dụ, một chuyên viên tuy giỏi về chuyên môn chưa chắc giỏi về các kỹ năng thu xếp công việc, xử lý tình huống bất ngờ Do đó, nếu có một biến cố nào đột ngột xuất hiện trong công việc thì ứng xử linh hoạt của cấp trên sẽ đem lại bài học trực quan sinh động cho nhân viên. Ví dụ, một nhân viên giỏi nghiệp vụ nhưng gặp khó khăn trong cách thức soạn thảo các văn bản theo chuẩn chung thì bạn có thể tạo tình huống để nhân viên đảm nhiệm công việc này rồi ra tay hỗ trợ. Quan trọng nhất là tránh để nhân viên nghĩ rằng bạn đang làm khó cho họ mà dẫn đến phản cảm. Điều này khiến họ thán phục tài năng của sếp và từ đó họ dễ có khả năng suy luận rộng ra rằng: “Sếp mình rất giỏi và hoàn toàn xứng đáng làm quản lý của mình”. Một “chiêu” khác là dùng tình cảm để thu phục nhân tâm. Khi nhà quản lý quan tâm, hỏi han và nhất
  24. là chăm sóc tận tình nhân viên cấp dưới dù cùng bộ phận hoặc khác bộ phận đều dễ dàng khiến những người khác quý mến. Một số phương pháp để “điệu hổ” là: 1. Tạo tình huống hư thực để làm đối phương rối trí, phán đoán sai và tự họ ra khỏi “lãnh địa” của họ. 2. Dùng mưu trí kích thích đối phương, để đối phương mất đi lý trí, hành động thiếu suy nghĩ chín chắn. 3. Tạo ra điều bất lợi cho đối phương khiến đối phương phải rời khỏi khu vực của mình. Những cách này chỉ dùng để xét đoán tính cách và mức độ làm chủ mình của nhân viên hoặc người khác trong kinh doanh. Nhà quản lý khôn ngoan cũng không nên tạo ra tình huống bất lợi quá mức cho nhân viên nếu không thực sự cần thiết, vì điều này sẽ ảnh hưởng đến công việc chung. Chỉ cần nhân lúc nhân viên gặp khó khăn để ra tay hỗ trợ là được. Sau khi dùng “điệu hổ ly sơn”, lưu ý rằng không thể không làm tiếp kế “mãnh hổ nhập sơn” (cọp dữ vào núi), vì mục tiêu cao nhất của nghệ thuật quản trị vẫn là để nhân viên phát triển, sau khi khiến cho nhân viên nể phục mình. Kế này được cho rằng của Quỷ Cốc Tử, hàm ý tự mình tìm ra thế mạnh của mình để phát huy, còn trong quản trị nhân sự thì tạo điều kiện để nhân viên phát huy sở trường của mình mà làm việc tốt hơn. Có một ví dụ thú vị, trong bài “Thái Cực Chưởng”, chiêu “dẫn long nhập hải” (tạm dịch: dẫn rồng về biển) tiếp sau chiêu “thôi sơn đảo trụ” (tạm dịch: đánh vào núi để thay đổi cục diện), tình cờ trùng với chủ ý bài viết, sau “đấm” thì phải “xoa” vậy. Yển Nguyệt Trang Nhân sự, Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần số 252 ra ngày 06/06/2008 Bài www.saga.vn - DNSGCT hợp tác phát hành Ông lão đánh cá và con cá mập ( Bình chọn: 3 Thảo luận: 0 Số lần đọc: 2076)
  25. www.SAGA.vn - Ông lão, như ta đã biết, có một bà vợ! Vợ ông lão là bà lão. Bà lão nhìn ngay ra vấn đề. Với một món hời như thế thì dăm mười điều ước vẫn là quá ít, bà muốn nhiều, nhiều nữa! Cao điểm, bà ta đòi trở thành vua của biển cả để điều khiển cả cá vàng Và ông lão lại đi ra biển. Cá vàng mặt mũi vô cùng khó coi, như thể sắp bị đem ra làm shushi. Trời đen kịt. Bão tố nổi lên. Tsunami tràn vào cuốn hết đi mọi thứ. Cuối cùng trên bãi cát còn trơ lại ông lão. Buồn bã, ông lão đợi rất lâu, rồi thất thểu về nhà. Và ngạc nhiên, ông lại thấy bà già. Đang lặng lẽ ngồi trong căn nhà đất. Với chiếc máng lợn ăn mòn trước mặt Nhưng câu chuyện chưa kết thúc ở đây! Từ đấy ông được một thời gian dài yên thân. Ngày nọ, lão đánh cá đang nằm nghỉ trên ghế bố trước nhà, thanh thản với sự ấm áp của những tia nắng chiều muộn. Cùng lúc đó, có một nhà tư vấn chứng khoán đi ngang qua. Anh ta chú ý đến ông lão đang nhàn hạ và quyết định phải kiếm thêm một khách hàng tiềm năng. "Cứ như vậy thì ông sẽ không bao giờ giàu được đâu", nhà tư vấn lên tiếng, "Ông nên làm một việc gì đó hơn là chỉ nằm nghỉ ngơi". Ông lão đánh cá nhìn nhà tư vấn một lúc, mỉm cười rồi nói: "Tôi đã từng khổ vì mơ ước những cái không phải của mình rồi". Nhà tư vấn trả lời: "Ồ, thế ông đã thử trở thành nhà đầu tư chứng khoán chưa, vừa nhàn hạ vừa kiếm tiền dễ hơn nghề chài lưới". Vẫn nở một nụ cười, ông lão lại hỏi tiếp: "Và sau đó tôi sẽ được gì nữa?". "Rồi ông sẽ kiếm được nhiều tiền hơn, hơn nữa". Một cách điềm tĩnh, ông lão lại hỏi: "Thế rồi sao? Tôi lại có gì nữa nào?" Nhà tư vấn nọ chán nản liền quay sang bà lão đang ngỏng cổ lên hóng hớt và thuyết phục Từ đó, đó bà lão bỏ nghề dệt vải và chăn lợn để bước chân vào nghề đánh chứng Ông lão vẫn trung thành với nghề chài lưới. Một hôm ông ra biển bắt được một con cá mập. "Vận may đã đến", ông lão thầm nghĩ. Với con cá này, ông sẽ bán cho nhà hàng hải sản, có thể mang về một món tiền lớn, cho vợ hết coi thường mình. Bỗng nhiên con cá mập thốt lên: Ối, ông lão ơi, ông đừng bán tôi cho nhà hàng mà tội ngiệp, tôi không phải là một con cá mập bình thường, tôi là cá mập chứng khoán, có thể cho ông điều ước mà ông hằng mong đợi. Đã từng nếm bài học cá vàng dạo trước, nên lão gỡ lưới đuổi con cá mập
  26. ra biển rồi lẳng lặng về nhà. Nhưng vốn bản tính thật thà, buổi tối lại có chút men cay, ông thuật lại chuyện cho vợ nghe, bà vợ tính cũ nổi lên liền mắng: Ông ngu quá! Không thấy tôi đang đầu tư chứng khoán à? Tôi muốn cổ phiếu trong danh mục ngày nào cũng trần căng. Tại sao ông không xin cho tôi? Ông lão liền lủi thủi ra biển gặp con cá và thuật lại câu chuyện. Con cá nói: "Chuyện đó thì có khó gì, ông cứ về nhà đi, ước nguyện sẽ thành hiện thực". Mấy hôm sau, bà vợ đang ngồi hoa chân mua tay "nổ" với mấy bà hàng xóm về tài chơi chứng, thấy ông lão vừa bước vào nhà, lại mắng sa sả: Ông già, giờ tôi có thắng thua cỡ nào thì vẫn là nhà đầu tư cỏ. Ông mau ra bảo nó, tôi ước có một ông em nuôi tốt bụng là chủ tịch một DN niêm yết Ông lão chiều vợ liền ra gặp cá mập và kể lại như vậy. Cá buồn bã nói: Được, ông về đi, vợ ông sẽ được toại nguyện. Nhưng hãy nhớ lấy: lòng tham vô hạn sẽ bị trừng phạt! Sáng hôm sau có tiếng gõ cửa cộc cộc. Một chú Maybach 62S trờ tới và người đàn ông bệ vệ bước vào nhà. "Chào chị nuôi, còn nhớ thằng em hay ăn chịu ngày chị bán cơm ở gần trường đại học không? Ghi nhớ công ơn chị một miếng khi đói, em tặng chị 5.000 cổ phiếu (chị cứ ghi cả 5 triệu cổ cho chẵn). Tháng sau em ra tin bán dự án, chị đẩy hết ra rồi trả lại hơn bốn triệu cổ bằng tiền cho em Bà già điên lắm, nghĩ tay em nuôi này lập lờ lợi dụng mình lừa thị trường. Hắn tưởng cao mưu mà hơn trí đàn bà à? Mình có cá mập thần chứ thua ai. Buổi chiều, ông lão vác lưới về thì bà vợ lại quát tháo: Tôi chán cái việc làm chị nuôi, em nuôi rồi, tôi thích tự mình đứng ra làm chủ công ty bán giấy lấy tiền cơ, ông hãy ra bảo con cá cho tôi ngay cái chức chủ tịch HĐQT, mà ở DN nào có truyền thống pha loãng ấy nhé. Ông lão buồn rầu bước ra biển, sóng lớn dồn dập, cá mập hiện lên. Ông lão liền kể những lời vợ nói, con cá giận giữ nhưng cũng đáp ứng điều kiện của ông. Tưởng rằng lần này vợ sẽ mãn nguyện, nhưng khi ông vừa về đến nhà, mụ đã quát lên: "Thị trường không hiểu đầu cua tai nheo gì mà lừ đừ như cá mắc cạn, chủ tịch HĐQT công ty pha loãng mà không bán được cổ phiếu thì tôi về chăn lợn còn hơn. Ông ra bảo ngay con cá ấy cho VN-
  27. Index lên thêm vài trăm điểm cho tôi". Thấy ông lão ngần ngừ, bà vợ quát: có đi ngay không tôi cho bảo vệ áp tải đi bây giờ. Ông lão vô cùng buồn bã vì lòng tham của bà vợ. Ông ra biển gọi cá mập. Biển lúc ấy bão dông đang ập đến. Sóng dâng to như dãy núi bạc đầu điên cuồng gào thét. Cá mập ơi, có cách gì để giúp VN-Index lên không? Ông ơi, cái này tôi bó vây! Chứng khoán cũng như tình yêu, để nó đói thì nó sống khỏe, cho nó ăn no, nó lử đử ngay. Ông về bảo với vợ, cứ bán giấy lấy tiền vô tội vạ, dân tình bội thực hết rồi! "Cá mập ơi, tình yêu với bà lão nhà tôi chết từ cái ngày bà ấy bỏ tôi lên sàn rồi Cá mập cố giúp tôi lần cuối, không về bà ấy giết tôi chết". Bỗng ùm một tiếng, cá mập quẫy mạnh đuôi lặn mất hút. Giữa tiếng sóng vỗ gầm gào, ông lão còn nghe văng vẳng giọng nói từ đáy biển sâu: "Chứng khoán chứ có phải bò sữa đâu mà các vị vắt ghê thế "! Buồn bã hồi lâu, ông lão thất thểu đi về. Trong tâm trí lại hiện lên hình ảnh cái máng lợn cũ đầu năm 2010. www.SAGA.vn - lazyfatcat | Nguồn Vinacorp Thứ 6 ngày 13 ( Bình chọn: 7 Thảo luận: 17 Số lần đọc: 30761) (Saga.vn Đăng lần đầu: Thứ 6, ngày 13, tháng 4/2007; Đăng lại lần 2: Thứ 6, ngày 13, tháng 2/2009) Giống như nhiều niềm tin của con người, nỗi sợ hãi Thứ sáu ngày 13 (còn được biết đến với tên paraskevidekatriaphobia) không căn cứ vào logic khoa học. Nhưng điều đáng ngạc nhiên là hầu hết những người tin rằng Thứ 6 ngày 13 là ngày đen đủi không đưa ra lí do để lý giải cho sự sợ hãi của mình. Nó giống như mê tín dị đoan, những người sợ Thứ 6 ngày 13 cảm thấy sợ chỉ đơn giản là sợ, không bởi vì một lí do cụ thể nào cả. Tuy nhiên, sự mê tín này có nguồn gốc khá sâu xa và thuyết phục, và căn nguyên của nó giải thích tại sao niềm tin này ngày nay lại phổ biến như vậy. Hãy xét những câu chuyện đằng sau ngày đen đủi nhất trong năm này.
