Giáo trình Phân tích họat động kinh doanh (Phần 2)

pdf 34 trang phuongnguyen 4780
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Phân tích họat động kinh doanh (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_phan_tich_hoat_dong_kinh_doanh_phan_2.pdf

Nội dung text: Giáo trình Phân tích họat động kinh doanh (Phần 2)

  1. CHƯƠNG 4. PHÂN TÍCH RỦI RO CỦA DOANH NGHIỆP Phân tích hiệu quả của doanh nghiệp chỉ mới là một mặt để xem xét tinh hình tài chính của doanh nghiệp. Những kết luận rút ra từ nội dung phân tích này sẽ không đầy đủ nếu ta không xem xét một dạng khác của nó, đó là rủi ro của doanh nghiệp. Hiệu quả hoạt động của một doanh nghiệp chỉ có thể được xem xét tương ứng với một mức rủi ro mà nó có thể chịu và ngược lại. Nha ìđầu tư chỉ chấp nhận một rủi ro đầu tư tương ứng với một hiệu quả trông chờ nào đó. Trong chương này ta sẽ nghiên cứu các chỉ tiêu và phương pháp phân tích rủi ro của doanh nghiệp. Rủi ro của doanh nghiệp có thể được xem xét ở nhiều khía cạnh khác nhau. Theo quan điểm của nhiều nhà phân tích, rủi ro mà doanh nghiệp phải gánh chịu trên cơ sở nguồn gốc hình thành, có thể được phân thành 2 loại: đó là rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính. Tuy nhiên, cần phải tách rời rủi ro phá sản với việc không có khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Trường hợp này chỉ xảy ra khi doanh nghiệp không có người đầu tư, hoặc không thể tìm ra được nguồn trong thị trường tài chính, nên không có vốn để hoạt động. Trong khi đó rủi ro tài chính là do sự không chắc chắn hoặc được thể hiện bởi sự biến thiên của khả năng sinh lợi vốn chủ sở hữu. Dĩ nhiên hai loại rủi ro tài chính và phá sản thường có mối liên hệ với nhau, nhất là trong điều kiện sự vay nợ kéo theo việc trả một khoản chi phí và như vậy sẽ làm tăng rủi ro phá sản. Các loại rủi ro khác như rủi ro trao đổi, rủi ro của những thay đổi lãi suất vay không nghiên cứu ở đây. Nó chỉ được xem xét như là các nhân tố ảnh hưởng tạo nên rủi ro kinh doanh. 1. Phân tích rủi ro kinh doanh. 1.1. Phân tích rủi ro kinh doanh qua độ biến thiên Rủi ro kinh doanh được hiểu là rủi ro gắn liền với sự không chắc chắn, sự biến thiên của kết quả và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Theo quan điểm phân tích thống kê, người ta thường sử dụng phương sai để đánh giá tính bấp bênh của một đại lượng, độ biến thiên của một chỉ tiêu. Giả sử để xem xét độ biến thiên của chỉ tiêu k, ta dùng phương sai (ký hiệu là Var, (2) để thể hiện và phương sai sẽ được tính bằng bình phương các độ lệch của chỉ tiêu nghiên cứu với giá trị trung bình, giá trị kỳ vọng của nó. n 2 ˆ 2 Var(k)   (ki k) pi i 1 trong đó: 1
  2. n ˆ k  pi ki laì giaï trë kyì voüng hoàûc giaï trë trung bình của chỉ tiêu nghiên i 1 cứu nào đó (ví dụ: doanh thu, lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận ) ki là giá trị thứ i của chỉ tiêu nghiên cứu pi là xác xuất để đạt được chỉ tiêu ki Tuy nhiên trong khá nhiều trường hợp, để chỉ tiêu có giá trị tương ứng và phù hợp trong nghiên cứu và đơn vị tính toán, người ta còn thường dùng chỉ tiêu độ lệch chuẩn (ký hiệu ????nó được tính bằng căn số bậc hai của phương sai. Độ lệch chuẩn được tính bằng công thức n ˆ 2   (ki k) pi i 1 Nguyên tắc sử dụng các chỉ tiêu này để đánh giá rủi ro là ở mức độ hoạt động và quy mô tương tự nhau, doanh nghiệp (phương án) nào có phương sai hoặc độ lệch chuẩn của một chỉ tiêu tài chính nhỏ hơn phương sai, độ lệch chuẩn của chỉ tiêu tương ứng của doanh nghiệp (phương án) kia thì rủi ro của doanh nghiệp (phương án) đó nhỏ hơn. Tuy nhiên, sử dụng độ lệch chuẩn có hạn chế là trong trường hợp thước đo khác nhau, giá trị kỳ vọng giữa các phương án so sánh khác nhau thì phương sai, giá trị độ lệch chuẩn không thể làm căn cứ để đánh giá. Để giải quyết hạn chế này, người ta sử dụng hệ số biến thiên. - Hệ số biến thiên (coefficient of variation), Hbt, được thể hiện bằng tỷ số giữa độ lệch chuẩn và giá trị trung bình hoặc kỳ vọng của nó.  H bt kˆ Hệ số biến thiên được sử dụng để đánh giá mức độ rủi ro chính xác hơn khi kết quả hoặc sự kiện có kỳ vọng giữa các phương án kinh doanh khác nhau. Nó cho phép ta loại bỏ sự khác nhau về đơn vị nghiên cứu cũng như sự khác nhau về quy mô giữa các doanh nghiệp. Hệ số biến thiên thường dùng để so sánh giữa các phương án hoặc giữa các doanh nghiệp, các thời kỳ. Phương án nào có hệ số biến thiên càng nhỏ thì phương án đó ít rủi ro hơn. Ví dụ dưới đây minh họa đánh giá mức độ rủi ro của 2 doanh nghiệp có hiệu quả hoạt động thể hiện qua chỉ tiêu tỷ suất sinh lợi tài sản (ROA) ở các kỳ kinh doanh như sau. Giả sử rằng xác suất để đạt được kết quả ở các quý như nhau. Quý 1 Quý 2 Quý 3 Quý 4 ROA (DN A) 1,50 4,00 3,00 1,00 ROA (DN B) 20,00 24,00 19,00 15,00 Để xem xét mức độ biến thiên hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp, ta tính toán các chỉ tiêu phương sai, độ lệch chuẩn và hệ số biến thiên của chỉ tiêu tỷ suất sinh lời tài sản của từng doanh nghiệp. Kết quả tính toán của doanh nghiệp A như sau: 2
  3. 2 2 2 2 Var H A 1,5 2,375 x0,25 4 2,375 x0,25 3 2,375 x0,25 1 2,375 x0,25 =1,421875 1,1924  1,421875 1,1924 vaì H 0,5020 A bt 2,375 Các chỉ tiêu có liên quan của doanh nghiệp B cũng được tính tương tự và thể hiện qua bảng sau: Bảng 4.1. Bảng đánh giá rủi ro kinh doanh Phương sai Độ lệch Trung bình Hệ số biến chuẩn thiên Doanh nghiệp A 1,421875 1,1924 2,375 0,5020 Doanh nghiệp B 10,25 3,2015 19,50 0,1641 Bảng tính toán trên cho thấy việc sử dụng phương sai và độ lệch chuẩn cho kết quả khác với hệ số biến thiên. Trong trường hợp này, vì quy mô của 2 doanh nghiệp này khác nhau và trị giá trung bình về hiệu quả kinh doanh giữa hai doanh nghiệp cũng khác nhau nên cần sử dụng hệ số biến thiên để đánh giá rủi ro kinh doanh. Hệ số biến thiên hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp của doanh nghiệp A cao hơn doanh nghiệp B (0,50 > 0,16), do vậy có thể kết luận rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp A cao hơn doanh nghiệp B. 1.2. Phân tích rủi ro kinh doanh qua đòn bẩy kinh doanh Hệ số đòn bẩy kinh doanh còn gọi là độ lớn, hiệu ứng đòn bẩy kinh doanh là chỉ tiêu phản ánh ảnh hưởng của những thay đổi về doanh thu đối với lợi nhuận của doanh nghiệp. Độ lớn của đòn bẩy kinh doanh (K) được xác định bằng công thức: % thay âäøi låüi nhuáûnkinh doanh Âäü låïnâoìn báøy kinh doanh % thay âäøi doanh thu LN / LN hay K DT/DT Trong đó LN là lợi nhuận kinh doanh của doanh nghiệp. DT là doanh thu hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Hệ số K cho thấy: cứ 1 % thay đổi về doanh thu sẽ ảnh hưởng đến K% thay đổi về lợi nhuận kinh doanh. Lợi nhuận tính theo độ lớn đòn bẩy kinh doanh không tính đến chi phí trả lãi vay nhằm loại bỏ ảnh hưởng của cơ cấu và chi phí nguồn vốn khi phân tích rủi ro kinh doanh. Hệ số đòn bẩy kinh doanh cho thấy ứng với một mức họat động, hệ số này càng cao thì doanh nghiệp có thể đạt hiệu quả kinh doanh lớn nhưng hiệu quả kinh doanh cũng sẽ biến thiên lớn và như vậy rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp cũng cao. Lý do 3
  4. là chỉ một thay đổi nhỏ về doanh thu cũng dẫn đến một sự thay đổi lớn hơn về lợi nhuận kinh doanh. Lợi nhuận kinh doanh sẽ tăng rất nhanh trong trường hợp mở rộng thị trường, tăng doanh thu nhưng cũng giảm rất mạnh nếu tiêu thụ của doanh nghiệp giảm. 1.3. Mức độ phân bổ giữa chi phí biến đổi và chi phí cố định Rủi ro gắn liền với sự không chắc chắn của hiệu quả kinh doanh phụ thuộc chủ yếu vào sự phân bố giữa biến phí và định phí. Trong trường hợp chi phí kinh doanh của doanh nghiệp được tách biệt thành biến phí và định phí thì hệ số đòn bẩy kinh doanh tại một mức độ hoạt động của doanh nghiệp có thể được xem xét như sau: LN / LN K DT/DT Trong đóĠ vàĠ Vì định phí và giá bán đơn vị không đổi nên ? ĐP = 0 và ? DT = G x Q. LN Q(G - BPâv) DT G Q Q vaì LN Q(G - BPâv)- ÂP DT G Q Q Q(G - BPâv) Q(G - BPâv)- ÂP ÂBKD Q Q Q(G - BPâv) hay K = ÂBKD Q(G - BPâv)- ÂP Trong đó : Q : Số lượng sản phẩm tiêu thụ G : Đơn giá bán sản phẩm BPđv : Biến phí đơn vị ĐF : Tổng định phí Công thức trên cho thấy, định phí có ảnh hưởng lớn đến hệ số K vừa tính được. Tại một mức hoạt động, tỷ lệ định phí trong tổng chi phí càng lớn thì độ lớn đòn bẩy kinh doanh càng cao và rủi ro của doanh nghiệp càng lớn. Do vậy nhân tố về phân bổ chi phí cố định cũng còn được gọi là đòn cân định phí. Nhân tố này thể hiện: nếu tỷ trọng chi phí cố định của doanh nghiệp trong tổng chi phí cao và tỷ trọng này không giảm khi nhu cầu cắt giảm thì rủi ro của doanh nghiệp càng gia tăng. Điều này cũng có thể được giải thích như sau, chi phí cố định phụ thuộc vào mức độ đầu tư và công nghệ của doanh nghiệp, doanh nghiệp nào có nhiều tài sản cố định sẽ có đòn bẩy kinh doanh lớn nhưng lại rất khó khăn trong việc chuyển đổi nhanh hình thức hoạt động kinh doanh. Do đó doanh nghiệp sẽ thiếu tính năng động trong việc thích ứng với sự phát triển của thị trường và rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp sẽ lớn. 4
