Luận văn Tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta

doc 196 trang phuongnguyen 5540
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docluan_van_tranh_chap_dat_dai_va_giai_quyet_tranh_chap_dat_dai.doc

Nội dung text: Luận văn Tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta

  1. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước. Không ai có thể phủ nhận vai trò quan trọng của đất đai đối với cuộc sống của con người, nó có ý nghĩa hàng đầu trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh, quốc phòng của mỗi quốc gia. Tranh chấp đất đai là một hiện tượng xảy ra phổ biến trong xã hội. Đặc biệt, khi nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, đất đai trở thành một loại hàng hóa đặc biệt có giá trị thì tranh chấp đất đai có xu hướng ngày càng gia tăng cả về số lượng cũng như mức độ phức tạp. Tình trạng tranh chấp đất đai kéo dài với số lượng người dân khiếu kiện ngày càng đông là vấn đề rất đáng được quan tâm. Tranh chấp đất đai phát sinh nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều mặt của đời sống xã hội như: Làm đình đốn sản xuất, tổn thương đến các mối quan hệ trong cộng đồng dân cư, ảnh hưởng đến phong tục đạo đức tốt đẹp của người Việt Nam, gây ra sự mất ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tranh chấp đất đai kéo dài nếu không được giải quyết dứt điểm sẽ dễ dẫn đến “điểm nóng”, bị kẻ xấu lợi dụng, làm giảm niềm tin của nhân dân đối với Nhà nước. Vì vậy, việc nghiên cứu tranh chấp đất đai và pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai là cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Đây cũng là vấn đề đang được Đảng, Nhà nước và các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm. Kể từ khi Hiến pháp 1980 ra đời thì ở nước ta chỉ còn lại một hình thức sở hữu đất đai duy nhất - đó là sở hữu toàn dân về đất đai, Nhà nước là đại diện chủ sở hữu [36]. Nhìn chung, trong thời gian qua các quy định của pháp luật về đất đai đã từng bước đi vào cuộc sống, phát huy hiệu quả điều chỉnh, bảo vệ có hiệu quả chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai, góp phần đáng kể vào việc đưa công tác quản lý đất đai vào nề nếp, khai thác đất đai ngày càng có hiệu quả và tiết kiệm hơn. Bộ luật Dân sự năm năm 1995 đã bước đầu thiết lập cơ chế để giúp người sử dụng đất thực hiện các quyền của mình. Luật Đất đai năm 2003 thay thế cho Luật Đất đai năm
  2. 2 1993 và Bộ luật Dân sự năm 2005 thay thế cho Bộ luật Dân sự năm 1995 đã phần nào giải quyết được những hạn chế trong việc đảm bảo thực hiện quyền của người sử dụng đất - một trong những quyền cơ bản mang tính đặc thù được điều chỉnh bởi Bộ luật Dân sự và Luật Đất đai, góp phần ổn định trật tự, an toàn xã hội, thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất. Mặc dù vậy, hiện nay ở nước ta các văn bản pháp luật điều chỉnh việc tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai có nhiều nhưng chưa thực sự đồng bộ; nhiều quy định không phù hợp với đời sống xã hội, có sự mâu thuẫn, chồng chéo nhau nhưng lại chậm được sửa đổi bổ sung v.v làm cho công tác giải quyết tranh chấp đất đai tại tòa án trong thời gian qua gặp rất nhiều khó khăn và có phần kém hiệu quả. Trong những năm qua, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà các tranh chấp đất đai ở nước ta đang ngày càng gia tăng. Mỗi năm, toà án nhân dân các cấp thụ lý và giải quyết hàng ngàn vụ tranh chấp đất đai. Nhìn chung, ngành toà án nhân dân đã giải quyết thành công một số lượng lớn các vụ tranh chấp về đất đai, chất lượng xét xử ngày càng cao, phần nào bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức xã hội và công dân. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng vì nhiều lý do khác nhau, nhiều lúc, nhiều nơi hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai chưa thực sự đem lại hiệu quả như mong muốn, trong đó có cả yếu tố khách quan như: Pháp luật chưa thực sự đồng bộ; nhiều quy định không phù hợp với đời sống xã hội, có sự mâu thuẫn, chồng chéo nhau nhưng lại chậm được sửa đổi bổ sung và yếu tố chủ quan như: Đội ngũ những người tiến hành tố tụng chưa thực sự nhận thức đầy đủ về tính chất đặc thù của các vụ tranh chấp đất đai; chậm khắc phục các tồn tại, vướng mắc trong quá trình giải quyết các vụ tranh chấp đất đai; trình độ chuyên môn của một số thẩm phán còn hạn chế, v.v Trong khi đó, trong hệ thống các cơ quan nhà nước thì toà án nhân dân là một trong những cơ quan nhà nước được giao thẩm quyền giải quyết các vụ tranh chấp đất đai, có vai trò ngày càng quan trọng, đã và đang có nhiều đóng góp đáng kể. Vì vậy, qua nghiên cứu tranh chấp đất đai và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về đất đai hiện hành để giải quyết các tranh chấp
  3. 3 về đất đai tại tòa án nhân dân nhằm phát hiện ra những hạn chế, thiếu sót, bất cập của hệ thống pháp luật và từ đó đưa ra được những kiến nghị, các giải pháp giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền có những điều chỉnh phù hợp, góp phần tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp luật về đất đai cho phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của đất nước trong điều kiện hội nhập hiện nay là việc làm mang ý nghĩa to lớn. Mặt khác, để góp phần giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn để hoàn thiện pháp luật về đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai cũng như nâng cao hiệu quả của công tác giải quyết tranh chấp đất đai tại tòa án ở nước ta, cần có những công trình khoa học nghiên cứu một cách có hệ thống về các vấn đề này. Đây là việc làm có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn cấp thiết. Hiện nay, ở Việt Nam chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách tổng thể và chuyên sâu về vấn đề tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta. Xuất phát từ những căn cứ lý luận và thực tiễn trên thì việc nghiên cứu đề tài “Tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta” là một nhu cầu cấp bách trong tình hình hiện nay. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án Đề tài “Tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta” có mục đích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án. Từ đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai ở Việt Nam. Để đạt được mục đích nói trên, luận án có các nhiệm vụ sau đây: - Làm sáng tỏ những vấn đề mang tính lý luận về tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án. Cụ thể là, nghiên cứu làm rõ khái niệm tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án cũng như các khái niệm khác có liên quan, để từ đó phân tích đặc điểm của tranh chấp đất đai, phân loại tranh chấp đất đai, nguyên nhân và hậu quả của tranh chấp đất đai và xác định vai trò giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án. Nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền sử dụng đất, tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án. - Nghiên cứu các yếu tố chi phối việc giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa
  4. 4 án; căn cứ đánh giá hiệu quả và các yếu tố quyết định hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp đất đai tại toà án. - Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai và thực tiễn áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án, từ đó chỉ ra những khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết tranh chấp đất đai của tòa án hiện nay. - Nêu các phương hướng và đề xuất các giải pháp cụ thể, thích hợp góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai, giúp các cơ quan chức năng nói chung và tòa án nói riêng giải quyết các tranh chấp này một cách có hiệu quả, tránh việc khiếu kiện kéo dài gây ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. 3. Đối tượng nghiên cứu của luận án Luận án có đối tượng nghiên cứu là: Các văn bản quy phạm pháp luật nội dung về tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai qua các thời kỳ lịch sử khác nhau; thực tiễn công tác giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta thông qua một số vụ án cụ thể trong những năm gần đây. 4. Những điểm mới của luận án Thứ nhất, luận án đã nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện khái niệm tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án; đưa ra quan niệm về quyền sử dụng đất, qua đó làm rõ bản chất pháp lý của tranh chấp đất đai; các hình thức giải quyết tranh chấp; xác định được các yếu tố chi phối việc giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án; căn cứ đánh giá hiệu quả và các yếu tố quyết định hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp đất đai tại toà án nhân dân. Thứ hai, luận án đã phân tích và đánh giá một cách toàn diện và khách quan thực trạng các quy định của pháp luật nội dung về tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật đất đai để giải quyết các tranh chấp đất đai tại tòa án nước ta. Đã chỉ ra được những ưu điểm và hạn chế trong các quy định pháp luật đất đai và việc áp dụng pháp luật vào giải quyết tranh
  5. 5 chấp đất đai bằng tòa án ở Việt Nam để làm cơ sở hoàn thiện pháp luật về đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai ở Việt Nam, đảm bảo công bằng và ổn định xã hội. Thứ ba, luận án đã đề ra được phương hướng và các giải pháp đồng bộ và cụ thể để khắc phục những hạn chế, khó khăn, bất cập góp phần hoàn thiện pháp luật đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta nhằm đảm bảo hiệu quả trong giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án trong tình hình hiện nay. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án Có thể coi luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện về tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai bằng con đường tòa án thông qua thực tiễn áp dụng pháp luật để xét xử các tranh chấp về đất đai. Những kết luận và đề xuất, kiến nghị mà luận án nêu ra đều có cơ sở khoa học và thực tiễn. Vì vậy, chúng có giá trị tham khảo trong việc sửa đổi pháp luật. Những kết quả nghiên cứu của luận án có thể có giá trị tham khảo đối với những người làm công tác xét xử các tranh chấp về đất đai trong hệ thống tòa án nhân dân. 6. Bố cục của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo luận án có 4 chương: Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu. Chương 2: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về tranh chấp đất đai ở Việt Nam. Chương 3: Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp đất đai, về pháp luật giải quyết tranh chấp đất đai và thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở Việt Nam. Chương 4: Thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở Việt Nam, những vướng mắc phát sinh và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai nhìn từ góc độ áp dụng pháp luật.
  6. 6 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1. Tình hình nghiên cứu Do nhu cầu sử dụng đất, giá trị về quyền sử dụng đất ngày càng tăng làm cho giá đất tăng lên một cách nhanh chóng, đúng nghĩa là “Tấc đất tấc vàng”. Cho nên, có thể, chỉ vì một mâu thuẫn nhỏ trong việc quản lý, sử dụng đất đất đai đã là nguyên nhân phát sinh tranh chấp gay gắt. Trong bối cảnh tranh chấp đất đai ngày càng phức tạp, khó xử lý, tồn đọng, kéo dài, việc giải quyết tranh chấp còn nhiều bất cập thiếu thống nhất thì tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai có thể được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, phạm vi khác nhau. Cho đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu và các bài viết liên quan đến đề tài này dưới nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, mục đích nghiên cứu khác nhau và dẫn đến quan điểm khác nhau, kết quả nghiên cứu khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu, cách tiếp cận vấn đề. Liên quan đến đề tài luận án, có thể kể đến một số công trình khoa học đã được công bố được sắp xếp theo các nhóm sau: + Nhóm các công trình nghiên cứu về tranh chấp đất đai: “Pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 2003 và Bộ luật Dân sự năm 2005”, Luận văn thạc sỹ luật học của Nguyễn Văn Phước (2007), Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh. Tác giả chủ yếu tập trung vào việc phân tích đánh giá các quy định của pháp luật về một trong các quan hệ tranh chấp đất đai đó là thừa kế quyền sử dụng đất. Trọng tâm của việc nghiên cứu đề tài này là những vấn đề lý luận chung về thừa kế quyền sử dụng đất, thực trạng pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất và những kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất. Tác giả không đề cập các loại tranh chấp đất đai khác. Bài “Các giải pháp nhằm hạn chế tranh chấp phát sinh khi thu hồi đất nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa hiện nay” của tác giả Lê Đức Thịnh tại hội thảo
  7. 7 “Tình trạng tranh chấp và khiếu kiện đất đai kéo dài: Thực trạng và giải pháp”, ngày 08 – 09 tháng 10 năm 2008 tại Buôn Mê Thuột – Đắc Lắc. Bài viết phân loại, đánh giá các nội dung khiếu kiện liên quan đến thu hồi đất nông nghiệp, phân tích tìm hiểu các nguyên nhân chính của vấn đề tranh chấp, khiếu kiện trong thu hồi đất nông nghiệp và từ đó đóng góp thêm ý kiến cho các giải pháp nhằm hạn chế tranh chấp phát sinh khi thu hồi đất nông nghiệp phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Báo cáo tham luận “Tranh chấp đất đai và khiếu kiện kéo dài: Những nguyên nhân trong quá trình thực thi pháp luật” của GS.TSKH Đặng Hùng Võ tại hội thảo “Tình trạng tranh chấp và khiếu kiện đất đai kéo dài: Thực trạng và giải pháp”, ngày 08 – 09 tháng 10 năm 2008 tại Buôn Mê Thuột – Đắc Lắc. Tác giả phân tích những nguyên nhân chủ yếu gây ra tranh chấp khiếu kiện liên quan đến đất đai, tái tranh chấp, tái khiếu kiện xuất hiện trong quá trình thực thi pháp luật về đất đai và đề xuất những giải pháp đổi mới nhằm hạn chế tranh chấp khiếu kiện. Báo cáo tham luận “Tình hình tranh chấp khiếu kiện đất đai ở Việt Nam trong thời gian qua” của tác giả Vũ Ngọc Kích tại hội thảo “Tình trạng tranh chấp và khiếu kiện đất đai kéo dài: Thực trạng và giải pháp”, ngày 