Giáo trình Máy công nghiệp

pdf 184 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Máy công nghiệp", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_may_cong_nghiep.pdf

Nội dung text: Giáo trình Máy công nghiệp

  1. Chương I KHO VÀ THIẾT BỊ BẢO QUẢN NÔNG SẢN 1.1. Nhiệm vụ, yêu cầu kỹ thuật và phân loại 1.1.1. Nhiệm vụ Kho bảo quản có nhiệm vụ bảo quản và tồn trữ các sản phẩm nông nghiệp trước và sau khi chế biến. Kho đóng vai trò quan trọng trong bảo quản nông sản. Vì vậy, việc xây dựng kho nhằm chủ yếu phục vụ bảo quản chứ không đơn thuần chỉ là nơi chứa đựng. Nói một cách khác, nhà kho là cơ sở vật chất kỹ thuật để tiến hành các quá trình bảo quản nông sản, là yếu tố đầu tiên và quan trọng quyết định tới chất lượng bảo quản nông sản. Đối với mỗi loại sản phẩm khác nhau, cần phải có loại kho tương ứng thích hợp, nhất là các trang bị cần thiết phục vụ cho việc sơ chế, kiểm tra theo dõi, phát hiện và xử lý kịp thời các sự cố không bình thường trong kho. Tuy nhiên để giữ cho sản phẩm ở trạng thái an toàn được lâu dài, ngoài việc xây dựng kho theo đúng tiêu chuẩn, thì cũng cần phải quản lý tốt các tiêu chuẩn về chất lượng từ khi thu hoạch cho tới khi nhập kho. Muốn đảm bảo yêu cầu chất lượng, nông sản phải được thu hoạch đúng lúc (độ chín), lựa chọn, phân loại đúng tiêu chuẩn quy định, kiểm tra phẩm chất ban đầu trước khi nhập kho về các chỉ tiêu: độ sạch, độ ẩm, mức độ nhiễm sâu bệnh, thành phần dinh dưỡng. Trong vận chuyển phải lưu ý ngăn ngừa những tác động cơ học bên ngoài làm hư hỏng hạt: gẫy vỡ, dập nát, 1.1.2. Yêu cầu kỹ thuật Để bảo quản nông sản được lâu với tỷ lệ hao hụt thấp nhất, khi xây dựng kho cần đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật sau: - 1 -
  2. - Có đủ dung tích để chứa hết khối lượng sản phẩm cần lưu trữ. - Kho phải được xây dựng dựa trên địa hình cao ráo, dễ thoát nước, không ngập úng khi trời mưa kéo dài. - Hướng bố trí trục dọc của kho là hướng Đông - Tây, giảm đáng kể ảnh hưởng của bức xạ mặt trời. - Kết cấu kho phải đáp ứng được các yêu cầu trong bảo quản như: cách nhiệt, cách ẩm, tránh tạo điều kiện cho côn trùng phát triển và loài gặm nhấm (chuột) đục khoét, đồng thời phải tạo điều kiện thuận lợi cho công tác kiểm tra và xử lý sự cố, tiện lợi cho tiêu diệt vi sinh vật có hại và côn trùng. - Phải có trang thiết bị để sơ chế trước khi nhập kho hoặc xử lý các sự cố không bình thường xảy ra trong kho: thiết bị làm sạch, sấy, thông gió, Đặc biệt là phải có các phương tiện vận chuyển để cơ khí hoá việc bốc dỡ, xuất nhập kho. 1.1.3. Phân loại Dựa trên cơ sở loại nông sản cần bảo quản ta chia ra: kho bảo quản hạt, kho bảo quản củ, kho bảo quản rau quả, kho bảo quản sữa, thịt, cá, Dựa trên mức độ cơ khí hoá có: kho đơn giản, kho cơ giới, kho silô. Kho đơn giản là loại kho hầu như không có trang thiết bị kèm theo, mọi công việc trong kho chủ yếu dùng sức lao động của con người. Kho cơ giới có trang bị các phương tiện vận chuyển để cơ khí hoá toàn bộ công việc xuất nhập kho. Việc thông gió, điều chỉnh nhiệt độ và độ ẩm đều giải quyết bằng cơ khí hoạc tự động hoá. Kho silô là loại kho hiện đại, tiên tiến nhất hiện nay. Ngoài - 2 -
  3. những tính chất như kho cơ giới, nó còn được trang bị các phương tiện để thực hiện các phương pháp bảo quản lạnh, thoáng, kín, 1.2. Nguyên lý xây dựng kho và cách bố trí nguyên liệu trong kho 1.2.1. Nguyên lý xây dựng kho ¾ Móng kho Móng kho được làm băng bêtông cốt thép, cao hơn bề mặt đất ngoài công trình 30 ÷ 40 cm, thường có gờ úp xuống tránh chuột khỏi trèo lên. Móng phải được xây trên nền đất cứng, để khỏi bị lún. ¾ Sàn kho Cấu trúc của sàn kho có ảnh hưởng lớn tới độ bền của kho và điều kiện áp dụng cơ khí hoá. Sàn kho phải đáp ứng một số yêu cầu kỹ thuật sau: + Bền vững, chịu được tải trọng riêng lớn (Trọng lượng sản phẩm trên 1m2sàn). + Cách ẩm tốt, ngăn được mạch nước ngầm và khí ẩm ở bên ngoài vào. + Bảo đảm không cho côn trùng và sâu bọ xâm nhập vào kho. Kho chứa ngũ cốc, sàn kho thường hơi nghiêng để dễ dàng cho việc cơ khí hoá xuất hạt. Sàn kho đựng rau quả thường làm phẳng, chia thành các ngăn dọc ngang kho. Giữa các ngăn có lối đi đủ lớn để tạo thông thoáng và để các phương tiện vận chuyển đi lại trong kho để bốc dỡ hàng. Sàn kho hiện nay thường có ba loại: sàn gỗ, sàn gạch và sàn bêtông cốt thép. Sàn có thể có gầm thông thoáng phía dưới, tránh ẩm từ dưới theo mạch nước ngầm ngấm vào. Sàn bêtông thường dày và có lớp chống thấm bằng bitum. - 3 -
  4. ¾ Tường kho Tường kho thường có một lớp hoặc hai lớp. Giữa hai lớp có lớp chống thấm và cách nhiệt. Tường kho phải đảm bảo vững chắc, không bị nứt nẻ, ¾ Mái kho Mái kho thường làm bằng tôn, phibrô ximăng hoặc đổ bêtông. Yêu cầu đối với mái kho phải cách nhiệt tốt (giảm bức xạ mặt trời). Để đảm bảo cách nhiệt người ta có thể sử dụng bông thuỷ tinh. Đối với mái ngói thường phải có trần bằng vôi rơm. Trần loại này rẻ tiền, nhưng hiệu quả cũng tốt, nhưng có nhược điểm là độ bền kém. ¾ Cửa kho Các cửa ra vào phải bố trí hợp lý để công việc kiểm tra, xuất nhập, xử lý sự cố được thuận tiện và nhanh chóng. Cửa sổ phía trên phải có máng hất, tránh mưa hắt vào. Cửa thông gió phải có hai lớp, lớp trong bằng lưới, phía ngoài bằng kính hoặc chớp, tránh chim chuột xâm nhập và khi thông gió có thể mở cửa dễ dàng. Kích thước cửa phổ biến 2,5×2,5m đóng kín. 1.2.2. Bố trí nguyên liệu trong kho Ta không thể sắp xếp các bao hạt đầy kín trong kho. Cần phải có lối vào, ra đủ rộng để các phương tiện vận chuyển đi lại để chất hàng vào kho và lấy hàng ra khỏi kho. Khoảng trống ở trần và xung quanh các đống bao cần thiết cho việc thông gió, làm vệ sinh và phun thuốc phòng trừ, Người ta qui định với kho chứa 500 tấn thì thể tích sử dụng có thể ít hơn 50% tổng thể tích bên trong tính tới dưới chỗ bắt đầu mái chìa. khi kích thước của kho tăng lên thì thể tích sử dụng cũng tăng lên (tối đa 80% với kho chứa 10.000tấn). - 4 -
  5. Đối với mỗi thể tích nhà kho nhất định, thể tích sử dụng cũng giảm do số loại sản phẩm lưu kho gia tăng, bị sâu bệnh, quản lý không tốt, Chăm sóc nông sản trong kho với những nội dung sau: - Khi xây dựng, tấm sàn có bố trí nhiều lớp trong đó có lớp ngăn ẩm xâm nhập từ dưới đất lên bằng lớp nhựa bitum. Đồng thời bao sản phẩm không đặt trực tiếp lên sàn mà thông qua giá đỡ. - Ngăn nước ẩm từ tường thấm vào nông sản: khối nông sản không được xếp tiếp xúc trực tiếp với tường mà cần có khoảng cách thích hợp. Hình 1.1. Giá đỡ và giá lót. - Xếp các bao đúng quy cách: Điều này có nghĩa là phải đảm bảo sử dụng tối đa không gian kho, làm vệ sinh mặt sàn dễ dàng, kiểm tra nông sản, kiểm tra số lượng dễ dàng. Tạo khoảng cách để thông gió cho các bao. - 5 -
  6. - Phòng trừ chuột và sâu bệnh: Phải bịt kín các lỗ nơi ẩn náu của chuột. Bảo đảm kho sạch tuyệt đối, dọn và huỷ các phế phẩm bị nhiễm bệnh. Hình 1.2. Khoảng cách giữa nông sản và tường. Giá lót là một vật liệu đặt giữa sàn kho và bao đựng hạt, nhằm ngăn không cho ẩm thấm vào nông sản từ sàn, dẫn tới mốc và hư hỏng hạt. Giá lót đơn giản nhất là tấm nilông dày không bị thủng đặt trực tiếp xuống sàn và trên các bao hạt. Giá lót gỗ (thường gọi là palet nâng hàng) cấu tạo gồm các thanh gỗ ngang và dọc, bao nông sản đặt trên đó cách ly với sàn. Cần lưu ý trước khi dùng cần tẩy trùng sạch, tránh nhiễm sâu bệnh. Cách xếp bao như hình vẽ dưới, tránh cho bao bị đổ và làm cho việc kiểm kê kho dễ dàng. Lớp lẻ Lớp chẵn Số bao của mỗi lớp - 6 -
  7. Mỗi lớp 3 bao Mỗi lớp 5 bao Mỗi lớp 8 bao Hình 1.3. Phương pháp xếp các bao nông sản. 1.3. Cấu tạo hoạt động của một số loại kho thường dụng 1.3.1. Bảo quản hạt nông sản a/ Kho đơn giản Kho bảo quản hạt trong gia đình là đơn giản nhất (người ta thường gọi là cót thóc). Hiện nay loại kho này không còn vì quá - 7 -
  8. đơn giản và không đảm bảo chất lượng bảo quản, khả năng chống chuột và sâu bọ. Kho dùng dự trữ lương thực quốc gia hiện nay tồn tại dưới ba dạng: Kho A1, kho A2 và kho cuốn. + Kho A1, A2: Loại kho dùng phổ biến trong ngành lương thực những năm 60 của thế kỷ trước. Kết cấu của kho A1 gồm: Mái gói, dầm gỗ và nhiều kèo gỗ chịu lực. Dưới lớp mái có lớp trần bằng vôi rơm để cách nhiệt. Tường xây bằng gạch, có lớp ván gỗ ghép (chiều cao tường gỗ 3 ÷ 3,5m) sàn bằng xi măng, hoặc lát gỗ. Sàn thường là loại sàn trệt (thấp và cách ẩm không tốt) hoặc sàn có vòm cuốn, có lớp không khí đệm, chống ẩm. Mỗi ngăn kho A1 thường có sức chứa 130 ÷ 250 tấn hạt. Kích thước phổ biến: dài 23 ÷ 46m, rộng 8 ÷ 12m, cao từ 4 ÷ 6m. Ưu điểm của kho A1: kiên cố, có khả năng chống được mưa bão, khả năng thoát nhiệt tốt, tường không có máng ở phía trên, tường trước và sau có mái hiên nên chống được mưa hắt. Kho A1 thích hợp để bảo quản thóc, gạo và cả bột. Nhược điểm của loại kho này là tốn nhiều gỗ (lát tường và sàn). Tuy nhiên hiện nay vì kèo gỗ đã được thay bằng kim loại. Khả năng chống xâm nhập ẩm vào kho kém. Khả năng làm kín chưa tốt, do đó cần khử trùng kho bằng hơi sát trùng gặp nhiều khó khăn. Sâu mọt và chuột dễ xâm nhập và hoạt động (đặc biệt kho A1 thông thoáng) và lan từ khoang này sang khoang khác. Đặc điểm của kho A2 là mái gói, cột, dầm chịu lực bằng gỗ, sàn và tường cũng bằng gỗ. Sàn cách nền kho từ 50 ÷ 80 cm. Loại kho này có nhiều ở trung du và miền núi. Gần đây các loại kho này bị loại bỏ. + Kho cuốn: Kho cuốn là loại kho phổ biến nhất ở ta hiện - 8 -
  9. nay. Nguyên liệu chính để xây dựng là gạch, vôi, cát, ximăng, cần rất ít gỗ. Kết cấu chịu lực là tường chịu lực (đồng thời cũng là tường ngăn giữa hai khoang) và vòm cuốn mái. Kích thước cơ bản của một khoang khô: dài (8 ÷ 15m), rộng (4 ÷ 6,5m) cao (4 ÷ 6m). Mỗi ngăn kho cuốn chứa từ 50 ÷ 140 tấn thóc. Kho có nền cao và dưới có vòm cuốn, dùng lớp không khí đệm để chống thấm ở nền. Trên vòm cuốn mái có gắn một lớp ngói lợp ngoài. Về phương diện bảo quản kho cuốn có một số ưu nhược điểm chính sau: Ưu điểm: - Nhà kho chắc chắn, có khả năng chống mưa bão và hoả hoạn. - Mái có khả năng cản nhiệt do bức xạ mặt trời tốt. - Kho khá kín (khi cần kín), chim, chuột rất khó xâm nhập. - Nếu chất lượng thóc ban đầu tốt, bảo quản trong kho cuốn sẽ an toàn. Nhược điểm: - Ngăn kho có tiết diện chữ nhật nên sự phân bố nhiệt và ẩm trong đống hạt không đều; càng vào giữa gian kho, nhiệt độ đống hạt càng cao; gần tường và cửa nhiệt độ thấp hơn. - Khả năng thoát nhiệt của kho cuốn kém hơn kho A1 và kho A2. Trường hợp hạt nhập kho không đạt chất lượng bảo quản, hạt dễ bị bốc nóng. Nhiệt độ đống hạt trong mùa hè từ 38 ÷ 420C. Chính vì thế để tránh đọng sương và men mốc ở lớp mặt, yêu cầu quan trọng là đống hạt phải được cào đảo thường xuyên. - 9 -
  10. - Lớp ximăng chống thấm ở máng trên tường ngăn giữa hai gian kho thì bị rạn nứt. Vào mùa mưa kéo dài trong hai tháng 2, 3, các máng đều bị thấm ướt, làm ẩm tường ngăn. Thóc gần sát tường ngăn dễ bị mốc. - Do chia nhiều ngăn, diện tích kho hẹp, cửa thấp nên rất khó cơ khí hoá xuất nhập kho. Trong bảo quản cũng gặp nhiều khó khăn. Nhìn chung các loại kho phổ biến hiện nay còn tồn tại nhiều vấn đề: - Các kho chưa đáp ứng được yêu cầu bảo quản là chống ẩm và chống thấm, do đó lương thực bảo quản thường hay bị mốc (sát tường và nền). Khắc phục hiện tượng này thường phải dùng khung đóng, kê lót ở tường và nền gây lãng phí và tốn kém bảo dưỡng, thay thế hàng năm. - Mức độ chứa hạt (đổ đống, không đóng bao) còn thấp, chiều cao đống hạt chỉ từ 3 ÷ 3,5m. Mức độ chứa hạt mới chỉ 50 ÷ 60% thể tích nhà kho, còn 40% là khoảng không vô ích. Chính khoảng không này là môi trường thuận lợi để không khí ẩm bên ngoài xâm nhập và tác động vào lương thực, làm cho sâu mọt và vi sinh vật có hại phát triển, phá hoại lương thực. - Những nhà kho để bảo quản lương thực còn thủ công. Để bảo quản tốt lương thực cần thiết phải cơ khí hoá các khâu như xuất, nhập, xử lý lương thực trước khi nhập, xử lý trong quá trình bảo quản. b/ Kho cơ giới: Kho cơ giới không có thiết bị sơ chế dùng để bảo quản hạt. - 10 -