  28. Nỗi sợ Thứ 6 ngày 13 bắt nguồn từ hai sự sợ hãi - sợ con số 13 và sợ ngày Thứ 6. Cả hai nỗi sợ bắt nguồn từ Phương tây, đáng chú ý nhất là trong hệ thống tín ngưỡng Thiên Chúa Giáo. Số 13 là con số rất có ý nghĩa đối với người theo đạo Thiên chúa bởi vì nó là số người có mặt trong Bữa Ăn Tối Cuối Cùng (Jesus và 12 Tông đồ). Judas, Tông đồ đã phản bội Jesus là thành viên thứ 13 đến dự bữa Tiệc. Người theo đạo Thiên Chúa vốn truyền thống rất cảnh giác với ngày Thứ 6 bởi vì đó là ngày Jesus bị đóng đinh trên cây Thánh giá. Thêm vào đó, một số các nhà Thần học còn tin rằng Adam và Eve đã ăn trái cấm vào ngày Thứ 6, và rằng trận Đại hồng thủy bắt đầu vào ngày Thứ 6. Trong quá khứ, rất nhiều người Thiên chúa giáo không bao giờ bắt đầu những dự án mới hoặc những chuyến đi vào ngày Thứ 6, sợ rằng họ sẽ bị phá sản ngay từ đầu. The Last Supper - Leonardo da Vinci Thủy thủ là những người cực kì mê tín trong vấn đề này, họ thường không ra khơi vào ngày Thứ 6. Theo một số các truyền thuyết hư cấu, Hải quân Hoàng gia Anh đã đưa một chiếc thuyền (có tên H.M.S Thứ 6) vào hoạt động vào năm những năm 1800 để chấn an sự sợ hãi. Hải quân đã chọn ra khơi vào ngày Thứ 6, khai trương chiếc thuyền vào ngày Thứ 6, và thậm chí chọn cả vị thuyền trưởng tên là Jame's Friday để điều hành con tầu. Sau đó, vào một sáng Thứ 6, con tầu khởi hành chuyến đi đầu tiên của nó và mất tích mãi mãi. Một câu chuyện tương tự, hoàn toàn là có thật là chuyến bay đau lòng của con tầu Appolo 13.
  29. Một số nhà sử học còn ám chỉ rằng việc một số người Thiên chúa không tin vào Thứ 6 có liên quan đến sự đàn áp Nhà thờ Thiên chúa của những kẻ ngoại đạo và phụ nữ. Theo lịch La Mã, Thứ 6 được hiến dâng cho thần Vệ Nữ, nữ thần tình yêu. Khi người Nauy lựa chọn lịch, họ đặt tên ngày thứ 6 theo tên Frigg hay Freya, Nữ thần liên quan đến tình yêu và tình dục. Tất cả những đặc điểm nữ tính mạnh mẽ này đã từng gây ra sự đe doạ đối với Đạo Cơ Đốc nơi mà nam chiếm ưu thế, vì vậy Nhà thờ Thiên chúa đã bêu xấu ngày được đặt tên theo họ. Sự miêu tả này có thể chiếm một phần trong nỗi sợ số 13. Người ta nói rằng Frigg thường tham gia tổ chức của Hội Phù thuỷ, thông thường là một nhóm có 12 phù thuỷ, như vậy cả Frigg là 13. Quan niệm này có lẽ xuất phát cả từ chính bản thân Nhà thờ Thiên chúa. Chúng ta không thể tìm ra được nguồn gốc chính xác của các câu chuyện truyền miệng. Một truyền thuyết Thiên chúa cũng tin rằng số 13 là con số tội lỗi bởi vì nó biểu thị một tập hợp gồm 12 mụ phù thuỷ và 1 con quỷ. Những quan niệm khác Một số các bằng chứng về con số 13 liên hệ với văn hoá cổ Bắc Âu. Trong thần thoại Bắc âu, người anh hùng Balder đã bị chúa Loki giết trong bữa đại tiệc, người đã lẻn vào bữa tiệc có 12 người, làm con số tăng lên 13. Câu chuyện này, cùng với Bữa Ăn Tối Cuối Cùng, dẫn đến một niềm tin vào con số 13 đen đủi: Bạn không bao giờ nên gồi vào bữa ăn có 13 người. Một truyền thuyết khác là câu chuyện về Thứ 6 ngày 13 tồi tệ xảy ra vào thời Trung Cổ. Vào Thứ 6 ngày 13 năm 1306, Vua King của Pháp đã tống giam những Hiệp sỹ được tôn kính Templar và tra tấn họ, đánh dấu cho ngày của Quỷ dữ. Cả thứ 6 và ngày 13 đều đã từng liên hệ chặt chẽ đến những hình phạt về sinh mạng. Theo tục lệ cũ của Anh, Thứ 6 là ngày theo tập quán để thi hành hình phạt treo cổ, và người ta đã từng nói rằng người bị án treo cổ phải bước 13 bước để đến bên dây thòng lọng. Rút cục, những câu chuyện dân gian rắc rối về ngày 13 cũng không có liên hệ gì lắm đến nỗi sợ hãi của con người ngày nay. Nỗi sợ liên quan nhiều hơn đến những kinh nghiệm cá nhân. Người ta học được từ thuở bé rằng Thứ 6 ngày 13 là ngày đen đủi, vì bất kì lí do gì, và tìm kiếm lí do để giải thích rằng những câu chuyện là đúng. Lí do đưa ra tất nhiên là không
  30. thuyết phục. Nếu bạn bị đụng xe vào thứ 6 ngày 13, mất ví, hoặc làm đổ cafe, có lẽ bạn sẽ có ác cảm về ngày đó. Nhưng nếu bạn nghĩ về nó, những việc không may, dù lớn hay nhỏ, luôn xảy ra trong cuộc sống. Nếu bạn cố tìm ra những điều xui xẻo vào Thứ 6 ngày 13 chắc bạn sẽ tìm ra một vài trường hợp. (theo howstuffworks.com) Một số các lập luận khoa học khác Giải thích cho hiện tượng này, một số chuyên gia nghiên cứu các hiện tượng dị thường cho biết, con người luôn có cảm giác hoảng sợ đối với một số ngày nhất định. Theo họ, lịch phản ánh dòng chảy của thời gian và chứa đựng thông tin về chu trình của cường độ năng lượng vũ trụ vốn có mối quan hệ chặt chẽ với trái đất. Mỗi nền văn minh đều có thể tạo ra lịch của riêng mình sau khi đạt đến một trình độ phát triển nhất định. Trải qua nhiều thế kỷ, con người đã học được kinh nghiệm phải đặc biệt thận trọng trong thời điểm năng lượng vũ trụ đạt được cường độ cao nhất. Theo quy luật, chúng mang tới năng lượng âm và thường gây ra tai nạn máy bay, chết chóc, tình trạng rối loạn v.v (theo thanhnien.com) Bổ sung một số thông tin thú vị xung quanh thứ 6 ngày 13 trên VNexpress (13/2/2009, thứ Sáu): Vì sao người ta 'ngại' thứ sáu ngày 13? Hải quân Anh từng đóng một con tàu mang tên Thứ sáu ngày 13 và nó mất tích ngay sau lần ra khơi đầu tiên. Nếu bạn e ngại thứ sáu ngày 13 thì bạn đừng vội mừng là hôm nay sắp qua, vì năm 2009 có tới ba ngày như vậy. Ngày tiếp theo sẽ rơi vào tháng 3 và ngày cuối cùng rơi vào tháng 11. Hiện tượng ba thứ sáu ngày 13 trong một năm chỉ xuất hiện 11 năm một lần. Đó là tuyên bố của nhà toán học Thomas Fernsler của Đại học Delaware (Mỹ), người đã nghiên cứu con số 13 trong hơn 20 năm. Một trong những nguyên nhân khiến 13 phải chịu tai tiếng chính là vì nó đứng sau số 12. Các chuyên gia về toán luôn coi 12 là con số trọn vẹn: 12 tháng trong năm, 12 vị thần trên đỉnh Olympus, 12 cung hoàng đạo, 12 con giáp, 12 tông đồ của Chúa Jesus.