08 – 09 tháng 10 năm 2008 tại Buôn Mê Thuột – Đắc Lắc. Tác giả chủ yếu đề cập tình hình tranh chấp đất đai trong thời gian qua, các dạng tranh chấp đất đai thường gặp, nguyên nhân dẫn đến tranh chấp, khiếu nại về đất đai; Báo cáo tham luận “Những dạng tranh chấp đất đai chủ yếu ở nước ta hiện nay và khuôn khổ pháp luật liên quan” của TS. Doãn Hồng Nhung tại hội thảo “Tình trạng tranh chấp và khiếu kiện đất đai kéo dài: Thực trạng và giải pháp”, ngày 08 – 09 tháng 10 năm 2008 tại Buôn Mê Thuột – Đắc Lắc. Tác giả nêu lên những dạng tranh chấp đất đai phổ biến ở nước ta hiện nay và khung pháp luật điều chỉnh hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai. Báo cáo tham luận “một số vấn đề về thực trạng tình hình tranh chấp, khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai” của tác giả Đào Trung Chính tại hội thảo “Tình trạng tranh chấp và khiếu kiện đất đai kéo dài: Thực trạng và giải pháp”, ngày 08 – 09 tháng 10 năm 2008 tại Buôn Mê Thuột – Đắc Lắc. Tác giả nêu lên tình hình tranh chấp, khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai; nguyên nhân chủ yếu phát sinh tranh chấp, khiếu nại
  8. 8 và đề xuất, kiến nghị về xử lý tình hình. Báo cáo tham luận “Tranh chấp đất đai và khiếu kiện kéo dài: Những nguyên nhân có tính lịch sử” của TS. Nguyễn Quang Tuyến tại hội thảo “Tình trạng tranh chấp và khiếu kiện đất đai kéo dài: Thực trạng và giải pháp”, ngày 08 – 09 tháng 10 năm 2008 tại Buôn Mê Thuột – Đắc Lắc. Tác giả phân tích như thế nào là tranh chấp đất đai, những đặc trưng cơ bản của loại tranh chấp này, các dạng tranh chấp phổ biến hiện nay và những nguyên nhân có tính lịch sử của tranh chấp, khiếu kiện đất đai kéo dài, đồng thời kiến nghị một số giải pháp nhằm góp phần giải quyết triệt để các tranh chấp, khiếu kiện đất đai kéo dài. Bài viết “Bàn về khái niệm tranh chấp đất đai trong Luật đất đai 2003” đăng trên Tạp chí Khoa học pháp luật số 2 (33) năm 2006 của Lưu Quốc Thái, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh. Trong bài viết này chủ yếu tác giả đi sâu phân tích khái niệm tranh chấp đất đai theo Luật Đất đai năm 2003 để góp phần xác định chính xác về thẩm quyền, thủ tục và nội dung cần giải quyết đối với từng loại tranh chấp đất đai. + Nhóm các công trình nghiên cứu về giải quyết tranh chấp đất đai nói chung như: “Tranh chấp đất đai và thẩm quyền giải quyết của Tòa án”, Luận văn Thạc sỹ luật học của Châu Huế (2003), Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội. Tác giả chủ yếu tập trung phân tích các quy định về phân định thẩm quyền giữa Tòa án và Ủy ban nhân dân, giữa Tòa dân sự và Tòa hành chính; đề cập thực trạng tranh chấp đất đai và thực trạng giải quyết tranh chấp đất đai ở nước ta; phân tích, đánh giá thực trạng của quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai trước khi có Luật Đất đai năm 2003 và đề xuất một số giải pháp nhằm ngăn ngừa, hạn chế các tranh chấp đất đai và hoàn thiện cơ chế phân định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai. Góc độ tiếp cận của tác giả khi nghiên cứu đề tài này là pháp luật thực định;“Giải quyết tranh chấp đất đai theo Luật đất đai 2003”, Luận văn thạc sỹ luật học của Phạm Thị Hương Lan (2009), Viện Nhà nước và Pháp luật. Tác giả chủ yếu nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp đất đai để thấy được những điểm phù hợp và những điểm chưa phù hợp từ đó có những đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai cũng như đề ra
  9. 9 các biện pháp, cơ chế bảo đảm cho việc thực thi các quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả giải quyết các tranh chấp về đất đai. + Nhóm các công trình nghiên cứu về giải quyết tranh chấp đất đai bằng con đường tòa án có thể kể đến:“Cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất tại toà án nhân dân”, Đề tài khoa học cấp bộ năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, do Nguyễn Văn Luật làm chủ nhiệm đề tài. Đề tài đã khái quát được tình hình giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1993, nêu ra những nét đặc thù trong việc giải quyết các loại việc nêu trên, đánh giá chung cũng như phân tích những sai lầm trong việc giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất và nguyên nhân của những sai lầm đó. Để từ đó đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất tại Toà án nhân dân theo Luật Đất đai năm 1993. Một trong những công trình có giá trị đối việc nghiên cứu của tác giả đó là cuốn sách chuyên khảo “Pháp luật dân sự và thực tiễn xét xử” của tác giả Tưởng Duy Lượng, do Nxb. Chính trị quốc gia xuất bản năm 2008 và tái bản có sửa chữa, bổ sung năm 2009. Nội dung cuốn sách đưa ra những vấn đề lý luận và thực tiễn xét xử các vụ án dân sự, trong đó phần nhiều là các tranh chấp liên quan đến đất đai, thông qua đó nêu ra được những vấn đề vướng mắc trong việc giải quyết các tranh chấp đất đai tại tòa án và hướng xử lý nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác xét xử. Có thể nói cuốn sách này mang tính thực tiễn rất cao. “Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất bằng toà án tại Việt Nam”, Luận văn Thạc sỹ luật học của Lý Thị Ngọc Hiệp (2006), Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh. Trong luận văn, tác giả nêu cơ sở lý luận về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất và đi vào phân tích, đánh giá chủ yếu các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất để từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật. “Giải quyết tranh chấp đất đai bằng con đường toà án”, Luận văn thạc sỹ luật học của Trần Văn Hà (2007), Viện Nhà nước và Pháp luật. Tác giả chủ yếu tập trung vào việc phân tích đánh giá các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai bằng con đường toà án, đánh giá các điểm mới của pháp luật đất đai về giải quyết tranh
  10. 10 chấp đất đai bằng con đường toà án. Trọng tâm của việc nghiên cứu đề tài này là vấn đề nhận dạng các tranh chấp đất đai, nguyên nhân của nó, tác động của nó đối với các mặt của đời sống xã hội, thực tiễn áp dụng pháp luật vào giải quyết các tranh chấp đất đai tại tòa án, đánh giá chất lượng và hiệu quả giải quyết tranh chấp đất đai tại tòa án và những kiến nghị hoàn thiện pháp luật.“Giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án từ thực tiễn tại Tp. Đà Nẵng” Luận văn thạc sỹ luật học của Mai Thị Tú Oanh (2008). Trong luận văn này, tác giả thông qua việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá các quy định của luật thực định, thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật để giải quyết tranh chấp đất đai tại toà án nhân dân các cấp của thành phố Đà Nẵng nhằm làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai. Từ đó đưa ra phương hướng, giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật và cơ chế áp dụng pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai ở toà án các cấp của thành phố Đà Nẵng, góp phần làm cho các quy định của pháp luật thực sự phù hợp với thực tiễn cuộc sống nhằm đảm bảo ngày một tốt hơn các quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và của công dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, phạm vi nghiên cứu của luận văn chỉ giới hạn ở những vụ việc mà các cấp tòa án ở thành phố Đà Nẵng đã thụ lý giải quyết.“Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất”, Luận văn thạc sỹ luật học của Nguyễn Thị Hải Yến (2009), Viện Nhà nước và Pháp luật. Tác giả nghiên cứu khái niệm, đặc điểm pháp lý của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, làm rõ nội dung chế định hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và căn cứ pháp lý xác định hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất trong pháp luật Việt Nam; nghiên cứu thực tiễn thực hiện, giải quyết tranh chấp về tặng cho quyền sử dụng đất của toà án nhân dân trong thời gian từ năm 2003 đến nay, chỉ ra một số bất cập, vướng mắc trong nhận thức và thực hiện các quy định của pháp luật về hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất; trên cơ sở đó xác định phương hướng, giải pháp cơ bản góp phần hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ở Việt Nam. Báo cáo tham luận “Thực trạng giải quyết tranh chấp đất đai tại tòa án nhân dân – Kiến nghị và giải pháp” của TS. Nguyễn Văn Cường và cử nhân Trần Văn Tăng, Viện khoa học xét xử, Tòa án nhân dân tối
  11. 11 cao tại hội thảo “Tình trạng tranh chấp và khiếu kiện đất đai kéo dài: Thực trạng và giải pháp”, ngày 08 – 09 tháng 10 năm 2008 tại Buôn Mê Thuột – Đắc Lắc. Tác giả nêu số liệu giải quyết tranh chấp đất đai của ngành tòa án trong năm 2007 và 8 tháng đầu năm 2008; những khó khăn, vướng mắc trong việc giải quyết tranh chấp đất đai tại tòa án nhân dân. Đồng thời nêu một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết tranh chấp đất đai tại tòa án nhân dân. Bài viết “Giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án qua thực tiễn tại một địa phương” của Mai Thị Tú Oanh đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 08/2009. Trong bài viết này tác giả nêu tình hình giải quyết tranh chấp đất đai tại tòa án thành phố Đà Nẵng - mặt thành công và chưa thành công. Thông qua đó nêu ra một số khó khăn vướng mắc khi áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp đất đai. Bài viết “Thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và những vấn đề đặt ra” của Mai Thị Tú Oanh đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 11(294)/2012. Tác giả nêu một số vụ việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà các cấp tòa án nhân dân đã giải quyết. Thông qua đó rút ra được những khó khăn vướng mắc khi áp dụng pháp luật để giải quyết loại tranh chấp này cũng như thấy được những bất cập của hệ thống pháp luật. + Nhóm các công trình nghiên cứu về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai và những vấn đề khác có liên quan như: Bài viết “Hòa giải tranh chấp đất đai theo Điều 135 Luật Đất đai năm 2003 và một số vấn đề đặt ra” của Mai Thị Tú Oanh đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 21, tháng 11/2012. Tác giả nêu các quy định của pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai. Thông qua đó nêu ra được những bất cập chồng chéo, thiếu cụ thể của các quy định pháp luật và nêu quan điểm của mình khi vận dụng pháp luật để giải quyết; Bài viết “Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của tòa án” đăng trên trang web ngày 12/12/2011 của TS. Trần Anh Tuấn, Khoa Luật dân sự, Đại học Luật Hà Nội. Tác giả phân tích thuật ngữ “Tranh chấp quyền sử dụng đất” thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án theo pháp luật hiện hành để xác định rõ hơn những tranh chấp nào thì thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án và phân tích
  12. 12 quy định của việc hòa giải cơ sở đối với những tranh chấp về đất đai. Bài viết “Một vài suy nghĩ về những quy định chung trong phần chuyển quyền sử dụng đất, thẩm quyền giải quyết và hướng xử lý một vài tranh chấp chuyển quyền sử dụng đất được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005” của tác giả Tưởng Duy Lượng (2006), đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 23/2006. Tác giả phân tích những quy định chung của pháp luật về chuyển quyền sử dụng đất, thẩm quyền giải quyết và hướng xử lý vướng mắc. Bài viết “Hòa giải ở cơ sở khi có tranh chấp quyền sử dụng đất”, của tác giả Tưởng Duy Lượng (2007), đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 4/2007. Tác giả phân tích những quy định của pháp luật về hòa giải tranh chấp quyền sử dụng đất, tầm quan trọng của công tác hòa giải và những bất cập khi tiến hành hòa giải đối với loại tranh chấp này. Bài viết “Vướng mắc về pháp luật liên quan đến giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai” đăng trên trang werb ngày 15/10/2010 của Nguyễn Xuân Trọng và Trần Hoài Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường. Tác giả nêu lên các vướng mắc trong các tiêu chí để phân định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai, phạm vi điều chỉnh về tranh chấp đất đai trong luật đất đai, trong hòa giải bắt buộc và trong trình tự giải quyết tranh chấp. Bài viết “Các đặc trưng pháp lý của quyền sử dụng đất ở Việt Nam” của T.S Trần Quang Huy (2007), đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 10/2007. Tác giả bình luận chủ yếu về các đặc trưng cơ bản của quyền sử dụng đất ở Việt nam, theo đó có thể nhận biết quyền sử dụng đất ở Việt Nam chính là một quyền về tài sản đặc biệt, được quyền giao dịch nhưng phải tuân thủ các quy định của pháp luật; Bài viết “Vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện quyền sở hữu toàn dân về đất đai” của PGS.TS Phạm Hữu Nghị (2005), đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số (1)/2005. Tác giả phân tích vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện 3 quyền năng của chủ sở hữu đất đai, với tư cách là đại diện duy nhất cho chủ sở hữu, Nhà nước cần tạo ra môi trường pháp lý phù hợp để các quyền của người sử dụng đất được thực hiện một cách thuận lợi vì lợi ích của người sử dụng đất và vì lợi ích của xã hội. Bài giảng “Chính sách, pháp luật đất đai với nền kinh tế thị trường ở Việt nam” của GS.TSKH Đặng Hùng Võ tại Chương trình giảng dạy