  11. Hình 1.4. Sơ đồ cấu tạo kho cơ giới không có thiết bị sơ chế. 1 - Băng tải 2 - ống thổi không khí 3 - Quạt 4 - Băng tải nhập 5 - Tấm chắn. Trong kho trang bị bộ phận vận chuyển kiểu gầu tải, đưa nguyên liệu từ dưới lên cao và đổ vào băng chuyền 4 đặt trên nóc, chạy suốt chiều dài kho. Trên từng đoạn băng tải có thiết bị gạt hạt xuống từng ô kho một. Hạt được lấy ra dưới đáy nghiêng cũng là một băng tải 1 chạy dọc kho. Khối hạt trong kho theo từng giai đoạn được thông gió cưỡng bức khi cần thiết nhờ hệ thống ống thổi không khí 2 đặt trên mặt nền theo hướng ngang. Ống phân phối khí bằng thép, phía trên bố trí lỗ. Trên miệng lỗ lắp tấm chắn 5 để hạt không rơi vào ống và không khí tràn ra hai bên. Hệ thống thổi không khí cưỡng bức vào ống gồm quạt cao áp 3. Đối với kho cơ giới có thiết bị sơ chế (Hình 1.5). Thiết bị sơ chế gồm buồng sấy, sàng làm sạch hạt và một số thiết bị khác để thực hiện việc bốc dỡ, vận chuyển, xuất nhập kho hoặc xử lý - 11 -
  12. những sự cố nguy hiểm (bốc nóng, côn trùng phá hoại, ). Loại kho này có thể hoàn thành các quá trình cần thiết trong quá trình bảo quản. Hình 1.5. Sơ đồ cấu tạo kho cơ giới có thiết bị sơ chế. 1 - Xe vận chuyển 2 - Thùng tiếp nhận 3, 8 - Băng tải 4 - Gầu tải 5 - Thùng phân phối 6 - Sàng làm sạch tạp chất 7 - Buồng sấy 9 - Cơ cấu tháo liệu 10 - Băng tải xuất. c/ Kho silô Kho silô thường được dùng để bảo quản hạt. Đây là phương pháp bảo quản hạt tiên tiến nhất hiện nay. Hầu hết các nước phát triển đều sử dụng phương pháp này. Cấu tạo kho gồm một số tháp hình trụ (silô) bằng thép hoặc bằng bêtông cốt thép, đáy dạng hình chóp. Hình 1.6 sơ đồ cấu tạo kho silô nói chung. Hạt được đưa lên cao nhờ gầu tải 1 và phân phối xuống các silô bằng băng tải 2. Hạt được lấy ra ở đáy silô và vận chuyển bằng băng tải 5. - 12 -
  13. Trên từng silô, theo chiều cao có các ống dẫn không khí 4 thổi gió ngoài trời vào hạt nhằm điều chỉnh nhiệt độ và ẩm độ của khối hạt. Việc theo dõi được tự động hoá nhờ các cảm biến đặt trong silô ở các độ cao khác nhau của silô (5 ÷ 7m đặt một chiếc). Các tín hiệu nhận được qua bộ chuyển đổi đo, bộ khuếch đại tới chỉ thị đo, Ngoài hệ thống điều khiển, điều chỉnh kể trên, người ta còn trang bị buồng sấy hạt, quạt gió, hệ thống vận chuyển xuất nhập kho, đảo hạt, Nhờ thiết bị điện tử và hệ thống máy tính chương trình, công việc của kho được tự động hoá hoàn toàn. Kho có sức chứa 20.000 tấn chỉ cần 1 ÷ 2 người phục vụ. Kho silô vốn đầu tư lớn, nhưng hiệu quả kinh tế lại rất cao, do giảm được hư hỏng sản phẩm và giảm chi phí lao động. Hình 1.6. Sơ đồ cấu tạo kho silô. 1 - gầu tải 2, 5 - Băng tải 3 - Bộ phận tháo liệu 4 - ống dẫn không khí 6 - Silô. - 13 -
  14. Hình 1.7. Kho silô bằng thép, dạng lục giác ở Pháp, sức chứa mỗi silô 200 tấn hạt - 14 -
  15. Hình 1.8. Silô bằng thép, tiết diện tròn. Hình 1.9. Kho silô bằng bêtông 1.3.2. Kho tồn trữ rau quả tươi Đã có nhiều phương pháp tồn trữ rau quả tươi: vùi trong cát, để trong hầm, đựng trong bao kín, những cách này chỉ tồn trữ tạm thời, chất lượng rau quả phụ thuộc nhiều vào khí hậu, thời tiết bên ngoài. Ngày nay đã có kho tồn trữ hàng nghìn tấn, hiện đại, có trang bị máy lạnh, hệ thống vận chuyển, hệ thống điều khiển tự động ra đời. Tuy nhiên bên cạnh các kho hiện đại vẫn tồn tại các kho đơn giản. ™ Kho tồn trữ trong điều kiện bình thường. - 15 -
  16. Để tồn trữ rau quả ngắn ngày, ta dùng kho thường nghĩa là không có lạnh hoặc bất kỳ cách xử lý nào ngoài hệ thống thông gió. Hình 1.10. Các phương pháp thông gió. 1 - Thông gió tự nhiên; 2 - Thông gió cưỡng bức; 3 - Thông gió tích cực. Thông gió tự nhiên, theo nguyên tắc đối lưu nhiệt. Không khí nóng nhẹ bốc lên trên, không khí lạnh hơn chuyển xuống dưới gây ra đối lưu tự nhiên. Tốc độ dịch chuyển của không khí phụ thuộc chênh lệch áp - 16 -
  17. suất. vf=⋅Δ=⋅⋅Δ() P fh( γ ) Trong đó:v - Tốc độ chuyển động của không khí (m/s); ΔP - Độ chênh áp suất (Kg/m2); h - Chiều cao giữa miệng hút (dưới) và miệng đẩy (trên) (m); Δγ - Chênh lệch khối lượng không khí bên ngoài (nặng) và không khí nóng bên trong (nhẹ hơn). Vì Δγ nhỏ và h không thể quá cao nên tốc độ v nhỏ, rất khó đáp ứng được thông gió tốt, do đó cần phải thông gió cưỡng bức. Thông gió cưỡng bức đảm bảo phân phối không khí đều khắp, làm nguội nhanh, đồng thời có thể tăng khối lượng rau quả trong kho. ™ Kho lạnh. Kho lạnh chủ yếu để tồn trữ rau quả tươi. Người ta cũng dùng kho mát để bảo quản lúa lai F1. Tuy nhiên việc tồn trữ này cũng chỉ trong một thời gian vài tháng. Kho lạnh có dung lượng từ vài chục tới hàng nghìn tấn sản phẩm. Để bảo đảm ổn định nhiệt độ trong kho, người ta phải tính toán cách nhiệt tốt trần, tường và sàn kho. Vì kết cấu xây dựng có nhiều phương pháp khác nhau. Đối với kho lạnh từ 500 ÷ 700 m2, người ta thường dùng các kết cấu nhẹ để lắp ghép, đó là các kho lạnh lắp ghép lớn. Phần chịu lực thường là kết cấu thép hình. Tấm cách nhiệt xốp được tiêu chuẩn hoá theo dãy 1,8m, 2m, 2,2m, Các kho lạnh thường có nhiều kích cỡ khác nhau. Dưới đây là sơ đồ kho lạnh tiền chế. - 17 -
  18. Hình 1.11. Kho lạnh tiền chế Phụ thuộc vào hệ số truyền ẩm của hơi nước, hơi nước sẽ bị ngăn lại tại các lớp bao phủ của vật liệu cách nhiệt. Quá trình truyền nhiệt là do có sự chênh lệch nhiệt độ bên trong và bên ngoài tường kho (gradien nhiệt độ). Sự khuếch tán hơi nước là do độ chênh áp suất hơi nước qua tường. Trong phòng lạnh thường áp suất hơi nước thấp, do đó hơi nước bên ngoài có xu hướng xâm nhập vào kho. Do đó vật liệu chống ẩm cần đạt các yêu cầu sau: - Không giãn nở quá mức. - Dễ cố định vào tường. - ổn định nhiều năm. - 18 -
  19. - Đảm bảo trạng thái ứng suất tốt, có hệ số cản khuếch tán hơi nước cao. Thông thường người ta sử dụng vật liệu cách ẩm như: nhựa đường, bitum, dầu hoả, bôrulin, amiăng, perganin và giấy dầu. Cách nhiệt cho mái nhằm giảm ảnh hưởng của nhiệt độ cao của môi trường và bức xạ mặt trời xâm nhập vào kho. Thường dùng các tấm panen cách nhiệt trong khoảng giữa mái và trần, kết hợp với thông gió. (Hình 1.12) cho thấy cấu trúc tường kho lạnh phổ biến hiện nay. Chiều dày lớp vừa 10mm, lớp cách ẩm 2,5 ÷ 3mm. Hai lớp cách nhiệt cần bố trí so le, tránh cầu nhiệt. Lưới thép chống xâm nhập các loại gậm nhấm,vừa làm nền để chát vữa. Về nguyên tắc làm lạnh có thể là giàn ống bay hơi đặt trực tiếp trong phòng, bằng giàn ống nước lạnh khi đó giàn ống bay hơi nhúng trong bể nước muối. Hai phương pháp này không tạo nên đối lưu tốt của không khí nên nhiệt độ trong phòng không đồng đều. Hiện nay người ta dùng mỗi chất lạnh (anmôniắc, fréon 12, fréon 24 ) hoá lỏng trong máy nén và bốc hơi trong dàn lạnh, thu nhiệt từ môi trường cần làm lạnh. Nhiệt độ hạ xuống. Thường dùng quạt gió thổi qua dàn lạnh vào trong phòng. a/ - 19 -
  20. b/ Hình 1.12. Sơ đồ nguyên lý làm lạnh phòng bảo quản lạnh a) Làm lạnh bằng giàn ống bay hơi đặt trực tiếp trong phòng b) Làm lạnh bằng giàn ống nước muối lạnh. 1 - Bình ngưng; 2 - Giàn bay hơi; 3 - Van tiết lưu; 4 - Bể nước muối; 5 - Bơm; 6 - Giàn làm mát. Phương pháp này đảm bảo nhiệt độ trong phòng đồng đều, vừa có thể điều chỉnh được độ ẩm không khí trong phòng dưới 90% nhờ bộ phận phun ẩm. Phương pháp làm lạnh vỏ không khí xung quanh phòng có nhiều ưu điểm. Lớp vỏ không khí không thông với không gian buồng lạnh. Trong lớp vỏ bố trí giàn ống bay hơi và quạt, do đó lớp vỏ có nhiệt độ đồng đều. Hơi nước không ngưng tụ và đóng băng trên giàn bay hơi, do đó độ ẩm không khí trong phòng không bị giảm. - 20 -
  21. Hình 1.13. Sơ đồ phương pháp làm lạnh Hình 1.14. Sơ đồ làm lạnh vỏ phòng bảo dùng quạt có điều chỉnh ẩm. quản lạnh 1 - Quạt gió; 2 - Giàn bay hơi; 1 - Lớp vỏ không khí; 2 - Giàn bay hơi 3 - Bộ phận làm ẩm không khí; 3 - Quạt gió; 4 - Phòng bảo quản. 4 - phòng bảo quản. Cách bố trí sản phẩm trong buồng lạnh: Rau quả đưa vào phòng lạnh đựng trong các sọt, xếp chồng cách trần 25 - 30cm. Sọt kê trên bục cao 15cm cách tường 40 - 50cm, cách giàn lạnh 50 - 60cm và nên có tấm chắn bức xạ nhiệt trực tiếp cho những trần ở gần giàn lạnh. Khoảng cách giữa các chồng 10 - 15cm. Lưu ý nguyên liệu đưa vào phòng lạnh cần làm sạch sơ bộ và khi lấy ra khỏi phòng cần nâng nhiệt từ từ, tránh gây biên đổi nhiệt độ đột ngột sẽ làm đọng nước, hư hỏng nguyên liệu. 1.3.3. Kho ngầm (kho bảo quản kín) Kho bảo quản kín nhằm ngăn xâm nhập ôxy. Kho ngầm và nửa ngầm dưới mặt đất được sử dụng ở các vùng có nhiệt đới: Nam châu Mỹ, châu Phi, ấn Độ. ưu điểm của kho là rất kín, nhiệt độ bảo quản tương đối ổn định, ít chịu ảnh hưởng của môi trường bên ngoài. Tuy nhiên cũng có nhược điểm là rất khó khăn trong xử lý mạch nước ngầm. Ở Mỹ các kho ngầm thường là bê tông, có lớp cách ẩm, cách nhiệt. Khi xây dưng nên chọn nơi không có mạch nước ngầm hoặc - 21 -
  22. sâu hơn đáy kho. Khu đất chọn làm kho ngầm nên có độ nghiêng để dễ thoát nước. Nắp hầm phải bền, cách ẩm.Đối với kho có một phần lộ thiên nên sơn bằng mầu trắng để tránh hấp phụ nhiệt. Hạt luôn đổ đầy kho và lắp đầy thiết bị đo nhiệt, ẩm, nồng độ O2 và CO2. Ngày nay để bảo quản khối lượng lương thực lớn hàng triệu tấn có thể dùng kho si lô hoặc kho ngầm. Thi nghiệm cho thấy sau hơn một năm bảo quản ngầm, chất lượng, số lượng lương thực vẫn bảo đảm tốt, đặc biệt không bị côn trùng phá hoại. Tường, mái, nền nhà kho phải được chống thấm, dột, chống hắt tốt, vì nước ta nằm trong vành đai mưa nhiều. Nhựa asphalt Sơn trắng Mây đan Chống thấm Sàn bêtông - 22 -
  23. Hình 1.15. Sơ đồ kho ngầm - Kho phải đáp ứng được yêu cầu thoát nước nhanh và cản được nhiệt độ bên ngoài xâm nhập vào, đặc biệt chống được bức xạ nhiệt qua mái, tường. Để đáp ứng yêu cầu này, trục dọc của kho (trục lớn) nên bố trí theo hướng đông tây. Bố trí như thế tránh được khối tường hai bên có diện tích rất lớn không chịu tác động trực tiếp của bức xạ mặt trời. Hai bên tường có cửa, diện tích nhỏ hai đầu kho hướng về phía mặt trời từ sáng tới chiều. Mái kho thường làm trần cách nhiệt để chống nóng. Bản thân lương thực luôn hô hấp sinh nhiệt. Nếu lượng nhiệt sinh ra lớn hơn lượng nhiệt thoát ra ngoài, sẽ có hiện tượng tích tụ nhiệt, khối lượng lương thực bị bốc nóng. Thường thì nhiệt độ trong lòng đống hạt bao giờ cũng cao hơn nhiệt độ ngoài trời từ 2 - 150C. - Kho phải bảo đảm khi cần kín thì rất kín để chống xâm nhập từ ngoài vào. Khi cần thông gió để thoát nhiệt thoát ẩm ở lương thực ra ngoài thì kho phải bảo đảm rất thoáng. - Nhà kho phải bảo đảm yêu cầu vệ sinh, dễ quét dọn, dễ sát trùng, chống được sâu mọt ẩn láu và lây lan sang các khoang khác của kho. - Nhà kho phải bảo đảm yêu cầu thuận tiện cho việc xuất nhập, có thể cơ giới hoá một cách thuận lợi. - Chất lượng sản phẩm không bị suy giảm trong thời gian bảo quản. - 23 -
  24. 1.4. Thiết bị trong kho bảo quản 1.4.1. Thiết bị thông gió cưỡng bức Muốn thổi được dòng không khí đi qua khối hạt để thông gió làm nguội và làm khô đống hạt, đầu tiên phải có quạt gió thích hợp, hệ thống ống dẫn khí và các cơ cấu phụ. Quạt phải có lưu lượng gió và áp suất đủ lớn để thắng được lực cản của khối hạt, không khí len lỏi trong các khối hạt để giải phóng lượng nhiệt và lượng ẩm ra khỏi đống hạt. Loại quạt dùng để thông gió cho khối hạt thường là quạt ly tâm áp suất trung bình (100 - 300 kg/m2) hoặc áp suất cao (300 - 1200 kg/m2). Để thông gió cho khối hạt người ta dùng rất nhiều loại thiết bị khác nhau. Trong hệ thống thông gió cơ khí thổi có các bộ phận sau đây: cửa lấy gió hay giếng để hút không khí ngoài trời; máy quạt, buồng xử lý không khí, bên trong có lưới lọc bụi đối với không khí ngoài trời, thiết bị làm sạch và làm nóng không khí; mạng lưới ống dẫn để đưa không khí từ máy quạt đến các phần vẫn thông gió; các lỗ cửa để thổi không khí vào khối hạt; thiết bị điều chỉnh lưu lượng hay áp suất (vòng đệm tiết lưu, van chặn kiểu tấm lá chíp điều chỉnh hay kiểu vít xoáy vv ) được lắp vào các chỗ tiếp nhận không khí, trên các đường ống vào hoặc ra khỏi, máy quạt và đường vào thiết bị sấy nóng hoặc làm lạnh v v. Dưới đây giới thiệu loại thiết bị thông gió di động một ống cắm vào đống hạt do Viện công nghệ thực phẩm và Viện thiết kế máy nông nghiệp nghiên cứu, chế tạo năm 1972 và được phổ biến trong ngành lương thực. a/ Cấu tạo Thiết bị thông gió bao gồm: - Quạt ly tâm gồm có hộp quạt, guồng cánh. Guồng cánh lắp trực tiếp vào động cơ điện. Động cơ điện lắp trên giá đỡ gắn liền - 24 -