  31. Dưới đây là một số câu chuyện liên quan tới “ngày nổi tiếng” này. Hải quân hoàng gia Anh từng đóng một con tàu có tên Friday the 13 (thứ sáu ngày 13). Con tàu ra khơi lần đầu vào một thứ sáu ngày 13, và không bao giờ quay trở về nữa. Con tàu Apollo 13 được phóng vào 13h13 ngày 11/4/1970 để thực hiện sứ mệnh đổ bộ lên Mặt trăng lần thứ ba. Tổng của hai số cuối trong ngày, tháng, năm khởi hành của nó (4-11-70) là 13 (4+1+1+7+0 = 13). Tàu hứng chịu một vụ nổ vào ngày 13/4/1970 (không phải thứ sáu) và phi hành đoàn buộc phải quay trở về Trái đất. Butch Cassidy, một trong những tên cướp nhà băng và tàu hỏa khét tiếng nhất nước Mỹ, chào đời vào thứ sáu ngày 13/4/1866. Tổng thống Franklin D. Roosevelt của Mỹ không bao giờ đi đâu vào ngày 13 của mọi tháng và cũng chẳng bao giờ tiếp 13 khách trong một bữa tiệc. Thiên tài quân sự Napoleon Bonaparte và tổng thống Herbert Hoover (Mỹ) cũng sợ con số 13. Nhà văn Mark Twain từng là vị khách thứ 13 trong một bữa tiệc. Một người bạn khuyên ông không nên đi. Mark Twain làm theo và sau đó giải thích với bạn bè như sau: “Thật không may, họ chỉ có đủ thức ăn cho 12 người”. Woodrow Wilson, vị tổng thống lãnh đạo nước Mỹ trong Thế chiến thứ nhất, coi 13 là con số may mắn của ông dù thực tế chứng minh điều ngược lại. Ông tới Normandy (Pháp) vào ngày 13/12/1918 để đàm phán hòa bình để rồi trở về với một bản hiệp ước mà quốc hội không thông qua. Trước đó thủy thủ đoàn khuyên ông lùi ngày cập bến nước Pháp nhưng ông không đồng ý. Sau đó Woodrow Wilson đi khắp nước Mỹ để kêu gọi người dân ủng hộ hiệp ước, nhưng suýt mất mạng vì đột quỵ trên đường đi. Những hình ảnh trên tờ 1 USD bao gồm 13 bậc thang trên kim tự tháp, 13 ngôi sao trên đầu con đại bàng, 13 lá trên cành ô liu. Nhưng chưa có bằng chứng khoa học nào cho thấy những hình ảnh này gây nên tình trạng suy thoái kinh tế hiện nay. (Theo Livescience)
  32. Tiền - Tri Thức - Trí Tuệ! ( Bình chọn: 8 Thảo luận: 4 Số lần đọc: 6908) Do Thái là một dân tộc rất coi trọng trí tuệ. Thành công của họ cũng thường do cực kỳ mưu trí mà giành được, đặc biệt chỉ riêng về doanh nhân Do Thái vai trò của họ đến nền tài chính thế giới đã nói lên tất cả. Những giá trị hữu hình như tài chính tiền tệ có thể rất dễ nhận biết nhưng khái niệm Trí Tuệ lại là một khái niệm rất mơ hồ đụng chạm đến một phạm vi rộng lớn. Nó được định nghĩa không rõ ràng, do đó trí tuệ là gì cũng có nhiều cách hiểu khác nhau. Theo các doanh nhân Do Thái trí tuệ là gì? Người Do Thái có một chuyện vui cười nói về mối quan hệ giữa trí tuệ với của cải: Có hai học giả nói chuyện với nhau. Trí tuệ và tiền bạc cái nào quan trọng hơn? Tất nhiên là trí tuệ quan trọng hơn! Vậy tại sao người có trí tuệ lại phải làm việc cho người giàu có nhiều tiền bạc. Người giàu lại không phải phục vụ người có trí tuệ. Ai cũng đều thấy các học giả triết gia phải chiều lòng theo ý muốn các triệu phú, còn các triệu phú lại có thái độ trịnh thượng đối với người có trí tuệ. Người có trí tuệ biết được giá trị của tiền bạc, còn triệu phú liệu có luôn hiểu rõ giá trị của trí tuệ? Không thể cho rằng lời nói của học giả thiếu đạo lý bởi con người ta có biết được giá trị của đồng tiền mới đi làm việc cho nhà giàu. Chỉ những ai không biết giá trị của trí tuệ mới lên mặt đối với bậc trí giả. Rất khó thể hiểu được hết ý nghĩa sâu xa của nó bản thân khái niệm của Trí Tuệ và Tiền Bạc là một nghịch lý. Người có trí tuệ đã biết được giá trị của tiền bạc, vậy tại sao không dùng trí tuệ để kiếm tiền bạc? Biết được giá trị của đồng tiền nhưng vẫn phải dựa vào sự phục vụ các triệu phú để kiếm sống. Trí tuệ như vậy có gì và còn đáng được coi trọng không? Tuy trí tuệ của các học giả triết gia được gọi là “Trí Tuệ” nhưng không phải là trí tuệ thực sự vì nó không có quan hệ gì với đồng tiền. Trí tuệ phải chịu
  33. trước sự kiêu hãnh của đồng tiền sao có thể quan trọng hơn tiền bạc. Trái lại các triệu phú không có trí tuệ như học giả nhưng lại biết chi phối đồng tiền thu nhận được giá trị của nó. Họ có trí tuệ dựa vào đồng tiền để sai khiến trí tuệ của các học giả đó mới là trí tuệ thức sự. Và người Do Thái đã đưa ra một khái niệm tổng quát về đồng tiền như sau: Đồng tiền sống có thể không ngừng sinh ra tiền mới, quan trọng hơn, trí tuệ chết không sinh ra tiền. Trái lại trí tuệ sống có thể sinh ra tiền còn đồng tiền chết không thể sinh ra tiền mới. Trí tuệ hoá nhập với đồng tiền được gọi là trí tuệ sống. Đồng tiền hoá nhập với trí tuệ được gọi là đồng tiền sống. Rất khó để phân biệt ngôi thứ giữa trí tuệ sống và đồng tiền sống. Thực tế hai vấn đề này đồng thời là một nó chỉ là một sự kết hợp đầy đủ chặt chẽ giữa nhau. Xây dựng được mối quan hệ đồng nhất giữa trí tuệ và tiền bạc giúp các thương gia Do Thái trở thành những nhà buôn trí tuệ nhất. Suy nghĩ một chút về quan niệm tri thức và trí tuệ ở Việt Nam. Hầu hết mọi người đều đồng nhất hai khái niệm giữa tri thức và trí tuệ là một, người có tri thức chắc chắn là người có trí tuệ và là người rất thông minh. Những người có bằng Đại Học, Thạc sỹ, học vị Tiến sỹ, học hàm Giáo Sư là những người có tri thức và rất thông minh. Quan niệm của người Do Thái lại hoàn toàn khác hẳn, tri thức và trí tụê là khái niệm có tính độc lập cao. Tri thức chuẩn mực chỉ cần có thời gian và điều kiện học là có thể tích luỹ được, bạn học 12 năm thì tốt nghiệp phổ thông, thêm 4 năm nữa thì có bằng đại học, thêm 2 năm nữa có bằng Thạc sỹ, thêm 2 năm nữa có học vị Tiến Sỹ . Người Do Thái coi trọng quá trình học tập suốt đời, học tập phải suy nghĩ, họ có thể không cần phải học tập trong các trường chính quy, học có thể tự học để có được tri thức cần thiết. Không phải ai có tri thức cũng có trí tuệ, người có trí tuệ là người biết dùng tri thức mình có để kiếm tiền. Nếu người có trí thức uyên bác mà không biết dùng tri thức đó kiếm tiền thì trí thức đó chỉ là những cái trống rỗng như một kẻ cõng trên
  34. mình cả đống sách mà không biết dùng để làm gì thì cũng vô dụng. Trong lịch sử Do Thái đã từng ghi nhận rất nhiều những tấm guơng cả cuộc đời chưa từng được bước chân vào một trường học chính quy nhưng họ vẫn trở thành những nhân vật giàu có bậc nhất, tri thức tự học và trí tuệ của họ đã làm nên điều đó. Tại Việt Nam, số lượng học giả, nhà khoa học với học vị cao như giáo sư, tiến sỹ ngày càng nhiều. Nhưng những công trình biến ý tưởng thành tiền thì chưa đạt tới tỷ lệ đáng kể. Nhà nước đã và đang có những đầu tư không nhỏ cho khoa học công nghệ, với kỳ vọng có thể phát triển kinh tế, xã hội từ vốn tri thức khổng lồ nhưng còn tiềm ẩn đó. Chúng ta hãy cùng hi vọng một tương lai không xa, những công trình, những dự án sẽ đi vào thực tiễn, góp phần xây dựng đất nước, cải thiện cuộc sống của từng người dân chứ không chỉ là những dự án, công trình trên giấy để rồi sau một thời gian sẽ lưu vào kho và sẽ bị lãng quên. Thật tiếc lắm. www.saga.vn Tỷ giá là rào cản lớn nhất với xuất nhập khẩu E-mail Bản để in Cỡ chữ Chia sẻ: Ý kiến (0) ▪ ANH QUÂN 21/10/2010 09:46 (GMT+7)
  35. Trụ sở HSBC tại Tp.HCM. Nhiều doanh nghiệp lo ngại khối lượng giao dịch ngoại thương có thể sẽ sụt giảm trong 6 tháng tới Chỉ số tin cậy thương mại (TCI) của Việt Nam nửa cuối 2010 đã mất 10 điểm so với kết quả điều tra hồi đầu năm nay, chỉ còn đạt 122 điểm (thang điểm 200), theo kết quả cuộc khảo sát về TCI lần hai năm 2010, vừa được Ngân hàng HSBC công bố. Nguyên nhân là do sự gia tăng lo ngại khối lượng giao dịch ngoại thương có thể sẽ sụt giảm trong 6 tháng tới, sự cẩn trọng hơn đối với rủi ro trong thanh toán, và e ngại tác động bất lợi từ tỷ giá của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam. Đây là cuộc khảo sát thứ 4 của HSBC, được thực hiện tại 17 thị trường, bao gồm các thị trường trọng yếu của khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Trung Đông, Mỹ Latinh, Mỹ, Canada và Châu Âu, với 5.124 doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu tham gia. Việt Nam có 300 doanh nghiệp, chủ yếu tại Hà Nội và Tp.HCM. Khảo sát tập hợp dự đoán của doanh nghiệp trong 6 tháng tới về khối lượng giao dịch thương mại, các rủi ro từ phía người mua và nhà cung cấp, nhu cầu tài trợ thương mại, khả năng tiếp cận tài trợ thương mại, tác
  36. động của ngoại hối và chính sách của nhà nước đến việc kinh doanh của các doanh nghiệp. Kết quả cho thấy, việc Việt Nam thụt lùi sau chuỗi tăng điểm liên tiếp tại 3 kỳ điều tra trước thể hiện sự thận trọng của doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, Việt Nam chưa đến mức lùi quá sâu trên bảng tổng sắp. So với TCI toàn cầu ổn định ở mức 116 điểm, vị trí của Việt Nam vẫn thuộc top 5 nước dẫn đầu, lùi từ vị trí thứ 3 tại cuộc điều tra trước để đứng sau Ấn Độ, UAE, Mexico và Indonesia. Điểm đáng chú ý tại khảo sát lần này là trong khi tình hình ngoại thương của Việt Nam đang duy trì mức kim ngạch rất cao trong 5 tháng gần đây, tại giai đoạn khảo sát vào tháng 9, đã có nhiều hơn các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam dự đoán triển vọng khối lượng giao dịch thương mại sẽ giảm nhẹ trong 6 tháng tới. Cụ thể, 24% các doanh nghiệp cho rằng khối lượng giao dịch thương mại sẽ giữ nguyên mức cũ, gấp đôi so với nửa đầu 2010; và 8% các doanh nghiệp được hỏi nghĩ rằng khối lượng giao dịch thương mại sẽ giảm (so với 4% nửa đầu 2010). Chỉ còn 46% các doanh nghiệp cho rằng khối lượng giao dịch thương mại sẽ tăng nhẹ trong 6 tháng tới, trong khi chỉ 23% các doanh nghiệp cho rằng sẽ tăng trưởng đáng kể. Đã có nhiều hơn các doanh nghiệp xuất nhập khẩu tin rằng rủi ro thanh toán từ phía người mua sẽ giảm (26% so với 24% nửa đầu 2010). Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp cho rằng mức độ rủi ro từ phía nhà cung cấp không thực hiện đúng thỏa thuận thương mại sẽ không thay đổi hoặc giảm khi họ chấp nhận các phương thức thanh toán linh hoạt như thông qua tín dụng thư hay thanh toán trả chậm (75% so với 63% nửa đầu 2010). Do vậy, số doanh nghiệp Việt Nam giữ thế chủ động trong quan hệ với bên mua bằng cách sử dụng các công cụ tài trợ thương mại của ngân hàng lại tăng mạnh (43% so với 24% nửa đầu 2010). Siết chặt hơn các điều khoản thanh toán và hạn chế kinh doanh với vài đối tác nhất định nằm ở cuối danh sách với 7% các doanh nghiệp lựa chọn. “Họ chấp nhận các đơn hàng nhỏ hơn để giảm thiểu rủi ro cho mỗi giao dịch và trả trước sẽ được áp dụng nhiều hơn trong thời gian sắp tới. Bảo hiểm cũng là một trong những biện pháp được chọn như phương pháp bảo hiểm tín dụng xuất khẩu thông qua các định chế tài chính và Chính
  37. phủ”, HSBC ghi nhận. Với sự cẩn trọng trong việc lên kế hoạch cho các chiến lược kinh doanh, số lượng doanh nghiệp Việt Nam cho rằng nhu cầu tài trợ thương mại của họ sẽ tăng đã giảm nhẹ từ 74% xuống còn 67% trong nửa đầu 2010. 51% doanh nghiệp cho rằng nguồn vốn hỗ trợ sẽ đến từ các ngân hàng, trong khi 34% cho rằng sẽ dựa vào nguồn vốn tự có của mình. Chỉ 15% cho rằng sẽ dựa vào sự hỗ trợ của người mua và các điều khoản thanh toán từ phía nhà cung cấp. Liên quan đến sự trồi sụt của tỷ giá ngoại hối thời gian gần đây, cuộc khảo sát cũng cho thấy sự gia tăng đáng kể về số lượng các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cho rằng biến động tỷ giá sẽ mang đến nhiều khó khăn nhất cho tăng trưởng xuất nhập khẩu (78% so với 52% nửa đầu 2010). Có 66% số doanh nghiệp được hỏi cho rằng tỷ giá ngoại hối sẽ có tác động tiêu cực lên họat động kinh doanh của họ trong 6 tháng tới (so với 53% nửa đầu 2010); chỉ 9% cho rằng tỷ giá ngoại hối sẽ có tác động tích cực lên hoạt động kinh doanh của họ. Nhiều doanh nghiệp cho rằng biến động tỷ giá ngoại hối là rào cản lớn nhất cho sự phát triển kinh doanh (71% so với 48% nửa đầu 2010), theo sau là chi phí vận chuyển, giao nhận, và lưu kho (43%), chính sách về thương mại của nhà nước (36%). Trong khi đó, lãi suất tăng ít ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp hơn khi chỉ có 20% số doanh nghiệp được hỏi cho rằng đó là khó khăn lớn nhất, giảm 18% so với nửa đầu 2010 (38%). Các doanh nghiệp Việt Nam vẫn cho rằng Trung Quốc mở rộng là thị trường quan trọng nhất, khi số đông các nhà xuất nhập khẩu của Việt Nam (58%) vẫn đang hoạt động giao thương với thị trường này. Tiếp theo sau là các thị trường tại phần còn lại của châu Á (38%) và Đông Nam Á (34%).