  5. Các doanh nghiệp SX thường có tỷ trọng tài sản cố định lớn nên độ lớn đòn bẩy kinh doanh cao, trong khi đó các doanh nghiệp thương mại có độ lớn đòn bẩy kinh doanh thấp. Vì vậy, các doanh nghiệp sản xuất thường rủi ro nhiều hơn các doanh nghiệp thương mại. Để xem xét rõ hơn mối quan hệ giữa rủi ro kinh doanh qua chỉ tiêu phương sai của lợi nhuận và doanh thu đối với các doanh nghiệp có tỷ trọng định phí khác nhau, chúng ta nghiên cứu các công thức sau: LN Q(G - BPâv)- ÂP vaì DT Q G Trong đó G - BPđv được gọi là số dư đảm phí đơn vị. Nếu gọi a là tỷ lệ biến phí trên doanh thu (BP/DT) hay (BPđv/G) và (1 - a) là tỷ lệ số dư đảm phí, thì: LNkd DT aDT ÂP LNkd DT 1 a ÂP Var LNkd Var DT 1 a Var ÂP Trong điều kiện không thay đổi, tỷ lệ số dư đảm phí và định phí là hằng số, do vậy phương sai của chúng là bằng 0. Từ đó có thể rút ra:Ġ Hoặc nếu dùng độ lệch chuẩn thǬ. Do vậy tỷ lệ số dư đảm phí càng cao thì rủi ro của doanh nghiệp càng lớn. Một sự biến thiên nhỏ của doanh thu sẽ dẫn đến biến thiên lớn gấp (1 - a)2 so với biến thiên DT đối với lợi nhuận. 1.4. Phân tích rủi ro kinh doanh qua hệ số an toàn Hệ số an toàn được định nghĩa là tỷ lệ giữa doanh thu với độ lệch giữa doanh thu và doanh thu hòa vốn của doanh nghiệp. DT H at DT DThv Với Hat là hệ số an toàn. DThv là doanh thu hòa vốn. Hệ số an toàn càng lớn thì rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp càng lớn và ngược lại hệ số an toàn càng nhỏ thì rủi ro càng bé. Điều này có thể được giải thích bởi khoảng cách giữa doanh thu với doanh thu hòa vốn. Nếu hệ số an toàn càng lớn thì tỷ lệ giữa doanh thu trên doanh thu hòa vốn càng bé, doanh thu khá gần so với doanh thu hòa vốn và doanh nghiệp có khả năng bị lỗ, như vậy rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp càng lớn Thật vậy, kết luận rút ra ở trên có thể được làm rõ khi xem xét mối quan hệ giữa độ lớn đòn bẩy kinh doanh với hệ số an toàn. Từ các công thức trên độ lớn đòn bẩy kinh doanh sẽ chứng minh rằng: 5
  6. DT ÂBKD DT DThv Như đã nghiên cứu ở trên, độ lớn đòn bẩy kinh doanh (K) được tính theo: Q(G- BPâv) QG 1 a K = Q(G- BPâv)- ÂP QG 1 a ÂP Trong đó : a: là tỷ lệ biến phí đơn vị trên giá bán đơn vị và (1 - a) là tỷ lệ số dư đảm phí. Nó được xác định bằng tỷ lệ giữa số dư đảm phí trên doanh thu hoặc biến phí đơn vị trên giá bán đơn vị. Chia tử và mẫu số cho (1 - a) ta được: Q(G - BPâv) DT K= ÂP Q(G - BPâv)- ÂP DT 1-a NhưngĠ Do vậyĠ Theo công thức trên, thì nếu doanh thu đạt được càng xa doanh thu hòa vốn thì hệ số an toàn càng bé (độ lớn đòn bẩy kinh doanh càng bé), rủi ro bị lỗ của doanh nghiệp sẽ thấp. Sản lượng, doanh thu hòa vốn của doanh nghiệp tùy thuộc một phần vào quy mô của định phí (quy mô đầu tư). Trong điều kiện lợi nhuận của doanh nghiệp là dương và các nhân tố khác không đổi (giá bán, biến phí), doanh nghiệp nào có tỷ lệ định phí cao hơn sẽ có điểm hòa vốn xa hơn, rủi ro của doanh nghiệp càng lớn. Hoạt động càng xa vùng hòa vốn thì rủi ro kinh doanh càng thấp vì những thay đổi về giá bán, chi phí sẽ khó dẫn đến sự thua lỗ của doanh nghiệp. Và theo công thức trên, độ lớn đòn bẩy kinh doanh của doanh nghiệp thấp. Ngược lại, hoạt động của doanh nghiệp càng gần vùng doanh thu hòa vốn thì độ lớn đòn bẩy kinh doanh càng cao, tức rủi ro kinh doanh càng lớn. Nếu hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ở gần vùng hòa vốn thì đó là biểu hiện không tốt vì đó là tình trạng cực kỳ mạo hiểm. Có thể minh họa các nhận xét trên thông qua đồ thị sau: Chi phê, Doanh G thu Q1x BPâv+ÂP SD ÂP DTHV 6 ÂP
  7. 1.5. Phân tích rủi ro kinh doanh qua khái niệm xác suất Các đại lượng ngẫu nhiên thường tuân theo một quy luật phân phối xác suất nào đó. Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp cũng tương tự như vậy. Giả sử ta đã biết quy luật phân phối xác suất của kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, và nó là phân phối chuẩn N(a, ?a). Như vậy, có thể xác định xác suất để kết quả kinh doanh của doanh nghiệp đạt được một giá trị nào đó. Xác suất để kết quả kinh doanh của doanh nghiệp đạt được một giá trị nhỏ hơn không (0) cũng là một chỉ dẫn để đánh giá rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào có xác suất P(LN < 0) càng cao thì rủi ro kinh doanh càng lớn và ngược lại. Điều này có thể thấy trên hình vẽ sau: F(X) P(LN) < 0 Để minh họa, ta phân tích rủi ro của 2 doanh nghiệp A và B,LN trongKD đó mức độ và quy mô hoạt động của 2 doanh nghiệp tương tự nhau, nhưng cấu trúc chi phí khác nhau. Tỷ lệ biến phí trên doanh thu của doanh nghiệp A là 50%, của doanh nghiệp B là 30%. Bảng 4.2. Các chỉ tiêu đánh giá rủi ro kinh doanh Doanh nghiệp A Doanh nghiệp B Mức độ hoạt động Xấu Trung Tốt Xấu Trung Tốt bình bình Xác suất đạt được mức độ 0,25 0,5 0,25 0,25 0,5 0,25 hoạt động Doanh thu 1.000 2.000 3.000 1.000 2.000 3.000 Biến phí 500 1.000 1.500 300 600 900 7
  8. Định phí 200 200 200 600 600 600 Lợi nhuận 300 800 1.300 100 800 1.500 Biến thiên doanh thu - 1,00 0,50 - 1,00 0,50 Biến thiên lợi nhuận - 1,67 0,63 - 7,00 0,88 Hệ số đòn bẩy kinh doanh - 1,67 1,25 - 7,00 1,75 Doanh thu hòa vốn 400 400 400 857 857 857 Doanh thu an toàn 600 1.600 2.600 143 1.143 2.143 Hệ số an toàn 1,67 1,25 1,15 7,00 1,75 1,40 Giá trị bquân của lợi nhuận 800 800 Phương sai của lợi nhuận 125.000 245.000 (Var) Độ lệch chuẩn của LN ( 354 495 Các chỉ tiêu tính ra trên đây cho thấy, với cùng giá trị kỳ vọng về lợi nhuận của hai doanh nghiệp A và B là 800, doanh nghiệp B có phương sai và độ lệch chuẩn về lợi nhuận lớn hơn nên rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp B lớn hơn rủi ro của doanh nghiệp A. Giả sử lợi nhuận của doanh nghiệp A và B tuân theo quy luật phân phối chuẩn là NA(800, 354) ; NB(800, 495). Để xem xét xác suất đạt được lợi nhuận nhỏ hơn 0, ta dùng phương pháp biến đổi sau : ĐặtĠ Ġ và Ġ Ġ ZA và ZB là các biến ngẫu nhiên tuân theo quy luật phân phối chuẩn tắc N (0,1). Dựa vào bảng thống kê luật phân phối xác suất chuẩnN(0,1), ta có thể xác định xác suất để lợi nhuận của doanh nghiệp A và doanh nghiệp B là nhỏ hơn 0. Đó chính là xác suất để mà: P(LNA < 0) = P(ZA < -2,26) = 1- P(ZA < 2,26) = 1-0,988 = 0,012 P(LNB < 0) = P(ZB < -1,62) = 1- P(ZB < 1,62) = 1-0,947 = 0,053 Với cách phân tích này ta cũng nhận thấy rằng rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp B là lớn hơn rủi ro của doanh nghiệp A vì xác suất được lợi nhuận âm của doanh nghiệp B cao hơn của doanh nghiệp A. Hệ số an toàn và rủi ro kinh doanh SD ÂP LNB 8 100 ÂP, 600
  9. Trong đó A : Doanh thu - Doanh thu hòa vốn của doanh nghiệp A B : Doanh thu - Doanh thu hòa vốn của doanh nghiệp B 1.6. Phương pháp phân tích rủi ro kinh doanh Phân tích rủi ro của doanh nghiệp cần xác định các chỉ tiêu đã nghiên cứu ở trên và so sánh giữa các thời kỳ, giữa các doanh nghiệp, hoặc so sánh với các chỉ tiêu trung bình ngành. Qua đó có thể đánh giá mức độ rủi ro của doanh nghiệp giữa các thời kỳ hoặc giữa các phương án nghiên cứu khác nhau hoặc xu hướng rủi ro. Trên cơ sở đó ta xem xét các nhân tố, nguyên nhân ảnh hưởng từ đó có phương hướng khắc phục và các biện pháp cụ thể để chọn được phương án ít rủi ro nhất hoặc để giảm rủi ro trong các giai đoạn sau. Để phân tích các nguyên nhân và nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp nhằm có biện pháp khắc phục, cần kết hợp các yếu tố định tính và định lượng. Rủi ro kinh doanh giữa các doanh nghiệp thuộc các ngành khác nhau thường không như nhau. Rủi ro kinh doanh cũng thay đổi theo thời gian do môi trường kinh tế chính trị - xã hội không phải lúc nào cũng ổn định. Phân tích rủi ro kinh doanh không chỉ xem xét đến hoạt động của doanh nghiệp mà còn xem đến tác động của môi trường. Khi phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro kinh doanh, cần chú ý đến các vấn đề sau: Sự biến đổi nhu cầu thị trường. Khi nhu cầu thị trường ổn định và số lượng sản phẩm tiêu thụ của doanh nghiệp ổn định, trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp càng thấp. Nhân tố này cho thấy rủi ro kinh doanh giữa các ngành hoàn toàn khác nhau, và sự khác nhau này giữa các doanh nghiệp tùy thuộc vào vị trí của doanh nghiệp trên thị trường. Những sản phẩm kinh doanh có chu kỳ sống sản phẩm càng ngắn thì rủi ro kinh doanh càng cao. Vấn đề độc quyền trên thị trường; hay sự liên minh, liên kết hoặc sản phẩm đang trong giai đoạn tăng trưởng đều tạo cho doanh nghiệp một doanh số ổn định, rủi ro của doanh nghiệp được xem là thấp. Vì vậy, trong phân tích tài chính, 9