  25. với hộp quạt. Quạt có cửa hút và cửa đẩy. Không khí hút qua guồng qua cửa hút và tạo áp suất cho dòng khí thoát ra ở cửa đẩy đi vào ống phân gió. - Ống phân gió cắm vào đống hạt. ống có đường kính ngoài 102 mm, bao gồm hai đoạn (đoạn trên dài 1200 mm, đoạn dưới dài 1400 mm). Để có thể cắm ống vào trong khối hạt, đoạn cuối của ống có dạng côn nhọn, có ba bước cánh vít. Đoạn cuối của ống phân gió có khoan 14.000 lỗ có đường kính 2mm để thoát gió vào đống hạt. ống cắm sâu vào đống hạt tới 2 - 2,2 m. Để ống có thể đi sâu vào khối hạt, cần xoay ống, nhờ vít có bước 1000 mm, nên mỗi vòng xoay, ống đi sâu vào khối hạt được 100 mm. Quạt có thể làm việc theo hai cách: + Quạt làm việc theo cách đẩy: không khí trong khoảng không của kho được hút qua cửa hút của hạt, đẩy qua ống phân gió vào trong lòng đống hạt nhờ các lỗ thoát gió ở cuối ống. Không khí đó được thổi qua đống hạt và thoát lên trên bề mặt đống hạt. + Quạt làm việc theo cách hút: không khí trong khoảng không của kho được hút vào trong lòng đống hạt và sau đó hút vào ống qua các lỗ thoát gió. Không khí này theo ống vào miệng hút của quạt và được quạt thổi ra ngoài. Như vậy, khi làm việc theo nguyên tắc đẩy, miệng đẩy của quạt được lắp với ống thông gió. Khi làm việc theo nguyên tắc hút, miệng hút của quạt được nối với ống phân gió. b/ Cách bố trí quạt khi thông gió Tuỳ theo trạng thái của đống hạt khi thông gió, người ta bố trí quạt theo nguyên tắc đẩy hoặc hút cho thích hợp. - Khi đống hạt bị bốc nóng ở phía trên, có thủy phần và nhiệt - 25 -
  26. độ cao, bố trí theo nguyên tắc đẩy là thích hợp. Nhiệt và ẩm thoát khỏi khối hạt nhanh và mạnh. - Trường hợp bị bốc nóng khô ở trong lòng khối hạt, nhiệt độ trong lòng khối hạt cao, nhưng thuỷ phần lại thấp, nên ta sử dụng nguyên tắc đẩy. - Trường hợp bị men mốc bốc nóng ven tường, nên bố trí quạt theo nguyên tắc hút cắm ở gần tường. - Trường hợp đống hạt bị bốc nóng ẩm ở trong lòng đống hạt, nên sử dụng nguyên tắc hút. - Trường hợp bị bốc nóng ở gần đáy, thì cắm ống quạt sâu 2 - 2,3 m và sử dụng nguyên tắc hút. - Khi bố trí quạt theo nguyên tắc liên hợp: hút - đẩy – hút - đẩy thì dòng khí sẽ chuyển từ ống của quạt đẩy sang ống quạt hút, và sẽ có nhiều khoảng của đống hạt không có gió thổi qua, làm nguội sẽ không đều. Do đó, người ta ít dùng phương pháp này. Khi quạt làm việc, ống phân gió phải cắm sâu vào khối hạt ít nhất từ 2m trở lên. Để bảo đảm làm nguội khi thông gió, lưu lượng gió cần cung cấp cho 1 tấn hạt phải từ 20 - 40 m3/T.h. Thông thường một gian kho cuốn 130 T hạt khi thông gió cần sử dụng từ 4 - 6 quạt gió một ống. o Mỗi gian kho A1 (250 T) cần 8 - 10 quạt. o Mỗi gian kho cuốn chứa 50 T hạt cần 2 quạt. o Mỗi gian kho A3 chứa 30 T hạt cần 1 quạt. Khi cắm quạt vào đống hạt, cần phân bố đều để gió cũng được phân bố đều trong toàn khối hạt (trừ trường hợp bốc nóng cục bộ). Khoảng cách trung bình giữa quạt 3 - 4m. Khoảng cách từ quạt tới tường 2 - 3m. - 26 -
  27. 1.4.2.Thiết bị bốc dỡ và vận chuyển Trong quá trình vận hành kho, cần phải bốc dỡ và vận chuyển một khối lượng sản phẩm rất lớn. Chính vì vậy vấn đề cơ giới hoá và tự động hoá là yêu cầu bắt buộc đối với các loại kho cơ khí có sức chứa hàng trăm tới hàng nghìn tấn sản phẩm. Giảm nhẹ sức lao động và tăng năng suất lao động là mục đích của việc sử dụng các phương tiện bốc dỡ và vận chuyển. Trong quá trình bảo quản cần phải xuất nhập sản phẩm cần phải xử lý nhiệt khi sản phẩm có độ ẩm vượt quá tiêu chuẩn Có nhiều phương tiện vận chuyển, tuỳ điều kiện cụ thể có thể sử dụng loại phương tiện thích hợp. Hiện nay người ta sử dụng phổ biến hai loại: loại băng chuyền, gầu chuyền và loại vận chuyển bằng hơi. Loại băng chuyền gồm: máy vận chuyển lên cao, máy vận chuyển ngang và loại vận chuyển hỗn hợp. a) Máy vận chuyển lên cao G ầu tải là thiết bị để vận chuyển hạt tơi rời lên cao. Độ cao chuyển tải có thể tới 70-80 m, do đó gầu tải được dùng rộng rãi trong các kho bảo quản hạt. Hình 1.16 trình bày sơ đồ cấu tạo gầu tải vận chuyển sản phẩm lên cao. Thiết bị bao gồm phễu cấp liệu 1 đặt cao hơn trục ngang của tang dưới, thân gầu tải 2 bằng tôn bọc kín hệ thống gầu tải, bộ phận chuyển động 3 (xích ống bạc con lăn hoặc đai dẹt), gầu 4 được chế tạo bằng tôn và lắp ghép vào bộ phận chuyển động bằng bulông, để dễ dàng tháo lắp khi sửa chữa, thay thế; động cơ điện 5, tang chủ động 6 (đĩa xích 7 hoặc bánh đai); cửa ra hạt 8, tang căng hoặc tang bị động 9, gối đỡ tang căng 10 và cơ cấu điều chỉnh 11. Nguyên tắc làm việc như sau: Hạt từ phễu cấp liệu đổ vào các gầu tải đang chuyển động lên trên. Khi gầu tới trên cùng, hạt - 27 -
  28. đổ vào ống rót của cửa ra nhờ hợp lực R giữa trọng lực P và lực ly tâm F tác dụng lên hạt (hình 1.16b) T ốc độ chuyển động của gầu tải lựa chọn tuỳ thuộc vào phương pháp cung cấp hạt vào gầu. Trường hợp hạt rót vào gầu, tốc độ từ 0,4-0,8 m/s, khi gầu xúc hạt thì tốc độ từ 0,8-2 m/s. Muốn đảm bảo hạt đổ đúng ống rót thì giữa tốc độ chuyển động của xích kéo (hoặc băng) và đường kính tang chủ động phải phù hợp theo công thức: V=(1,87 : 2,2) D (m/s) Trong đó: V - vận tốc bộ phận kéo (m/s) D - đường kính tang chủ động (m) Hình 1.16. Máy vận chuyển lên cao 1. phễu cấp liệu; 2. Thân gầu tải; 3. Bộ phận chuyển động; 4. - 28 -
  29. Gầu; 5. Động cơ điện; 6. Tang chủ động; 7. Đĩa xích hoặc bánh đai; 8. Cửa xả; 9. Tang căng; 10. gối đỡ; 11. Bộ phận điều chỉnh b) Máy vận chuyển ngang ™ Băng tải Băng tải ngang là thiết bị vận tải thông dụng trong các kho bảo quản, đặc biệt là kho bảo quản hạt. Người ta thường dùng hai loại: Loại có vị trí tháo cố định (hình 1.17a) và loại có vi trí tháo di động (hình 1.17b). Cả hai loại đều dùng để chuyển tải hạt vào kho và rót hạt vào các ô khác nhau, hoặc chuyển hạt từ kho ra ngoài. Đối với băng tải có vị trí tháo hạt cố định, bộ phận tháo liệu lắp cố định. Hạt từ phễu cấp liệu đổ vào băng tải và được nó chuyển đổi vị trí tháo. Tại đây nhờ hợp lực của lực ly tâm và trọng lực, hạt được đổ vào máng bộ phận tháo; sau đó rơi vào nơi cần chứa. Đối với băng tải thay đổi vị trí tháo, máy tháo có miệng tháo 1 bên. Hạt rơi vào máng tháo nhờ hai tang quay làm thay đổi chiều băng. Toàn bộ hai tang quay và phễu tạo thành một khối di động trên khung của băng nhờ 4 bánh xe (gọi là xe tháo liệu). Nhờ vậy có thể thay đổi được vị trí tháo hạt trên suốt chiều dọc tháo hạt của băng. Phía dưới băng có các con lăn đỡ, giữ cho băng ổn định. Khoảng cách các trục lăn đỡ băng có tải từ 0,9 - 1,8 m. Ở nhánh không tải khoảng cách này có thể gấp đôi. - 29 -
  30. Hình 1.17. Băng tải. 1-Phễu cấp liệu 2-băng tải 3-Con lăn 4-Bộ phận tháo liệu 5-Tang chủ động 6-Động cơ điện 7-Khung 8-Tang bị động 9-Xe tháo liệu ™ Vít tải Vít tải ngang thường dùng vận chuyển hạt ở cự ly ngắn. Trong các kho bảo quản vít tải thường đặt ngang hoặc nghiêng với góc nghiêng nhỏ hơn 150. Bộ phận vận chuyển kiểu này thường không được nạp đầy hạt. Năng suất vận chuyển phụ thuộc vào độ nạp đầy tiết diện ngang ống bao. - 30 -
  31. Hình 1.18. Sơ đồ vít tải 1. phễu cấp liệu; 2. Vít xoắn; 3. Trục vít xoắn; 4. Gối đỡ trung gian; 5. Mặt bích; 6. Gối đỡ; 7. Khớp nối; 8. Hộp giảm tốc; 9. Động cơ; 10. Cửa xả; 11. Ống bao; 12. Nắp ống bao; Cấu tạo vít tải gồm vít xoắn 2 quay trong ống bao 11. Vít xoắn 2 được cấu tạo bởi cánh xoắn hàn trên trục 3 bằng thép ống. Khi vận chuyển ở khoảng cách lớn, vít xoắn được chia làm nhiều đoạn, mỗi đoạn 3 - 4 m và nối với nhau bằng các mặt bích 5. Giữa hai đoạn được định vị bằng ổ treo 4. Trục vít quay nhờ động cơ điện thông qua hộp giảm tốc. Nguyên lý làm việc như sau: Hạt đổ vào phễu cấp liệu 1, hạt bị vít xoắn đẩy dọc theo ống bao 11 và thoát ra ở cửa 10. Khi hạt không thoát kịp qua cửa 10, hạt sẽ đẩy cửa tràn 14 thoát ra ngoài. Vận chuyển bằng vít tải có ưu điểm không bị rơi vãi do vận chuyển trong máng kín. Tuy nhiên vận chuyển hạt dễ tróc vỏ thì không lợi vì dễ làm hạt bị tổn thương. c) Máy vận chuyển hỗn hợp ™ Băng tải nâng Băng tải nâng là loại thiết bị vận chuyển đơn giản dùng đưa vật liệu từ mặt đất lên xe, từ sân phơi hay từ xe vào kho và có thể di động tới vị trí cần làm việc. Kết cấu băng tải gồm: phễu cấp liệu 1, băng tải vải tẩm cao su 2, các con lăn đỡ 3, động cơ điện 4, khung 5, bánh xe 6 và cơ cấu điều chỉnh độ căng băng 7. - 31 -
  32. Hình 1.19. Sơ đồ băng tải nâng 1. phễu cấp liệu; 2. Băng tải; 3. Con lăn đỡ; 4. Động cơ điện; 5. Khung; 6. Bánh xe; 7. Cơ cấu căng băng. ™ Máy xúc hạt tự cào APP-125 Máy dùng để xúc hạt trong kho, tên sân vào một phương tiện khác vận chuyển rất tiện lợi. Máy gồm ba bộ phận chính: xe di động 1, guồng tải nâng 2, guồng ngang 3 ở hai bên để cào vào guồng nâng ở giữa. Nhờ động cơ 5, guồng nâng chuyển động. Động cơ có công suất 7KW. Phía dưới guồng bố trí quạt 4 công suất 2,8KW thổi không khí lên phía trên để tách các tạp chất nhẹ. Thiết bị di động nhờ động cơ có 1KW làm quay hai bánh xe 6 qua hộp giảm tốc trục vít có khớp ly hợp tự động. Guồng cào 3 chuyển động nhờ động cơ 5 thông qua bộ truyền bánh răng côn và xích. Nó có thể nâng lên hạ xuống. Tốc độ di - 32 -
  33. chuyển của thiết bị đạt 0,7km/h. Vận chuyển đi xa phải có xe kéo. Hình 1.20. Máy xúc hạt tự cào APP-125 1. Xe di động; 2. Guồng tải nâng; 3. Guồng tải ngang; 4. Quạt thổi; 5. Động cơ điện; 6. Bánh xe; d) Máy vận chuyển kiểu khí động Hiện nay thiết bị vận chuyển kiểu khí động được sử dụng trong nhiều lĩnh vực: công nghiệp thực phẩm, xây dựng và các kho bảo quản để xuất nhập nhanh. Đặc điểm quan trọng của thiết bị này là vừa vận chuyển sản phẩm vừa có thể làm sạch nó. - 33 -
  34. Tuỳ theo công dụng khác nhau, máy có thể có cấu tạo khác nhau, nhưng những bộ phận chung là phải có quạt, ống dẫn, cơ cấu chất tải vào hệ thống và cơ cấu tách không khí khỏi sản phẩm, cơ cấu đo và kiểm tra. Nguyên lý chung của máy vận chuyển kiểu khí động được thiết lập trên cơ sở trộn vật liệu cần vận chuyển ở trạng thái lơ lửng với không khí và di chuyển nó trong ống. Ở bộ phận tách (xyclôn) sản phẩm được tách khỏi không khí rơi xuống bộ phận thu. Không khí qua lọc thoát ra môi trường. Trong sơ đồ 1.21a vật liệu hút qua miệng hút 1 vào ống 2 sau đó qua xyclôn 3, hạt được tách qua cửa 5, còn không khí lẫn bụi được đưa vào bộ phận lọc 4, hút qua bơm chân không 6 và thổi ra ngoài môi trường. Sơ đồ 1.21b không khí đi qua máy thổi 1, vật liệu từ bộ phận cung cấp 2 rơi vào ống gió 3. Hạt được tách ở xyclôn 4, rơi qua cửa 6; còn không khí tiếp tục qua bộ tách bụi 5 và phần tử lọc 7 thải ra ngoài môi trường. Sơ đồ hỗn hợp (sơ đồ 1.21c) là sự phối hợp của cả nguyên tắc hút và đẩy bao gồm: miệng hút 1, ống dẫn 2, bộ phận tách 3, cửa xả 4,5 , bộ phận thổi 6 và cơ cấu thoát tải 7. Trị số áp suất sẽ khác nhau với các kiểu thiết bị khác nhau. Loại áp suất thấp (dưới 8 KPa) người ta dùng quạt. Loại áp suất trong bình dùng bộ phận thổi không khí (30-50 KPa) và loại áp lực cao (200-300 KPa) dùng máy nén. Các loại máy vận chuyển kiểu khí động hiện đại được xếp loại theo mật độ hỗn hợp thấp, trung bình và cao. Mật độ là số kg vật liệu trên 1kg không khí (0,4 - 4, 4 - 20, 100 và lớn hơn ). - 34 -
  35. 1 a) b) 3 7 4 2 5 1 i ụ B c) 6 - 35 -
  36. Hình 1.21. Thiết bị vận chuyển kiểu khí động. a/ Loại hút b/ Loại đẩy c/ Loại hỗn hợp (hút - đẩy). Đặc điểm bộ phận vận chuyển áp lực thấp như sau: sản phẩm vận chuyển thường là hạt, mật độ thấp (0,4 - 4kg/kg), lượng chi phí không khí lớn, tốc độ 20m/s và lớn hơn khi đường kính ống dẫn 100 - 200mm và lớn hơn, bề mặt lọc lớn. Đặc điểm bộ phận vận chuyển áp lực cao như sau: chỉ di chuyển vật liệu dạng bụi, mật độ hỗn hợp cao (20 - 100kg/kg), tốc độ gió nhỏ (4 - 7m/s) khi dùng ống dẫn có đường kính nhỏ (33 - 76mm). 1.5. Tính toán thiết bị vận chuyển 1.5.1. Tính toán nhu cầu vận chuyển a) Vòng quay vật tải Vòng quay vật tải q là tổng khối lượng vật tải cần vận chuyển trong một khoảng thời gian xác định (ngày, giờ, năm). Đối với vận chuyển và phân phát thức ăn, trị số vòng quay vật tải trong một ngày được xác định theo công thức n ∑qi Q= i=1 tấn/ngày Trong đó: qi khối lượng vật tải từng loại trong ngày b) Công vận chuyển n Wql= ∑ ii tấn km/ngày i=1 Trong đó : li quãng đường vận chuyển từng loại vật tải qi Đây là 2 chỉ tiêu cơ bản, dựa vào đó ta tính toán, lựa chọn số lượng và kiểu phương tiện, công cụ vận chuyển cần thiết 1.5.2. Năng suất một số máy vận chuyển - 36 -
  37. a) Năng suất, công suất băng tải ™ Năng suất - Khi vận chuyển vật liệu tơi rời, năng suất băng tải được xác định theo công thức: Q = 3600Fγv = 0,36qv (t/h) (*) Q- năng suất băng tải, t/h ; F- diện tích mặt cắt ngang của lớp vật liệu trên băng khi chuyển động, m2 ; γ- khối lượng thể tích của vật liệu vận chuyển, t/m3; v- vận tốc chuyển động của băng tải, m/s; q- trọng lượng vật liệu phân bố trên 1m chiều dài, N/m. a b Hình 1.22. Mặt cắt ngang của lớp vật liệu trên băng a) Phẳng; b) Lòng máng. - Với băng phẳng thì tiết diện ngang của lớp vật liệu rời trên băng được giới hạn bởi hình parabon (H. 1.22a) và được tính theo công thức: 2bh F = 3 Trong đó: b h - chiều dày lớp vật liệu trên băng: h = 12 - 37 -