  38. 'Kinh tế Việt Nam 2010 có nhiều sức bật' 2010 sẽ là một năm kinh tế Việt Nam tiếp đà tăng trưởng, GDP dự kiến đạt trên mức 6,5% nếu Chính phủ đưa ra những giải pháp hợp lý. Việt Nam trong năm 2009 đã liên tục tăng trưởng GDP dương. Kinh tế thế giới cũng đang phục hồi chung. Các chính sách kích thích kinh tế của Chính phủ năm 2009 vẫn tiếp tục được triển khai vào năm tới. Việt Nam cũng có nhiều kinh nghiệm khi đã vượt qua hai cơn bão lớn: lạm phát cao 2008 và suy giảm kinh tế 2009. Do đó, năm sau là thời điểm Việt Nam sẽ vận hành trơn tru hơn guồng máy phát triển kinh tế. Các nguồn vốn FDI và ODA tiếp tục đổ vào Việt Nam, bên cạnh những nguồn vốn trong nước. Lợi thế này sẽ góp phần tạo ra một sức mạnh tổng thể về vốn nội lực và ngoại lực, thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển. Đồng thời, cộng với tinh thần lạc quan của người Việt thì đặt mục tiêu chỉ số tăng trưởng kinh tế 6,5% vào năm 2010 không phải là điều quá khó. Tuy nhiên, trong năm tới, hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ phải đối mặt với sự hội nhập ồ ạt từ những nhà băng nước ngoài, tạo ra một sự cạnh tranh khốc liệt hơn. Đòi hỏi khả năng quản trị của các ngân hàng trong nước cao hơn, tăng tốc hơn và hiệu quả hơn, nhưng sự cạnh tranh này không tạo nên tình trạng bất ổn của hệ thống tài chính trong nước. Ngược lại, sẽ tạo ra một làn sóng cạnh tranh mạnh để phát triển.
  39. Kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng trên 6,5% vào năm 2010 nếu Chính phủ có giải pháp điều hành hợp lý. Ảnh: Kiên Cường Theo đó, các ngân hàng thương mại cần phải liên kết chặt chẽ dưới sự điều hành của nhà băng “mẹ” là Ngân hàng Nhà nước, nhằm tạo thành một hệ thống thật sự bền vững, cấu thành hệ thống thần kinh trung ương cho nền kinh tế. Bởi chỉ cần một sự bất ổn của hệ thống ngân hàng sẽ ngay lập tức gây ra ảnh hưởng lớn cho kinh tếViệt Nam. Minh chứng cụ thể nhất là từ nước Mỹ, khi một, hai ngân hàng lớn của Mỹ bị phá sản năm 2008 kéo theo tình trạng phá sản 140 ngân hàng năm 2009, ngay lập tức làm lung lay nền kinh tế toàn cầu. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước cần phải can thiệp mạnh hơn vào thị trường liên ngân hàng. Hay nói cách khác, Nhà nước thông qua nghiệp vụ hoạt động thị trường mở làm cho thị trường liên ngân hàng phải tương thích với lãi suất tái cấp vốn - tái chiết khấu, tránh những cú sốc về lãi suất. Đồng thời, làm sao để vốn can thiệp trên thị trường có thể tới tay các ngân hàng có nhu cầu. Vừa qua, việc hỗ trợ vốn đã đi tới các ngân hàng lớn, và rồi từ ngân hàng lớn lại chạy qua các ngân hàng nhỏ. Chính phủ cần nghiên cứu, cải tiến hoạt động nghiệp vụ thị trường mở để làm sao đạt hiệu quả cao nhất trong thời gian tới. Về điều hành lãi suất, Việt Nam không nên chạy theo CPI, mà lãi suất đó cần phải được điều hành ổn định theo lạm phát cơ bản để tránh gây cú sốc cho nền kinh
  40. tế. Bởi như năm 2008, giá cả tăng lên phần lớn là do giá dầu tăng và giá lương thực lên cao. Nếu Việt Nam căn cứ vào đó để đẩy lãi suất tăng cao, bất ngờ giá dầu thô, lương thực rớt xuống, thì vô tình lại tạo ra những cú sốc cho nền kinh tế. Đây là vấn đề mà Việt Nam nên hạn chế và cốt lõi vẫn là ưu tiên cho tăng trưởng kinh tế bền vững. Một trong những giải pháp để tăng trưởng kinh là chú trọng nới lỏng gánh nặng cho doanh nghiệp bằng cách giảm thuế, kể cả thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp và giá trị gia tăng. Giảm thuế là giải pháp trọng tâm để kích cầu đầu tư cũng như kích cầu tiêu dùng thông qua giảm chi phí sản xuất kinh doanh, giảm giá tương xứng đảm bảo tăng tiêu dùng thực tế của người dân. Trong năm tới, thâm hụt tài khoản vãng lai dự kiến sẽ giảm so với năm 2009. Vì nhu cầu bên ngoài cao và giá xuất khẩu tăng lên sẽ giúp thúc đẩy xuất khẩu, lượng kiều hối chuyển về cũng sẽ tăng lên. Dòng vốn FDI và đầu tư gián tiếp nước ngoài sẽ gia tăng trở lại do điều kiện tài chính toàn cầu, niềm tin của các nhà đầu tư được cải thiện. Cán cân thanh toán tổng thể sẽ quay trở lại mức thặng dư. Thị trường nội địa cần tiếp tục được chú trọng khai thác trong năm 2010, vì đây là sân nhà của các doanh nghiệp Việt Nam. Do đó, Chính phủ cần tiếp tục sử dụng chính sách tiền tệ và tài khóa để hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh với các nước nhằm chống nhập siêu, cân đối cán cân thương mại. Cuối cùng, Việt Nam nên lưu ý một số khó khăn sẽ gặp phải trong năm 2010. Kinh tế thế giới phục hồi nhưng rất mong manh và chứa đựng nhiều yếu tố bất ngờ tìm ẩn. Tình trạng thất nghiệp toàn cầu rất lớn làm ảnh hưởng đến tổng cầu thế giới. Các nước thực hiện nhiều chính sách bảo hộ gây khó khăn cho xuất khẩu Việt Nam. Việc Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) tiếp tục chính sách tiền tệ nới lỏng sẽ làm giá cả biến động mạnh Những yếu tố này tác động trực tiếp vào nền kinh tế nước ta, theo nhiều kênh, nhiều tuyến khác nhau. Riêng khu vực tiền tệ chưa bền vững, rủi ro cao. Các thị trường chứng khoán, tiền tệ, ngoại hối đã có dấu hiệu phục hồi, song còn chứa đựng nhiều bất ổn. Thị trường vàng còn biến động nhiều cũng tác động không nhỏ tới ổn định tiền tệ và các cân đối vĩ mô của Việt Nam trong năm 2010. PGS.TS Trần Hoàng Ngân Phó hiệu trưởng Trường Đại học Kinh Tế TP HCM
  41. Kinh tế Việt Nam tăng trưởng 5,3% Tốc độ tăng trưởng kinh tế 2009 nhích dần qua mỗi quý, đưa cả năm lên 5,32%, cao hơn kế hoạch đề ra. Tổng cục Thống kê nhận định kinh tế Việt Nam đã vượt qua giai đoạn khó khăn nhất. Số liệu do Tổng cục Thống kê vừa công bố cho thấy, trong quý IV, GDP tăng 6,9%, kéo tốc độ cả năm vượt mức 5,2% mà các cơ quan dự báo kinh tế đã ước tính. Theo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2009, Việt Nam đặt mục tiêu tăng GDP 5%. Tốc độ tăng trưởng của 3 quý đầu năm lần lượt đạt 3,14% trong quý I - thấp nhất trong nhiều năm gần đây, sau đó là 4,46% và 6,04%. GDP tăng dần và ổn định qua các quý cũng cho thấy kinh tế Việt Nam đã ra khỏi thời điểm xấu nhất và đang trên đà phục hồi. Trong các lĩnh vực kinh tế, công nghiệp và xây dựng tăng trưởng chậm lại do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế, và chỉ đạt 5,52%. Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 1 giảm 0,2% so với cùng kỳ 2008 và liên tiếp đạt thấp trong các tháng sau đó. Từ tháng 8 đến cuối năm, tình hình được cải thiện, đưa mức tăng chung của cả năm lên 5,5%. Trong khi đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,83%; dịch vụ 6,63%. Tổng cục Thống kê cho biết kinh tế Việt Nam đã thoát khỏi giai đoạn khó khăn nhất. Ảnh: N.M
  42. Chính sách kích thích kinh tế là một lý do đưa Việt Nam ra khỏi "đáy" và tăng trưởng ổn định. Trong năm 2009, vốn đầu tư toàn xã hội ước tính tăng 15,3% so với 2008 và bằng 42,8% GDP. Vốn đầu tư từ khu vực nhà nước tăng 40,5%, trong đó vốn từ ngân sách chiếm 21,8% tổng vốn, tăng 6,8% so với kế hoạch năm. Vốn đầu tư ngoài nhà nước năm 2009 tăng 13,9% trong khi khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm 5,8%. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá thực tế cả năm ước đạt 1197,5 nghìn tỷ đồng, tăng 18,6%. Nếu loại trừ yếu tố giá thì mức tăng đạt 11% so với 2008. Trong khi đó, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 6,52%, thấp hơn mức 7% đặt ra trong kế hoạch trước đó. Về mức sống của người dân, theo số liệu được công bố, thu nhập bình quân hàng tháng của lao động khu vực Nhà nước năm 2009 đạt trên 3 triệu đồng, tăng 14,2% so với 2008. Bất chấp tình hình kinh tế khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo giảm hơn 1%, xuống còn 12,3% trong năm 2009. Không đưa ra con số cụ thể, báo cáo của Tổng cục Thống kê cho biết tổng thu ngân sách Nhà nước tính đến 15/12/2009 "ước đạt xấp xỉ dự toán năm" (dự toán theo số liệu của Bộ Tài chính là 389.300 nghìn tỷ đồng). Trong khi đó, tổng chi ngân sách cũng vào thời điểm này ước tính bằng 96,2% dự toán năm. Thâm hụt ngân sách trong cả năm lên tới 7% GDP. Xuất nhập khẩu có thể coi là một điểm trừ khác của kinh tế Việt Nam trong năm 2009 khi giá trị xuất khẩu chỉ đạt 56,6 tỷ USD (giảm 9,7%), nhập khẩu đạt 68,8 tỷ USD (giảm 10,8%). Nhập siêu tuy giảm so với mức 32,1% của 2008 nhưng vẫn bằng 21,6% GDP. Nhận định kinh tế Việt Nam đã vượt qua thời kỳ khó khăn nhất trong năm 2009, Bộ Kế hoạch & Đầu tư và Tổng cục Thống kê cho rằng trong năm 2010, chủ động ngăn chặn lạm phát vẫn sẽ là mục tiêu cần ưu tiên bên cạnh việc đẩy mạnh xuất khẩu. Ngoài ra, cơ quan này cũng cho rằng cần tiếp tục xây dựng, củng cố hệ thống bán lẻ hàng hóa, phục vụ tốt nhu cầu tiêu dùng nội địa, đẩy mạnh công tác quy hoạch kinh tế - xã hội theo vùng, địa phương, sản phẩm để tạo sức tăng trưởng mạnh, hiệu quả và bền vững.