  13. 13 kinh tế Fulbright. Tác giả nêu tình hình, kết quả giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai - những vấn đề nổi cộm, sự bất cập và giải pháp đổi mới; Báo cáo tham luận “Khiếu kiện của người dân về đất đai và vai trò Ban Dân nguyện của Ủy ban Thường vụ quốc hội” của tác giả Hà Công Long tại hội thảo “Tình trạng tranh chấp và khiếu kiện đất đai kéo dài: Thực trạng và giải pháp”, ngày 08 – 09 tháng 10 năm 2008 tại Buôn Mê Thuột – Đắc Lắc. Tác giả đề cập đến những dạng tranh chấp, khiếu nại về đất đai thường gặp, nguyên nhân chủ yếu làm phát sinh tranh chấp, khiếu nại tố cáo và vai trò của ban dân nguyện trong giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai; Bài viết “Vai trò của pháp luật đất đai trong việc kiềm chế những cơn sốt đất” của T.S Phạm Duy Nghĩa (2002) đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 5/2002. Tác giả tập trung nghiên cứu về nhu cầu, chức năng và khả năng thực tế của pháp luật trong việc ổn định thị trường bất động sản; Bài viết “Về thực trạng chính sách đất đai ở Việt Nam” của PGS.TS Phạm Hữu Nghị (2002) đăng trên tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 8/2002. Tác giả nghiên cứu về tình hình thực hiện chính sách đất đai, phân tích những hạn chế, thiếu sót, bất cập của chính sách và việc thực hiện chính sách đất đai, đồng thời tìm ra những nguyên nhân của tình trạng ấy và đề xuất quan điểm, phương hướng, giải pháp đổi mới nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. + Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài trực tiếp về đề tài hầu như không đáng kể do sự khác biệt về chế độ sở hữu về đất đai cũng như cơ chế giải quyết tranh chấp về đất đai. Chỉ có một số bài viết đề cập riêng lẻ những vấn đề, khía cạnh khác nhau có liên quan đến đề tài nghiên cứu mà tác giả tham khảo đó là: Báo cáo của Đoàn công tác "Nghiên cứu khảo sát về chính sách, pháp luật đất đai của Trung Quốc" (2002), Báo cáo của Đoàn công tác của Ban Kinh tế trung ương "Nghiên cứu, khảo sát chính sách, pháp luật đất đai của Đài Loan" (2002), Bài viết của TS Nguyễn Ngọc Điện về "Cấu trúc kỹ thuật của hệ thống pháp luật sở hữu bất động sản Việt Nam - một góc nhìn Pháp", Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 6/2007, Bài viết "So sánh các yếu tố luật pháp của thị trường bất động sản" của GS. Ulf JENSEN, Trường Đại học Tổng hợp Lund (Thụy Điển). Các bài viết và báo cáo nói
  14. 14 trên cho ta thấy những tương đồng trong chính sách và pháp luật giữa Việt Nam và một số nước có chung chế độ công hữu đất đai như Trung Quốc, những khác biệt trong chính sách của các nước về hình thức sử dụng đất; Dự án Strar-Vietnam: Cam kết WTO/BTA và vấn đề tranh chấp đất đai, nêu ra cơ chế giải quyết tranh chấp đất đai ở Singapore, nhiệm vụ mục tiêu của việc giải quyết tranh chấp đất đai, quy trình thu hồi đất, quy trình khiếu nại, cơ quan giải quyết tranh chấp đất đai ở Singapore và phiên xét xử cũng như kinh nghiệm của Quốc tế về giải pháp giảm thiểu tranh chấp đất đai. 1.1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu Qua tìm hiểu về tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài “Tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta” nghiên cứu sinh đưa ra một số nhận xét sau: - Các công trình có chung nhận xét: Từ nhiều năm nay, tình hình khiếu nại, tố cáo, tranh chấp đất đai của công dân diễn ra gay gắt, phức tạp ở hầu hết các địa phương trong cả nước, nhiều nơi đã trở thành điểm nóng. Do đó, đây là vấn đề đang được Đảng, Nhà nước và toàn xã hội quan tâm. Đứng trước tình hình như vậy, có khá nhiều các công trình nghiên cứu và bài viết liên quan đến vấn đề tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai nói chung dưới nhiều góc độ khác nhau với nhiều cách tiếp cận khác nhau. - Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, sự bất cập của hệ thống pháp luật về đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai làm cho việc giải quyết tranh chấp, khiếu nại của công dân còn nhiều hạn chế, áp dụng pháp luật không thống nhất gây ra nhiều tranh cãi, quan điểm của các nhà nghiên cứu nhiều khi không thống nhất. - Pháp luật về đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai thiếu tính ổn định, thường xuyên phải sửa đổi, bổ sung, văn bản hướng dẫn nhiều và có khi chồng chéo, mâu thuẫn nhau nên nhiều công trình vừa nghiên cứu, công bố thì một số kết quả nghiên cứu đã không còn tính thời sự nữa.
  15. 15 - Tuy có nhiều các công trình nghiên cứu và bài viết nhưng phần viết về tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án không nhiều, chỉ là một phần trong các công trình nghiên cứu đó. - Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai đã làm giàu thêm kiến thức lý luận và thực tiễn về vấn đề tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai. Tuy nhiên, vấn đề giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở Việt Nam chưa được nghiên cứu một cách tổng thể dưới góc độ nhìn từ thực tiễn qua công tác giải quyết tranh chấp đất đai của ngành tòa án nhân dân và đặc biệt là chưa có công trình nghiên cứu nào về vấn đề này ở cấp độ tiến sỹ. Hay nói cách khác, nhìn nhận một cách tổng quan thì các công trình, các bài viết nêu trên được tiếp cận, nghiên cứu, nhận định và đánh giá dưới nhiều khía cạnh và ở những mức độ khác nhau về những nội dung có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến pháp luật về tranh chấp đất đai và hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai. Tuy nhiên, khách quan mà thừa nhận rằng, từ cách tiếp cận hệ thống cho thấy, ở các công trình nghiên cứu vừa kể trên, mỗi tác giả, mỗi đề tài nghiên cứu mới chỉ tiếp cận vấn đề tranh chấp và hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai ở một góc độ, một quy định cụ thể nào đó của pháp luật thực định. Chẳng hạn, có những công trình chỉ nghiên cứu hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai thông qua con đường Tòa án, song lại chưa đề cập đến hoạt động này bằng con đường hành chính; chưa chú trọng và đánh giá cao vai trò của hoạt động hòa giải tranh chấp trong tiến trình này. Hoặc có những bài viết, những công trình nghiên cứu tiếp cận quyền sử dụng đất là quyền tài sản, trong đó quyền khiếu kiện các tranh chấp đất đai là quyền dân sự cần được pháp luật tôn trọng và được bảo vệ. Một vài công trình nghiên cứu khác nghiên cứu bản chất của tranh chấp đất đai thông qua việc phân biệt với khiếu nại, tố cáo Cho đến nay, chưa có bất kỳ công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai một cách toàn diện dưới góc độ lý luận và thực tiễn của vấn đề, các công trình nghiên cứu cũng chưa đặt nội dung nghiên cứu trong mối quan hệ giao thoa giữa các ngành luật. Đặc biệt, chưa có công trình nào nhận định
  16. 16 vấn đề từ khía cạnh thực tiễn thông qua việc điều tra, thu thập và tổng hợp số liệu ở các địa phương. Mặt khác, trong bối cảnh nền kinh tế - xã hội đang có những thay đổi liên tục và nhanh chóng thì các kết quả mà giới khoa học pháp lý nước ta đã đạt được vẫn cần tiếp tục được nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện. Vì vậy, Luận án tiến sỹ với đề tài “Tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta” là công trình được nghiên cứu ở cấp độ luận án tiến sỹ, trên cơ sở kế thừa và phát huy những kết quả cũng như thành công của các công trình nói trên. Theo đó, để có thể nghiên cứu một cách toàn diện cả về lý luận và thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật về tranh chấp đất đai nhằm đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác giải quyết tranh chấp đất đai; đề tài này tập trung nghiên cứu và giải quyết những vấn đề chính là: cơ chế, chính sách pháp luật giải quyết tranh chấp đất đai; đánh giá đúng thực trạng và những yếu tố ảnh hưởng đến giải quyết tranh chấp đất đai; trình tự, thủ tục và các quy định, quy trình giải quyết tranh chấp đất đai, để từ đó có thể đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và cơ chế áp dụng pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai bằng con đường tòa án, góp phần tháo gỡ một số vướng mắc hiện nay còn gặp phải trong quá trình giải quyết tranh chấp đất đai nói chung làm cho công tác giải quyết tranh chấp đất đai ngày càng có hiệu quả hơn, góp phần đem lại công bằng, ổn định xã hội. 1.2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu 1.2.1. Cơ sở lý thuyết Khi nghiên cứu đề tài về tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta, nghiên cứu sinh sử dụng một số cơ sở lý thuyết như: - Những quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; Chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về chế độ sở hữu đất đai ở nước ta, về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất, đảm bảo công bằng, ổn định xã hội. - Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam về chính sách đất đai, hoàn thiện hệ thống pháp luật về đất đai và những