  10. nhà phân tích nên xem xét đến biến động của doanh thu trong nhiều năm liên tiếp và thông qua đó đánh giá triển vọng của doanh nghiệp trong tương lai. Sự biến đổi giá bán: Những doanh nghiệp mà có giá bán sản phẩm dễ dao động thường mang rủi ro kinh doanh cao hơn những doanh nghiệp có giá bán ổn định. Nhân tố này gắn liền với nhân tố doanh thu ở trên vì sự thay đổi giá cả thường dẫn đến khách hàng thay đổi sản phẩm tiêu thụ. Ngoài ra, đây còn là cơ sở đánh giá mức độ rủi ro giữa các ngành kinh doanh. Khi phân tích sự biến đổi giá bán cũng cần xem đến đặc điểm của sản phẩm (nhất là độ co giãn của cầu theo giá) và cả chiến lược định giá của doanh nghiệp. Các vấn đề về tính thời vụ, thiên tai, quản lý giá cả, điều kiện giao thông vận tải, khả năng phát sinh các doanh nghiệp mới trong những ngành nghề hấp dẫn, những thay đổi công nghệ phải được xem xét toàn diện vì chúng có liên quan mật thiết đến giá cả của doanh nghiệp Sự biến đổi về giá cả các yếu tố đầu vào. Nhân tố này thể hiện: những doanh nghiệp có giá cả các yếu tố đầu vào luôn biến động (luôn biến thiên) thì có mức độ rủi ro kinh doanh cao vì yếu tố này sẽ tác động đến lợi nhuận trong tương lai thông qua mức chi phí. Sự biến đổi về giá cả đầu vào thường có nhiều yếu tố tác động, cả do chủ quan lẫn khách quan. Các yếu tố khách quan bao gồm: biến động nền kinh tế (lạm phát, tỷ giá ), tính khan hiếm của vật tư hàng hóa, thời vụ, giao thông vận tải, giá cả các mặt hàng có liên quan (sản phẩm bổ sung), chính sách của Nhà nước . Các yếu tố chủ quan thường do khả năng kiểm soát của doanh nghiệp đối với giá các yếu tố đầu vào. Chẳng hạn, quản lý chặt chẽ chi phí thu mua, khả năng gây ảnh hưởng của doanh nghiệp đối với nhà cung cấp. Nói chung, một khi giá các yếu tố đầu vào ổn định thì lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ ít bị ảnh hưởng. Khả năng thay đổi giá bán khi có sự thay đổi giá đầu vào. Không phải doanh nghiệp nào cũng có khả năng tăng giá bán khi giá đầu vào gia tăng. Có nhiều lý do cho vấn đề này vì áp lực từ phía Nhà nước, do cách ứng xử của đối thủ cạnh tranh, do phản ứng từ phía người tiêu dùng; và cả vị trí của doanh nghiệp trên thị trường. Những doanh nghiệp nào có khả năng thay đổi giá bán càng lớn khi giá đầu vào thay đổi, doanh nghiệp đó càng có mức độ rủi ro kinh doanh thấp. Nhân tố này đặc biệt quan trọng khi doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế có mức lạm phát cao. Ngày nay, hoạt động kinh doanh có xu hướng toàn cầu hóa nên bất kỳ khủng hoảng kinh tế khu vực đều có khả năng gây ảnh hưởng đến biến động về giá. Trong điều kiện kinh tế ở Việt Nam, phân tích nhân tố này còn phải xem xét đến quy chế định giá của doanh nghiệp. Giá cả sản phẩm mà doanh nghiệp kinh doanh phải được sự chấp thuận của cơ quan quản lý giá của Nhà nước hay doanh nghiệp tự định giá. Trong trường hợp giá cả phải do Nhà nước chấp nhận thì sự linh hoạt này thường thấp hơn các doanh nghiệp tự do cạnh tranh. Ở đây chúng ta chỉ xem xét một số các nhân tố, nguyên nhân ảnh hưởng đến rủi ro của doanh nghiệp. Việc xem xét mức độ ảnh hưởng của chúng thường rất phức tạp. Mối quan hệ giữa chúng không biểu hiện trực tiếp thành các công thức. Do vậy phương pháp có thể dùng để xác định các nhân tố ảnh hưởng là phương pháp tương quan. Các biện pháp nhằm giảm rủi ro của doanh nghiệp được xem xét trên các cơ sở sau: 10
  11. + Căn cứ vào quy mô thị trường và sự ổn định của thị trường. Nếu DNSX có độ lớn đòn bẩy kinh doanh cao nhưng thị trường nhỏ bé (quy mô nhỏ) hay doanh thu của doanh nghiệp không ổn định thì rủi ro của doanh nghiệp rất lớn. Lý do là sự biến động về doanh thu luôn có khả năng xảy ra và điều này sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Trong những trường hợp như vậy, việc đầu tư lớn thường mang nhiều rủi ro. Vì thế, trong đầu tư cho sản xuất, thông thường nhà kinh doanh hay quan tâm đến yếu tố thị trường để có sự đầu tư hợp lý nhất. Để tiếp cận một thị trường mới, không có nhà đầu tư nào dám mạo hiểm xây dựng ngay nhà máy mà phải qua các bước thiết lập: mở văn phòng đại diện, mở đại lý, mở chi nhánh, và khi thị trường đã chắc chắn thì mới xây dựng nhà xưởng. Đó là cách làm thận trọng vì tính không chắc chắn của thị trường. + Khả năng kiểm soát chi phí cố định của doanh nghiệp. Trong thực tế, chi phí cố định rất đa dạng, bao gồm chi phí có thể kiểm soát được và chi phí không kiểm soát được; chi phí cố định bắt buộc và chi phí cố định tùy ý. Như vậy, trong trường hợp doanh thu bị cắt giảm, việc cắt giảm các chi phí tùy ý có thể là điều kiện vẫn đảm bảo mức sinh lời của doanh nghiệp. Ngoài ra, trình độ hiện đại hóa hay thủ công cũng ảnh hưởng đến rủi ro kinh doanh khi thị trường biến động. Tóm lại: Rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp suy cho cùng tùy thuộc vào ba tham số: doanh thu, chi phí và mức độ hoạt động của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có độ lớn đòn bẩy kinh doanh cao thì những thay đổi nhỏ về doanh thu cũng tác động lớn đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Lợi nhuận kinh doanh tăng rất nhạy trong trường hợp mở rộng bán hàng nhưng sẽ giảm rất mạnh nếu có sự giảm mức tiêu thụ. Mức độ đầu tư vào cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp ảnh hưỏng đến phân bổ chi phí cố định trong tổng chi phí hoạt động của doanh nghiệp. Đây là yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp. Hoạt động của doanh nghiệp càng gần điểm hòa vốn thì rủi ro kinh doanh càng cao Khái niệm rủi ro kinh doanh không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn có ý nghĩa về mặt tài chính. Mỗi phương án sản xuất đều có một mức độ đầu tư khác nhau, một điểm hòa vốn riêng và một độ lớn đòn bẩy kinh doanh riêng. Đó là cơ sở để lựa chọn một phương cách tài trợ thích hợp trong từng bối cảnh kinh tế. 2. Phân tích rủi ro tài chính Rủi ro tài chính là rủi ro do việc sử dụng nợ mang lại, nó gắn liền với cơ cấu tài chính của doanh nghiệp. Trong phần này chúng ta chỉ nghiên cứu riêng phần ảnh hưởng của việc vay nợ đến sự biến thiên của hiệu quả tài chính của doanh nghiệp. Việc xem xét rủi ro phá sản do không có khả năng thanh toán các khoản nợ vay sẽ đề cập trong phần sau. 2.1. Nội dung phân tích rủi ro tài chính. Có thể xem xét rủi ro tài chính của doanh nghiệp trên 2 quan điểm. 11
  12. Quan điểm thứ nhất: Nếu xem hoạt động tài chính của doanh nghiệp như là một hoạt động kinh doanh thì ứng dụng các chỉ tiêu và phương pháp trong phần trước có thể được áp dụng khi phân tích rủi ro tài chính của doanh nghiệp. Theo đó ta chỉ cần thay thế kết quả kinh doanh bằng kết quả cuối cùng sau khi đã trừ đi phần chi phí tài chính (lãi vay) của doanh nghiệp. (Chi phí tài chính trong trường hợp vay để kinh doanh). Các phương pháp như sử dụng hệ số đòn bẩy kinh doanh cũng như vị trí của doanh thu hòa vốn cũng có thể được xem xét nếu ta phân biệt được biến phí và định phí tài chính. Để đơn giản hóa việc phân tích rủi ro tài chính, thường người ta giả sử chi phí tài chính (chi phí sử dụng vốn vay) là chi phí cố định. Quan điểm thứ hai: Nếu gắn liền việc vay nợ với hiệu quả của doanh nghiệp thì có thể xem xét một cách khác thông qua sự biến thiên của khả năng sinh lời nguồn vốn chủ sở hữu. Như đã đề cập ở phần trước, khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu được qua chỉ tiêu sau: Låüi nhuáûnsau thuãú Khaí nàng sinh låìi VCSH 100% Väúnchuí såí hæîu Qua phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính ở chương 3, chỉ tiêu tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu được thể hiện: N ROE RE (RE r) (1 T) VCSH N hay H TC H KD (H KD r) (1 T) VCSH trong đó T là tỷ suất thuế thu nhập doanh nghiệp r : là lãi suất vay HKD là hiệu quả kinh doanh, thể hiện qua chỉ tiêu tỷ suất sinh lời kinh tế HTC là hiệu quả tài chính, thể hiện qua chỉ tiêu tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu Chỉ tiêu trên cho thấy: tỷ suất sinh lời của VCSH tùy thuộc vào một phần cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp; tức là tùy thuộc vào mức độ sử dụng Nợ. Rủi ro tài chính là rủi ro liên quan đến sử dụng nợ của doanh nghiệp nên phân tích rủi ro tài chính về cơ bản sử dụng độ biến thiên của các chỉ tiêu trên để đánh giá. 2.2. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tài chính. Như phân tích ở trên, rủi ro tài chính của doanh nghiệp được biểu hiện bởi độ biến thiên của hiệu quả tài chính - đó chính là phương sai, độ lệch chuẩn, cũng như hệ số biến thiên. Do vậy ta xem xét công thức sau: N VAR H tc VAR H kd (H KD r) 1 T VCSH H N r N kd VAR H tc VAR H kd (1 T ) VCSH VCSH 12