  38. b- chiều rộng của lớp vật liệu trên băng: b = (0,9B - 0,05), m B- chiều rộng băng, m. Từ đó ta có : ()0,9B − 0,05 2 F = ( ) 18 Thay giá trị của F từ ( ) vào (*) ta xác định được năng suất của băng tải phẳng: Q ≈ 250B2γv, t/h - Với băng lòng máng thì năng suất phụ thuộc chủ yếu vào độ dốc của các trục lăn nằm nghiêng, sự tương quan của các trục lăn nghiêng với các trục lăn cạnh sườn. Thường chiều dài trục lăn nằm ngang lấy bằng nửa chiều rộng băng và góc nghiêng của các trục lăn nghiêng là 300. Nếu giả thiết băng nằm áp sát vào các bề mặt của trục lăn thì tiết diện của lớp vật liệu trên băng có thể bằng tổng diện tích hình thang có chiều cao h1 và hình parabôn có chiều cao h: ab+ b2 Fh=+11 2181 ba− Trong đó: a = 0,5B; b1 = 0,75B; htgB==1 30o 0,07 1 2 2 0,5BB+ 0,75 ()0,75B FBB=+=0,07 0,075 2 218 Vậy năng suất lý thuyết của băng tải lòng máng được xác định theo công thức: Q = 3600Fγv ≈ 270B2γv Trong thực tế băng không áp sát vào bề mặt trục lăn, mặt khác tại quãng giữa các giá đỡ trục lăn hình dạng tiết diện vật liệu phần nào có bị thay đổi và khi băng đến gần vị trí tháo liệu được nắn thẳng để thành dạng phẳng. Do đó năng suất thực tế của băng lòng máng được tính theo công thức: Q ≈ 200B2γv - 38 -
  39. - Khi vận chuyển vật liệu đơn chiếc năng suất băng tải được xác định theo công thức: 3,6Gv Q = a G- khối lượng vật liệu đơn chiếc, kg ; a- khoảng cách giữa hai vật liệu kề nhau, m . ™ Công suất Công suất trên trục tang dẫn của băng tải được xác định theo công thức: Wv N = 0 , kW 1000η Wo- tổng lực cản tác dụng lên băng tải, N ; v- vận tốc băng tải, m/s ; η- hiệu suất truyền động, có kể đến mất mát công suất do ma sát trong các gối đỡ và cơ cấu truyền động. b) Năng suất, công suất gầu tải ™ Năng suất Xác định năng suất của gầu tải theo công thức sau: QavZ= 3600 . . .ϕ .ρ , kg/h Trong đó: a- thể tích thực của gầu, dm3 (lít); ρ - khối lượng thể tích của vật liệu, kg/dm3; 1 Z- số gầu trên một mét chiều dài vận chuyển, Z = ; t t- khoảng cách giữa hai gầu, m. Thường chọn t = (2,5-3,0)h, với h là chiều cao gầu, m. ϕ - hệ số nạp đầy vật liệu trong gầu, chọn như sau: - Vật liệu dạng bột: ϕ = 0,75 – 0,90 - Vật liệu dạng hạt: ϕ = 0,6 – 0,8, - 39 -
  40. - Vật liệu cục vừa (d = 50 – 100mm): ϕ = 0,5 – 0,7, - Vật liệu cục lớn (d > 100mm): ϕ = 0,4 – 0,6; v- vận tốc gầu tải, m/s. Vận tốc gầu tải được lựa chọn trong khoảng 1-3 m/s. Đối với gầu tải vận tốc cao, dỡ tải nhờ lực ly tâm, vận tốc và đường kính tang có quan hệ mất thiết với nhau, khi vận tốc tăng thì đường kính tang cũng phải tăng theo. Nếu chọn vận tốc quá lớn khi đường kính tang nhỏ, dưới tác dụng của lực ly tâm, vật liệu sẽ bị dỡ sớm, làm giảm năng suất máy. Vận tốc gầu tải được lựa chọn như sau: - Vật liệu dạng bột lấy v = 1,2 – 1,4 m/s; - Vật liệu dạng hạt lấy v = 1,5 – 3 m/s. ™ Công suất Công suất tiêu hao cho máy chủ yếu là để khắc phục các trở lực ở bộ phận kéo, ở các gầu và ở vị trí xúc vật liệu và xác định như sau: 2 QH⎛⎞q0 v NABvC=++⎜⎟, kW 367 ⎝⎠QH Trong đó: Q- năng suất, tấn/h; H- chiều cao nâng vật liệu, m; v- vận tốc chuyển động của gầu, m/s; q0- khối lượng 1 mét chiều dài bộ phận kéo, kg/m; A, B, C- các hệ số phụ thuộc vào bộ phận kéo và vào trạng thái tháo liệu, chọn nó như sau: - Băng, tháo liệu ly tâm: A = 1,14; B = 1,6; C = 0,25 - Băng, tháo liệu trọng lực: A = 1,14; B = 1,3; C = 0,70 - Xích, tháo liệu ly tâm: A = 1,12; B = 1,1; C = - 40 -
  41. 0,25 - Xích, tháo liệu trọng lực: A = 1,3; B = 0,8; C = 0,70 Tỉ số q0/Q phụ thuộc vào dạng bộ phận léo và được chọn như sau: - Bộ phận kéo là băng thì q0/Q = 0,6; - Bộ phận kéo là xích 1 dãy thì qo/Q = 1,1; - Bộ phận kéo là xích hai dãy thì q0/Q – 1,2; Công suất của động cơ điện để dẫn động máy: N NKK= , kW dc 12η Trong đó: η- hiệu suất bộ truyền động; K1- hệ số kể đến lực cản khi gầu xúc vật liệu, K1 = 1,15 – 1,2; K2 - hệ số an toàn, K2 = 1,15 – 1,2. c) Năng suất, công suất vít tải ™ Đối với vít quay chậm 9 Năng suất QFv= 3600 . .ρ , kg/h Trong đó : F- diện tích tiết diện ngang do vật liệu chiếm ở trong thành máy: π D2 FK= μ. ; m2 4 μ- hệ số chứa vật liệu trong thành máy: - Đối với vật liệu dạng hạt thì μ = 0,4 - Đối với vật liệu dạng bột thì μ = 0,35 K- hệ số chỉ sự giảm tiết diện do góc nghiêng đặt vít tải, chọn - 41 -
  42. giá trị K theo bảng. 9 Công suất Công suất tiêu hao chủ yếu dùng để nâng vật liệu, để thắng ma sát của vật liệu với thành máy và với cánh vít, và để thắng ma sát ở các gối đỡ trục vít. Xác định nó theo công thức sau: Q N = (LC + H ) , kW 367 Trong đó: Q- năng suất của máy; tấn/h L - chiều dài vận chuyển theo phương ngang; m H- chiều cao vận chuyển vật liệu; m C- hệ số trở lực của máy, chọn C = 1,8- 2,5. ™ Đối với vít quay nhanh Năng suất của máy sẽ là: π ()Dd22− Qv= 3600 μρ , kg/h 4 1 Trong đó: d- đường kính trong của cánh vít; m D- đường kính ngoài của cánh vít, m; ρ - khối lượng thể tích của vật liệu, kg/m3 v1- vận tốc đi lên của vật liệu; m/s μ -hệ số chứa vật liệu trong thành máy, lấy μ = 0,3- 0,5 Công suất tiêu hao của máy dùng để khắc phục ma sát với thành máy, ma sát của vật liệu với cánh vít và ma sát ở các gối đỡ, được xác định như sau: NN12+ NK= o , kW ηo N1- công suất tiêu hao khắc phục ma sát của vật liệu với thành máy; kW N2- công suất tiêu hao để khắc phục ma sát của vật liệu với cánh vít, kW; - 42 -
  43. Ko- hệ số kể đến sự dịch chuyển và làm vỡ vụn vật liệu; Ko= 1,2; ηo- hiệu suất ở các ổ đỡ trục vít. - 43 -
  44. Chương III THIẾT BỊ CẮT THÁI VÀ NGHIỀN ĐẬP 3.1. CẮT THÁI 3.1.1. Mục đích, yêu cầu kỹ thuật và phân loại a) Mục đích Cắt thái là quá trình phân chia nguyên liệu thành các phần tử có hình dạng và kích thước phù hợp với mục đích chủ yếu là chuẩn bị cho các quá trình chế biến tiếp theo như nấu chín, chiên, sấy, b) Yêu cầu kỹ thuật - Có tính vạn năng, nghĩa là có thể thái được nhiều loại vật liệu khác nhau. - Có thể điều chỉnh để thái được nhiều kích thước khác nhau phù hợp với từng loại gia súc gia cầm - Khi thái củ quả ít bị gẫy vụn, rau cỏ tươi tránh bị ép mất nước. Với những thân cây cứng máy có khả năng làm mềm ra. - Có khả năng cơ khí hoá việc cung cấp nguyên liệu vào máy và thu sản phẩm thái ra mà không cần nhiều người phục vụ để đảm bảo công việc liên tục điều hoà. - Năng suất cao - Mức tiêu thụ năng lượng riêng thấp. - Cấu tạo đơn giản, sử dụng thuận tiện, dễ chăm sóc điều chỉnh, dễ tháo lắp để mài dao. c) Phân loại - Theo nhiệm vụ: máy cắt thái rau cỏ, máy cắt thái củ quả, máy cắt thái thịt cá - Theo loại cấu tạo của bộ phận làm việc: máy thái kiểu đĩa, máy thái kiểu trống, máy thái kiểu li tâm - Theo vị trí của bộ phận làm việc: máy có bộ phận làm việc đặt thẳng đứng, máy có bộ phận làm việc đặt nằm ngang - Theo cách truyền động: máy thái tay quay, máy thái đạp chân, máy thái dùng động cơ -51-
  45. - Theo nguyên tắc sử dụng: máy thái tĩnh tại, máy thái di động 3.1.2. Nguyên lý làm việc và nguyên lý cấu tạo a) Máy thái rau cỏ Máy thái rau cỏ thướng có nguyên lý làm việc của “dao cầu thái thuốc”, nghĩa là quá trình cắt thái được thực hiện bằng một lưỡi dao chuyển động quay và một lưỡi dao cố định (tấm kê) đồng thời vật thái được đưa vào cho dao thái (hình 3.1a). Như vậy, về nguyên lý cấu tạo, máy thái rau cỏ gồm: b) a) c) Hình 3.1. Sơ đồ các bộ phận thái rau cỏ a) sơ đồ máy; b) bộ phận thái kiểu đĩa, c) bộ phận thái kiểu trống 1- băng chuyền; 2- trục cuốn; 3- tấm kê; 4- dao thái - Bộ phận cung cấp gồm cặp trục cuốn 4 kết hợp với băng chuyền 5 để nén và đưa rau cỏ vào bộ phận thái. - Bộ phận thái gồm một số dao thái 1 (thường chuyển động quay) và một tấm kê 2. Dao thái được lắp vào đĩa hay cánh lắp dao 3 đối với dao thẳng và dao cong (hình 3.1b) hoặc lắp vào trống lắp dao 6 với dao dạng xoắn (hình 3.1c). Ngoài ra máy có trang bị dây chuyền thu sản phẩm thái, bộ phận động lực, bộ phận truyền động và khung. Việc điều chỉnh độ dài đoạn thái được thực hiện bằng hai cách: hoặc thay đổi số dao lắp trên đĩa hay trống hoặc thay đổi vận tốc đưa rau cỏ vào bộ phận thái. Muốn có độ dài đoạn thái ngắn ta có thể giảm vận tốc đưa rau hoặc lắp tăng thêm số dao, muốn có độ dài đoạn thái dài hơn thì làm ngược lại. Ngoài ra cần phải giải quyết vấn đề điều chỉnh khe hở giữa lưỡi dao và tấm kê khoảng 0,5÷1mm để thái -52-
  46. được gọn và dễ. Dao tháI rau cỏ có cạnh sắc dạng lưỡi thẳng, lưỡi cong b) máy thái củ quả Các máy thái củ quả thường theo nguyên lý làm việc của dao “bào gỗ” nghĩa là lưỡi dao được lắp ở khe thủng của thân đĩa hay trống lắp dao sẽ cắt nạo vật tháI đang tự vào mặt thân đĩa hay trống lắp dao đó thành những lát thái (dày mỏng tuỳ theo độ nhô của lưỡi dao so với mặt đĩa hay trống lắp dao). Lát thái sẽ trượt trên mặt dao chui qua khe thủng mà thoát ra phía mặt kia của thân đĩa hay trống lắp dao (hình 3.2). Như vậy, về nguyên lý cấu tạo, máy tháI củ quả thường có các bộ phận chính như sau: Bộ phận thái gồm một số lưỡi dao 1 được lắp trên đĩa 2 hay trống 4 ở những khe thủng (để lát thái chui qua). Muốn có lát thái có độ dày mỏng khác nhau người ta có thể điều chỉnh độ nhô của dao so với mặt đĩa hay trống Để thái thành những lát rộng bản dao tháI có dạng lưỡi thẳng liền. Để thái thành những lát thái hẹp dao thái có dạng lưỡi răng lược. Hai lưỡi dao răng lược liên tiếp nhau được bố trí xen kẽ nhau sao cho phần có cạnh sắc của lưỡi dao này trùng với phần không có cạnh sắc của lưỡi dao kia. Như vậy, sau một vòng quay của đĩa cứ hai dao mới cắt hết một lớp vật thái, do đó số dao lắp trên đĩa phải chẵn. Bộ phận cấp liệu là một thùng đựng củ quả 3, thành thùng có độ nghiêng nhất định để củ quả tự cung cấp vào bộ phận thái nhờ trọng lượng bản thân. Thành tiếp giáp với đĩa hay trống có một khoảng diện tích hở để củ quả tiếp xúc với mặt đĩa và được lưỡi dao nạo thành lát. Bộ phận động lực có thể là động cơ hoặc quay tay, đạp chân, bộ phận truyền động có thể là truyền động đai hoặc bánh răng. -53-
  47. a) b) Hình 3.2. Sơ đồ cấu tạo bộ phận thái củ quả a) bộ phận thái kiểu đĩa; b) bộ phận thái kiểu trống Ưu điểm: làm việc bền vững, năng xuất cao, cấu tạo đơn giản dễ sử dụng, điều chỉnh bề dày lát thái thuận tiện Nhược điểm: lát thái còn bị vụn do củ quả bị xoay khi thái độ tự ép của lớp củ quả chưa đủ giữ chặt cho củ quả khỏi bị xoay trượt đi. Trường hợp dao lưỡi răng lược thì thái ra nhiều mảnh vụn gây tăng chi phí năng lượng giảm năng xuất so với thái bằng lưỡi dao thẳng liền. Máy thái củ quả kiểu li tâm theo nguyên lý là củ quả xoay theo mâm 1, do lực ly tâm văng ra tựa sát vào thành thùng chứa củ quả 3 gặp lưỡi dao 2 lắp ở khe thủng của thành thùng sẽ được nạo thành lát lọt ra ngoài thành thùng (hình 3.3). Kiểu ly tâm này nói chung có nhược điểm lát thái kém đều, mức tiêu thụ năng lượng riêng cao. Hình 3.3. Sơ đồ bộ phận thái củ quả kiểu ly tâm 3.1.2.3. Máy cắt thái thịt cá Để phân chia thịt cá thành các mảnh, khối, khúc người ta thường dùng nhiều loại máy cắt thịt cá khác nhau (hình 3.4). -54-
  48. Hình 2.4. Sơ đồ cấu tạo máy cắt thịt cá Trên Hình 3.4a là sơ đồ máy cắt thịt, cá kiểu dao đĩa. Vật liệu cắt 2 được cung cấp cưỡng bức vào bộ phận cắt nhờ băng truyền 4 đặt nằm ngang. Để vật liệu được giữ chặt không bị xoay trượt khi cắt, trên băng tải có gân vấu tựa 3. Dao cắt có dạng đĩa tròn, gồm một số đĩa lắp trên một trục đặt vuông góc với hướng chuyển động của nguyên liệu. Muốn có chất lượng lát cắt tốt, vật liệu ít biến dạng thì tỷ số vận tốc vòng của dao vt và vận tốc của vật liệu vn thường lấy bằng 20 ÷30. Trên hình 3.4b là sơ đồ máy cắt nhiều dao. Cấu tạo gồm trục 1 trên đó có lắp bộ dao đĩa 2 quay với vận tốc vòng vt. rulô 4 lắp trên trục 3 có nhiệm vụ cung cấp vật liệu vào cho dao cắt với tốc độ cấp liệu vn tỷ lệ vt : vn = 3÷5. Trên bề mặt rulô có những rãnh vòng tương ứng với mỗi rãng vòng có một lưỡi dao đi qua, khoảng cách giữa các rãnh vòng qui định bề rộng lát cắt. Trên hình 3.4c là sơ đồ cơ cấu làm việc của dao đĩa lắp trên một trục, nguyên liệu tự ăn dao qua vùng làm việc do ma sát sinh ra giữa vật liệu cắt và dao. Ở đây mô men lực cản cắt phải nhỏ hơn mô men lực ma sát xuất hiện trên bề mặt tiếp xúc của dao với vật liệu cắt. Trên hình 3.4e là sơ đồ cấu tạo của cơ cấu làm việc có dao đĩa lắp trên -55-