  43. Những câu nói hài hước ( Bình chọn: 13 Thảo luận: 16 Số lần đọc: 105948) Xin thề: tôi với anh kết nghĩa anh em, tuy không sinh cùng năm cùng tháng cùng ngày, nhưng nguyện sống cùng ngày cùng tháng cùng năm. Trăm năm bia đá cũng mòn, bia chai cũng bể, chỉ còn bia ôm. Khi yêu nhau thì người ta thề sống chết có nhau, còn khi ghét nhau rồi thì người ta thường thề sẽ sống chết với nhau. Hôn nhân luôn tặng bạn một đặc ân: chỉ có ai có nó mới có thể ly dị được. Nếu bạn lật một cái bình lại thì nó sẽ không có chỗ để cắm hoa, nếu xem xuống phía dưới thì bạn sẽ phát hiện một điều rất hay: "nó cũng không có cả đáy" Nếu có ai đó khen bạn "bạn có ½ là đẹp , ½ còn lại là tài năng, gộp lại thì vừa đẹp vừa tài năng", bạn hãy coi chừng { ½ đẹp tức là ½ đó không có chút chất xám nào , ½ tài năng, tức là ½ đó không có chút sắc đẹp nào > hợp lại hoá ra bạn là một con người vừa xấu vừa ngu đó sao } Nghệ thuật che lấp sự bất tài cũng đòi hỏi không ít tài năng. Không ít phụ nữ già đi nhanh chóng có khi do họ động não suy nghĩ phải làm sao để mình trẻ lại. Chết cho người phụ nữ mình yêu vẫn dễ hơn là phải sống chung với họ. Phụ nữ đem lại niềm vui nhưng không phải lúc nào cũng vậy, còn thuốc lá thì lúc nào cũng có khói. Nhục không phải là nghèo khó, nhưng nghèo khó thì thật là nhục. Ngắn gọn thể hiện sự thông minh nhưng không đúng trong trường hợp người ta nói " Anh yêu em " Đằng sau sự thành công của một người đan ông luôn có hình bóng của một người đàn bà, và đằng sau sự thất bại của một gười đan ông là một người đàn bà thật sự. Thể thao là có hại. Nếu ta sống được thêm 10 năm nhờ luyện tập thì ta cũng mất 15 năm vào các buổi tập luyện đó. Tình yêu là bất tử, là vĩnh cửu. Trong tình yêu, thứ duy nhất có thể thay đổi đó chính là người yêu. Hài kịch sẽ chuyển sang bi kịch nếu không bán được vé. Một người vợ tốt luôn tha thứ cho chồng khi cô ta sai.
  44. Ly dị là sự kiện mà người đàn ông phải giặt đồ cho mình thay vì trước đó phải giặt đồ cho cả hai. Con đường ngắn nhất để đi từ một trái tim đến 1 trái tim là con đường truyền máu. Chân lý là mặt trời chói lọi . Nếu bạn không nghiên cứu về nó thì đừng có điên mà nhìn vào nó. Theo lý thuyết thì Lý thuyết không khác với thực tế là mấy , nhưng thực tế thì thực tế khác xa lý thuyết. Lương tâm là cái gì đó cảm thấy tổn thương trong khi các phần khác của cơ thể cảm thấy dễ chịu. Bạn có thể mua một người trung thực không ? Không ! nhưng bán một người như vậy dễ hơn. Không có gì tiết kiệm thời gian và tiền bạc hơn là yêu ngay từ cái nhìn đầu tiên. Chuyện vui thời khủng hoảng ( Bình chọn: 6 Thảo luận: 6 Số lần đọc: 3018) Tôi xin kể một câu chuyện về "khủng hoảng" tại một hòn đảo tuyệt đẹp với ước mơ làm giàu cháy bỏng của người dân trên đảo. Chuyện như sau Ngày xưa, ở một đảo trù phú có một ngôi làng sống rất êm đềm và mọi người rất thương yêu dùm bọc lẫn nhau. Họ phân chia công việc tùy theo sở trường của mỗi người, người đi cày cấy, người chăn nuôi, dạy học, kinh doanh, buôn bán Đây được mệnh danh là thiên đường dưới trần gian mà ai cũng muốn đến sinh sống. Tuy nhiên, dân làng ở đây có một chút rắc rối nhỏ, đó là khu làng có rất nhiều Khỉ, chuyện tưởng bình thường, nhưng vì Khỉ sinh sản quá nhanh nên chúng xuất hiện khắp nơi thỉnh thoảng phá hoại nông sản của làng. Vì vậy, mọi người trong làng thường không thích Khỉ, họ luôn tìm cách xua đuổi lũ Khỉ phá hoại này đi càng xa càng tốt. Thời gian cứ trôi đi mãi đến một ngày kia, có 1 thương gia giàu có đến đảo, ông nghe hòn đảo này có nhiều Khỉ và tỏ ý muốn mua Khỉ và lập ra Công ty Thu Mua Khỉ, xây dựng 1 trang trại thật to trên đất của làng. Thế là ông thông báo cho dân làng trên đảo rằng: ông sẽ mua Khỉ với giá 20 đồng vàng/con. Điều này, thật tuyệt với dân trên đảo, với giá 20 đồng vàng gấp
  45. 10 lần giá Tivi họ đang xem, gấp 5 lần xe máy họ chạy. Thế là mọi người đi bắt Khỉ xung quanh nhà mình bán lại cho Thương Gia. Ông thương Gia mua và trả tiền đầy đủ cho dân làng. Ông thông báo chỉ mua Khỉ Thiên Nhiên thôi, không mua Khỉ nuôi. Thế rồi, ngoài công việc thường ngày kiếm sống, dân là lại có thêm 1 nghề tay trái “Bắt Khỉ”. Thu nhập từ việc bắt Khỉ đã giúp cho đời sống dân làng ngày được cải thiện tốt hơn. Họ có thể mua sắm nhiều hơn, tiêu thụ nhiều hàng hóa hơn. Con Khỉ từ 1 con vật bị xua đuổi thành con vật quí đối với dân làng ở đây. Khỉ trở thành đề tài thảo luận của mọi người ở khắp làng xã thôn xóm. Việc “bắt Khỉ” làm cho số lượng Khỉ càng giảm, việc tìm bắt con Khỉ khó khăn hơn. Nhà thương Gia tốt bụng quyết định tăng giá mua Khỉ nhằm hỗ trợ người dân bắt Khỉ với giá 40 đồng vàng. Vì giá Khỉ tăng cao, nên việc tìm “Bắt Khỉ” ngày một được tham gia đông đảo của nhiều tầng lớp trong làng, từ Cô Bán Báo cho đến các Anh Kỹ Sư, Bác Sĩ, và có cả các Bô Lão có chức quyền. Khắp nơi “Người Người Bắt Khỉ, Nhà Nhà Bắt Khỉ” và nghề "Bắt Khỉ” trở thành nghề làm ăn phát đạt nhất, kiếm tiền dễ nhất. Nên mọi người bắt đầu vay tiền Ngân Hàng thế chấp Nhà cửa đầu tư vào “Kinh Doanh Khỉ” với 1 lời 1. Ngân Hàng kinh doanh cho vay cũng phát đạt hơn, nên khuyến khích hỗ trợ vốn cho “Kinh Doanh Khỉ”. Đồng thời, Ngân Hàng cũng tăng cường đầu tư vào “Kinh Doanh Khỉ”. Tuy nhiên, tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, Các Bô Lão đưa ra các LUẬT Kinh Doanh Khỉ và Điều Kiện Hành Nghề Kinh Doanh Khỉ rồi cấp Chứng chỉ. Do nhu cầu Xã Hội, Làng quyết định lập ra cả 1 “Đại Học Khỉ” nhằm dạy kỹ thuật “Bắt Khỉ” và nghiên cứu về Khỉ cũng như cấp Chứng Chỉ cho học viên Học về Khỉ để hành nghề “Bắt Khỉ”. Khỉ càng lúc càng hiếm và quí hơn trong khi người “Bắt Khỉ” ngày một đông. Một lần nữa, Ông Thương Gia tốt bụng biết được khó khăn của người dân nên nâng giá Khỉ lên 80 đồng vàng và phối hợp với Ngân Hàng địa phương hỗ trợ chi phí “Bắt Khỉ" thêm 20 đồng vàng. Con Khỉ từ không có giá trị giờ là 100 đồng vàng như 1 gia tài khổng lồ. Hòn Đảo như đang
  46. sôi về Khỉ. Các anh/chị Bác Sĩ, Kỹ Sư, Nhà Giáo chuyển sang nghề “Bắt Khỉ” thay vì làm nghề cũ biết bao giờ mà giàu. Được biết, hơn 90% dân cư của đảo đã chuyển sang hành nghề “Bắt Khỉ”. Cứ thế, được 1 năm kể từ ngày Ông Thương Gia tốt bụng đến đảo, giúp hòn đảo này phát triển phồn thịnh hơn bao giờ hết với việc mua lại hơn 10 triệu con Khỉ từ dân làng. Nay, Ông cần về nhà giải quyết chuyện gia đình. Nên Ông thông báo với cư dân đảo rằng Ông sẽ giao quyền cho anh Thanh Niên – đẹp trai và hiền lành tốt bụng để điều hành công việc thu mua Khỉ cho bà con. Được biết, anh Thanh Niên khá hiền, nên 1 số người ngỏ ý muốn mua 1 số Khỉ của Trang Trại với mục đính bán lại cho Bà Con đang rất cần Khỉ. Sau nhiều lần năn nỉ, đút lót cho Anh thanh Niên, Anh tốt bụng bán rẻ lại cho Ngân Hàng, Bô lão chức quyền số Khỉ với giá chỉ 75 Đồng Vàng. Với giá quá rẻ 75 Đồng vàng, các Ngân hàng huy động vốn đầu tư mua Khỉ của Anh Thanh Niên, Tổ chức cá nhân cũng đua nhau xếp hàng mua lại Khỉ. Chỉ trong hơn 1 tuần, gần 10 triệu con Khỉ được Bán Hết với giá ưu đãi 75 so với giá thị trường 100 đồng vàng. Vào cuối tuần đó, Anh thanh niên “Biến Mất”. Cơ sở trang trại trống trơn Dân cư trên đảo vẫn giữ lại số Khỉ của chính họ nhưng với tâm trạng khác Bạn Nghĩ gì về câu chuyện này???