  13. N r N VAR H VAR H 1 (1 T ) tc kd VCSH VCSH Vì (r x N) là một hằng số, N/VCSH và T cũng là hằng số trong quá trình phân tích. Do vậy : 2 2 N VAR H tc 1 T 1 VAR H kd VCSH Như vậy, mối liên quan giữa rủi ro tài chính và rủi ro kinh doanh có thể thông qua độ lớn đòn bẩy tài chính. N  H tc 1 1 T  H kd VCSH Trong đó chỉ tiêu N/VCS H được gọi là đòn bẩy tài chính. Theo công thức trên, rõ ràng độ biến thiên của khả năng sinh lời nguồn vốn chủ sở hữu được tạo thành bởi độ biến thiên của khả năng sinh lời tài sản và của đòn bẩy tài chính. Do vậy ? RRTC = A? H L.N/T.S + A? ĐBTC với ? RRTC là chênh lệch của độ biến thiên hiệu quả tài chính, A? H L.N/T.S là ảnh hưởng của nhân tố hiệu quả kinh doanh, A? ĐBTC là ảnh hưởng của độ biến thiên đòn bẩy tài chính. Phân tích cụ thể hơn, do việc sử dụng nợ vay để tài trợ nên chi phí sử dụng vốn giữa vốn vay và vốn chủ sở hữu luôn có sự khác biệt. Chi phí sử dụng vốn vay gắn liền với yếu tố lãi suất vay ngân hàng, mức độ lạm phát của nền kinh tế, tỷ giá ngoại tệ Khả năng sử dụng các nguồn tài trợ trên có hiệu quả lại còn phụ thuộc vào điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp trong bối cảnh chung của nền kinh tế. Vì vậy, tổ chức thông tin phân tích rủi ro tài chính nên xem xét toàn diện các vấn đề trên. Những vấn đề phân tích trên đặt ra phải xem xét ảnh hưởng của sử dụng nợ đối với vốn chủ sở hữu. Ảnh hưởng đó thể hiện qua độ lớn đòn bẩy tài chính. Độ lớn đòn bẩy tài chính còn có thể định nghĩa là chỉ tiêu đo lường ảnh hưởng của những thay đổi về lợi nhuận trước thuế và lãi vay đối với lợi nhuận trên VCSH của doanh nghiệp. % chuyãønâäøi Låüi nhuáûnãn tr 1 âäöng väúnCSH Âäü låïnâoìn báøy taìi chênh % chuyãønâäøi Låüi nhuáûnæåïc tr thuãú vaì laîi vay Gọi LV là chi phí lãi vay. Gọi EBIT là lợi nhuận trước thuế và lãi vay Gọi ROE là lợi nhuận trên một đồng vốn chủ sở hữu thì EBIT LV 1 T) ROE 13 VCSH
  14. Vì chi phí lãi vay và vốn chủ sở hữu không đổi nên (LV = 0 và Phần trăm thay đổi lợi nhuận trên một đồng vốn chủ sở hữu: Phần trăm thay đổi lợi nhuận trước thuế và lãi vay là EBIT/EBIT Theo chỉ tiêu phản ánh độ lớn đòn bẩy tài chính (KTC), ta có: ( EBIT LV )(1 T) EBIT(1 T) ROE EBIT VCSH VCSH EBIT EBIT LV (1 T ) EBIT EBIT EBIT KROETC EBIT EBITVCSH EBIT LV EBIT EBIT LV ROE (EBITEBIT LV )(1 T) EBIT LV VCSH Hay: Låüi nhuáûnæåïc tr thuãú & Laîi vay Âäü låïnâoìn báøy taìi chênh K Låüi nhuáûnæåïc tr thuãú& Laîi vay- Laîi vay TC Ý nghĩa chỉ tiêu này trong phân tích như sau: Nếu lợi nhuận trước thuế và lãi vay tăng 1% thì lợi nhuận trên 1 đồng vốn chủ sở hữu tăng K% tại một mức hoạt động nào đó. Về mặt lý thuyết, doanh nghiệp có thể sử dụng Nợ khi độ lớn đòn bẩy tài chính lớn hơn 1 vì việc vay nợ giúp doanh nghiệp đạt được tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu cao hơn. Tóm lại, việc tăng độ lớn đòn bẩy kinh doanh có thể dẫn đến tăng hiệu quả kinh doanh nhưng cũng sẽ tăng rủi ro kinh doanh. Cũng như vậy việc tăng độ lớn đòn bẩy tài chính sẽ dẫn đến tăng hiệu quả tài chính nhưng cũng kéo theo tăng rủi ro tài chính. Mức độ rủi ro tài chính phụ thuộc vào rủi ro kinh doanh, vào tỷ lệ nợ, và vào chi phí sử dụng vốn vay cũng như thuế thu nhập của doanh nghiệp. Rủi ro tài chính như vậy, phụ thuộc vào các yếu tố: Rủi ro kinh doanh, hệ số vay nợ, rủi ro gắn liền với sự gia tăng của chi phí vay và sự biến thiên của nó, thuế thu nhập doanh nghiệp. Trong số đó nhân tố chủ yếu là độ lớn đòn bẩy kinh doanh và đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp. 2.3. Ví dụ phân tích rủi ro tài chính. Tiếp tục ví dụ của doanh nghiệp A và B ở phần phân tích rủi ro kinh doanh, giả sử rằng cả 2 doanh nghiệp đều có tài sản trị giá là 2000, trong đó doanh nghiệp A vay nợ 50% với lãi suất vay là 10%, còn tài sản của doanh nghiệp B được tài trợ hoàn toàn bằng nguồn vốn chủ sở hữu. Giả sử thuế suất thu nhập doanh nghiệp của cả A và B đều bằng không (0%). Bảng số liệu dưới đây minh họa các chỉ tiêu về rủi ro kinh doanh và tài chính của cả hai doanh nghiệp. Bảng 4.3. Các chỉ tiêu phân tích rủi ro tài chính của doanh nghiệp A và B Doanh nghiệp A Doanh nghiệp B Mức độ hoạt động Xấu Trung Tốt Xấu Trung Tốt bình bình 14
  15. Xác suất đạt được mức độ hoạt 0,25 0,5 0,25 0,25 0,5 0,25 động Doanh thu 1.000 2.000 3.000 1.000 2.000 3.000 Biến phí 500 1.000 1.500 300 600 900 Định phí 200 200 200 600 600 600 Lợi nhuận 300 800 1.300 100 800 1.500 Chi phí lãi vay 100 100 100 0 0 0 Lợi nhuận thuần 200 700 1.200 100 800 1.500 Biến thiên doanh thu - 1,00 0,50 - 1,00 0,50 Biến thiên lợi nhuận - 2,50 0,71 - 7,00 0,88 Hệ số đòn bẩy kinh doanh - 2,50 1,43 - 7,00 1,75 Doanh thu hòa vốn 400 400 400 857 857 857 Doanh thu an toàn 600 1.600 2.600 143 1.143 2.143 Hệ số an toàn 1,67 1,25 1,15 7,00 1,75 1,40 Giá trị kỳ vọng lợi nhuận sau thuế 700 800 Phương sai lợi nhuận sau thuế 125.000 245.000 Độ lệch chuẩn lợi nhuận sau thuế 354 495 Độ lệch chuẩn ROA 0,177 0,248 Độ lệch chuẩn ROE 0,354 0,248 Rõ ràng các chỉ tiêu tính ra trên đây có kết quả khác nhau, rủi ro tài chính của doanh nghiệp A lớn hơn rủi ro tài chính của doanh nghiệp B. Kết luận này đối nghịch với kết quả đạt được khi phân tích rủi ro kinh doanh, theo đó doanh nghiệp B có mức độ rủi ro cao hơn. Kết luận khi dùng các chỉ tiêu này phù hợp với kết luận khi phân tích bằng độ lớn đòn bẩy kinh doanh và đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp nhưng không phù hợp với việc phân tích rủi ro bằng hệ số an toàn vì trong trường hợp này xem xét toàn bộ chi phí lãi vay là định phí và viêc tách rời biến phí và định phí hình như chưa được phù hợp lắm. 3. Phân tích rủi ro phá sản. Rủi ro phá sản là rủi ro gắn liền với khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp. Trong quan hệ thanh tóan hiện nay, doanh nghiệp nào cũng thực hiện việc tài trợ vốn thông qua việc vay nợ ngắn hạn. Điều đó luôn gắn liền với một rủi ro phá sản khi khả năng thanh toán giảm tới một mức độ báo động. Doanh nghiệp không đủ vốn tự tài trợ thường gặp khó khăn sau: việc vay nợ quá nhiều rất nguy hiểm cho doanh nghiệp, cho dù hạn trả nợ chưa đến. Việc mắc nợ sẽ kéo theo các khoản chi trả cố định hằng năm, như: các khoản hoàn trả nợ gốc và trả lãi. Với nguồn vốn chủ sở hữu thì không có rủi ro này vì doanh nghiệp không phải cam kết thanh toán các khoản chi phí của vốn chủ sở hữu. 15
  16. Hơn nữa, một doanh nghiệp nợ quá nhiều sẽ khó khăn trong việc đi vay, và như vậy, sự phát triển của doanh nghiệp sẽ bị kìm hãm. Nếu doanh nghiệp có nhiều nguồn vốn nợ phải trả người cung cấp thì có nguy cơ mất nguồn này nếu các nhà cung cấp giảm các khoản tín dụng. 3.1. Chỉ tiêu phân tích Mối quan tâm của chủ nợ là tình trạng hiện tại của doanh nghiệp, đó là khả năng huy động vốn để đáp ứng nhu cầu huy động và để trả ngay các khoản nợ tới hạn. Có rất nhiều chỉ tiêu phản ánh tình trạng này. Trong thực tế, để đánh giá rủi ro phá sản hoặc khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp, ta dựa trên khả năng hoán chuyển thành tiền của các tài sản của doanh nghiệp. Hệ số chung để đánh giá khả năng thanh toán được tính như sau : Säú tiãöncoï thãøduìng âãø traí nåü Khaí nàng thanh toaïn Säúnåüü ngàõn haûn phaíi traí Hệ số này được biểu hiện cụ thể qua rất nhiều chỉ tiêu, ở đây ta chỉ đề cập các chỉ tiêu cơ bản sau: 3.1.1. Khả năng thanh toán hiện hành Khả năng thanh toán hiện hành (Khh) của doanh nghiệp được định nghĩa là mối quan hệ giữa toàn bộ tài sản có thời gian chu chuyển ngắn của doanh nghiệp với nợ ngắn hạn. Chỉ tiêu này được tính như sau: TSNH K = hh Nåü ngàõn haûn Chỉ tiêu khả năng thanh toán hiện hành càng lớn chứng tỏ khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp càng cao, rủi ro phá sản của doanh nghiệp càng thấp. Nhưng nếu chỉ tiêu này lớn quá cũng chưa hẳn đã tốt. Nó chỉ cho thấy sự dồi dào của doanh nghiệp trong việc thanh toán nhưng có thể dẫn đến hiệu quả sử dụng tài sản không tốt và điều này có thể dẫn đến một tình hình tài chính tồi tệ. Kinh nghiệm cho thấy chỉ tiêu khoảng bằng 2 là vừa phải. Tuy nhiên, số liệu này chỉ mang tính chất tham khảo, vì nó biến động tùy thuộc vào nhiều nhân tố và nhiều điều kiện khác nhau của từng ngành. Hạn chế của chỉ tiêu này là tử số của nó bao gồm nhiều loại tài sản, kể cả những tài sản khó hoán chuyển thành tiền để trả nợ vay. Để giải quyết hạn chế này, nhà phân tích có thể lọai trừ những tài sản khó hoán chuyển thành tiền ra khỏi tử số, như: các khoản nợ phải thu khó đòi, hàng tồn kho kém phẩm chất, các khoản thiệt hại chờ xử lý, các khoản chi sự nghiệp (nếu có), 3.1.2. Khả năng thanh toán nhanh (Knhanh) Tương tự như Khh nhưng chỉ tiêu này loại bỏ phần tài sản tồn kho trên tử số vì đó là bộ phận phải dự trữ thường xuyên cho kinh doanh mà giá trị của nó và thời gian hoán chuyển thành tiền không chắc chắn nhất. 16