  49. 2 trục song song và vật liệu cắt tự ăn dao qua vùng làm việc. Tự ăn dao được thực hiện nhờ ma sát sinh ra giữa vật liệu và dao. Tốc độ cho vật liệu ăn dao sẽ nhỏ nhất ở thời điểm ăn dao trung bình khi ngập hết nửa thứ nhất của đĩa suốt hành trình chuyển động và lớn nhất khi vật liệu cắt chứa đầy hoàn toàn tiết diện của rãnh đặt đĩa. Trên hình 3.4f là sơ đồ các bộ phận làm việc của máy cắt có dạng băng lưỡi cưa. Ở đây băng lưỡi cưa chuyển động với vận tốc vt, băng tải cấp vật liệu chuyển động với vận tốc là vn. Tỷ lệ giữa các tốc độ từ 50 ÷ 5.000, trong đó tốc độ chuyển động của băng tải thường lấy trong phạm vi từ 10 ÷ 50m/s. Bánh đai chủ động đặt phía dưới còn bánh đai kéo căng thì ở phía trên. Trên máy có thể lắp một hay một số lưỡi cưa làm việc đồng thời hoặc liên tiếp nhau. Như vậy, về nguyên lý cấu tạo máy cắt thịt cá gồm có các bộ phận chính như sau: - Bộ phận cấp liệu: Việc cấp liệu vào bộ phận cắt có thể là cưỡng bức hoặc tự kéo. Cung cấp cưỡng bức được thực hiện chủ yếu nhờ băng tải, khi đó vật liệu được nạp lên băng và băng sẽ vận chuyển đến bộ phận cắt (hình 3.4a,b,e,f). Cung cấp kiểu tự kéo được thực hiện do ma sát của dao với vật liệu, khi đó vật liệu tự di chuyển vào bộ phận cắt. Trong một số trường hợp, vật liệu tự cung cấp nhờ trọng lượng của bản thân và lực ma sát xuất hiện khi nó tiếp xúc với bộ phận cắt có ở những máy cắt có sử dụng phễu cấp liệu dạng hình chóp hoặc hình nón (hình 3.4c). -56-
  50. Hình 2.5. Các loại dao cắt a) dao đĩa răng; b) dao đĩa trơn; c, d) dao cong; e,f) dao lưỡi cưa - Bộ phận cắt: Để cắt thịt, cá người ta thường dùng các loại dao như trên Hình 3.5. Tuỳ thuộc vào loại nguyên liệu, tính chất cơ lý và cấu trúc của chúng, chất lượng cắt và hình dạng sản phẩm nhận được sau khi cắt mà lựa chọn dạng dao, góc mài dao, độ sắc, độ dày của dao cho thích hợp. Để phân chia vật liệu theo mặt phẳng thành những mẩu miếng có kích thước xác định người ta thường dùng dao đĩa (hình 3.5a,b) và dao lưỡi cưa (hình 3.5e,f). Dao đĩa thường được lắp trên trục quay, người ta cũng có thể lắp nhiều đĩa dao song song, khi đó với cùng một lần cắt nguyên liệu được phân chia thành nhiều phần. Dao lưỡi cưa thường được liên kết với cơ cấu truyền động tay quay-thanh truyền hoặc bánh lệch tâm để thực hiện chuyển động tịnh tiến qua lại. Để băm nhuyễn thịt cá người ta thường dùng các loại dao cong (hình 3.5c,d). Các loại dao này được lắp thành hàng trên trục quay. - Bộ phận truyền động: Để thực hiện quá trình cắt, dao có thể thực hiện chuyển động quay, tịnh tiến hay chuyển động phức tạp nhờ cơ cấu dẫn động tay quay- thanh truyền, bánh lệch tâm hay dẫn động bằng thuỷ lực và khí nén (hình 3.6). -57-
  51. Hình 3.6. Cơ cấu truyền động cho dao a) cơ cấu thay quay - thanh truyền; b) thanh trượt; c) dẫn động bằng khí nén hay thuỷ lực; d) một cánh tay đòn; e) hai cánh tay đòn; f) cơ cấu lệch tâm. 2.1.3. Cấu tạo và cách sử dụng của một số máy thái a) Máy thái rau cỏ PCC-6. Là máy thái kiểu đĩa, di động được, chuyển và thu vật thái đều được cơ khí hoá do Liên Xô (cũ) chế tạo (hình 3.7) Theo kiểu chuyền bằng không khí gồm có 2 cánh quạt 3 được lắp vào mặt bên của thân cánh lắp dao 24 dùng để tạo nên luồng gió đẩy thức ăn vào ống dẫn của bộ phận thu thức ăn và ra ngoài. Bộ phận truyền động: truyền động từ động cơ điện 1,6kW tới trục chính lắp dao 25 nhờ đai chuyền 2. Truyền động quay của trục chính được truyền qua 3 cặp bánh răng trụ 8-9, 14-15, 16-17 một cặp bánh xích 18- 19 để truyền chuyển động cho hai trục cuốn và băng truyền cung cấp. Để đóng mở bộ phận truyền động tới trục cuốn nhờ một khớp li hợp 13 bằng cách thay đổi cặp bánh răng 14- 15 ta có thể được 6 độ dài đoạn thái khác nhau 6, 15, 25, 27, 40, 104 Khi sử dụng, rau cỏ do người phục vụ xếp lên băng truyền đều đặn tự động đưa rau vào hai trục cuốn, trục cuốn cuốn vào họng thái. dao sẽ thái thành từng đoạn rơi xuống đáy của vỏ máy các cánh quạt sẽ hất văng rau đã thái lên đồng thời nhờ gió do quạt tạo ra thổi theo ống dẫn đưa lên cao và ra ngoài. -58-
  52. Hình 3.7. Máy thái rau cỏ PCC-6 1- khung máy; 2- băng chuyền cung cấp vật thái; 3 – vít điều chỉnh độ căng băng chuyền; 4- trục cuốn dưới; 5- trục cuốn trên; 6- lò xo điều chỉnh độ nén; 7- tấm kê thái; 8- cánh lắp dao; 9- cánh quạt; 10- bu lông lắp dao; 11- vít điều chỉnh khe hở giữa dao và tấm kê; 12- ống dẫn không khí; 13- động cơ điện; 14- bánh đai; 15- bộ li hợp; 16- các cặp bánh răng điều chỉnh độ dài đoạn thái. b) Máy thái củ quả PKP-2,0 Máy thái PKP-2,0 là loại máy thái kiểu đĩa, đặt thẳng đứng có thể quay tay hoặc dùng động cơ (hình 3.8). -59-
  53. Hình 3.8. Máy thái củ quả PKP-2,0 1- thùng đựng củ quả; 2- đĩa lắp dao; 3- dao thái; 4- máng thoát sản phẩm thái; 5- trục quay; 6- tay quay; 7- bánh đai. Máy gồm có thùng đựng củ quả 1 có dạng nón cụt, phần dưới lắp về một bên trục máy, cửa cấp liệu kề sát với vùng quay của dao. Củ quả chất vào thùng, do trọng lượng bản thân sẽ ép sát vào mặt đĩa lắp dao. Đĩa dao 2 bằng gang, đường kính 600mm, trên đó có lắp 4 dao lưỡi thẳng ở 4 khe thoát lát thái. Dao thái có 2 lưỡi: lưỡi thẳng liền dùng để thái thành lát rộng, lưỡi răng lược dùng để thái thành lát hẹp (bề rộng lát thái 15-20mm). Các dao thái lắp nghiêng 30o so với mặt đĩa. Máng thoát sản phẩm thái 4 đặt phía dưới đĩa dao gắn liền với vỏ bao đĩa. Trục quay 5 có hai gối đỡ bi. Tay quay 6 lắp với bánh đai 7. Để điều chỉnh chiều dày lát thái, trên dao có các lỗ dài vặn bu lông để có thể dịch vị trí dao so với mặt đĩa. Khi sử dụng có thể cho máy chạy bằng động cơ hoặc quay tay. Đổ đầy củ quả vào thùng chứa. Củ quả sẽ dồn vào cửa cấp liệu, ép vào mặt đĩa, được các dao nạo thành lát. Các lát thái chiu qua khe hở, thoát ra ngoài qua máng thoát 4. Khi cần thái lát hẹp thì thao lắp dao cho các lưỡi răng lược làm việc. Chú ý trong trường hợp này, cứ hai dao răng lược mới cắt hết một lớp vật thái, nghĩa là phải lắp số dao chẵn. Máy thái PKP-2,0 có khả năng thái tốt đối với nhiều loại củ quả. Tuy nhiên khi thái lát hẹp thì bị gãy vụn nhiều. c) Máy cắt nghiền thịt kiểu vít xoắn Máy cắt nghiền thịt kiểu vít xoắn là loại máy này làm việc liên tục dùng để cắt nghiền nhỏ thịt và đùn thành sợi (hình 3.9). -60-
  54. Hình 3.9. Máy nghiền thịt kiểu vít xoắn 1- vít xoắn; 2- vỏ máy; 3- bộ lưỡi dao; 4- lưới sàng; 5- vòng ép; 6- đai ốc điều chỉnh. Bộ phận cung cấp là vít xoắn 1 có bước xoắn giảm dần theo hướng chuyển động để vừa nạp liệu tốt ở phía phễu cấp liệu vừa tăng khả năng nén ép ở phía sản phẩm đi ra. Vít xoắn quay trong vỏ máy 2 đảm bảo việc đẩy vật liệu di chuyển theo chiều dọc trục, tạo ra lực ép cần thiết để đùn sản phẩm qua bộ phận cắt và lưới sàng ra ngoài. Bộ phận nghiền gồm các lưỡi dao quay 3 lắp từng cặp với các lưới sàng kim loại 4 có kích thước lỗ sàng giảm dần theo hướng chuyển động của sản phẩm. Ở cửa ra có đặt vòng ép 5, khi vặn đai ốc 6 vào thì sẽ xiết chặt dao trên lưới sàng đảm bảo cắt tốt hơn và có thể cắt được cả các màng mỏng của thịt. 2.1.4. Tính toán máy cắt thái a) Tính toán máy thái rau cỏ ¾ Năng suất của máy thái rau cỏ Năng suất lý thuyết được tính như sau: Q = 60atbblkγn amin + amax Trong đó atb - chiều cao trung bình của họng thái, atb = , 2 m; b - chiều rộng của họng thái, m; l - độ dài đoạn thái, m; k - số dao; γ - khối lượng thể tích của lớp rau cỏ được trục cuốn nén, -61-
  55. kg/m3; n - số vòng quay của máy, vg/ph. Năng suất thuần tuý và năng suất thực tế được xác định bằng đo cụ thể khi cho máy làm việc. ¾ Độ dài đoạn thái Độ dài đoạn thái l tính theo lý thuyết bằng công thức sau đây: 2.π .r (1−ε ) lmm= c ; ik. Trong đó rc - bán kính của trục cuốn, mm; ε - độ trượt của trục cuốn trên lớp rau cỏ (ε ≈ 0,05); i - tỷ số truyền từ trục máy tới trục cuốn. Đo thực tế: xác định bằng trị số độ dài trung bình ltb của các đoạn thái được phân loại theo các trị số li (ví dụ, phân loại theo l0 = 0, l1 = 10mm, l2 = 20mm, ), rồi tính theo công thức: ll+ P ii+1 ∑ i 2 lmm= ; tb P P - khối lượng mẫu rau cỏ đã thái, P = ΣPi (có thể lấy P = 100g); Pi - khối lượng các đoạn thái có độ dài từ li đến li+1 (ví dụ, P0 gồm các đoạn từ 0÷10mm, P1 từ 10÷20mm ). b) Tính toán máy thái củ quả ¾ Năng suất lý thuyết Công thức tính năng suất chung cho các máy thái củ quả như sau: Q = 60Vtnγ , t/h Trong đó Vt- thể tích của củ quả do các dao thái được ứng với một vòng quay của đĩa hay trống, m3. n - số vòng quay của đĩa hay trống, vg/ph. γ - khối lượng thể tích củ quả đã thái, t/m3. Trị số Vt phụ thuộc vào số dao Z; chiều dày lát thái h; hệ số sử dụng dao k; hệ số k1, tính đến các chỗ trống giữa các củ quả và có thể coi là tỷ số giữa toàn bộ chiều dài của lưỡi dao với phần chiều dài lưỡi dao có cắt -62-
  56. thực tế; diện tích hữu ích của đĩa dao r (R2 – r2) hay nói cách khác, diện tích do dao vạch ra khi quay 1 vòng. Đối với máy thái kiểu đĩa R và r là bán kính ở đầu ngoài và đầu trong của dao. Nếu máy thái củ quả kiểu trống thì diện tích đó là mặt trụ khai triển 2π rL với L và r là chiều dài và bán kính của trống. Vậy, đối với máy thái củ quả kiểu đĩa: 2 2 3 Vt = π (R – r ) h k k1 Z, m Năng suất máy: 2 2 Q = π (R – r ) h k k1 Z n γ 60, t/h 3 Đối với máy thái củ quả kiểu trống, ta có: Vt = 2r L h k k1 Z, m Năng suất máy: Q = 2r L h k k1 Z n γ 60, t/h Chú ý: Hệ số k thường bằng 0,30÷0,40, hệ số k1 có thể tính bằng tỷ số γ khối lượng thể tích γ của củ quả và khối lượng riêng γ’ của nó k1 = , γ ' thường k1 = 0,75÷0,85. Trường hợp dùng dao lưỡi răng lược thì cứ hai dao mới thái hết một lớp củ dày là h, vì vậy trong các công thức trên phải thay Z bằng Z . 2 ¾ Công suất cần thiết Công suất cần thiết cho máy thái củ quả được tính theo công thức: Nct = N1 + N2 + N3 + N4 Công suất N1 tiêu thụ để thái củ quả có thể tính theo công thức: p L k k1v N1 = , kW 1000 p - lực cản cắt thái riêng, N/cm; L - chiều dài lưỡi dao, cm; v - vận tốc cắt thái, m/s. Công suất N2 để khắc phục ma sát của củ quả vào mặt đĩa dao có bán kính r và coi như lực ma sát đặt ở điểm cách tâm quay một đoạn cánh tay đòn là 2 r. Như vậy: 3 -63-
  57. 2 Gf. rπ n 3 N2 = , kW 30.1000 f - hệ số ma sát G - áp lực của củ quả vào mặt đĩa, có thể tính theo Hình 2.38 như sau: G = Qsinβcosβ, N Q - trọng lượng của củ quả trong thùng máy, (N) β - góc nghiêng của hành sau thùng với mặt thẳng đứng. Công suất N3 chi phí cho truyền động được tính theo hiệu suất truyền động ηm . Công suất N4 dùng để hất văng lát thái ra ngoài thường lấy sơ bộ theo thực nghiệm. Thường thường ta có: N1 + N4 ≈ 60%Nct; N2 ≈10÷15%Nct và N3 ≈ 25÷30% Nct. c) Máy cắt thái thịt cá ¾ Năng suất máy - Đối với các máy cắt Năng suất máy cắt có thể xác định theo phương trình động học của quá trình cắt hay theo khả năng cho vật liệu đi qua cơ cấu cắt. Đối với bất kỳ máy cắt nào, trong quá trình làm việc đều tạo ra các bề mặt mới của vật liệu đem gia công. Vì vậy, năng suất máy được xác định theo công thức: Q = 3600ϕ f kg/h Fr (1+ α) Trong đó : F- khả năng cắt của dao, được xác định bằng diện tích dao cắt được trong một đơn vị thời gian, m2/s. ϕ - hệ số sử dụng khả năng cắt của dao. Fr- bề mặt mới được tạo thành khi cắt 1kg sản phẩm, m2/kg; α - tỉ lệ thời gian của các nguyên công phụ với thời gian cắt, với máy cắt liên tục α = 0. Khi tính toán thiết kế máy cắt thì kích thước, số dao, tốc độ chuyển động của chúng được xác định theo F thông qua các biểu thức sau: - Đối với máy cắt nhiều đĩa (hay nhiều băng): -64-
  58. 2 F = hvnz, m /s Trong đó h - là chiều dài trung bình của nguyên liệu cắt, m; vn- tốc độ cấp liệu, m/s; z- số dao. - Đối với máy cắt dao nhiều lưỡi: F = 60Szn Trong đó : S- diện tích cắt của một lớp vật liệu trong chậu hay trong máng của máy cắt, m2 z- số dao cắt; n- tốc độ quay của dao, v/ph. - Đối với máy có dao phẳng thực hiện cắt ngang sản phẩm : -1 2 F = abvnc ; m /s Trong đó a,b - kích thước tiết diện ngang của vật liệu đưa vào cắt, m; c- khoảng cách giữa các dao theo chiều dài của vật liệu cắt, m; vn- tốc độ cấp liệu, m/s. - Đối với máy cắt đùn thành sợi: 2 πd 2 F = n(ϕ k + ϕ k + + ϕ k ),m /s 4.60 1 1 2 2 z z Trong đó a- đường kính lỗ sàng, m n- tốc độ quay của dao, v/ph ϕ z - hệ số sử dụng diện tích của lỗ sàng (ϕ = 0,2÷0,5). kz- số sàng trên một dao. ¾ Công suất máy Công suất máy cần thiết của động cơ đối với máy cắt được xác định theo công thức: W F Q N = n r , kW 1000ηd ηc Trong đó : Wn- lực cản cắt pháp tuyến, N/m; Q- năng suất máy, kg/s ηd - hiệu suất của dao phụ thuộc chủ yếu vào chi phí năng -65-