  47. Ranh ngôn bất hủ tiếu lâm ( Bình chọn: 2 Thảo luận: 0 Số lần đọc: 2615) • Yêu nhau không phải là nhìn nhau mà là cùng nhau nhìn về cái xe dựng ở gốc cây kẻo nó chôm chỉa mất. • Khi có con mèo đen đi qua trước mặt bạn thì điều đó có nghĩa là nó đang đi đâu đó. • Nếu bạn thấy không ai quan tâm tới mình thì bạn hãy thử vào nhà hàng và quên trả tiền đi. Sẽ có người quan tâm tới bạn ngay! • Một người phụ nữ toàn diện: sáng diện, trưa diện, chiều diện, tối diện. • Hôn nhân luôn tặng bạn một đặc ân : chỉ có ai có nó mới có thể ly dị được. • Trăm năm bia đá cũng mòn , bia chai cũng bể , chỉ còn bia ôm. • Thiếu nữ là chữ viết tắt của thiếu nữ tính. • Còn nói còn tát. • Bạn có thể là anh hùng nếu bạn tên là Hùng và bạn có 1 đứa em • Bạn có thể là bác sĩ mà không cần học nếu bạn tên Sĩ và có 1 đứa cháu • Thà hôn em một lần rồi chịu tát còn hơn cả đời nhìn thằng khác hôn em • Con gái đẹp là con gái trong mơ, con gái ngoan là con gái trong nhà trẻ • Một điều nhịn là chín điều nhục. • Cái con bé ấy không xinh, không khéo thì cũng chẳng được cái gì • (Toà hỏi): thế hắn ta đã giết chết anh như thế nào hử? • Trông bạn quen quen, Hình như tớ chưa gặp bao giờ • Bạn có biết ai mà bạn ghét nhất và căm thù nhất không, Ðó chính là kẻ thù của bạn
  48. • Ðừng hỏi tôi bạn là ai, hãy hỏi mẹ của bạn • Nếu bạn không mua được cái gì bằng tiền, bạn hãy tin rằng nó sẽ mua được bằng nhiều tiền hơn • Chúng ta đang có tất cả nếu chúng ta đang có 1 vật có tên là "Tất cả" • Thà ngu vì thiếu i ốt còn hơn là thiếu i ốt mà vẫn ngu (hic, nó nói cái gì thế) • Bom nguyên tử là phát minh để kết thúc các phát minh khác • Con ơi , 2 giờ sáng rồi đấy, dạy rửa mặt rồi uống thuốc ngủ đi con • Trông mày khôn lắm cơ thằng ngu ạ Đọc xong cấm cười ( Bình chọn: 3 Thảo luận: 10 Số lần đọc: 2517) www.SAGA.vn - Hãy đọc bức thư có một không hai này của một bà mẹ phương xa gửi con. Xin lưu ý, đọc xong cấm cười. Con trai yêu quý! Mẹ viết thư này thật chậm vì biết rằng con đọc không được nhanh lắm. Gia đình ta đã chuyển nhà rồi vì ba con đọc báo thấy nói rằng hầu hết các tai nạn xảy ra trong bán kính 20 dặm gần nhà. Mẹ không thể cho con biết địa chỉ mới được vì gia đình chủ trước đã mang số nhà của họ đi để đỡ phải thay đổi địa chỉ. Nơi ở mới có một cái máy giặt lạ kiểu. Ngày đầu tiên, mẹ thả vào đó 4 cái áo sơ mi, giật sợi dây và chúng bị nước cuốn mất tích. Ở đây mưa hai lần mỗi tuần. Cơn mưa đầu tiên kéo dài 3 ngày và cơn mưa thứ hai 4 ngày. Chiếc áo con dặn mẹ gửi, dì Sue nói rằng cúc của nó sẽ làm thư quá nặng nên mẹ đã cắt hết cúc ra và bỏ vào trong túi áo.
  49. Chị gái của con mới sinh sáng nay. Mẹ không biết đứa bé là trai hay gái nên không biết con đã trở thành cậu hay dì của nó. Cậu John của con rơi xuống hầm ủ rượu whisky. Có mấy người định kéo cậu lên nhưng cậu đánh trả dữ dội làm họ phải bỏ ý định, còn cậu thì chết đuối. Gia đình ta đem cậu đi hoả táng và cái xác cháy 3 ngày liền. Chiếc xe tải trong đó có 3 người bạn của con bị rơi xuống sông khi đang qua cầu. Người lái xe ngồi đằng trước thì chui được qua cửa sổ và bơi vào bờ. Hai người ngồi sau chết đuối vì không đóng được cửa hậu. Lần này chỉ có chừng ấy tin thôi. Không có gì nghiêm trọng xảy ra cả. Nếu con không nhận được thư này, nhớ báo cho mẹ biết và mẹ sẽ gửi thư khác cho con. Thương yêu Mẹ Banana Châm ngôn thời @ ( Bình chọn: 2 Thảo luận: 0 Số lần đọc: 1628) www.SAGA.vn - 1. Chỉ những gì không thay đổi được mới là sai lầm. 2. Thà là nhà kinh điển còn sống hơn là làm người đương thời đã chết. 3. Chúng ta thường thích nghe lời người khác, đặc biệt nếu đó là người đã quá cố. 4. Người có thể cười được trong tình huống khó khăn chắc đã tìm ra hình nhân thế mạng. 5. Tình yêu như mạng nhện, chạm vào là dính liền. 6. Tại sao chúng ta cứ hay tưởng rằng vợ người và xe hơi của người hay hơn? Vì cả hai đều dễ khởi động hơn. 7. Thật tốt khi có điều để mà nhớ lại, nhưng tốt hơn nếu không có gì để phải quên cả.
  50. 8. Đẹp trai để thương nhớ, còn giàu có để lấy làm chồng. 9. Không cần tự mình sinh ra những ý tưởng thông minh. Hãy tìm kẻ thông minh để anh ta “đau đẻ". 10. Đàn ông cần có tương lai, còn đàn bà cần có quá khứ. 11. Chỉ cần một ly rượu thôi là đủ thấy cuộc sống thay đổi. 12. Không quan trọng là với ai, quan trọng là như thế nào. 13. Tôi cưỡng lại được trước mọi thứ, trừ những cám dỗ. 14. Có tiền thì sướng hơn là nghèo, nếu xét về mặt tài chính. 15. Tôi nghĩ là tôi nên bắt đầu đọc thơ Shakespeare. Nhưng rồi tôi nghĩ lại, tại sao tôi phải làm thế? Hắn ta chưa bao giờ đọc một bài thơ nào của tôi cả. 16. Tôi từng có nhiều ham muốn, ham muốn quá nhiều thứ. Bây giờ tôi chỉ có một ham muốn, là làm sao loại bỏ được những ham muốn đó. 17. Vì tình yêu, người phụ nữ sẵn sàng hy sinh mình, còn đàn ông thì sẵn sàng hy sinh những người phụ nữ khác. 18. Nếu ta phải trả tiền cho người đẹp thì người đẹp ấy chẳng đáng giá một xu. 19. Tôi không hiểu dịch cúm gia cầm có ảnh hưởng thế nào tới những tin vịt? 20. Câu nói "không" vẫn là phương tiện tránh thai truyền thống tốt nhất. 21. Cái cười thành thực nhất là cười ruồi. 22. Thà để họ cười ta hơn là để họ khóc ta. 23. Thà nhận một ít tiền hơn là lời "cảm ơn nhiều". 24. Rượu vang có lợi cho sức khỏe, còn sức khỏe cần để uống rượu vodka.
  51. 25. Tất cả những gì báo chí viết đều là sự thật trăm phần trăm, ngoại trừ những sự cố mà quý vị trực tiếp chứng kiến. 26. Báo chí nói cho độc giả biết điều mà người ta không hiểu và dạy cho hiểu điều mà người ta không biết. 27. Báo lá cải có ích ở chỗ chúng dạy ta không nên tin vào chúng. 28. Trí tuệ nhân tạo chẳng là gì so với sự ngốc nghếch tự nhiên. 29. Người thông thái viết những câu châm ngôn, kẻ ngu dốt lặp lại chúng. 30. Người hiểu biết thì nói chuyện với anh, người thông thái thì lắng nghe anh. 31. Cho anh ta một con cá, anh ta sẽ ăn trong một ngày. Dạy anh ta câu cá, anh ta sẽ không làm phiền anh suốt một tuần. 32. Mỗi khi tôi buộc phải chọn lựa giữa hai tật xấu, tôi thường chọn cái mà tôi chưa bao giờ được thử. Làm gì khi một người kêu buồn ? ( Bình chọn: 5 Thảo luận: 8 Số lần đọc: 13632) Làm gì khi một người kêu buồn ? Trong cuộc sống đôi khi chúng ta phải trở thành một bác sỹ tâm lý bất đắc dĩ. Đó là những lúc người bạn của mìnhn kêu : buồn, chán hoặc buồn quá hoặc chán kinh, Khi đó chúng ta sẽ phải làm gì cho người bạn đó vui lên ? Đây là một vấn đề khá lý thú để cho những bác sỹ nghiệp dư như ta nghiên cứu . Sau đây tôi xin đưa ra một vài cách giải quyết của tôi để mọi người xem . Mong mọi người vui vẻ đóng góp ý kiến nhé ! Tôi xin chia trạng thái buồn chán của con người ra làm 2 loại đó là buồn hướng đối tượng và buồn không hướng đối tượng
  52. 1. Buồn hướng đối tượng : Đây là kiểu buồn vì một sự vật sự việc nào đó . Ví dụ như bị điểm kém, mất tiền, nhà có chuyện không vui, Những lúc như thế này con người cảm thấy cơ thể mình rất mệt mỏi, chán nản và dường như không muốn làm bất cứ thứ gì . Theo các bạn khi đó ta sẽ nói gì với người đó để họ bớt buồn ? Nếu là tôi tôi sẽ hỏi họ xem vì sao họ buồn ? Rồi từ đó nghe họ kể lể và bám vào câu chữ của họ kích thích cho họ nói nhiều hơn về bản thân mình. Hi vọng cách này có thể khiến họ giải tỏa nỗi buồn đi một chút .Nhưng nếu họ không chịu hợp tác trong việc kể lể thì tôi sẽ kể chuyện của mình để họ vui hơn . Tùy trường hợp mà kể những câu chuyện có liên quan đến nỗi buồn kia hay không nhưng thường thì trong mỗi câu chuyện tôi sẽ lồng cách giải quyết của tôi vào . 2. Buồn không hướng đối tượng : Đây là kiểu buồn vu vơ không hiểu vì sao tôi buồn. Ví dụ như sau một ngày dài, bạn trở về nhà và cảm thấy mệt mỏi, lên mạng không có gì chơi, bạn bắt đầu cảm thấy “buồn" . Những nỗi buồn này diễn ra thường xuyên trong cuộc sống. Theo tôi nguyên nhân của nó là do chúng ta không tìm được đề tài hay chủ đề đủ hấp dẫn để lao vào tìm hiểu . Có một ngày tôi nói chuyện với 3 người vào 3 ba buổi sáng chiều tối thì câu đầu tiên tôi nhận được là :” Buồn quá ,,, “ Những lúc như thế mình thấy cũng lí bí vì ko biết làm gì để cho họ vui lên. Sau một số lần gặp tình huống đó tôi đã nghĩ ra cách giải quyết : 1 là bàn về chủ đề bạn đó yêu thích , 2 là bàn về chủ đề cả 2 cùng thích và 3 là kể chuyện cười . Chuyện cười có nhiều loại , ví dụ như cho trẻ em , tuổi teen, cho người lớn Nhưng để có một câu truyện cười “đủ hay” để họ cười phá lên quả thực không dễ , 50 truyện có 1 truyện đáng để “cười”. Chính vì vậy tôi quyết định sưu tầm và học thuộc truyện cười đẻ khi nào có dịp thì kể cho người khác nghe . Truyện cười là sản phẩm trí tuệ của con người nó ko đơn giản như nhiều người nghĩ, giả sử tôi bảo bạn kể cho tôi một câu chuyện cười , tôi đảm bảo có khối người sẽ nói “chịu”. Vậy tại sao chúng ta không học truyện cười để khi cần có thể bật ra ngay? Đọc truyện cười cũng rất thú vị, nó rất
  53. bổ óc có điều chú ý là đừng đọc buổi tối trước khi đi ngủ nó sẽ khiến bạn mất ngủ đấy ! Mọi người đọc xong có ý kiến gì xin mời đóng gớp tự nhiên nhé ! Cám ơn Một chàng trai đưa cô bạn gái thân vào quán uống nước.Sau khi người phục vụ đặt hai cốc nước trắng lên bàn và đợi thì cô gái chợt đặt ra một câu hỏi: - Đố anh "Tình Yêu" là gì? Chàng trai mỉm cười quay sang cô phục vụ và nói: - Chị cho em một ấm trà, một cốc cà fê đen, một cốc cà fê sữa, một ly rượu vang và một ly sâm panh. Sau khi mọi thứ đã được mang ra, chàng trai lấy ấm trà và uống chén đầu tiên. Anh ta nói: - Tình yêu như ấm trà này. Khi ta uống nước đầu sẽ rất đậm đà, nước thứ hai sẽ dìu dịu thanh thanh. Còn nước thứ ba thì sao? Tình yêu không như ấm trà này bởi sau nước thứ ba ấm trà sẽ không còn hương vị ban đầu. Anh ta lại nhấp một ngụm cà fê đen và nói: - Tình yêu mang hương vị của cốc cà fê này, lúc đầu có thể phải trải qua vị đắng nhưng dần dần vị ngọt và thơm sẽ ngấm dần vào mỗi người. - Nhưng tình yêu không như cốc cà fê sữa. Uống cà fê sữa ta sẽ cảm thấy ngay vị ngọt, vị ngọt của nó đến rất nhanh và đi rất nhanh. Còn tình yêu không như vậy. Dứt lời anh ta đổ cốc cà fê ấy đi và nói: - Tình yêu như ly rượu này, nó thật nồng nàn, ấm áp và êm đềm. Anh ta lại uống ly sâm panh. - Không! Tình yêu không thể là thứ nước khai vị chua loét này được.