  17. TSNH - Haìngtäön kho K = nhanh Nåü ngàõn haûn Tiãön + ÂTNH + Nåü phaíithu K = nhanh Nåü ngàõn haûn Chỉ tiêu này cho phép đánh giá tốt hơn rủi ro phá sản của doanh nghiệp. Tuy nhiên do các chi phí trả trước cũng như các khoản phải thu có quá trình chuyển đổi sang tiền mặt chậm hơn nhiều nên có thể sử dụng chỉ tiêu khác để bổ sung. 3.1.3. Khả năng thanh toán tức thời (Ktt) Cũng với lập luận trên, chỉ tiêu khả năng thanh toán tức thời (Ktt) chỉ xem xét các khoản có thể sử dụng để thanh toán nhanh nhất đó là vốn bằng tiền. Tiãön K tt Nåü ngàõn haûn Các hệ số trên đây có ý nghĩa riêng đặc biệt của nó. Tuy nhiên nó có thể cung cấp cho ta những tín hiệu chưa đầy đủ, trong nhiều trường hợp sẽ không có ý nghĩa vì việc đo lường độ cấp thiết cũng như khả năng hoán chuyển thành tiền cũng còn mang tính chất chung. Ví dụ, nợ đối với nhà cung cấp là nợ 3 tháng, 6 tháng theo các chỉ tiêu này cũng giống nợ một năm, hoặc là các khoản nợ thuần cũng được xử lý như nợ trong kinh doanh. Thời gian quay vòng vốn thật sự của nợ ngắn hạn là không thể xác định. Cũng như vậy, khả năng hoán chuyển thành tiền của một số loại tài sản, của tồn kho, rất khó đánh giá. Ngoài ra, khó có thể tìm ra một hệ số chuẩn để so sánh mà chỉ có thể so sánh các hệ số qua thời gian hoặc giữa cacï doanh nghiệp cùng loại hình, cùng quy mô mới có kết luận cụ thể. 2.2. Phương pháp phân tích Phương pháp phân tích thường hay sử dụng là tính toán và so sánh các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán tức thời, khả năng thanh toán nhanh và khả năng thanh toán hiện hành giữa các doanh nghiệp, giữa thời kỳ này với thời kỳ trước hoặc so với một giá trị đã biết trước qua kinh nghiệm của các nhà phân tích theo đặc điểm của từng ngành. Qua đó có đánh giá cụ thể về rủi ro phá sản và các nhân tố, nguyên nhân ảnh hưởng đến rủi ro doanh nghiệp. Tuy nhiên các hệ số trên chỉ được xem xét trong trạng thái tĩnh nên chưa đủ để đánh gía khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Do vậy, cần sử dụng các chỉ tiêu mang tính chất quản trị để đánh giá khả năng trả nợ của doanh nghiệp. + Số vòng quay của khoản phải thu khách hàng: ( H p.thu ) Doanh thu thuáön ïnbachëu Thuãú GTGT âáöu ra tæång æïng Hp.thu Säú dæ bçnhquán caïc khoaín phaíi thu khaïch haìng Säú dæ phaíi thu âáöu kyì Säú dæ phaíi thu cuäúi kyì Säú dæ bçnhquán nåü phaíi thu 2 17
  18. Chỉ tiêu này có thể tính bình quân chung cho toàn doanh nghiệp và tính riêng cho từng khách hàng. Doanh thu bán chịu được lấy từ sổ theo dõi doanh thu bán hàng trong kỳ. Nếu không thu thập được tài liệu này thì chỉ tiêu "Doanh thu bán chịu" có thể thay bằng “Doanh thu thuần” từ Báo cáo kết quả kinh doanh. Chỉ tiêu “Số vòng quay phải thu khách hàng” phản ánh tốc độ chuyển đổi các khoản phải thu thành tiền. Trị giá chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ tốc độ thu hồi khoản phải thu càng nhanh. Điều này được đánh giá là tốt vì khả năng hoán chuyển thành tiền nhanh, do vậy đáp ứng nhu cầu thanh toán nợ. Khi phân tích cũng chú ý là hệ số này quá cao có thể không tốt vì có thể doanh nghiệp thắt chặt tín dụng bán hàng, do vậy ảnh hưởng đến doanh thu của doanh nghiệp. Vì vậy, khi đánh giá khả năng chuyển đổi các khoản phải thu thành tiền cần xem xét đến chính sách tín dụng bán hàng của doanh nghiệp. + Số ngày của một chu kỳ nợ ( Số ngày của doanh thu chưa thu ) Säú dæ nåü bçnhquán caïc khoaín phaíi thu khaïch haìng N 360 n Doanh thu thuáön ïnbachëu Thuãú GTGT âáöu ra tæång æïng Chỉ tiêu này phản ánh số ngày bình quân của một chu kỳ nợ, từ khi bán hàng đến khi thu tiền. Chỉ tiêu này nếu so sánh với kỳ hạn tín dụng của doanh nghiệp áp dụng cho từng khách hàng sẽ đánh giá tình hình thu hồi nợ và khả năng hoán chuyển thành tiền. + Số vòng quay của hàng tồn kho ( Hhàng ) Giaï väún haìng baïn Hhaìng Giaï trë haìng täönkho bçnhquán Chỉ tiêu này đánh giá khả năng luân chuyển hàng tồn kho của doanh nghiệp. Trị giá chỉ tiêu này càng cao thì công việc kinh doanh được đánh giá là tốt, khả năng hoán chuyển tài sản này thành tiền cao. Khi phân tích chỉ tiêu này cần quan tâm đến đặc điểm mặt hàng kinh doanh và ngành nghề kinh doanh. Nếu doanh nghiệp kinh doanh nhiều mặt hàng khác nhau và ngành nghề khác biệt thì cần tính toán số vòng quay cho từng nhóm, ngành hàng. + Số ngày của một vòng quay kho hàng ( Nhàng ) Giaï trë haìng täönkho bçnhquán Nhaìng 360 Giaï väún haìng baïn Ngoài các chỉ tiêu trên, nhà phân tích còn có thể sử dụng số liệu chi tiết từ báo cáo công nợ để làm rõ tình hình thu nợ, trả nợ; qua đó làm rõ hơn khả năng thanh toán. Các chỉ tiêu bổ sung cho nội dung phân tích này như sau: Nåü phaíi thu (phaíi traí) máútkhaí nàng thanh toaïn H ktt Täøng säú nåü phaíi thu (phaíi traí) Nåü phaíi thu (phaíi traí) quaï haûn H qh Täøng säú nåü phaíi thu (phaíi traí) 18
  19. Nåü âaî traí (âaî thu) trong kyì H qh Säú nåü âáöu kyì Nåü phaïtsinh trong kyì Các chỉ tiêu trên được tính chung cho doanh nghiệp và tính riêng cho từng khách nợ, chủ nợ. Ý nghĩa của chúng như sau: Đối với nợ phải trả: tỷ lệ nợ phải trả mất khả năng thanh toán càng lớn chứng tỏ doanh nghiệp đang gặp rất nhiều khó khăn trong thanh toán, và rủi ro phá sản càng cao nếu số nợ này tập trung vào một số chủ nợ lớn, kéo dài trong nhiều kỳ. Doanh nghiệp cần tập trung giải quyết tình trạng nợ phải trả cho các chủ nợ này. Đối với tỷ lệ nợ quá hạn: khi tỷ lệ này bắt đầu xuất hiện đánh giá doanh nghiệp bắt đầu lâm vào tình trạng khó khăn trong thanh toán. Tỷ lệ nợ quá hạn càng lớn và quy mô nợ quá hạn càng tăng thể hiện công tác thanh toán của doanh nghiệp càng kém, số nợ mà doanh nghiệp đi chiếm dụng là bất hợp pháp. Đối với nợ phải thu: tỷ lệ nợ phải thu mất khả năng thanh toán càng lớn chứng tỏ doanh nghiệp có nguy cơ không thu hồi vốn kinh doanh của mình. Điều này còn đánh giá công tác quản lý công nợ phải thu chưa tốt. Các hệ số trên không chỉ tính chung cho toàn doanh nghiệp mà còn tính riêng cho từng chủ nợ, khách nợ đã chi tiết ở trên. Hệ số trả nợ (thu nợ) trong một kỳ thường nhỏ hơn 1. Nếu hệ số này càng gần 1 chứng tỏ doanh nghiệp đã thực hiện rất tốt công tác thanh toán cũng như công tác thu hồi nợ. Tình hình tài chính được đánh giá là lành mạnh. Nếu hệ số trả nợ phải trả càng nhỏ chứng tỏ doanh nghiệp không thực hiện tốt công tác thanh toán, có khả năng dẫn đến tình trạng tăng nợ quá hạn, nợ mất khả năng thanh toán; khi đó nguy cơ phá sản ngày càng cao. Đối với nợ phải thu, tình hình này thể hiện số vốn doanh nghiệp bị chiếm dụng càng nhiều, công tác quản lý nợ chưa tốt, khả năng thu hồi nợ rất kém. Khi phân tích thông thường kết hợp cả chỉ tiêu về tỷ lệ nợ quá hạn với hệ số trả nợ vay trong kỳ vì có nhiều khoản nợ mà doanh nghiệp chưa trả, chưa thu không phải do công tác thanh toán kém mà do độ dài của kỳ tín dụng. Do vậy, nếu hệ số trả nợ vay thấp nhưng doanh nghiệp không phát sinh tỷ lệ nợ quá hạn thì công tác thanh toán vẫn được đánh giá là tốt. Tuy nhiên, trong trường hợp này, doanh nghiệp đang tiềm ẩn một trách nhiệm thanh toán lớn (đối với nợ phải trả) hay một dòng tiền vào lớn (đối với nợ phải thu). Trong các trường hợp trên, sử dụng kế hoạch vốn bằng tiền sẽ làm rõ hơn khả năng thanh toán trong tương lai của doanh nghiệp. Ngoài ra, phân tích các chỉ tiêu trên trong nhiều kỳ sẽ dự tóan tiềm lực thanh toán của doanh nghiệp. Dựa vào số liệu báo cáo tài chính của công ty ABC, bảng dưới đây minh họa cách tính toán và phân tích rủi ro phá sản của công ty ABC: Bảng 4.4. Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro phá sản công ty ABC Năm N Năm N+1 Năm N+2 1. TS ngắn hạn 47.830 68.965 82.850 2. Tiền + ĐTNH + Nợ phải thu 15.010 23.725 37.100 3. Tiền 700 35 370 19
  20. 4. Nợ ngắn hạn 43.570 72.310 83.130 5. Doanh thu thuần + GTGT đầu ra 67.705 101.472,8 117.634 6. Giá vốn hàng bán 57.150 85.550 94.130 7. Số dư bình quân hàng tồn kho 38.720 43.990 8. Số dư bình quân nợ phải thu khách hàng 15.010 20.885 9.Khả năng thanh toán hiện hành 1,097 0,953 0,996 (9) = (1) /(4) 10. Khả năng thanh toán nhanh 0,344 0,328 0,446 (10) = (2) /(4) 11. Khả năng thanh toán tức thời 0,016 0,00048 0,0044 (11) = (3)/ (4) 12. Số vòng quay nợ phải thu khách hàng 6,76 5,63 (12) = (5) /(8) 13. Số ngày một vòng quay nợ phải thu 53 64 (13) = 360 / (12) 14. Số vòng quay hàng tồn kho 2,20 2,13 (14) = (6)/(7) 15. Số ngày một vòng quay hàng tồn kho 164 169 (15) =360/(14) Trong bảng tính trên, do thuế suất GTGT bình quân ở đơn vị là 10% nên trị giá ở chỉ tiêu (8) bằng (=) Doanh thu thuần (x) 110%. Qua bảng phân tích, ta nhận thấy khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh nghiệp ABC có chiều hướng giảm mạnh, tiềm ẩn rủi ro phá sản dù tình hình cuối năm N+2 có dấu hiệu tích cực hơn so với năm N+1. Nếu vào cuối năm N, một đồng nợ ngắn hạn được đảm bảo bởi 1,097 đồng TS ngắn hạn thì con số này vào cuối năm N+1 là 0,953 và cuối năm N+2 là 0,996. Trị giá chỉ tiêu khả năng thanh toán hiện hành trong hai năm gần đây đều bé hơn 1 là dấu hiệu báo động về tình trạng mất khả năng chi trả. Đây cũng chính là trạng thái mất cân bằng tài chính khi phân tích chỉ tiêu vốn lưu động ròng. Tình hình không thuận lợi này còn được thể hiện qua sự cắt giảm của hai chỉ tiêu khả năng thanh toán nhanh và khả năng thanh toán tức thời. Nếu vào cuối năm N+2, tất cả các khoản nợ ngắn hạn đều tới hạn thanh toán thì công ty ABC nói trên cần số tiền là 82.760 triệu đồng để thanh toán. Toàn bộ giá trị kế toán của TSNH sau khi loại trừ 370 triệu đồng vốn bằng tiền cuối năm N+2 cũng không đủ để đáp ứng nhu cầu thanh toán bằng tiền trên. Tuy nhiên, các vấn đề vừa đề cập chỉ mang tính giả định. Để đánh giá sát hơn khả năng thanh toán cần xem xét đến khả năng hoán chuyển thành tiền của nợ phải thu và hàng tồn kho. Kết quả phân tích trên cho thấy, tốc độ luân chuyển của nợ phải thu khách hàng và hàng tồn kho năm N+2 đều thấp hơn năm trước. Vào năm N+1, độ dài của một vòng quay hàng tồn kho và nợ phải thu lần lượt là 164 ngày và 53 ngày thì con số này tăng lên 169 ngày và 64 ngày theo các chỉ tiêu tương ứng. Điều này càng khẳng định hơn về rủi ro mất khả năng thanh toán đối với công ty ABC. Cần chú ý là 20