  59. lượng do ma sát của dao với vật liệu cắt. ηc - hiệu suất cơ khí phụ thuộc chủ yếu vào ma sát trong các bộ phận truyền động, bánh răng, xích, gối đỡ, 3.2. MÁY NGHIỀN 3.2.1. Nhiệm vụ, yêu cầu kỹ thuật a) Nhiệm vụ Máy nghiền có nhiệm vụ làm nhỏ nguyên liệu thành dạng bột có độ nhỏ nhất định, đáp ứng được những yêu cầu công nghệ cần thiết cho các ngành sản xuất lương thực và thực phẩm. Hiện nay máy nghiền được sử dụng phổ biến trong nhiều lĩnh vực công nghiệp thực phẩm như : nghiền hạt ngũ cốc, rau cỏ khô, muối cục ,xương, bánh khô dầu, cá khô, thành bột. b) Yêu cầu kỹ thuật - Phải nghiền được nguyên liệu có độ nhỏ phù hợp với yêu cầu kỹ thuật chế biến tiếp theo. - Có tính vạn năng, nghĩa là có thể nghiền được nhiều loại nguyên liệu có hình dạng và kích thước khác nhau : dạng hạt, dạng cục, thân cây, rau cỏ, - Không làm quá nóng sản phẩm nghiền. Yêu cầu nhiệt độ nhỏ hơn 40oC. Khi nhiệt độ cao sẽ làm phân hủy một số chất có trong sản phẩm đặc biệt là các sinh tố. - ít sinh ra bụi bột. Khi bột nghiền quá nhỏ sẽ tạo ra nhiều bụi bột, dễ bay lọt gây lãng phí, mất vệ sinh cho người phục vụ, bay dính vào các bộ phận truyền động của máy làm tăng ma sát, tăng hao mòn chi tiết và tăng công suất chi phí cho động cơ. - Phải nghiền được nguyên liệu có độ ẩm cao 18 ÷ 20% mà các chỉ tiêu về chất lượng sản phẩm, năng suất và chi phí điện năng riêng không quá chênh lệch so với khi nghiền ở độ ẩm bình thường. Như vậy có thể giảm được công phơi sấy lại nguyên liệu đã để lâu trong kho. - Có bộ phận để thu tạp chất rắn lẫn trong nguyên liệu như các mảnh kim loại vụn, đá sỏi, để đảm bảo an toàn cho máy khi làm việc. -66-
  60. - Có năng suất cao, chi phí điện năng riêng thấp, Dễ sử dụng, điều chỉnh và chăm sóc kỹ thuật. 3.2.2. Phân loại Theo nguyên tắc làm việc và nguyên tắc cấu tạo bộ phận nghiền có : máy nghiền kiểu búa, máy nghiền kiểu đĩa, máy nghiền kiểu trục cuốn. Theo nhiệm vụ có : máy nghiền vạn năng (nghiền được nhiều loại nguyên liệu khác nhau); máy nghiền chuyên dùng (chuyên nghiền hạt, chuyên nghiền bánh dầu và chuyên nghiền muối cục, xương, ). Theo kết cấu : máy nghiền có quạt, máy nghiền trốn quạt. 3.2.3 Nguyên lý làm việc và nguyên lý cấu tạo Quá trình nghiền nhỏ vật liệu trong các máy nghiền được thực hiện nhờ các lực cơ học. Các dụng tác dụng các lực cơ học nhằm phá vỡ vật liệu đem nghiền như trên Hình 3.10. Tuỳ theo kết cấu của từng loại máy nghiền mà lực phá vỡ vật liệu đem nghiền có thể là lực nén ép, cắt bổ, va đập, chà sát hoặc do một vài tác dụng trên tác dụng đồng thời. - Nguyên lý ép dập: vật thể bị phá vỡ nhờ lực nén ép và dịch trượt khi chúng đi qua khe hở giữa 2 trục trơn đặt song song và chuyển động quay ngược chiều nhau với vận tốc vòng như nhau. Loại này áp dụng cho các máy nghiền hạt kiểu trục, máy cán (hình 2.41a). - Nguyên lý cắt nghiến: vật thể bị phá vỡ bởi lực cắt khi chúng đi vào khe hở giữa 2 trục, bề mặt trục có các rãnh khía ngược chiều nhau với vận tốc vòng khác nhau đặt song song, chuyển động quay (hình 2.41b). Nguyên lý này áp dụng trong các máy nghiền hạt kiểu trục cuốn. - Nguyên lý va đập: vật thể bị phá vỡ nhờ động năng va đập cần thiết (35-80)m/s tuỳ theo tính chất của vật nghiền và kết cấu bộ phận nghiền (hình 2.41c). Nguyên lý này được ứng dụng trong các máy nghiền kiểu búa, máy nghiền răng. -67-
  61. Hình 3.10. Các dạng lực tác dụng vào vật liệu nghiền a) ép; b) bổ; c) va đập; d) chà xát - Nguyên lý chà sát: vật thể bị phá vỡ nhờ lực nén ép và chà sát bởi hai bề mặt nhám của đĩa trong đó có một đĩa chuyển động quay (hình 2.41d). Nguyên lý này được áp dụng trong các máy xay kiểu đĩa, máy nghiền chậu. Dựa theo các nguyên lý phá vỡ vật thể nêu trên người ta đã chế tạo ra nhiều loại máy nghiền khác nhau. Dưới đây giới thiệu một số loại máy nghiền được dùng nhiều trong công nghệ thực phẩm và chế biến thức ăn chăn nuôi. 3.2.3.1 Nguyên lý va đập Theo nguyên tắc này, người ta thường chế tạo máy nghiền kiểu búa (hình 3.11). Về cấu tạo, máy có các bộ phận chính như sau : - Bộ phận cung cấp gồm phễu cấp liệu 5 có van để điều chỉnh tải. Nếu nghiền nguyên liệu thô cần phải thái trước khi nghiền thì có thêm bộ phận thái và băng chuyền, trục cuốn để đưa nguyên liệu vào. Hình 3.11 Sơ đồ máy nghiền kiểu búa -68-
  62. a) sơ đồ máy; b) đĩa nghiền; c) trống nghiền; d) búa nghiền. 1. Búa nghiền; 2. Đĩa (trống) nghiền; 3. Sàng; 4. Tấm nhám; 5. Phễu cấp liệu; - Bộ phận nghiền gồm các búa 1 lắp lỏng trên trục lắp búa thành từng hàng, tất cả được lắp trên đĩa nghiền hoặc trống nghiền 2. Bao quanh đĩa hoặc trống là các tấm sàng 3 và tấm nhám 5 (sàng thường bao góc 180o ÷ 270o phần còn lại là tấm nhám). Trong quá trình làm việc đĩa hay trống quay với tốc độ cao, đảm bảo vận tốc đầu búa đạt được khoảng 35 ÷ 80m/s, khi đó mới tạo ra được động năng va đập đủ lớn để phá vỡ vật thể. Để làm việc tốt với những vật liệu nghiền khác nhau, búa nghiền thường có nhiều dạng khác nhau (hình. Búa dạng hình chữ nhật dùng để nghiền các loại hạt thông thường; loại cắt nấc bậc thang dùng để nghiền hạt có nhiều màng vỏ; loại cắt nấc bậc thang nhọn cạnh dùng để nghiền nguyên liệu có nhiều thớ sợi và cỏ khô; loại búa chữ T và búa ghép hình, đầu búa nặng hơn dùng để nghiền thức ăn cục to ( bánh dầu, nguyên liệu đóng bánh, muối cục, xương, ). Độ nhỏ của bột nghiền được điều chỉnh bằng cách thay đổi sàng có kích thước lỗ to nhỏ khác nhau. - Bộ phận thu sản phẩm nghiền gồm có cửa thoát bột, quạt gió hút và thổi bột vào bình thu bột để tách gió và phân ly riêng bột nghiền. Để đơn giản về cấu tạo có những máy nghiền không trang bị quạt và bình thu bột. Máy nghiền làm việc theo nguyên tắc va đập, đáp ứng tốt các yêu cầu kỹ thuật hơn so với các nguyên tắc nghiền khác nên được sử dụng rộng rãi. 3.2.3.2 Nguyên lý chà xát Nguyên tắc này được ứng dụng để chế tạo các máy nghiền theo kiểu đĩa hay còn gọi máy xay Bộ phận xay của máy gồm hai thớt phẳng (đĩa), thường làm bằng đá nhân tạo hoặc đá thạch anh thiên nhiên, bề mặt làm việc có nhiều hạt sắc. Thớt 1 được lắp cố định, thớt 2 chuyển động quay với vận tốc vòng 10 ÷ 12m/s và được đặt lên thớt thứ nhất, tạo thành khe hở nhỏ giữa các bề mặt làm việc. Để tạo khả năng thoát bột tốt, bề mặt làm việc có khía các rãnh cong hoặc thẳng chéo từ tâm ra ngoài. -69-
  63. Nguyên liệu từ phễu cấp liệu, qua lỗ trung tâm của một thớt, lọt vào khe hở giữa hai bề mặt làm việc được, chà xát bằng các rãnh và mặt nhám của thớt thành bột, dưới tác dụng của lực ly tâm chuyển dần từ tâm ra rìa và ra ngoài. Độ to nhỏ của hạt bột được điều chỉnh bằng cách thay đổi độ lớn khe hở giữa bề mặt làm việc của các thớt. Các thớt có thể bố trí thẳng đứng. Trong trường hợp này việc nghiền kém đều hơn nguyên nhân do một phần nguyên liệu kịp thoát nhanh xuống dưới nhờ trọng lượng bản thân. Năng suất máy xay này lớn gấp đôi so với máy có thớt đặt nằm ngang. Hình 3.12. Sơ đồ máy nghiền theo nguyên lý chà xát a) máy xay kiểu đĩa ngang; b) máy xay kiểu đĩa đứng; c) máy xay kiểu cánh khía. 1. Thớt cố định; 2. Thớt chuyển động Loại máy này có ưu điểm : tương đối vạn năng, nghiền được nhiều độ nhỏ khác nhau, công suất chi phí nhỏ, cấu tạo đơn giản, làm việc bền vững, sử dụng tốt nguồn động lực sức gió, sức nước, Nhược điểm : bột nghiền quá nóng và tạo ra nhiều bụi bột trong quá trình làm việc; nghiền hạt có dầu dễ bị dính. 3.2.3.3. Nguyên lý cắt nghiến Bộ phận nghiền, gồm hai trục cuốn có những răng vấu hay rãnh khía, quay ngược chiều nhau với vận tốc vòng khác nhau để các cạnh răng mấu hay đỉnh khía kẹp hạt và nghiến vỡ. Ngoài việc cắt vỡ bằng răng khía còn có hiện tượng chà xát vỡ do sự khác nhau về vận tốc vòng giữa hai trục cuốn. -70-
  64. Hình 3.13. Máy nghiền kiểu cắt nghiến Nguyên tắc này khó thực hiện nghiền nhỏ, khó nghiền các hạt ẩm và hạt có nhiều dầu vì dễ bị dính răng khía. Tuy vậy, chi phí năng lượng riêng giảm, ít sinh ra bụi bột thường dùng để nghiền khô dầu, thức ăn đóng bánh, Đôi khi máy nghiền loại này được chế tạo kết hợp với bộ phận nghiền kiểu búa để nghiền được nhiều loại nguyên liệu hơn, đạt chất lượng cao hơn. 3.2.3.4. Nguyên tắc ép dập Nguyên tắc ép dập được áp dụng để chế tạo máy nghiền kiểu trục cán. Bộ phận làm việc thường là hai trục cuốn nhẵn quay ngược chiều nhau với vận tốc vòng như nhau. Hạt được lôi vào khe hở giữa hai trục cuốn (nhờ ma sát giữa hạt với bề mặt của trục cuốn), rồi được ép dập vỡ ra. Nguyên tắc này không nghiền nhỏ, chỉ làm vỡ hạt thành mảnh tấm to nên phạm vi sử dụng rất hẹp. -71-
  65. Hình 3.14. Máy nghiền kiểu ép dập 3.2.4. Tính toán sử dụng a) Chất lượng nghiền Để đánh giá chất lượng nghiền, người ta dùng khái niệm độ nhỏ. Độ nhỏ của bột nghiền được xác định bằng trị số kích thước trung bình M của các hạt bột đo ở mặt cắt ngang hoặc tính bằng đường kính trung bình của các lỗ mà hạt bột lọt qua. Để xác định độ nhỏ, người ta thường dùng phương pháp phân tích bằng sàng. Dùng một bộ sàng gồm nhiều sàng có kích thước lỗ khác nhau xếp chồng lên nhau, từ đáy (coi như sàng có đường kính lỗ do = 0) lần lượt sàng có đường kính lỗ di tăng dần. Trong sản xuất thường dùng bộ sàng gồm 3 sàng có đường kính lỗ 1; 2; 3mm. Trong phòng thí nghiệm có thể dùng bộ sàng gồm nhiều sàng hơn. Hình 3.15. Dụng cụ đo độ nhỏ của bột nghiền Lấy khối lượng P = 100g bột cho lên sàng trên cùng, đậy nắp và cho bộ sàng vừa chuyển động tịnh tiến lên xuống vừa chuyển động quay với số -72-
  66. vòng quay 250v/ph trong thời gian 5 phút. Đem cân để xác định lượng bột có ở đáy và ở trên từng sàng. Độ nhỏ M được xác định theo công thức : n ddii+ +1 ∑ Pi i=0 2 M = n ∑ Pi i=0 Nếu dùng ba sàng có đường kính 1; 2; 3m.m thì độ nhỏ được xác định là : ddo + 1 dd12+ dd23+ dd34+ Po + P1 + P2 + p3 M = 222 2 100 05,,,,PPPP+ 15+ 25+ 35 M = o 123 100 Sau khi đã xác định được M, để đánh giá mức độ nghiền người ta qui định như sau M = 0,2 ÷ 1,0 nghiền nhỏ; M = 1,0 ÷ 1,8 nghiền vừa; M = 1,8 ÷ 2,6 nghiền to. Nếu M > 2,6 hoặc trên sàng có quá 6 hạt nguyên thì coi như không đạt yêu cầu. Nếu M quá nhỏ sẽ tạo ra nhiều bụi bột cũng không có lợi về mặt kỹ thuật, vệ sinh và kinh tế. Để xác định lượng bụi bột ta dùng thêm một sàng đường kính lỗ 0,2mm (lắp ở dưới sàng lỗ 1mm) để lọc bụi bột trong mẫu. Lượng bụi bột lọt qua sàng 0,2mm nhỏ hơn 10% là đạt yêu cầu. b) Năng suất lý thuyết máy nghiền ¾ Máy nghiền đĩa 2 2 Qlt = 60K1 K2 ϕ ρ D δ n (kg/h) Trong đó: K1 = d/D ; d- kích thước lỗ tâm của đĩa, (m); D- đường kính ngoài của đĩa, (m); thường K1 =0,7; K2 : hệ số thực nghiệm được xác định bằng tỷ số giữa tốc độ hướng tâm của sản phẩm với tốc độ vòng của đĩa trên khoảng cách d/2 kể từ trục quay; thường K2 = 0,01; ϕ : hệ số chứa của vật liệu nghiền giữa các đĩa, ϕ = 0,7 ÷ 0,8; -73-
  67. γ : khối lượng thể tích của sản phẩm nghiền, (kg/m3); δ : khe hở giữa các đĩa; n : số vòng quay của đĩa trong một phút. ¾ Máy nghiền trục 6 Qlt = 3,6 10 δLγvtbk (kg/h) Trong đó : δ : chiều rộng khe nghiền, (m.m); L : chiều dài trục nghiền, (m.m); γ : khối lượng thể tích của sản phẩm nghiền, (kg/m3); k : hệ số chỉ hiệu quả của vùng nghiền, k<1; vtb : vận tốc trung bình của vật liệu đi qua khe nghiền, (m/s); vv+ v = nc tb 2 vn , vc : vận tốc vòng của trục nhanh và trục chậm, (m/s). ¾ Máy nghiền kiểu búa 60 Q = 3600 DLv γc lt π r Trong đó : D : đường kính đĩa hay trống nghiền, (m); L : chiều dài của đĩa hay trống nghiền, (m); vr : vận tốc vòng của đĩa hay trống nghiền, (m/s); γ : khối lượng thể tích của sản phẩm nghiền, (kg/m3); c : hệ số thực nghiệm phụ thuộc vào tính chất cơ lý của sản phẩm nghiền, hình dạng và kích thước lỗ sàng, khe hở giữa búa và sàng, chiều dày và số lượng búa trên đĩa hay trống. -74-