  17. 17 lĩnh vực có liên quan sao cho đồng bộ, khách quan đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế. Đây là những quan điểm về Nhà nước mang tính chất chỉ đạo hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật về đất đai, tranh chấp và giải quyết tranh chấp đất đai ở Việt Nam trong tình hình hiện nay. - Đề tài tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta được nghiên cứu dưới góc độ các quy định của pháp luật về tranh chấp và giải quyết tranh chấp đất đai qua các thời kỳ để qua đó rút ra được những bất cập, thiếu sót của hệ thống pháp luật nhằm có giải pháp hoàn thiện, đảm bảo cho công tác giải quyết các tranh chấp đất đai trong cộng đồng dân cư ngày càng hiệu quả hơn. Luận án được triển khai với hàng loạt câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu như sau: (1) Về khía cạnh lý luận: + Câu hỏi nghiên cứu: Tranh chấp đất đai là gì? Giả thiết nghiên cứu: Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về tranh chấp đất đai. Theo khoản 26, Điều 4 Luật đất đai năm 2003 thì “Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai”. Đây là khái niệm có nội hàm rộng và chưa rõ ràng. Kết quả nghiên cứu: Làm rõ về mặt học thuật cũng như về mặt pháp lý của khái niệm tranh chấp đất đai. + Câu hỏi nghiên cứu: Đặc điểm của tranh chấp đất đai? Giả thiết nghiên cứu: Đất đai là một loại hàng hóa đặc biệt nên nó có những đặc điểm chung như những tranh chấp dân sự khác nhưng cũng có những đặc điểm riêng của nó. Kết quả nghiên cứu: Làm sáng tỏ các đặc điểm riêng có của tranh chấp đất đai. + Câu hỏi nghiên cứu: Hiện nay có những dạng tranh chấp đất đai nào? Giả thiết nghiên cứu: Tranh chấp đất đai xảy ra phổ biến trên cả nước và phát sinh dưới nhiều dạng khác nhau, có thể là tranh chấp về quyền sử dụng đất, tranh
  18. 18 chấp khác có liên quan đến quyền sử dụng đất, v.v Việc xác định quan hệ pháp luật nào là tranh chấp đất đai, quan hệ pháp luật nào là kiếu kiện hành chính trong lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai còn nhiều lúng túng làm cho việc xác định thẩm quyền giải quyết gặp nhiều khó khăn. Kết quả nghiên cứu: Nhận dạng và xác định được các dạng tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. + Câu hỏi nghiên cứu: Những nguyên nhân nào dẫn đến tranh chấp đất đai? Giả thiết nghiên cứu: Tranh chấp đất đai xảy ra ngày càng gay gắt và phức tạp đều do tác động của nhiều nguyên nhân khác nhau. Nó biểu hiện cụ thể những mâu thuẫn bất đồng về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể sử dụng đất với nhau. Kết quả nghiên cứu: Tìm ra những nguyên nhân dẫn đến tranh chấp đất đai, để làm cơ sở lý luận nhằm đưa ra những biện pháp giải quyết tranh chấp một cách thoả đáng, góp phần ngăn ngừa và hạn chế tới mức thấp nhất những tranh chấp đất đai có thể xảy ra. + Câu hỏi nghiên cứu: Tranh chấp đất đai có tác động như thế nào đến đời sống kinh tế - xã hội? Giả thiết nghiên cứu: đất đai là một loại tài sản đặc biệt, có vai trò vô cùng quan trọng đối với đời sống con người. Các tranh chấp đất đai hiện nay mang nội dung kinh tế cũng như có ý nghĩa chính trị, do đó khi tranh chấp đất đai xảy ra ngày càng nhiều và có tính gay gắt thì không thể không có tác động đáng kể đến đời sống kinh tế - xã hội. Kết quả nghiên cứu: Nêu lên và phân tích được những tác động của tranh chấp đất đai đối với đời sống kinh tế - xã hội. + Câu hỏi nghiên cứu: Giải quyết tranh chấp đất đai là gì? Tại sao phải giải quyết tranh chấp đất đai? Có bao nhiêu hình thức để giải quyết tranh chấp đất đai? Giả thiết nghiên cứu: Giải quyết tranh chấp đất đai là hoạt động của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhằm giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn của hai hay nhiều bên trong quan hệ đất đai trên cơ sở pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp. Nếu như việc phát sinh các tranh chấp là không thể
  19. 19 tránh khỏi thì việc giải quyết nó là vô cùng cần thiết. Qua việc giải quyết tranh chấp đất đai mà các quan hệ đất đai được điều chỉnh phù hợp với lợi ích của Nhà nước, lợi ích xã hội và của người sử dụng đất, mang lại sự ổn định trong nội bộ nhân dân, làm cho những quy định của luật đất đai cũng như những đường lối chính sách của Nhà nước được thực hiện một cách triệt để. Giải quyết tranh chấp đất đai có thể bằng hình thức hòa giải ở cơ sở, có thể bằng hình thức thông qua cơ quan hành chính hoặc bằng phán quyết của tòa án. Kết quả nghiên cứu: Làm sáng tỏ khái niệm giải quyết tranh chấp đất đai. Làm rõ tính cần thiết của việc giải quyết tranh chấp đất đai nói chung và các hình thức được vận dụng để giải quyết tranh chấp. + Câu hỏi nghiên cứu: Như thế nào là giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án? Giả thiết nghiên cứu: Giải quyết tranh chấp đất đai có thể thực hiện bằng phương thức hành chính tại UBND hoặc có thể được giải quyết bằng phương thức tòa án. Khi giải quyết tranh chấp đất đai bằng phương thức tòa án thì các thẩm phán chủ yếu phải vận dụng các quy định của pháp luật về đất đai và pháp luật về dân sự để xác định thẩm quyền và giải quyết. Kết quả nghiên cứu : Làm sáng tỏ khái niệm giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án. Làm rõ tính cần thiết của việc giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án và phân biệt được thẩm quyền của UBND và của tòa án. + Câu hỏi nghiên cứu: Quyền sử dụng đất là gì? Giả thiết nghiên cứu: Do đất đai là một loại tài sản đặc biệt, người có quyền sử dụng đất lại không có quyền sở hữu đối với đất đai do đó, hầu hết các tranh chấp đất đai hoặc là trực tiếp, hoặc là gián tiếp đều liên quan đến quyền sử dụng đất nhưng quyền sử dụng đất cụ thể là quyền gì, có phải là quyền sử dụng thông thường hay không thì vẫn còn nhiều tranh cãi. Kết quả nghiên cứu: Phân tích, làm rõ như thế nào là quyền sử dụng đất. Xác định quyền sử dụng đất là một quyền đặc biệt, khác với các quyền sử dụng thông thường khác, nhằm góp phần làm rõ khái niệm giải quyết tranh chấp đất đai.