  54. Chàng trai lo lắng vì không tìm được câu trả lời. Bất chợt anh ta nhìn thấy cốc nước trắng trên bàn. Anh ta reo lên: - Đúng rồi, hãy nhìn cốc nước kia, nó thật tinh khiết và giản dị. Rượu cà fê và trà cũng phải bắt nguồn từ nước. Tình yêu cũng như vậy, cái nồng nàn, ngọt ngào, êm đềm và cay đắng cũng phải xuất phát từ lòng chân thành và những điều giản dị nhất. Tình yêu là cốc nước trắng. Cô gái ngồi im, đôi mắt mở to. Và rồi cô từ từ nhấc ly nước lên và từ từ đặt vào tay chàng trai. Chàng trai đã hiểu rằng, anh ta đã có một câu trả lời đúng Hợp đồng Tình Yêu ( Bình chọn: 6 Thảo luận: 15 Số lần đọc: 9468) Bản hợp đồng này chứng nhận Anh : ___ Em : ___ Sẽ có một Tình yêu nồng thắm nếu Anh đồng ý các điều khoản sau: Điều 1: Luôn chung thuỷ với Em, không được "bắt cá hai tay”. Điều 2: Chấp nhận Em đi chơi và đùa giỡn với nhóm bạn mà không có Anh. Hơn nữa, Anh phải luôn cố gắng hoà hợp với những đứa bạn thân nổi tiếng khó chịu của Em. Điều 3: Tặng một món quà cho Em vào mỗi tuần. Có thể không mắc tiền, Em vẫn rất vui khi có cảm giác được Anh quan tâm thật nhiều.
  55. Điều 4: Không đứng một góc trong các buổi dạ hội, mà phải cùng ra khiêu vũ với Em, sau đó ăn uống một cách vui vẻ. Điều 5: Phải luôn gọi điện thoại cho Em khi đã hứa. Dù điều này có thể chạm đến quyền tự do cá nhân của Anh, nhưng giá Anh biết được Em mong nghe giọng nói của Anh như thế nào. Điều 6: Thay vì́ than vãn, rên rỉ, hãy cùng xem các chương trình truyền hình Em ưa thích, đồng thời đừng tỏ ra quá ghen tỵ khi Em tỏ ra yêu thích anh chàng đóng vai Thượng Nghị Sĩ trong bộ phim “Chuyện Tình ở MaHattan” (Nói nhỏ nha: Anh dễ thương hơn anh ta nhiều ). Điều 7: Khi cá độ hay chơi thể thao,chơi game “thua” bạn bè, thì không được cáu kỉnh, trút giận với Em. Điều 8: Đừng đem Em ra làm đề tài bàn luận khi tṛò chuyện với đám bạn (trừ khi Anh nói tốt về em). Điều 9: Đừng xem Em là một người bạn gái một cách thuần tuý, Em cọ̀n muốn làm người bạn tri giao của Anh. Điều 10: Khi Em bệnh, phải đến thăm và tặng Em thật nhiều bánh kẹo, cùng những lời yêu thương thật ngọt ngào. Điều 11: Luôn có những cử chỉ yêu thương và thật nhiều nụ hôn nồng nàn mỗi khi ta bên nhau. Điều 12: Anh đừng tỏ ra chán nản hay bực bội mỗi khi Em bắt đầu nói về một bộ áo đầm mới, hay màu son môi nào đó.
  56. Điều 13: Liên tục nhắc nhở Em không lặp lại những thói quen xấu như cắn móng tay, hay ngủ quên, trễ giờ hẹn với Anh chẳng hạn. Điều 14: Đừng nói lúng búng, nhát gừng trong miệng mỗi khi Em hỏi Anh về một vấn đề nào đó. Em rất thích nghe Anh bày tỏ ý kiến của riêng mình. Điều 15: Bỏ tất cả mọi việc và đến với Em khi Em gọi điện cho Anh. Bởi v́ chắc chắn lúc đó Em đang rất cần có Anh bên cạnh hơn bao giờ hết. Điều 16: Anh phải luôn gọn gàng , sạch sẽ khi đến gặp Em . Đừng để cho Em nh́n thấy cái áo nhăn nhúm của Anh Điều 17: Không được để Em nói chuyện” một mình”, c̣òn Anh cứ dán mắt vào TV xem bóng đá !? Điều 18: Hăy chịu khó tìm hiểu các sở thích và thói quen của Em. Đừng thắc mắc tại sao Em lại mê “shopping” và “điệu một tí” đến thế ! Điều 19: Hãy viết cho Em thư, thiệp, bài hát, thơ tình để Em biết chắc rằng Anh luôn nghĩ về Em ( Em hứa sẽ không cho ai biết đâu ! ). Điều 20: Khi Em 60 tuổi, Em vẫn thích được Anh tặng hoa hồng và gọi Em bằng những danh xưng ngọt ngào (như Anh vẫn gọi Em bây giờ í ! ). Điều 21: Hãy luôn là “bóng tùng” của em (kể cả trong việc nội trợ !?). Bởi khi bên Anh, Em bỗng trở nên mềm yếu biết bao, Em cần bờ vai của Anh để tiếp cho Em sức mạnh. Điều 22: Đưa Em đi du lịch Anh nhé, (ít nhất một năm một lần) bởi em chỉ muốn nhìn ngắm và chia sẻ những điều tuyệt vời của thế giới này cùng Anh.
  57. Điều 23: Không được bỏ em một mình (nếu đi công tác, phải gọi cho Em ít nhất một lần một ngày, nếu đi quá 3 ngày phải được Em đồng ư hoặc có Em đi cùng). Bởi Em chỉ cảm thấy an toàn khi có Anh bên cạnh. Điều 24: Không được sử dụng “Tứ đổ tường”, vì em luôn quan tâm đến sức khoẻ của Anh và Hạnh phúc của chúng ta. Điều 25: Đừng xem em là một cô bé, bởi vì em đă thật sự trưởng thành trong tình yêu của hai ta. Tp.HCM , ngày __ tháng __ năm ___ Kí tên Anh, ___ Đến phần Em, Em hứa cũng thực hiện tốt những điều quy định trong bản “Hợp Đồng Tình Yêu” này. Kí tên Em, Giá vàng sẽ “dễ thở” hơn! ( Bình chọn: 0 Thảo luận: 0 Số lần đọc: 178) Trong ngắn hạn, các yếu tố hỗ trợ sẽ khó làm vàng giảm giá sâu, nhưng trong dài hạn khi kinh tế thế giới tăng trưởng, lạm phát được kiềm chế cộng với yếu tố lịch sử luôn có giá trị sẽ làm giá vàng trở nên "dễ chịu" hơn. Giá vàng - kỷ lục không mệt mỏi Thời gian gần đây, những thông tin về việc giá vàng liên tiếp thiết lập các kỷ lục mới đã trở nên quen thuộc. Nhiều người tự hỏi, không biết đến bao giờ vàng mới "nghỉ ngơi" sau nhiều năm phá vỡ các loại kỷ lục do chính nó
  58. lập nên. Suốt hơn 10 năm qua, vàng đã liên tục tăng giá bắt đầu từ năm 1999 ở mức thấp 251 USD/ounce. Tuy nhiên, giá vàng thật sự "khởi động" chu kỳ tăng giá 10 năm của mình từ năm 2001 (bắt đầu từ 253 USD/ounce) sau hàng loạt scandal tại nền kinh tế lớn nhất thế giới là Mỹ. Tiêu biểu là 3 sự kiện: ngày 11/9/2001, Tòa tháp đôi WTC bị khủng bố; khủng hoảng công nghệ "dot com" khi hàng loạt công ty sụp đổ bởi các NĐT đổ xô bán ra cổ phiếu do họ nhận ra những cổ phiếu này đã tăng giá quá nóng vượt qua giá trị thật; vụ scandal của Tập đoàn Enron do kiểm toán gian lận làm đổ vỡ niềm tin của NĐT. Hàng loạt sự kiện trên đã làm thị trường tài chính Mỹ cùng các thị trường lớn khác trên thế giới chao đảo, giới đầu tư mất niềm tin, kinh tế thế giới rơi vào nguy hiểm. Điều này đã bắt buộc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) phải hành động khi liên tục hạ lãi suất, các ngân hàng cũng hạ các tiêu chuẩn cho vay để kích cầu (sau này giới chuyên môn cho rằng, khủng hoảng và suy thoái kinh tế giai đoạn từ năm 2007 cho đến nay bắt nguồn từ cho vay nợ dưới chuẩn tại Mỹ). Giá vàng nhân cơ hội này cũng bắt đầu "lên tiếng" Kỷ lục giá vàng từ trước đến nay hiện đang ở mức 1.388 USD/ounce thiết lập vào ngày 14/10/2010 và tại Việt Nam, với sự "hỗ trợ" của giá thế giới, giá vàng trong tháng 10 này cũng đang ở mức cao nhất mọi thời đại khi các đơn vị kinh doanh vàng đã có lúc công bố giá vàng đạt xấp xỉ 33,5 triệu đồng/lượng. Vàng - vịnh tránh bão Vàng vốn được xem là kênh đầu tư an toàn, chống lại khủng hoảng, lạm phát, sự mất giá của tiền tệ, là "vịnh tránh bão" cho dòng tiền làm nơi trú ẩn. Vì thế, khi mà khủng hoảng, suy thoái, lạm phát vẫn còn phủ một bóng đen lớn trên nền kinh tế toàn cầu thì giá vàng vẫn còn nhận được sự hỗ trợ tăng giá. Bên cạnh đó, một trong các yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến giá vàng chính là đồng USD liên tục suy yếu suốt trong 10 năm nay. Chỉ số USD Index/USDX từ mức 120 điểm vào năm 2001 (cùng thời kỳ giá vàng đạt mức thấp trong 30 năm) chỉ còn 77 điểm vào tháng 10/2010. Đây là thời kỳ mà FED liên tục hạ lãi suất từ mức 5% xuống mức siêu thấp 0,25% để kích
  59. cầu tăng trưởng kinh tế Mỹ. Tuy nhiên, điều ấn tượng nhất mà FED đã làm được không phải là đưa nền kinh tế Mỹ tăng trưởng mà chính là đưa giá vàng đi vào lịch sử. Bởi vì USD chính là đồng tiền được sử dụng để định giá vàng trên thị trường thế giới và đồng tiền này cũng được sử dụng trong thanh toán thương mại đứng đầu thế giới. Việc USD liên tục hạ giá làm giá trị của vàng cùng các loại hàng hóa khác được định giá bằng đồng tiền này trở nên rẻ hơn, kích thích giới đầu tư mua vào. Cùng với các yếu tố trên, việc các NHTW lớn trên thế giới tăng cường mua vàng để mở rộng kho dự trữ ngoại hối của họ và quan trọng là việc các nền kinh tế lớn trên thế giới tiếp tục duy trì lãi suất đồng tiền của mình ở mức thấp (đặc biệt là Mỹ) làm cho giới đầu tư thấy rằng tiền càng ngày càng mất giá, dẫn đến việc họ đổ xô vào vàng tìm kiếm nơi trú ẩn an toàn. Như vậy, việc dòng tiền chảy mạnh vào vàng sẽ hạn chế dòng tiền chảy vào nền kinh tế hay vào các kênh đầu tư mạo hiểm như chứng khoán hay bất động sản, làm các thị trường này khó mà tăng trưởng được. Như vậy, phải chăng vàng sẽ không có cơ hội sụt giảm? Tiếng nói của lịch sử Nhìn lại lịch sử cho thấy, một khi giá vàng tăng quá nóng vượt ra khỏi các yếu tố hỗ trợ thông thường thì khi điều chỉnh, mức điều chỉnh cũng sẽ làm "bàng hoàng" không kém lúc nó tăng giá. Năm 1980, giá vàng đạt mốc 850 USD/ounce sau khi gia tăng từ mức 35 USD/ounce năm 1970. Sau đó, giá vàng liên tục đi xuống trong suốt 20 năm và chỉ đi lên mạnh mẽ trở lại khi khủng hoảng kinh tế bùng nổ cộng với nguy cơ suy thoái kép lan rộng. Trong hơn 20 năm giảm giá của vàng đã làm cho nhiều nhà đầu tư phải chịu đựng thua lỗ rất lớn mà cho đến tận ngày hôm nay vẫn chưa thể "hòa vốn". Bởi vì, mặc dù giá vàng năm 1980 ở mức cao nhất chỉ là 850 USD/ounce nhưng theo tính toán thì mức này tương ứng với khoảng 3.500 USD/ounce vào năm 2010. Gần đây nhất là năm 2008 khi giá vàng đạt "đỉnh" 1.030 USD/ounce ngày 17/3/2008 và đã đảo chiều rất mạnh xuống còn 680 USD/ounce vào tháng 10 cùng năm. Ở cả 2 thời điểm này, vàng đã tăng vượt ra khỏi yếu tố hỗ trợ thông thường khi các hoạt động đầu cơ gia tăng quá mức.