  68. Chương IV THIẾT BỊ XAY XÁT VÀ ĐÁNH BÓNG HẠT 4.1. Nhiệm vụ, yêu câu kỹ thuật a) Nhiệm vụ Máy xay xát và đánh bóng có nhiệm vụ loại bỏ tất cả các loại vỏ bao quanh hạt. Phần lớn các loại hạt được bao bọc và bảo vệ bởi hai lớp vỏ : vỏ quả ở lớp ngoài cùng và lớp vỏ hạt bên trong bám chặt vào nhân. Quá trình tách vỏ quả ra khỏi hạt gọi là xay hay bóc vỏ, tách vỏ quả còn sót và vỏ hạt gọi là xát, tách phần còn sót của vỏ hạt và làm nhẵn bề mặt gọi là đánh bóng. - Quá trình xay được thực hiện đối với hầu hết các loại hạt trước khi chế biến nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm vì đã loại bỏ được phần vỏ có giá trị dinh dưỡng thấp và tạo điều kiện cho các quá trình chế biến tiếp theo như tăng độ tinh khiết của sản phẩm khi trong công nghiệp chế biến tinh bột gao, tăng tỷ lệ thu hồi và giảm tỷ lệ gãy vỡ trong công nghiệp chế biến gạo, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình nghiền ép hạt dầu, nâng cao hiệu suất ép và giảm chi phí năng lượng cho việc nghiền nhỏ trong công nghiệp chế biến dầu thực phẩm, Sản phẩm sau khi xay là hỗn hợp bao gồm nhân, vỏ và hạt chưa được bóc vỏ. Cần phải loại bỏ vỏ và phân ly để lấy nhân. Hạt chưa được bóc vỏ được đưa trở lại máy xay để tiếp tục xay lại lần hai hoặc lần ba. - Quá trình xát được thực hiện chủ yếu đối với gạo, cà phê, nhằm loại lớp vỏ cám (vỏ lụa) dùng làm lương thực cho người. Việc tách vỏ cám còn làm tăng khả năng thâm nhập của nước vào nội nhũ tăng khả năng hút nước và giảm thời gian nấu chín. Ngoài ra nó còn loại được phôi ra khỏi hạt gạo nhờ đó đã tránh được hiện tượng ôi khét trong quá trình bảo quản. Để chế biến gạo người ta thường dùng hai phương pháp : phương pháp một giai đoạn : xay và xát thực hiện đồng thời; phương pháp hai giai đoạn : giai đoạn 1 bóc vỏ, giai đoạn 2 xát trắng. Phương pháp hai giai đoạn có ưu điểm là tỷ lệ gạo nguyên cao, hạt ít bị nóng nên được áp dụng phổ biến trong sản xuất. - Quá trình đánh bóng chủ yếu dùng cho gạo, đỗ tương, cà phê. Việc - 67 -
  69. đánh bóng có tác dụng làm đẹp bề mặt nhằm nâng cao giá trị cảm quan, kích thích thị hiếu người tiêu dùng, nghĩa là hạt sau khi đánh bóng dễ bán hơn và bán được với giá cao hơn. Mặt khác quá trình đánh bóng đã loại bỏ được các phần tử bám dính như bột cám, nấm mốc, để chúng không lẫn vào sản phẩm trong quá trình chế biến, hạn chế sự hút ẩm, tăng thời gian bảo quản. Việc đánh bóng thường được thực hiện trước khi chuyển giao cho người tiêu dùng hoặc trước khi xuất khẩu. Nếu thực hiện quá sớm hạt lại bị biến mầu làm giảm giá trị cảm quan. b) Yêu cầu kỹ thuật - Đảm bảo được chất lượng sản phẩm tuỳ theo từng quá trình gia công: Đối với quá trình xay phải đạt được hiệu suất bóc vỏ cao, yêu cầu bóc vỏ lần 1 phải đạt hiệu suất bóc vỏ 80 - 90%. Đối với quá trình xát và đánh bóng phải đạt được độ trắng và độ bóng theo yêu cấu sử dụng. - Tỷ lệ gẫy vỡ, dập nát thấp và tỷ lệ thu hồi cao - Nhiệt độ sản phẩm thấp, vì khi nhiệt độ cao dễ làm phân huỷ các chất dinh dưỡng có trong hạt, đặc biệt là các sinh tố. Yêu cầu nhiệt độ sản phẩm phải nhỏ hơn 40 oC. 4.2. Phân loại - Theo nguyên lý làm việc máy xay xát làm việc theo nguyên lý va đập, ma sát và dịch trượt hoặc phối hợp các nguyên lý trên. - Theo cấu tạo của bộ phận làm việc : máy xay xát hay đánh bóng kiểu cánh đập, kiểu ru lô, kiểu lưỡi dao, - Theo loại vật liệu chế tạo bộ phận xay xát hay đánh bóng : vật liệu bằng đá thiên nhiên hay đá nhân tạo, bằng cao su hay độ ẩm, bằng gang hay thép. - Theo vị trí của bộ phận làm việc : máy có bộ phận làm việc đặt thẳng đứng, máy có bộ phận làm việc đặt nằm ngang. 4.3. Nguyên lý làm việc và nguyên lý cấu tạo 4.3.1. Các phương pháp bóc vỏ Các máy xay thường làm việc theo nguyên lý tác động lực cơ học vào vật liệu. Dưới tác dụng riêng rẽ hoặc đồng thời của các lực va đập, ma sát - 68 -
  70. và dịch trượt mà lực liên kết giữa vỏ quả và nhân bị phá huỷ, vỏ tách ra khỏi nhân. Về kết cấu máy xay gồm có hai bộ phận chính : bộ phận xay và bộ phận phân ly vỏ. a) Bộ phận xay Căn cứ theo nguyên lý tác dụng của lực, bộ phận xay có các dạng trên hình 4.1 Hình 4.1. Sơ đồ nguyên lý cấu tạo bộ phận xay a) Va đập; b) Ma sát; c) Dịch trượt - Theo nguyên lý va đập (H. 4.1a), lực bóc vỏ được sinh ra do hạt chuyển động va đập nhiều lần lên bề mặt cứng (máy xay kiểu đĩa văng ly tâm) hoặc bộ phận làm việc của máy chuyển động va đập nhiều lần vào hạt (máy xay kiểu cánh đập), nhờ đó vỏ hạt bị nứt vỡ và tách ra khỏi nhân. Loại máy xay này thường có năng suất cao nhưng dễ làm gẫy vỡ hạt, được sử dụng phổ biến để bóc vỏ những loại hạt có vỏ không bám chắc vào nhân như : lạc, hướng dương, - Theo nguyên lý ma sát (H. 4.1b), lực bóc vỏ là lực ma sát được sinh ra do áp lực nén ép giữa bộ phận làm việc với hạt hoặc giữa hạt với hạt. Nguyên lý này được áp dụng trong các máy xay kiểu hai đĩa chuyển động với vận tốc vòng khác nhau hoặc máy xay kiểu ru lô kết hợp với máng chà đặt cố định. Hạt đi vào khe hở giữa hai bề mặt làm việc, trong đó một mặt chuyển động còn mặt kia cố định. Khi bề mặt hạt tiếp xúc với bề mặt nhám - 69 -
  71. của máy sẽ hình thành lực hãm chuyển động làm cho vỏ tróc khỏi nhân. Loại máy này có hiệu suất bóc vỏ cao nhưng năng suất thấp, tỷ lệ gẫy vỡ cao, dễ làm nóng hạt và được sử dụng để bóc vỏ một số loại hạt có vỏ bám chắc vào nhân như : vừng, kê, lanh, gai, - Theo nguyên lý dịch trượt (H. 4.1c), lực bóc vỏ được tạo ra do sự nép ép và dịch trượt. Nguyên lý này được áp dụng cho các máy xay kiểu ru lô. Khi hạt rơi vào khe hở giữa cặp ru lô có bề mặt bọc bằng cao su, quay ngược chiều nhau với vận tốc vòng khác nhau, hạt bị nén và dịch trượt làm cho vỏ hạt nứt và tách ra khỏi nhân. Loại máy này có hiệu suất bóc vỏ cao, hạt ít bị gãy nên được sử dụng nhiều trong các nhà máy để bóc vỏ hạt thóc. Dựa theo nguyên lý này, trong một số máy, người ta sử dụng dòng khí với tốc độ cực nhanh cuốn hạt vào trong ống có tiết diện nhỏ và thổi vào bình xiclôn. Do ma sát giữa các hạt với thành ống và bình tạo ra sự chênh lệch tốc độ giữa hạt và dòng khí. Nhờ vậy, trên vỏ hạt xuất hiện một ngẫu lực tiếp tuyến và kết quả là mối liên hệ giữa vỏ và nhân bị phá vỡ, vỏ tách ra khỏi nhân. b) Bộ phận phân ly vỏ Bộ phận phân ly vỏ được lắp sau bộ phận xay có nhiệm vụ loại bỏ vỏ ra khỏi hỗn hợp xay. Để phân ly vỏ, người ta thường dung quạt, trong một số trường hợp có thể dùng phối hợp quạt với sàng. Hình 4.2. Các bộ phận phân ly vỏ trấu - 70 -
  72. a)Phân ly bằng quạt; b) Phân ly phối hợp bằng quạt và sàng 1- phễu cấp liệu; 2- quạt; 3, 4, 5-vít xoắn; 6- sàng lỗ to; 7- sàng lỗ nhỏ; 8- van lá; 9- tấm dẫn hướng; 10- ống điều chỉnh; 11- cửa ra nhân; 12- cửa ra hạt lửng. Trên hình 4.2a là sơ đồ bộ phận phân ly vỏ trấu và hạt lửng theo chu trình kín. Hỗn hợp được cung cấp vào bộ phận phân ly qua phễu, sau đó trượt trên một tấm nghiêng và rơi xuống tạo thành một màng hạt. Một luồng gió mạnh được tạo nên bởi quạt hút lắp ở trong máy, đi qua màng hạt và phân ly trấu ra khỏi hỗn hợp. Do kết cấu của vỏ máy phân ly có dạng gần giống như một xiclôn nên nhờ vận tốc dòng khí và ảnh hưởng của lực ly tâm mà trấu được lắng đọng xuống đáy thùng hình chữ V và được đưa ra ngoài nhờ vít xoắn còn không khí không mang theo vỏ được quay vòng trở lại thành một chu trình khép kín. Các hạt lửng và hỗn hợp vỏ với nhân rơi vào các ngăn riêng và được đưa ra ngoài nhờ vít xoắn. Trên hình 4.2b là sơ đồ bộ phận phân ly phối hợp quạt và sàng nhằm thu hồi hạt vỡ và phần cám bị bong ra trong quá trình xay thóc trước khi qua bộ phận hút trấu, được sử dụng trong các nhà máy xay cỡ lớn. Phần sàng gồm hai tấm có lỗ khác nhau, tấm lỗ nhỏ dùng để phân ly cám và bụi, tấm lỗ to hơn dùng để phân ly hạt vỡ. Sau khi phân ly cám và tấm, hỗn hợp thóc, gạo lật và trấu được cung cấp sang bộ phận phân ly bằng quạt. Dòng hỗn hợp được phân phối thành một lớp mỏng trên toàn bộ chiều rộng của máy hút nhờ một ống điều chỉnh và tấm dẫn hướng. Không khí được hút qua khối hạt sẽ cuốn vỏ trấu và các hạt lửng đi vào quạt hút. Trấu theo ống dẫn ra ngoài, còn hạt lửng và gạo lật được thu hồi qua các cửa riêng. 4.3.2. Máy xát và đánh bóng Các máy xát và đánh bóng làm việc dựa theo nguyên lý tác dụng đồng thời của ma sát, va đập và dịch trượt. Căn cứ vào mức độ tác động của các nguyên lý trên mà người ta có thể phân biệt giữa xát và đánh bóng. Xát thường dùng áp lực lớn để bóc vỏ cám và cả những vỏ trấu còn sót lại - 71 -
  73. khi xay, trong đó tác dụng của ma sát, va đập và dịch trượt xảy ra đồng thời và mãnh liệt. Đánh bóng thường dùng áp lực nhỏ để làm sạch vi mô bề mặt hạt, chủ yếu là lau sạch những hạt cám còn bám dính, có bóc đi một lớp rất mỏng trên bề mặt hạt, trong đó tác dụng của ma sát là chủ yếu. Máy xát và đánh bóng có cấu tạo gồm : bộ phận cung cấp, bộ phận xát hay đánh bóng, bộ phận thu hồi sản phẩm. Ngoài ra, tuỳ theo kết cấu của từng loại máy mà có thể có các bộ phận phụ trợ như máy nén khí hoặc quạt, vòi phun nước để tạo ẩm, bình xiclôn thu cám và tách bụi, a) Bộ phận cung cấp Đối với những máy xát hay đánh bóng đặt thẳng đứng, bộ phận cung cấp là thùng đựng hạt dạng phễu. Hạt tự cung cấp vào trong máy nhờ trọng lượng bản thân. Hình 4.3. Sơ đồ cấu tạo bộ phận cung cấp a) Dạng ru lô; b) Dạng vít xoắn Đối với những máy xát hay đánh bóng đặt nằm ngang, bộ phận cung cấp thường dùng là ru lô hoặc vít xoắn, đúc bằng gang hoặc thép và được lắp ngay ở dưới đáy phễu cấp liệu. Ru lô cung cấp (H. 7.3a) có dạng hình trụ, trên bề mặt thường có 3 đường gân xoắn nổi phân bố đều theo chu vi. Các đường gân này có tác dụng xúc tiến việc nạp liệu và đẩy hạt di chuyển theo chiều dọc trục. Góc nghiêng của đường gân xoắn thường bằng 30o. Vít xoắn cung cấp (H. 7.3b) thường có 5 ÷ 7 bước xoắn, góc nghiêng của đường xoắn thường 40 ÷ 45 o, vì thế khi dùng vít xoắn thì khả năng cung cấp nguyên liệu vào máy tốt hơn và tải được phân bố đều hơn. b) Bộ phận xát và đánh bóng Bộ phận xát và đánh bóng có cấu tạo cơ bản là giống nhau, gồm có : ru lô xát, dao và sàng. - 72 -
  74. ¾ Ru lô xát Trên hình 4.4 là sơ đồ cấu tạo một số ru lô xát được dừng phổ biến trong sản xuất. Ru lô xát thường có dạng hình trụ hoặc hình côn, có lỗ ở giữa để lắp ghép với trục xát và quay cùng trục xát. Tuỳ theo kết cấu của từng loại máy mà ru lô có thể đặt nằm ngang hay thẳng đứng và vật liệu chế tạo ru lô có thể là đá tự nhiên hay đá nhân tạo, cao su hay da, gang hay thép. - Ru lô bằng đá có dạng hình trụ hoặc hình côn (H. 4.4a,b), được dùng chủ yếu trong các máy xát gạo. Chúng có thể được chế tạo bởi đá nhân tạo đúc liền thành khối hoặc do nhiều đĩa bằng đá ghép lại, bề mặt làm việc có dạng nhám. Loại này thường tạo ra lực ma sát lớn, hiệu quả làm trắng cao nhưng dễ làm gãy vỡ và nóng hạt. - Ru lô bằng da hay cao su dạng hình trụ hoặc hình côn (H. 4.4c,d), được dùng chủ yếu trong các máy đánh bóng hạt. Kết cấu bên trong là cốt thép hoặc gang đúc, ngoài bọc lớp da hay cao su là lớp chịu mài mòn. Loại ru lô này có ưu điểm là tỷ lệ gãy vỡ thấp, năng suất cao nhưng lớp cao su hoặc da nhanh bị mòn thường xuyên phải thay thế. Hình 4.4. Ru lô của bộ phận xát và đánh bóng a,b) Ru lô bằng đá; c,d) Ru lô phủ cao su hay da; e,f) Ru lô bằng gang hay thép - Ru lô bằng gang hay thép đúc thường chỉ kết cấu ở dạng hình trụ, có hai loại: Loại thường (H. 4.4e), trên bề mặt ru lô có một số đường gân lồi làm - 73 -
  75. tăng cường khả năng xáo trộn, quay vòng, nhờ đó hạt được mài mòn đồng đều trên toàn bộ bề mặt. Các đường gân này có thể nghiêng góc hoặc song song với đường sinh. Loại có luồng khí thổi (H. 4.4f), trên bề mặt ru lô có hai đường gân nổi, được lồng vào đoạn trục rỗng của máy xát. Phía sau hai đường gân có xẻ hai rãnh để đưa gió vào trong buồng xát nhằm thúc đẩy nhanh quá trình thoát cám và làm nguội hạt. Kết cấu bộ phận xát kiểu này có nhiều ưu điểm : tỷ lệ gạo nguyên và tỷ lệ thu hồi cao, gạo ít bị nóng nên không làm hồ hoá protêin, không làm phân huỷ sinh tố trong quá trình gia công. Dựa theo nguyên lý kết cấu trên, người ta đã cải tiến các máy đánh bóng gạo bằng cách phun nước vào luồng khí thổi, nhờ áp lực của dòng khí, nước được làm tơi dưới dạng sương mù, hoà trộn với luồng khí và cùng đi vào vùng hạt đang được chà xát, vì thế đã nâng cao được độ bóng và giảm độ gẫy hạt. ¾ Dao xát Trong các máy thực hiên cả hai khâu xay và xát đồng thời, người ta thường lắp cố định một hoặc hai dao ở vỏ buồng xát, dọc theo ru lô xát (H. 4.5a). Dao xát là một tấm thép, dày 5 - 7mm, rộng 50 - 60mm, chiều dài tương ứng với chiều dài của ru lô xát. Khi lắp ghép vào máy, cạnh dao nhô ra khỏi mặt trong của buồng xát, tạo ra khe hở nhất định với đường gân của ru lô xát theo hướng đường kính nhằm xúc tiến quá trình đảo trộn, bóc vỏ và làm trắng. Khe hở này cũng là một yếu tố có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả xay xát, đặc biệt là ảnh hưởng đến độ gãy vỡ hạt. Vì vậy trong quá trình xay xát cần phải điều chỉnh khe hở cho thích hợp với kích thước của từng loại hạt. Đối với những máy chỉ thực hiện bóc vỏ cám, nghĩa là sau khi xay đã phân ly loại bỏ vỏ trấu, dao được thay bằng các đường gân thép đặt dọc theo chu vi của sàng. c) Sàng Sàng được lắp bao quanh một nửa hoặc cả chu vi của ru lô xát, tạo thành buồng xát để chứa nguyên liệu và phân ly cám, tấm nhỏ ra khỏi hỗn hợp (H. 4.5b). - 74 -