  20. 20 + Câu hỏi nghiên cứu: Việc giải quyết tranh chấp đất đai bị chi phối bởi những yếu tố nào? Giả thiết nghiên cứu: Cũng như những tranh chấp thông thường khác, việc giải quyết tranh chấp đất đai sẽ bị chi phối bởi những yếu tố nhất định. Kết quả nghiên cứu: Nêu ra được những yếu tố chi phối việc giải quyết tranh chấp đất đai, thông qua đó có sự điều chỉnh thích hợp nhằm góp phần giải quyết ngày càng tốt hơn các tranh chấp đất đai phát sinh trong xã hội. (2) Về khía cạnh pháp luật thực định: + Câu hỏi nghiên cứu: Thế nào là pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai? Các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai trước khi có Luật đất đai năm 2003 và quy định của pháp luật hiện hành như thế nào? Giả thiết nghiên cứu: Nói đến pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai, thường thì người ta hiểu rằng đó là những văn bản pháp luật dân sự hoặc hành chính được áp dụng để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quá trình sử dụng đất đai. Ý thức được tầm quan trọng cũng như ý nghĩa của lãnh thổ, đất đai nên Nhà nước ta, qua từng thời kỳ lịch sử đều đã ban hành một hệ thống các văn bản pháp luật về việc giải quyết tranh chấp liên quan đến đất đai. Các văn bản này ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu giải quyết các tranh chấp đất đai nảy sinh trong các thời kỳ lịch sử để ổn định kinh tế, trật tự, an toàn xã hội. Tuy nhiên, hiện nay nhiều lúc, nhiều nơi hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai còn chưa mang lại hiệu quả như mong muốn là có một phần do hệ thống pháp luật còn chưa thống nhất, thiếu tính đồng bộ, chồng chéo lẫn nhau. Kết quả nghiên cứu: Thông qua việc so sánh, đối chiếu các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai qua các thời kỳ, tìm ra đặc điểm của pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai trong từng thời kỳ. + Câu hỏi nghiên cứu: Giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta có những nguyên tắc nào? Giả thiết nghiên cứu: Việc giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án phải tuân theo những nguyên tắc nhất định, nó được hiểu là hệ thống các quan điểm, tư tưởng
  21. 21 chỉ đạo có tác dụng định hướng trong suốt quá trình giải quyết tranh chấp đất đai của tòa án. Kết quả nghiên cứu: Nêu ra được những nguyên tắc cần phải tuân thủ trong quá trình giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án. + Câu hỏi nghiên cứu: Pháp luật có quy định như thế nào về thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai? Giả thiết nghiên cứu: Tranh chấp đất đai cũng là một trong những tranh chấp dân sự. Do đó, khi tòa án thụ lý giải quyết phải xác định chính xác thẩm quyền và phải tuân theo những trình tự, thủ tục tố tụng nhất định. Kết quả nghiên cứu: Phân biệt được thẩm quyền giữa UBND và tòa án, xác định loại tranh chấp nào thì thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án nhân dân. Nêu ra và phân tích được những quy định về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai tại tòa án giúp cho việc áp dụng pháp luật vào việc giải quyết tranh chấp đất đai chính xác, hiệu quả. + Câu hỏi nghiên cứu: Thực tiễn công tác giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án những năm gần đây như thế nào? Khi áp dụng pháp luật vào giải quyết tranh chấp đất đai thì có những vướng mắc gì? Giả thiết nghiên cứu: Hàng năm, ngành tòa án nhân dân giải quyết hàng ngàn vụ tranh chấp đất đai hoặc các tranh chấp khác có liên quan đến đất đai nhưng nhiều khi hiệu quả không cao, thiếu tính thống nhất, có tình trạng hiểu và sử dụng pháp luật không thống nhất, khi áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp đất đai thì phát sinh nhiều vướng mắc. Cùng một dạng tranh chấp nhưng ở những địa phương khác nhau và các cấp tòa án khác nhau thì có cách giải quyết khác nhau, áp dụng pháp luật khác nhau. Kết quả nghiên cứu: Thông qua thực tiễn giải quyết một số vụ án tranh chấp đất đai để so sánh, phân tích, nhận xét và từ đó nêu ra được những bất cập, vướng mắc khi áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án. (3) Đề xuất, kiến nghị:
  22. 22 Câu hỏi nghiên cứu: Với những bất cập, vướng mắc đã nghiên cứu được thì cần phải có giải pháp gì để hoàn thiện pháp luật? Giả thuyết nghiên cứu: Hiện nay, ở Việt Nam việc áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp đất đai còn nhiều vướng mắc nhưng chưa có công trình nghiên cứu nào đưa ra được các giải pháp một cách cụ thể, toàn diện, đầy đủ và hợp lý để khắc phục những hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành. Kết quả nghiên cứu: Đề xuất được một số giải pháp tích cực cho việc hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai, nhìn từ góc độ áp dụng pháp luật; kiến nghị hướng dẫn việc thi hành pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai ở một số lĩnh vực cụ thể nhằm tháo gỡ vướng mắc, đảm bảo tính minh bạch của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất, góp phần ổn định xã hội, giữ gìn thuần phong, mỹ tục của dân tộc, đáp ứng nhu cầu hội nhập hiện nay. 1.2.2. Phương pháp nghiên cứu Để làm rõ các vấn đề nghiên cứu, luận án được xử lý trên cơ sở phương pháp luận là Chủ nghĩa duy vậy biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đây là phương pháp luận khoa học được vận dụng nghiên cứu trong toàn bộ luận án để đánh giá khách quan về hệ thống pháp luật thực định trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp đất đai và thực tiễn áp dụng pháp luật vào giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta. Theo đó, luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn; phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp hệ thống; phương pháp luật học so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp lịch sử cụ thể Cụ thể: - Phương pháp thống kê: Phương pháp này được tác giả sử dụng chủ yếu ở chương 1 và chương 4 để đưa ra đánh giá về tình hình nghiên cứu của luận án và thực tiễn giải quyết các vụ án tranh chấp đất đai của ngành tòa án. - Phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn: Phương pháp này được sử dụng trong tất cả các chương của luận án. Cụ thể, tác giả sử dụng lý luận về tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai để phân tích, đánh giá về pháp luật thực định