  21. các chỉ tiêu trên chỉ là kết quả tính toán từ số liệu báo cáo tài chính. Nhà phân tích cần dựa vào đặc điểm các khoản vay nợ ngắn hạn, chính sách tín dụng bán hàng, đặc điểm các khâu cung ứng, sản xuất, tiêu thụ và nhiều thông tin định tính khác để đánh giá đầy đủ hơn rủi ro phá sản của doanh nghiệp. Việc xem xét xu hướng của các chỉ tiêu phản ảnh công tác quản lý này cần phải rất thận trọng khi đánh giá rủi ro phá sản của doanh nghiệp. Người phân tích phải nghiên cứu kỹ các nguyên nhân biến thiên của nó. Ví dụ: hàng tồn kho tăng đột biến do việc đầu cơ của doanh nghiệp có thể là tốt sau này, nhưng hiện tại việc tăng này sẽ tăng rủi ro phá sản của doanh nghiệp. Tương tự như vậy, việc tăng thời hạn tín dụng bán hàng cho khách hàng có thể không tốt mặc dù tăng được doanh số. Cuối cùng cũng nên xem xét tính thời vụ của doanh nghiệp để đánh giá phù hợp. Để có cơ sở đánh giá sâu hơn rủi ro phá sản của doanh nghiệp nhằm tìm ra các nguyên nhân và biện pháp khắc phục cần đi sâu phân tích nhu cầu và khả năng thanh toán ngắn hạn. Trong trường hợp này cần dựa vào các tài liệu hạch toán tổng hợp và chi tiết để tiến hành sắp xếp các khoản nợ và các tài sản có thể trả nợ theo trật tự ưu tiên. Đối với nhu cầu thanh toán, các khoản nợ được sắp xếp theo mức độ giảm dần của tính cấp thiết phải thanh toán nợ, như nợ phải trả ngay, nợ chưa cần phải thanh toán, thời hạn cần phải trả nợ Đối với khả năng thanh toán thì các chỉ tiêu được sắp xếp theo khả năng huy động, như: huy động ngay, huy động trong thời gian tới và thời hạn chuyển đổi thành tiền của tài sản. Bảng sắp xếp có dạng sau: Bảng 4.5. Phân loại khoản nợ và tài sản ngắn hạn theo thời gian 12 12 12 10 10 7 9 9 4 6 6 3 5 5 2 3 3 21
  22. 2 2 1 1 1 Tiền 3.3 Tài liệu phân tích Xuất phát từ những vấn đề trên, để phục vụ cho phân tích cần tổ chức, xử lý thông tin như sau: - Khai thác số liệu chi tiết trên Thuyết minh báo cáo tài chính có kết cấu ở bảng 4.6 Báo cáo các khoản phải thu và nợ phải trả; số liệu trên phần II, Báo cáo kết qủa họat động kinh doanh (Bảng 4.7 Báo cáo tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước). Nguồn số liệu này trợ giúp để tính toán các chỉ tiêu về tình hình thanh toán nợ, nợ quá hạn, nợ mất khả năng thanh toán, tình hình thanh toán với ngân sách nhà nước. - Sử dụng các báo cáo công nợ về tình hình thanh toán của doanh nghiệp. Đây là các báo cáo nội bộ, được lập và xử lý theo yêu cầu của nhà quản lý ở doanh nghiệp. Vì vậy, công tác phân tích có thể tiến hành vào bất kỳ thời điểm nào, không phụ thuộc vào kỳ quyết toán và có thể tập trung vào một đối tượng (chủ nợ, khách nợ) nào đó. - Tổ chức lập dự toán vốn bằng tiền nếu có điều kiện để phân tích kỹ hơn dòng tiền thu, dòng tiền chi, nợ tới hạn của doanh nghiệp. (Bảng 4.8 Báo cáo kế hoạch vốn bằng tiền) Bảng 4.6 Báo cáo các khoản phải thu và nợ phải trả Đầu kỳ PS trong kỳ Cuối kỳ Số mất Chỉ tiêu Tổng Nợ Tăng Giaím Tổng Nợ quá Khả cộng quá cộng hạn năng hạn thanh toán A. Khoản phải trả 1 2 B. Khoản phải thu 1 2 22
  23. Bảng 4.7. Báo cáo kế hoạch vốn bằng tiền 1 2 3 10 11 12 A. Dòng tiền vào (thu) 1. Tiền thu bán hàng trực tiếp 2. Tiền thu nợ khách hàng 3. Thu khác B. Dòng tiên ra (chi) 4. Trả tiền mua hàng 5. Trả tiền nợ cho chủ nợ 6. Trả lương 7. Chi khác . 8. Mua thiết bị C. Chênh lệch thu chi 10. Tồn quỹ đầu kỳ 11. Tồn quỹ cuối kỳ 12. Tồn quỹ tối thiểu 13. Số tiền cần vay hay số tiền dôi Bảng 4.9. Bảng sắp xếp các khoản tài sản và khoản nợ ngắn hạn Tài sản có thể Số tiền Thời gian có Khoản nợ phải Số tiền Thời gian dùng trả nợ thể hoán thanh toán ngắn cấp thiết chuyển thành hạn phải trả tiền để trả nợ nợ 23
  24. CHƯƠNG 5. PHÂN TÍCH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP Doanh nghiệp là một tổ chức, nó cũng là tài sản và là hàng hóa, do vậy cũng có giá trị, giá trị trao đổi. Đánh giá giá trị doanh nghiệp có thể được xem như một bộ phận của phân tích tài chính, nó được quan niệm như là sự kéo dài của phân tích tài chính. Định giá doanh nghiệp là sự kết hợp giữa xem xét cơ cấu tài chính, hiệu quả hoạt động cũng như các chính sách quản lý tài chính và rủi ro của doanh nghiệp. Do vậy, phân tích tài chính doanh nghiệp không chỉ tạo nên những chỉ tiêu tổng hợp tương ứng trạng thái tài chính của doanh nghiệp, mà còn xác định được giá trị của doanh nghiệp. Định giá doanh nghiệp cho thấy mục tiêu của hoạt động tài chính của doanh nghiệp có đạt được hay không, đồng thời cũng cho thấy giá trị kỳ vọng trong tương lai, qua đó có quyết định đầu tư vào doanh nghiệp. 1. Nguyên tắc định giá doanh nghiệp Định giá doanh nghiệp là việc xem xét, phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến giá trị của doanh nghiệp, hay nói cách khác đó là việc xác định giá cả của doanh nghiệp. Giá trị của doanh nghiệp lúc nào cũng tồn tại ngay cả khi không có sự chuyển nhượng, đầu tư. Đây là việc đánh giá thuần túy giá trị doanh nghiệp căn cứ vào giá trị sử dụng, giá trị hiện tại cũng như cung cầu trên thị trường trên cơ sở trạng thài tài chính doanh nghiệp. Thông thường hướng tiếp cận đầu tiên là tham khảo thị trường chứng khoán. Giá trị cổ phần và việc vốn hóa các chứng khoán cho ta cái nhìn tổng hợp về giá trị vốn chủ sở hữu theo ước lượng của thị trường chứng khoán. Giá trị của doanh nghiệp lúc này được xem xét thông qua giá trị cổ phần. Ở nước ta, thị trường này mới hình thành với sự tham gia của một số công ty cổ phần có qui mô lớn, trong khi đó số lượng lớn các doanh nghiệp hiện nay là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hơn nữa, việc định giá này chỉ quan tâm đến hiệu quả tài chính, theo yêu cầu của nhà đầu tư hơn là nhà quản trị. Và rõ ràng nó không quan tâm đến hiệu quả thật sự của doanh nghiệp. Do vậy thị trường này chưa thể là một cơ sở tin cậy cho việc định gía. Có thể tiếp cận theo hướng khác dựa trên quá trình tăng giảm tài sản theo giá trị bán lại trên thị trường hoặc giá khôi phục, giá trị thay thế của tài sản. Định giá doanh nghiệp tạo cơ sở cho cổ phần hóa doanh nghiệp. Đánh giá giá trị của doanh nghiệp sẽ là một tài liệu cần thiết không chỉ đối với các nhà quản trị doanh nghiệp mà nó còn làm cơ sở cho các nhà đầu tư, các ngân hàng v.v để xem xét và giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến doanh nghiệp. Việc định giá có thể bằng nhiều tài liệu như bảng cân đối kế toán, kết quả kinh doanh, bảng báo cáo thuyết minh tài chính. Ngoài ra, các tài liệu dự đoán cũng được xem như nguồn tài liệu quan trọng để định giá doanh nghiệp. Trong giáo trình này chúng ta xem xét vấn đề định giá qua xem xét và dự đoán số liệu từ các báo cáo tài chính của doanh nghiệp. 24
  25. 2. Định giá trên cơ sở bảng cân đối kế toán Theo cách nhìn đơn giản, giá trị của doanh nghiệp chính là tài sản của doanh nghiệp. Phương pháp định giá trên cơ sở bảng cân đối kế toán được thực hiện trên ý tưởng: giá trị tổng hợp của doanh nghiệp là tổng giá trị của các thành phần tạo thành tài sản của doanh nghiệp. Do vậy, các số liệu để định giá doanh nghiệp là giá trị của các thành phần trong sổ sách kế toán cũng như trên bảng cân đối kế toán. Trong trường hợp sổ sách kế toán phản ánh không chính xác hoặc giá phí lịch sử của tài sản quá khác xa với giá trị hiện tại của nó thì nên kiểm kê mọi tài sản và công nợ của doanh nghiệp rồi tiến hành định giá và điều chỉnh các giá trị tương ứng. Theo phương pháp này ta có 2 cách sau: 2.1. Đánh giá giá trị theo sổ sách kế toán Giá trị thực tế của doanh nghiệp là giá trị của toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm đánh giá sau khi trừ các khoản nợ phải trả. Giá trị này còn được gọi là giá trị tài sản thuần của doanh nghiệp. Hiển nhiên tài sản này phải ngang bằng với toàn bộ tài sản mà doanh nghiệp đã tạo được suốt trong quá trình kinh doanh trong quá khứ mà hiện còn tồn tại sau khi đã trừ đi các khoản nợ tồn đọng vào thời điểm định giá. Như vậy, theo phương pháp này, giá trị của doanh nghiệp là chênh lệch giữa giá trị tài sản trên sổ sách với tất cả các khoản nợ phải trả của doanh nghiệp. Đây là quan điểm tĩnh, được thể hiện bằng công thức sau. Giaï trë doanh nghiãûp = Täøng taìi saín - Nåü Phaíi traí Trong đó Tài sản của doanh nghiệp được xem như giá trị thô, còn hiệu số này có thể được xem như giá trị thuần của doanh nghiệp. Tuy nhiên để xác định một cách chính xác giá trị của doanh nghiệp phải căn cứ trên cơ sở hiện trạng về phẩm chất, tính năng kỹ thuật, nhu cầu sử dụng của doanh nghiệp. Số liệu dưới đây minh họa cách xác định giá trị doanh nghiệp dựa trên BCĐKT của công ty ABC. Bảng 5.1. Giá trị công ty ABC dựa trên BCĐKT Năm N Năm N+1 Năm N+2 1. Giá trị kế toán của tài sản 57.410 92.605 112.880 2. Nợ phải trả 49.090 81.435 99.840 3. Giá trị doanh nghiệp 8.320 11.170 13.040 4. Tốc độ tăng trưởng liên hoàn 134,2% 116,74% Bảng phân tích trên cho thấy giá trị thuần của công ty ABC trong ba năm qua liên tục gia tăng. Kết quả phân tích này cũng phù hợp với những đánh gía về sự gia tăng hiệu quả hiệu quả kinh doanh và hiệu quả tài chính của công ty này. Đây là dấu hiệu tích cực đối với người chủ sở hữu của công ty. Tuy nhiên, công ty ABC hiện tại có cấu trúc nguồn vốn mang tính rủi ro cao, có dấu hiệu về mất cân bằng tài chính 25