  60. Giá vàng hiện nay đã đạt đỉnh của chu kỳ 30 năm (đỉnh của chu kỳ trước đó là năm 1980). Nếu lịch sử quay trở lại và lên tiếng thì giá vàng hiện đang ở trong giai đoạn cao nhất trong lịch sử của nó và có thể rớt mạnh bất cứ lúc nào. Kịch bản nào cho kỷ lục của giá vàng Việc giá vàng tăng quá nhanh và đứng ở mức cao sẽ làm kinh tế khó mà tăng trưởng do giá cả các loại hàng hóa cao sẽ dẫn đến lạm phát, trong khi nền kinh tế vẫn đang suy thoái. Đây là nguy cơ mà không quốc gia nào mong muốn. Việc kinh tế thế giới vẫn có nhiều khó khăn nhưng đã có mức tăng trưởng (cho dù chậm chạp) là một tín hiệu đáng mừng. Bởi thế, đã có một số quốc gia lớn bắt đầu tăng lãi suất trở lại như Úc và Canada. Thậm chí, NHTW Úc trong bản báo cáo mới đây cho biết tình hình hệ thống ngân hàng và các hộ gia đình nước này rất ổn định, điều này đồng nghĩa với việc các điều kiện tài chính không còn là rào cản để NHTW nước này nâng lãi suất để kiềm chế lạm phát trong tương lai. Biểu đồ lãi suất của FED, BoE và ECB từ năm 2006 đến nay Trong một bài phát biểu gần đây, ngài Ben Bernanke, Chủ tịch FED cũng cho biết, mặc dù FED vẫn duy trì lãi suất đồng USD ở mức thấp cùng với chính sách "nới lỏng có định lượng", nhưng trong thời gian tới, khi nền kinh tế tăng trưởng tốt hơn thì FED ngoài việc tăng lãi suất trở lại sẽ áp dụng thêm các biện pháp khác để "hút" bớt tiền trong lưu thông. Khi đó, điều này
  61. sẽ làm giảm nhu cầu tìm kiếm lợi nhuận an toàn từ vàng và sẽ đưa giá vàng về mức hợp lý hơn. Ngoài ra, việc các quỹ đầu tư vàng có xu hướng bán mạnh vàng ra trong tháng 10 (như SPDR Gold Trust đã bán hàng chục tấn) cho thấy, họ cũng tin rằng giá vàng đang ở mức cao nhất của nó. Như vậy, trong ngắn hạn, các yếu tố hỗ trợ sẽ khó làm vàng giảm giá sâu, nhưng trong dài hạn khi kinh tế thế giới tăng trưởng, lạm phát được kiềm chế cộng với yếu tố lịch sử luôn có giá trị sẽ làm giá vàng trở nên "dễ chịu" hơn. Phan Dũng Khánh 20 câu hỏi thường gặp trong tài chính (1-10) Bài này thuộc sự kiện/chuyên đề: Câu hỏi thường gặp trong tài chính ( Bình chọn: 3 Thảo luận: 6 Số lần đọc: 10026) Câu hỏi 1: Tiết kiệm là gì? Tiết kiệm là phần của thu nhập hiện tại mà ta chưa sử dụng. Cất trữ tiền, hoặc một phần thu nhập, cũng là một trạng thái tiết kiệm. Tuy vậy, tiết kiệm ở dạng phổ biến nhất là để đầu tư sinh lợi, hoặc cho vay. Câu hỏi 2: Đầu tư là gì? Đầu tư là việc tạo ra giá trị mới, hoặc bổ sung tài sản vốn, nghĩa là loại tài sản có thể sử dụng để sinh lợi. Trồng rừng là một ví dụ kinh điển về đầu tư. Người đầu tư dùng thu nhập hiện tại để mua giống cây, canh tác và bảo dưỡng rừng. Ở đây, tài sản vốn là cây, đất và toàn bộ khuôn viên rừng. Khi cây lớn và rừng phát triển tốt, thì tài sản vốn bao gồm cả gỗ, phong cảnh, và đặc tính an dưỡng, với giá trị càng tăng. Nếu chặt phá rừng, cắt bớt cây, ta gọi quá trình này là thoái vốn hay rút đầu tư. Trong quá trình rút đầu tư, giá trị tài sản vốn giảm dần do hoạt động tiêu dùng tài sản rừng. Câu hỏi 3: Bản chất của cho vay? Bản chất cho vay (lending) là tham gia giao dịch trao đổi lượng tiền, tài sản thuộc sở hữu ngày hôm nay lấy một lời hứa nhận lại số tiền và tài sản đó vào một thời điểm tương lai.
  62. Ngược với đầu tư vào tài sản vốn, khi thu nhập của ta được tiết kiệm để cho vay, ta sở hữu quyền được đòi lại phần tài sản chính đáng trong tương lai bao gồm cả thu nhập từ tài sản đó, nhưng lại không trực tiếp tham gia vào làm tăng tài sản vốn. Trực tiếp mà nói, cho vay chỉ liên quan tới lời hứa trả tiền giữa hai thời điểm hôm nay và ngày mai. Câu hỏi 4: Bản chất của đi vay? Ngược với cho vay. Đi vay đơn giản là nhận lấy quyền được sử dụng lượng tài chính (tiền mặt hoặc tương đương) do người cho vay tiết kiệm và trao đổi. Lẽ tự nhiên, để có được quyền đó, người đi vay phải hứa trả lại lượng tài chính đó vào một thời điểm xác định trong tương lai. Bốn vấn đề trên liên quan chặt chẽ với nhau và có sợi dây liên kết là sự lựa chọn tiêu dùng hiện tại hay tương lai. Câu hỏi 5: Thị trường tài chính là gì? Thị trường tài chính là các thể chế, quá trình và cơ cấu giúp cho các công ty và cá nhân kinh doanh có thể huy động vốn để triển khai và thực hiện mục tiêu hoạt động. Tầm quan trọng của thị trường tài chính nằm ở khía cạnh liên kết giữa các quyết định chi tiêu của loài người, trong cả đời sống cá nhân-gia đình lẫn thế giới kinh doanh. Cá nhân và nhà kinh doanh luôn có thể đóng vai trò hoặc thụ động hoặc chủ động trên thị trường tài chính. Đối với cá nhân, thị trường tài chính giúp cải thiện nguồn thu nhập và tối ưu hoá tài sản trong tương lai. Đối với công ty, nó tăng cường nguồn lực và cải thiện hiệu quả quản trị tài chính. Ở một góc độ khác, thị trường tài chính là nơi hoặc cơ chế tại đó các tài sản tài chính được trao đổi và giá của chúng được hình thành bởi các lực lượng tham gia. Câu hỏi 6: Tài sản tài chính là gì? Tài sản tài chính là công cụ xác lập quyền sở hữu đối với dòng thu nhập/dòng tài chính trong tương lai. Nó có thể là một trái phiếu chính phủ, hoặc một cổ phiếu công ty XYZ. Câu hỏi 7: Chức năng tài sản tài chính là gì? Tài sản tài chính có hai chức năng cơ bản. Thứ nhất, nó là phương tiện để dòng tài chính có thể dịch chuyển từ nơi dư thừa sang nơi đang thiếu, hoặc có cơ hội đầu tư sinh lợi. Thứ hai, nó là phương tiện để dịch chuyển
  63. rủi ro từ người đang triển khai phương án đầu tư sang người cung cấp dòng tài chính cho các dự án đó. Câu hỏi 8: Chức năng quan trọng nhất của thị trường tài chính? Thị trường tài chính có hai chức năng quan trọng bậc nhất, và không thể bỏ qua như sau: (1) Thị trường tài chính phải hoàn thành chức năng sinh ra tính thanh khoản (liquidity) phục vụ người nắm giữ tài sản tài chính; và (2) Thị trường tài chính phải hoàn thành nhiệm vụ làm giảm thiểu chi phí giao dịch (cost of transaction) trong hoạt động dịch chuyển dòng tài chính giữa các thành phần tham gia. Thanh khoản nói tới khả năng có thể bán một tài sản tài chính nhanh chóng, với chi phí thực hiện giao dịch rất nhỏ. Tính thanh khoản là một đặc tính vô cùng quý giá của một tài sản tài chính. Nếu như tài sản không có tính thanh khoản, cách duy nhất để nhận được giá trị tài sản đó là chờ cho tới khi nhận được dòng tài chính do tài sản quy định. Tuy vậy, nhiều bất chắc có thể xảy ra trong tương lai, do đó sự tồn tại tính thanh khoản tài sản làm tăng cơ hội và tính linh hoạt cho tất cả các thành phần tham gia thị trường. Câu hỏi 9: Vài nét căn bản về kinh tế học tài chính? Kinh tế học tài chính là một ngành khoa học có mục tiêu hiểu biết về thế giới tài chính, và sự hiểu biết đó có thể phục vụ mục tiêu tiếp theo là cải thiện vận hành của nền kinh tế tài chính. Kinh tế học tài chính có khía cạnh quan trọng nhất, giống như các nhánh khác của kinh tế học, là nghiên cứu hành vi con người trong nền kinh tế thị trường, vận dụng tính phức hợp và khái quát các vấn đề hắc búa trong phương pháp luận mà nhiều ngành khoa học chính xác truyền thống khác chưa từng phải xử lý. Dưới đây là tổng quát về hướng phát triển phương pháp luận trong kinh tế tài chính. Lý thuyết chuẩn tắc: Là lý thuyết phát triển một thủ tục hay một tập hợp quy tắc để hoàn thành một mục tiêu đặt ra. Nó mang tính chất giải thích "sự vật nên/cần phải vận động theo hướng này." Ví dụ: nếu mục tiêu của bạn là đầu tư vào tài sản tài chính trên thị trường chứng khoán, lý thuyết chuẩn tắc sẽ phải được ứng dụng để cung cấp một chuỗi quy tắc đưa đến trạng thái bạn có thể tối đa hoá tài sản. Lý thuyết thực chứng: Là mệnh đề mô tả trạng thái thực, thay vì mang màu sắc "mong muốn" như lý thuyết chuẩn tắc. Nói ngắn gọn, loại lý thuyết này