  76. Hình 4.5. Sơ đồ cấu tạo dao xát và sàng a) Dao xát; b) Sàng Sàng được tạo bởi thép tấm có độ dày 0,8 - 1,5mm, được uốn theo hình bán nguyệt hoặc nửa hình lục lăng. Trên mặt sàng có dập nhiều lỗ hình chữ nhật, yêu cầu bề rộng của lỗ phải nhỏ hơn kích thước hạt. Lỗ sàng có ảnh hưởng tới hiệu suất xát. Lỗ sàng to dễ thoát cám nhưng đồng thời lại dễ lọt hạt hoặc mắc gạo vào lỗ và bị ru lô đập gẫy. Lỗ sàng nhỏ khó thoát cám, dễ bị tắc nhất là khi xát thóc có độ ẩm cao. Hiện nay sàng được chế tạo theo phương pháp đột hoặc dập, với kích thước lỗ thông dụng 1,11 - 12,7mm. Đối với những máy xát đặt nằm ngang, sàng được lắp bao nửa chu vi phía dưới, cám sau khi lọt qua sàng, tự rơi vào máng hứng nhờ trọng lượng bản thân, Đối với những máy xát đặt thẳng đứng hoặc nằm ngang nhưng có sử dụng luồng khí thổi, sàng được lắp bao toàn bộ chu vi buồng xát, do hai nửa ghép lại. Cám được thoát ra khỏi buồng xát nhờ trọng lượng bản thân kết hợp với áp lực của dòng khí. Hiệu quả của quá trình xát và đánh bóng được đặc trưng bởi hệ số K, xác định bằng tỷ số giữa diện tích cửa ra gạo và cửa vào thóc. Giá trị tối đa Kmax = 0,75. Hệ số K thay đổi phụ thuộc vào đặc điểm của từng loại gạo và kỹ thuật chế biến. Khi cần xát kỹ thì giảm diện tích cửa ra để làm tăng áp lực trong buồng xát, tăng mức độ bóc cám, gạo được xát trắng hơn. Khi không cần xát kỹ thì làm ngược lại. Để nâng cao chất lượng xay xát hiện nay người ta thực hiện xát gạo theo hai giai đoạn: bóc vỏ và xát trắng trên hai máy riêng rẽ, trong đó việc - 75 -
  77. bóc vỏ được thực hiện trên các máy xay có cặp ru lô bọc cao su, việc xát trắng được thực hiện trên các máy xát ru lô đặt nằm ngang có luồng khí thổi. 4.4 Cấu tạo một số máy xay xát và đánh bóng 4.4.1. Máy xay kiểu ly tâm. Máy xay kiều ly tâm làm việc dựa trên nguyên tắc va đập một số lần của hạt lên vành trong của thân máy, được sử dụng để bóc vỏ hạt hướng dương (H. 4.6). Hạt từ phễu cấp liệu 1 qua bộ phận phân phối được rải đều lên mâm 2. Khi đĩa 2 quay do lực ly tâm hạt trên mâm xoáy đảo văng ra đập lên vành thân máy, vỏ hạt được tróc ra. Hỗn hợp xay rơi xuống buồng thu 4 và thoát qua cửa 6 ra ngoài. Trong máy, hạt và hỗn hợp xay không xảy ra chuyển động xáo trộn nhiều lần, tránh được hiện tượng xát lại vỏ, loại trừ được sự bết dầu và tạo ra nhiều tấm như máy bóc vỏ cánh búa. Mặt khác, chi phí điện năng riêng giảm, năng suất máy cao, có thể đạt tới 150 ÷ 200tấn/ngày. Hình 4.6. Máy xay kiểu ly tâm 1- phễu cấp liệu; 2- đĩa ly tâm 3- vành thân máy; 4- buồng thu hỗn hợp; 5- bộ phận truyền động; 6- cửa thoát hỗn hợp. 4.4.2. Máy xay kiểu ru lô Loại máy này thực hiện quá trình bóc vỏ nhờ lực nén và dịch trượt - 76 -
  78. được sử dụng để bóc vỏ hạt thóc (H. 4.7). Về cấu tạo, bộ phận bóc vỏ gồm cặp trục 3 và 4 bằng cao su có cùng đường kính, quay ngược chiều nhau với vận tốc vòng khác nhau. Trục 4 quay nhanh, trục 3 quay chậm. Cơ cấu 5 làm nhiệm vụ dịch chuyển trục quay chậm để thay đổi khoảng cách khe hở giữa hai trục. Hình 4.7. Máy xay kiểu ru lô 1. phễu cấp liệu; 2- van điều chỉnh lượng cung cấp; 3, 4- trục bóc vỏ; 6- máng nghiêng 5- cơ cấu điều chỉnh khe hở cặp trục bóc vỏ; ; 7- cửa thoát; 8- rãnh hút; 9- thân máy. Hạt từ phễu cấp liệu 1 chảy vào khe hở giữa hai trục. Do ma sát giữa hạt với bề mặt trục mà hạt được cuốn vào khe hở. ở đây do sự nén ép, ma sát kết hợp với sự dịch trượt nhờ sự chênh lệch về tốc độ quay của hai trục mà vỏ hạt được bong ra. Hỗn hợp chảy xuống máng nghiêng 6, đến cuối máng nghiêng vỏ hạt được hút vào rãnh 8 và đi vào xiclôn. Nhân, hạt vỡ, hạt chưa bóc vỏ được thoát ra qua cửa 7. Chất lượng bóc vỏ phụ thuộc chủ yếu vào tính chất cơ lý của vật liệu cao su, khe hở làm việc giữa hai trục. Cao su cần có độ cứng đồng đều, vừa đủ để tách vỏ hạt nhưng không làm gẫy vỡ nhân, cần có độ dẻo dai để tạo ra lực ma sát cần thiết nhưng lại lâu mòn và mòn đều trên suốt chiều dài trục. Hiện tượng mòn không đều là một trong những nguyên nhân làm giảm hiệu suất bóc vỏ và tăng độ gẫy vỡ. Khe hở giữa hai trục cũng cần được điều chỉnh cho thích hợp với từng loại hạt. Với hạt thóc - 77 -
  79. khe hở cần được khống chế từ 0,4 ÷ 0,75m.m. Khe hở lớn hiệu suất bóc vỏ kém, khe hở nhỏ dễ gây gẫy vỡ hạt và giảm năng suất máy. Loại máy này có ưu điểm là hiệu suất bóc vỏ cao, tỷ lệ gẫy vỡ thấp, năng suất cao, sử dụng thích hợp với thóc, kê. Nhược điểm là trục cao su nhanh bị mòn, thường xuyên phải thay thế. 4.4.3. Máy xát gạo kiểu côn trục đứng Đây là loại máy thực hiện làm trắng gạo từ hạt gạo lật, được chế tạo ở châu âu (H. 4.8). Cấu tạo máy gồm ru lô dạng côn 4, đặt thảng đứng quay trong sàng bao 5. Trên bề mặt côn có gắn các tấm cao su là lớp chịu mài mòn. Lưỡi nạo cám 6 được gắn trên một vành răng, nhận chuyển động quay từ trục lắp bánh răng 7. chuyển động quay của trục bánh răng 7 được lấy từ trục 8 thông qua đai truyền. dịch cả gối đỡ và trục 8 lên hoặc xuống. Hình 4.8. Máy xát gạo kiểu côn trục đứng 1- phễu cấp liệu; 2- van lá; 3- vỏ máy; 4- ru lô xát; 5- sàng; 6- lưỡi nạo; 7- bánh rang chuyền động cho lưỡi nạo; 8- trục lắp ru lô xát; 9- cửa ra - 78 -
  80. gạo; 10- cửa ra cám; 11- cửa hút gió. Hạt gạo lật từ phễu cấp liệu 1 chảy vào mặt trên của ru lô. Do lực ly tâm hạt được văng ra và lọt vào khe hở giữa ru lô và sàng. Nhờ ma sát giữa các tấm cao su và sàng làm bóc đi lớp vỏ cám trên bề mặt hạt. Cám và tấm nhỏ lọt qua sàng đọng xuống đáy vỏ máy, được lưỡi nạo 7 gạt vào cửa thu cám 10 và ra ngoài. Gạo trắng sẽ thoát ra khỏi khe hở giữa ru lô xát và sàng rơi vào máng nghiêng và tự chảy ra ngoài qua cửa thu gạo 9. Việc điều chỉnh khe hở giữa ru lô xát và sàng được thực hiện bằng cách nâng Máy có ưu điểm : năng suất cao, đảm bảo được độ trắng với mức bóc cám thấp nhất, tỷ lệ gẫy hạt thấp. Nhược điểm : các tấm cao su nhanh bị mòn, thường xuyên phải thay thế, cấu tạo máy phức tạp. 4.4.4. Máy đánh bóng gạo kiểu trụ trục ngang Máy này được thiết kế và chế tạo tại Nhật Bản (hình 4. 9 ). Bộ phận làm việc là ru lô 2 bằng thép có dạng hình trụ trên đó có bắt một số lớn các tấm da 4 bằng bu lông. Ru lô đặt nằm ngang, được quay trong một buồng hình trụ có sàng 3 đột lỗ dài bao quanh. Quá trình đánh bóng được thực hiện nhờ ma sát giữa các tấm da với hạt và giữa hạt với hạt. Gạo sau khi đánh bóng được thoát ra ngoài qua cửa 6, cám lọt qua sàng rơi vào bộ phận gom chữ V và đưa ra ngoài nhờ vít xoắn 5. Máy có ưu điểm : ít làm gãy vỡ hạt, chi phí điện năng riêng thấp nhưng có nhược điểm là độ bóng hạt không cao, khó điều chỉnh được độ bóng theo yêu cầu chế biến, các tấm da rất nhanh mòn thường xuyên phải thay thế. - 79 -
  81. Hình 4.9 Máy đánh bóng gạo kiểu trụ trục ngang 1. Phễu cấp liệu; 2. Ru lô; 4. Sàng; 4. Các tấm da; 5. Vít xoắn chuyền tải cám; 6. Cửa thoát gạo. 4.5. Một số tính toán máy xay xát và đánh bóng 4.5.1 Tính toán công nghệ a) Máy xay * Hiệu suất bóc vỏ : n1 − n2 ηbv = , (%) n1 Trong đó: n1 - tỷ lệ hạt chưa bóc vỏ trước khi đưa vào máy, %; n2 - tỷ lệ hạt chưa bóc vỏ sau khi cho đi qua máy, %. Trường hợp cho một phần hay toàn bộ hạt đã xay quay trở lại hỗn hợp với hạt chưa xay để xay lại, hiệu suất bóc vỏ được xác định theo công thức : C + M + m ηbv = , (%) n1 + c Trong đó: C - tỷ lệ hạt được bóc vỏ do kết quả gia công, %; M - tỷ lệ nhân bị vỡ, %; m - tỷ lệ cám, %; c - tỷ lệ hạt đã bóc vỏ có lẫn trong hỗn hợp đưa quay trở lại máy xay, %. * Hệ số nhân nguyên vẹn : N K = , (%) n N + m + m N - tỷ lệ nhân nguyên vẹn, %. b) Máy xát và đánh bóng * Độ gãy vỡ : m δ = 100% M - 80 -
  82. Trong đó: m - khối lượng hạt gãy, g; M - khối lượng mẫu phân tích, g. * Tỷ lệ thu hồi : g ξ = 100% G Trong đó: g - khối lượng gạo đã xát ra, kg; G - khối lượng thóc được xát, kg. 4.5.2. Năng suất máy a) Năng suất lý thuyết máy bóc vỏ kiểu ru lô Qlt = 3,6lvδϕγ, (tấn/h) Trong đó : l - chiều dài trục, m; v - vận tốc trung bình của lớp hạt trong vùng xay, m; δ - giá trị khe hở trung bình giữa các trục trong vùng xay, m; γ - khối lượng thể tích của sản phẩm trước khi xay, tấn/m3; ϕ - hệ số nạp đầy thể tích ở vùng xay, ϕ = 0,28 ÷ 0,30. b) Năng suất máy xát Qlt = 3600Fvϕγ, (tấn/h) F - diện tích mặt cắt ngang của buồng xát, m2; π (D 2 − d 2 ) F = 4 Trong đó : D - đường kính buồng xát, m; d - đường kính ru lô, m. v - vận tốc trung bình của sản phẩm trong buồng xát, m/s; L v = τ L - chiều dài buồng xát, m; τ - hời gian hạt di chuyển trong buồng xát, s; ϕ - hệ số nạp đầy; γ - khối lượng thể tích, tấn/m4 . - 81 -
  83. Chương V THIẾT BỊ KHUẤY TRỘN 5.1. MÁY TRỘN SẢN PHẨM RỜI VÀ DẺO 5.1.1. Nhiệm vụ, yêu cầu kỹ thuật và phân loại a) Nhiệm vụ Máy trộn có nhiệm vụ xáo trộn hai hay nhiều thành phần của nguyên liệu thành một hỗn hợp đồng đều. Các máy trộn được sử dụng rất rộng rãi trong chế biến lương thực và thực phẩm như công nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi, công nghiệp sản xuất tinh bột, bánh mì, bánh kẹo, bia, rượu vang, nước giải khát, và nhiều lĩnh vực sản xuất khác, bởi vì chúng có những tác dụng như sau : - Bổ sung chất lượng, mùi vị lẫn nhau giữa các thành phần nguyên liệu, nhờ đó sẽ làm tăng được vị thơm ngon của sản phẩm. - Làm tăng cường các phản ứng sinh hóa trong quá trình trộn, ví dụ : trộn nước vôi với rơm thái để kiềm hóa, trộn men với các nguyên liệu khác để ủ men, - Khi trộn sẽ làm tăng cường quá trình trao đổi nhiệt khi đun nóng hay làm nguội, nghĩa là sẽ tạo cho hỗn hợp nhanh nóng hay nhanh nguội hơn. - Có khả năng làm hòa tan giữa chất này với chất khác, ví dụ : hòa tan đường với sữa, với rượu hay nước rau quả, b) Yêu cầu kỹ thuật - Đảm bảo độ trộn đều cao, nhất là trong hỗn hợp có những thành phần với tỷ lệ rất bé 1 ÷ 2%. - Trộn được nhiều loại nguyên liệu, trộn được nguyên liệu ở dạng khô, ẩm. - Có thể dễ dàng thay thế bộ phận trộn cho thích hợp với dạng nguyên liệu đưa vào trộn nhằm nâng cao năng suất và chất lượng trộn. c) Phân loại - Theo dạng sản phẩm đưa vào trộn : máy trộn sản phẩm tơi, máy trộn sản phẩm dẻo, máy trộn sản phẩm lỏng. - 77 -
  84. - Theo cấu tạo của bộ phận trộn : máy trộn kiểu vít, máy trộn kiểu cánh gạt, máy trộn kiểu thùng quay, máy trộn kiểu cánh quạt. - Theo vị trí của bộ phận trộn : máy trộn có bộ phận trộn thẳng đứng, máy trộn có bộ phận trộn nằm ngang. - Theo quá trình làm việc : máy trộn làm việc liên tục, máy trộn làm việc gián đoạn. 5.1.2. Nguyên lý làm việc và nguyên lý cấu tạo Các máy trộn đều có nguyên lý làm việc chung là xáo trộn hai hay nhiều thành phần nguyên liệu để cho các thành phần đó di chuyển xen kẽ lẫn nhau. Về nguyên lý cấu tạo, theo dạng nguyên liệu đưa vào trộn mà máy trộn có cấu tạo khác nhau. 5.1.2.1. Máy trộn sản phẩm rời Nguyên liệu tơi rời thường là dạng bột có độ ẩm nhỏ hơn 25%. Để thực hiện quá trình trộn người ta thường dùng máy trộn có bộ phận trộn quay và máy trộn có thùng quay. a) Máy có bộ phận trộn quay Máy trộn có bộ phận trộn quay là loại máy được dùng phổ biến nhất. Bộ phận thực hiện chuyển động quay của máy có thể là : vít xoắn, cánh gạt, băng xoắn, Bộ phận trộn kiểu vít xoắn được cấu tạo bởi một dải thép lá hàn trên trục theo đường xoắn vít. Tùy theo loại vật liệu đưa vào trộn mà bộ phận trộn kiểu vít xoắn có dạng cánh liền (hình 4.18a) dùng để trộn bột khô, dạng cánh khuyết (hình 4.1b) dùng để trộn bột có độ ẩm vừa. Bộ phận trộn kiểu cánh gạt thường dùng để trộn bột có độ ẩm vừa và cao. Nó được cấu tạo bởi một trục trên đó có lắp các cánh gạt (hình 4.1c). Các cánh gạt lắp so le nhau, bề mặt cánh gạt thường đặt nghiêng một góc nào đó so với đường sinh của trục có tác dụng đẩy nguyên liệu di chuyển theo chiều dọc trục. Bộ phận trộn kiểu băng xoắn (hình 4.1d,e,f) được sử dụng để trộn nguyên liệu có độ ẩm cao và dính bết. Nó được cấu tạo bởi một số dải thép lá uốn cong theo đường xoắn vít. Trong máy người ta thường lắp hai dải băng xoắn ngược chiều nhau để tăng khả năng xáo trộn. - 78 -