  26. cũng như rủi ro mất khả năng thanh toán. Nhà phân tích cần hết sức quan tâm những hiện tượng không thuận lợi này khi thương lượng và định giá trị thật của công ty ABC. Phương pháp định giá dựa trên BCĐKT thường được sử dụng bởi nhiều nhà phân tích nhờ tính đơn giản của nó và dễ đạt tính chính xác cao, nhưng khi sử dụng có khá nhiều vấn đề cần xem xét. Đầu tiên, tài sản thường được xác định dựa trên những nguyên tắc định trước nên giá trị thực của nó có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị của tài sản. Trong những trường hợp này, để định giá một cách chính xác phải xác định rõ giá trị của từng loại tài sản theo từng phương pháp đánh giá để từ đó có phương pháp điều chỉnh thích hợp. Thứ hai phải kể đến phương pháp hạch toán của từng doanh nghiệp để xác định chính xác hơn giá trị của tài sản doanh nghiệp sau khi đã được kết chuyển, phân phối. Tiếp theo, phải chú ý đến sự thay đổi của giá trị lịch sử của từng loại tài sản, cũng như giá trị sử dụng. 2.2. Đánh giá theo giá trị điều chỉnh. Phương pháp này khắc phục nhược điểm cơ bản của phương pháp trước trên cơ sở xem xét giá trị các tài sản theo giá hiện hành. Theo phương pháp định giá này, ta phải sử dụng các chỉ số khác nhau để quy đổi nhằm đánh giá chính xác hơn giá trị của doanh nghiệp như: - Chỉ số giá để đánh giá lại giá trị của tài sản phi tiền tệ như TSCĐ, hàng tồn kho. - Chi phí mua sắm mới, thay thế những tài sản cùng chức năng sử dụng hiện tại. Với phương pháp điều chỉnh này, giá trị của doanh nghiệp được xác định như sau: Giaï trë doanh nghiãûp = Täøng taìi saín âiãöu chènh - Nåü Phaíi traí âiãöu chènh Các phương pháp này có thể bị phê bình ở khía cạnh là nó không chú ý các điều kiện để hình thành tài sản, chỉ xem xét các tài sản của doanh nghiệp trong trạng thái tĩnh và riêng biệt chứ không xem doanh nghiệp như một tổ chức. Ngoài ra nó cũng chưa nghiên cứu một cách tổng hợp các phương tiện khác nhau ảnh hưởng đến giá trị tương lai của doanh nghiệp cũng như không tính đến khả năng sinh lời hoặc rủi ro thua lỗ có thể xảy ra. Trong khi đó, giá trị của một doanh nghiệp còn tùy thuộc rất nhiều yếu tố, không chỉ tính đến những tài nguyên vật chất, mà còn phải kể đến tài nguyên về lao động, khả năng quản trị của doanh nghiệp, các chính sách chiến lược của doanh nghiệp. 3. Định giá dựa trên cơ sở báo cáo kết quả kinh doanh Theo phương pháp này, định giá doanh nghiệp phải chú ý đến lợi thế kinh doanh thông qua lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận của các năm trước khi định giá và việc dự kiến lợi nhuận tương lai của doanh nghiệp. Do vậy, có thể xem xét tài sản theo hướng tài sản tài chính, có nghĩa là giá trị mà người đầu tư có thể và chuẩn bị trả khi mua tài sản để đạt được một kết quả, hiệu quả nào đó mà họ dự kiến đạt được. Cách tiếp cận này “động” hơn phương pháp trước. 26
  27. Phương pháp định giá trên cơ sở báo cáo kết quả kinh doanh dựa trên quan điểm giá trị của doanh nghiệp tùy thuộc vào dòng tiền tệ do doanh nghiệp tạo ra trong tương lai và “Giá trị kế toán của tài sản là giá trị hiện tại của lợi nhuận tương lai”. Và giá trị của doanh nghiệp sẽ thu được qua việc vốn hoá lợi nhuận hoặc cổ tức giá trị theo nghĩa này còn được gọi là giá trị hiệu quả. Các tài liệu để tính toán trong việc định giá doanh nghiệp là kết qủa đạt được trong quá khứ mà chúng ta có thể vốn hóa với một tỷ lệ nào đó. Như ta đã biết giá trị tương lai này là biến thiên ngẫu nhiên. Nó sẽ là hàm số của 3 thành phần: hiệu quả, rủi ro và tăng trưởng. Các phương pháp khác nhau được phân biệt thông qua cách tính toán của một trong ba thành phần này. Đó là: V = f (kqủa, r, n) Hiệu quả của doanh nghiệp trong trường hợp này can thiệp khi sử dụng lợi nhuận, quá trình tăng trưởng thể hiện ở mức độ phát triển của lợi nhuận. Rủi ro được xem xét theo 2 cách do việc lựa chọn r và độ dài của n được giữ. Theo từng trường hợp người ta giữ lại lợi nhuận như là lợi nhuận hiện tại (đó là lợi nhuận sau thuế và cổ tức, dòng tiền). Định giá theo cách thức này thường phải chú ý hai nhân tố quan trọng: Một là lợi nhuận ròng, lợi nhuận trung bình của các năm trước thời điểm định giá. Phương pháp định giá thường xuyên được sử dụng là trung bình toán học của 5 đến 8 năm trước kỳ định giá. Nhiều tác giả cho rằng, nếu lợi nhuận của doanh nghiệp đang tăng lên thì trọng số được sử dụng cho những năm cũ sẽ nhỏ hơn trọng số sử dụng cho những năm gần kề. Như vậy, theo phương pháp này việc định giá cũng còn nhiều vấn đề cần bàn cãi như là ảnh hưởng của những kết quả quá khứ xa, sự phân kỳ của chuỗi dữ liệu phân tán. Do vậy, phương pháp này chỉ được áp dụng đối với những chuỗi dữ liệu có độ dao động nhỏ. Phương pháp này cùng có hạn chế do việc xác định độ chính xác của lợi nhuận ròng là công việc không đơn gỉan vì ảnh hưởng của các phương pháp kế toán, như: phương pháp đánh giá tài sản, phương pháp khấu hao TSCĐ, Hai là, hệ số vốn hóa áp dụng cho lợi nhuận ròng trong việc tính toán giá trị tài sản. Việc hiện tại hóa dòng thu nhập, kết quả, dòng tiền bằng các tỷ suất được gọi là vốn hóa các thu nhập. Vấn đề chọn lựa một tỷ lệ vốn hóa hợp lý cũng là việc phải quan tâm. Hệ số này phụ thuộc khá nhiều nhân tố ảnh hưởng. Nhiều tác giả cho rằng, chỉ cần sử dụng một hệ số nhất định, số khác lại cho rằng phải tính đến hiệu quả của thị trường, cũng như rủi ro kinh doanh, rủi ro tài chính và rủi ro phá sản gắn liền với doanh nghiệp. Dĩ nhiên các rủi ro này phải được ước lượng một cách chủ quan tùy theo quan điểm của nhà phân tích. Như vậy, việc chọn lựa hệ số vốn hóa tùy thuộc kinh nghiệm của người định giá. Có rất nhiều công thức để xác định giá trị của doanh nghiệp dựa vào giá trị cần vốn hóa như sau: 3.1. Định giá dựa trên cơ sở lợi nhuận quá khứ, và lợi nhuận tương lai Định giá theo lợi nhuận quá khứ và tương lai, thực chất là việc hiện tại hóa lợi nhuận dự đoán trong tương lai trên cơ sở lợi nhuận quá khứ. 27
  28. Như vậy, kết quả nếu ta khảo sát lợi nhuận trong việc dự đoán này là lợi nhuận sau thuế thì giá trị của doanh nghiệp (V) sẽ là: LN LN LN n LN V 1 2 n i 2 n  i 1 r 1 r 1 r i 1 1 r Trong đó LN1 : là lợi nhuận dự đoán sau năm thứ nhất LNi : là lợi nhuận dự đoán sau năm thứ i LNn : là lợi nhuận dự đoán sau năm thứ n n là tuổi thọ dự tính của doanh nghiệp. Trong trường hợp tốc độ tăng trưởng lợi nhuận của các kỳ bằng 0 và gọi LN là lợi nhuận của kỳ thứ nhất, nếu n tiến đến vô hạn thì giá trị của doanh nghiệp sẽ là:Ġ Trong thực tiễn, ước lượng giá trị của doanh nghiệp thường được sử dụng ở các nước dựa trên sự vốn hóa của lợi nhuận trung bình được quan sát trong các năm cuối trước khi dự đoán. Và lợi nhuận được sử dụng trong việc định giá này thường là tính cả lợi nhuận trong kinh doanh, lợi nhuận tài chính, lợi nhuận bất thường. Tỷ lệ r (hiện tại hóa) được sử dụng trong việc định giá thường phải phù hợp với chi phí vốn của doanh nghiệp. Trong thực tiễn ở các nước có thị trường chứng khoán, tỷ lệ này thường tương ứng với tỷ suất được quan sát trên trên các thị trường tài chính về vốn dài hạn. Để minh họa nội dung phương pháp định giá này, hãy xem xét tài liệu dự toán về doanh thu, chi phí và lợi nhuận của doanh nghiệp X trong 5 năm đến. Chi phí vốn (tỷ lệ r) của doanh nghiệp là10%. Giả sử, thuế suất thu nhập trong 5 năm đến không đổi là 32% và toàn bộ lợi nhuận được để lại doanh nghiệp. Bảng 5.2. Báo cáo lãi lỗ dự toán doanh nghiệp X Đơn vị tính: triệu đồng Chỉ tiêu N+1 Nguyãù N+3 N+4 N+5 1. Doanh thu thuần 105 n+2126 151 174 191 2. Giá vốn hàng bán 80 94 111 127 137 3. Lợi nhuận gộp 25 32 40 47 54 4. Chi phí bán hàng và QLDN 10 12 13 15 16 5. Lợi nhuận thuần kinh doanh 15 20 27 32 38 6. Chi phí lãi vay 3 4 5 6 6 7. Lợi nhuận trước thuế 12 16 22 26 32 8. Thuế thu nhập doanh nghiệp 3,84 5,12 7,04 8,32 10,24 9. Lợi nhuận sau thuế 8,16 10,88 14,96 17,68 21,76 Với chi phí vốn của doanh nghiệp là 10% thì giá trị của doanh nghiệp X vào cuối năm 28
  29. N là hiện giá của lợi nhuận sau thuế dự toán trong 5 năm đến, chiết khấu theo tỷ lệ 10%là: 8,16 10,88 14,96 17,68 21,76 V 53,24tr.d 1 0,1 (1 0,1) 2 (1 0,1)3 (1 0,1)4 (1 0,1)5 3.2. Phương pháp định giá dựa vào cổ tức Dựa trên một logích như trên, theo phương pháp này ta không vốn hóa lợi nhuận mà vốn hóa cổ tức của doanh nghiệp. Nếu ta khảo sát cổ tức của doanh nghiệp CT là hằng số thì giá trị doanh nghiệp được xác định bằng V r Trong đó tỷ lệ r là hệ số vốn hóa của cổ tức, và thường được sử dụng là lãi suất vay ngân hàng; CT là cổ tức của thời kỳ thứ nhất. Trong trường hợp ta giả sử rằng tỷ lệ tăng cổ tức hằng năm là h% thì giá trị của doanh nghiệp sẽ là: n CT 1 h t 1 V  t t 1 1 r Ở đây, n là tuổi thọ dự tính của doanh nghiệp. Nếu N tiến đến vô hạn, và giả sữ rằng r > h thì giá trị của doanh nghiệp sẽ là : CT V 0 r h 4. Định giá bằng phương pháp hỗn hợp Phương pháp này thường được sử dụng trong thực tiễn trên cơ sở sử dụng đồng thời cả hai phương pháp trên, nó khắc phục các nhược điểm của phương pháp đánh giá theo tài sản và theo hiệu quả. Giá trị tổng thể của doanh nghiệp là trung bình số học giữa giá trị tài sản và giá trị năng suất theo công thức sau: GTtheoBCÂKT GTtheoBCKQ V 2 Trong đó các giá trị này được xác định theo các phương pháp định giá trên, trên cơ sở của BCĐKT và Báo cáo kết quả kinh doanh. Có thể xem xét cách đánh giá này dưới một dạng khác 1 LN V GTtheoBCÂKT 2 r với r là tỷ lệ vốn hóa lợi nhuận. Phương pháp này là tổng hợp các kết quả của các phương pháp đánh giá khác nhau nên nó hạn chế được những nhược điểm của các phương pháp trước nhưng đồng thời nó cũng chứa đựng các nhược điểm trước. 29
  30. Nói chung các phương pháp trên đây có thể được sử dụng đơn chiếc cũng có thể được sử dụng một cách tổng hợp tùy thuộc vào từng nhà phân tích, cũng như tùy từng đối tượng, từng mục đích định giá cụ thể. Với phương thức định giá này, các mô hình định giá thường bao gồm nhiều biến. Các biến số thường tương ứng với đặc điểm của doanh nghiệp, thông thường là: doanh số, giá trị gia tăng, lợi nhuận Ngoài ra sự tác động của các yếu tố bên ngoài, các rủi ro không thể tránh khỏi cũng là các biến số rất quan trọng trong việc định giá doanh nghiệp. Trong điều kiện doanh nghiệp có tham gia thị trường chứng khoán có thể định giá doanh nghiệp dựa vào giá thị trường của mỗi cổ phần. Gdn = Gcp x Ncp Trong đó : Gdn là giá trị của doanh nghiệp; Gcp giá thị trường của mỗi cổ phần; Ncp Số lượng cổ phần đã phát hành. Phương pháp này cho ta xác định chính xác giá trị của doanh nghiệp trong thị trường hoàn hảo. 5. Phân tích tài chính và đánh giá doanh nghiệp Phân tích tài chính và việc đánh giá doanh nghiệp có mối liên hệ với nhau. Điều này thể hiện qua các giai đoạn của quá trình đánh giá doanh nghiệp. Để đánh giá doanh nghiệp, trước tiên phải phân tích và chẩn đoán trạng thái tài chính của doanh nghiệp. Tiếp theo là việc ước lượng giá trị của doanh nghiệp. Trong giai đoạn sau, công việc đánh giá doanh nghiệp khá phức tạp, vì kết quả của các phương pháp đánh giá khác nhau thường không trùng hợp nhau. Vấn đề quan trọng là phải lựa chọn các phương pháp đánh giá phù hợp. Thông thường việc lựa chọn này không thống nhất giữa người bán và người mua. Do vậy họ phải nhượng bộ nhau và phải sử dụng đồng thời nhiều phương pháp một lúc. Qua các công thức đánh giá ở trong chương, phân tích tài chính có tầm quan trọng rất lớn đối với công tác đánh gía bởi nhiều lý do: Một là, chẩn đoán tài chính là một hướng của phân tích trước của doanh nghiệp trước khi định giá. Do vậy, kết quả của phân tích tài chính về hiệu quả, rủi ro, cân bằng tài chính sẽ giúp cho việc thương lượng giá cả cũng như thấy được sự tăng giảm giá trị của doanh nghiệp. Hai là, khi thương lượng giá trị của doanh nghiệp bằng bảng cân đối kế toán, người mua, người bán có thể thấy được sự phù hợp của các phương pháp, các thủ tục hoặc việc chuẩn bị các thông tin kế toán. Chỉ như vậy thông tin đánh giá và phân tích tài chính mới trùng nhau. Ba là, khi ước lượng giá trị của doanh nghiệp bằng cách sử dụng báo cáo kết quả kinh doanh thì nhà phân tích tài chính luôn quan tâm đến việûc chọn lựa các cách thức nhằm xác định khả năng tạo ra lợi nhuận, hiệu quả tương lai của doanh nghiệp. Như vậy giữa phân tích tài chính và đánh gía doanh nghiệp có mối liên quan mật thiết. Cuối cùng, vì mục tiêu của tài chính là tối đa hóa giá trị của doanh nghiệp nên phải xem xét các phương pháp định giá khác nhau: 30
  31. Tóm lại, giá trị của doanh nghiệp, giá trị trao đổi, giá trị sử dụng, giá trị chủ quan, khách quan được tranh cãi khá nhiều và khá phức tạp. Việc định giá doanh nghiệp không thóat khỏi các khó khăn này. 31
  32. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED. 1. CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP Error! Bookmark not defined. 1. NộI DUNG CủA TÀI CHÍNH VÀ TÀI CHÍNH DOANH NGHIệP ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED. 2. MụC TIÊU VÀ NộI DUNG CủA PHÂN TÍCH TÀI CHÍNHERROR! BOOKMARK NOT DEFINED. 2.1 Mục tiêu phân tích tài chính Error! Bookmark not defined. 2.2. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệpError! Bookmark not defined. 3. NGUồN THÔNG TIN Sử DụNG TRONG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIệP ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED. 3.1 Thông tin từ hệ thống kế toán Error! Bookmark not defined. 3.2. Các nguồn thông tin khác Error! Bookmark not defined. 4. VậN DụNG CÁC PHƯƠNG PHÁP TRONG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED. 4.1. Phương pháp so sánh Error! Bookmark not defined. 4.2. Phương pháp loại trừì Error! Bookmark not defined. 4.3. Phương pháp cân đối liên hệ Error! Bookmark not defined. 4.4. Phương pháp phân tích tương quan Error! Bookmark not defined. CHƯƠNG 2. PHÂN TÍCH CẤU TRÚC TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆPError! Bookmark not defined. 1. PHÂN TÍCH CấU TRÚC TÀI SảN ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED. 1.1. Các chỉ tiêu chủ yếu phản ánh cấu trúc tài sảnError! Bookmark not defined. 1.2. Bảng cân đối kế toán so sánh và phân tích biến động tài sản của doanh nghiệp Error! Bookmark not defined. 2. PHÂN TÍCH CấU TRÚC NGUồN VốN CủA DOANH NGHIệPERROR! BOOKMARK NOT DEFINED. 2.1. Phân tích tính tự chủ về tài chính của doanh nghiệpError! Bookmark not defined. 2.2. Phân tích tính ổn định của nguồn tài trợError! Bookmark not defined. 3. PHÂN TÍCH CÂN BằNG TÀI CHÍNH ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED. 32
  33. 3.1. Khái quát chung về cân bằng tài chính doanh nghiệp Error! Bookmark not defined. 3.2. Phân tích cân bằng tài chính của doanh nghiệpError! Bookmark not defined. CHƯƠNG 3. PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP Error! Bookmark not defined. 1. QUAN ĐIểM PHÂN TÍCH HIệU QUả HọAT ĐộNG CủA DOANH NGHIệP ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED. 2. PHÂN TÍCH HIệU QUả KINH DOANH CủA DOANH NGHIệPERROR! BOOKMARK NOT DEFINED. 2.1. Phân tích hiệu quả cá biệt Error! Bookmark not defined. 2.2. Phân tích hiệu quả kinh doanh tổng hợpError! Bookmark not defined. 3. PHÂN TÍCH HIệU QUả TÀI CHÍNH CủA DOANH NGHIệPERROR! BOOKMARK NOT DEFINED. 3.1. Chỉ tiêu tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu (ROE)Error! Bookmark not defined. 3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chínhError! Bookmark not defined. 3.3. Phương pháp phân tích Error! Bookmark not defined. CHƯƠNG 4. PHÂN TÍCH RỦI RO CỦA DOANH NGHIỆP 1 1. PHÂN TÍCH RủI RO KINH DOANH. 1 1.1. Phân tích rủi ro kinh doanh qua độ biến thiên 1 1.2. Phân tích rủi ro kinh doanh qua đòn bẩy kinh doanh 3 1.3. Mức độ phân bổ giữa chi phí biến đổi và chi phí cố định 4 1.4. Phân tích rủi ro kinh doanh qua hệ số an toàn 5 1.5. Phân tích rủi ro kinh doanh qua khái niệm xác suất 7 1.6. Phương pháp phân tích rủi ro kinh doanh 9 2. PHÂN TÍCH RủI RO TÀI CHÍNH 11 2.1. Nội dung phân tích rủi ro tài chính. 11 2.2. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tài chính. 12 2.3. Ví dụ phân tích rủi ro tài chính. 14 3. PHÂN TÍCH RủI RO PHÁ SảN. 15 3.1. Chỉ tiêu phân tích 16 2.2. Phương pháp phân tích 17 3.3 Tài liệu phân tích 22 33
  34. CHƯƠNG 5. PHÂN TÍCH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP 24 1. NGUYÊN TắC ĐịNH GIÁ DOANH NGHIệP 24 2. ĐịNH GIÁ TRÊN CƠ Sở BảNG CÂN ĐốI Kế TOÁN 25 2.1. Đánh giá giá trị theo sổ sách kế toán 25 2.2. Đánh giá theo giá trị điều chỉnh. 26 3. ĐịNH GIÁ DựA TRÊN CƠ Sở BÁO CÁO KếT QUả KINH DOANH 26 3.1. Định giá dựa trên cơ sở lợi nhuận quá khứ, và lợi nhuận tương lai 27 3.2. Phương pháp định giá dựa vào cổ tức 29 4. ĐịNH GIÁ BằNG PHƯƠNG PHÁP HỗN HợP 29 5. PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH VÀ ĐÁNH GIÁ DOANH NGHIệP 30 34