  23. 23 và thực tiễn các hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai nói chung và giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta; từ đó, khái quát lên thành những vấn đề có tính lý luận về tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án (Chương 2, Chương 3); kết hợp lý luận và thực tiễn làm cơ sở đề xuất các phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai ở nước ta hiện nay (Chương 4) - Phương pháp phân tích và tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng trong tất cả các chương của luận án. Cụ thể là được sử dụng để phân tích các quy phạm pháp luật, đi sâu vào tìm tòi, trình bày, các quan điểm, nhận xét về vấn đề tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai, các quy định và thực tiễn của công tác giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án; khái quát lại để phân tích, rút ra những cái thuộc về bản chất của các hiện tượng, các quan điểm, quy định và hoạt động thực tiễn này (Chương 2, Chương 3); từ đó rút ra các đánh giá, kết luận và kiến nghị phù hợp nhằm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai ở nước ta (Chương 4). - Phương pháp hệ thống được sử dụng xuyên suốt toàn bộ luận án nhằm trình bày các vấn đề, các nội dung trong luận án theo một trình tự, một bố cục hợp lý, chặt chẽ, có sự gắn kết, kế thừa, phát triển các vấn đề, các nội dung để đạt được mục đích, yêu cầu đã được xác định cho luận án. - Phương pháp so sánh: Phương pháp này chủ yếu được sử dụng tại Chương 2 của luận án. Cụ thể là được vận dụng trong việc so sánh các quy định của pháp luật qua các thời kỳ lịch sử khác nhau. Ngoài ra, tác giả cũng sử dụng phương pháp này để tham khảo pháp luật về đất đai và quy trình, thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai ở Trung Quốc và Singapore; rút ra những điểm chung, những khác biệt về quy định của pháp luật trong lĩnh vực này. 1.2.3. Về hướng tiếp cận của đề tài + Luận án sẽ kế thừa (có chọn lọc, phân tích và bình luận) các kết quả nghiên cứu đã được công bố trước đề tài này trên cơ sở tập hợp, hệ thống ở mức đầy đủ
  24. 24 nhất có thể đối với các công trình khoa học có liên quan đến tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta hiện nay. + Bên cạnh việc nghiên cứu trực tiếp các quy định về giải quyết tranh chấp đất đai, luận án sẽ tập trung ưu tiên hướng nghiên cứu vào thực tiễn công tác giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta thời gian khoảng 7 năm trở lại đây, đánh giá những thuận lợi, khó khăn, vướng mắc cùng với những ưu điểm, hạn chế trong hoạt động này để rút ra các kiến nghị nhằm hạn chế tối đa các khó khăn, vướng mắc. + Trên cơ sở phương hướng đề ra, luận án đưa ra các giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai hiện nay ở nước ta nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai, giúp cho công tác giải quyết tranh chấp đất đai của ngành tòa án ngày càng có hiệu quả hơn, đảm bảo tính công bằng xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người sử dụng đất. Kết luận chương 1 1. Phân tích, đánh giá các công trình đã được các tác giả khác nghiên cứu, có liên quan đến đề tài để xác định được các công trình khoa học trước đây đã giải quyết được những nội dung gì liên quan đến đề tài tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta. Trên cơ sở đó, kế thừa, phát huy và tìm ra những vấn đề mà đề tài cần nghiên cứu, góp phần hoàn thiện pháp luật và hướng dẫn áp dụng pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai một cách thống nhất đáp ứng được xu thế phát triển và hội nhập hiện nay. 2. Qua các nội dung đã trình bày cho thấy, pháp luật tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai là vấn đề đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Các công trình nghiên cứu đã góp phần hoàn thiện pháp luật về đất đai và về giải quyết tranh chấp đất đai. Tuy nhiên, vấn đề giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở Việt Nam chưa được nghiên cứu một cách tổng thể dưới góc độ nhìn từ thực tiễn áp dụng pháp luật qua công tác giải quyết tranh chấp đất đai của ngành tòa án nhân dân và đặc biệt là chưa có công trình nghiên cứu nào về vấn đề này ở cấp độ tiến sỹ.
  25. 25 3. Để đạt được mục đích nghiên cứu của luận án thì tác giả dựa trên cơ sở lý thuyết về tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai kết hợp với đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật để triển khai nghiên cứu, sử dụng, kết hợp linh hoạt các phương pháp nghiên cứu phù hợp với từng chương, từng mục của luận án.
  26. 26 CHƯƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI Ở VIỆT NAM Đới với mỗi quốc gia, đất đai là hiện thân của chủ quyền, của lãnh thổ, là nguồn tài nguyên quý giá và trở thành nguồn nội lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội, an ninh và quốc phòng. Đối với mỗi người dân, vượt xa hơn ý nghĩa đất đai là nơi ăn, chốn ở, nguồn sống, nguồn việc làm, là tư liệu sản xuất không gì thay thế được trong sản xuất nông, lâm nghiệp, là tư liệu lao động chung trong các ngành sản xuất khác thì ở khía cạnh kinh tế, đất đai đối với mỗi người dân đã và đang trở thành một phương thức tích lũy của cải lâu dài và vững chắc nhất. Chúng không chỉ phục vụ cho các mục đích hiện hữu do nhu cầu của đời sống hàng ngày và cho các nhu yếu khác nhau của mỗi người, mà chúng đã trở trở thành loại tài sản đặc biệt, hàng hóa đặc biệt trao đổi, lưu thông trên thị trường dưới sự tác động mạnh mẽ của các quy luật của thị trường. Xã hội ngày càng phát triển, theo đó, các quan hệ đất đai cũng ngày càng được thiết lập đa dạng và phong phú hơn cả bề rộng lẫn chiều sâu. Đặc biệt, với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thị trường, các quan hệ đất đai cũng ngày càng lan rộng nhanh chóng ở phạm vi quy mô cũng như độ phức tạp của nó. Kéo theo đó, các tranh chấp, mâu thuẫn, bất đồng của các chủ thể tham gia quan hệ cũng phát sinh và phát triển theo chiều hướng đa dạng và phức tạp về tính chất, mức độ và ngày càng phổ biến hơn. Dẫu vẫn hiểu và ý thức được rằng, tranh chấp đất đai là hiện tượng xuất hiện bình thường trong đời sống xã hội, ở mọi thời kỳ lịch sử và chúng cũng tồn tại ở bất kỳ chế độ sở hữu nào, song điều không thể phủ nhận được rằng, ở mỗi quốc gia khác nhau, với chế độ chính trị khác nhau, đặc biệt là với chế độ sở hữu về đất đai khác nhau thì tính chất, đặc điểm của tranh chấp đất đai xảy ra cũng có đặc điểm không giống nhau, và điều quan trọng hơn là sự chi phối của chủ thể sở hữu đối với việc giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn, bất đồng về tranh chấp cũng hết sức khác nhau.
  27. 27 Với nhận thức nêu trên, việc nghiên cứu bản chất của quyền sử dụng đất trong bối cảnh đất đai ở Việt Nam thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc nghiên cứu tính đặc thù của tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai bằng con đường Tòa án ở Việt Nam hiện nay. 2.1. Các khái niệm: Quyền sử dụng đất, tranh chấp đất đai 2.1.1. Khái niệm quyền sử dụng đất Đất đai là một bộ phận không thể tách rời với lãnh thổ quốc gia. Ngoài ý nghĩa là cơ sở vật chất thì lãnh thổ còn có ý nghĩa đối với việc tồn tại và duy trì một ranh giới quyền lực nhà nước trong một cộng đồng dân cư nhất định. Không chỉ có vậy, đối với con người, nếu được khai thác, sử dụng hợp lý, đất đai là một tài nguyên vô tận, trở thành một loại tư liệu sản xuất có giới hạn về không gian, diện tích nhưng vô hạn về thời gian sử dụng và khả năng sinh lời. Chính bởi vậy, nhằm đảm bảo cho việc quản lí và khai thác tối đa các lợi ích mà đất đai mang lại cho con người, pháp luật của nước ta cũng có những quy định chặt chẽ về quyền sử dụng đất của cá nhân, tổ chức, hộ gia đình nhằm xác lập cho những người trực tiếp sử dụng đất những quyền và lợi ích nhất định, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho người sử dụng đất phát huy năng lực tự chủ trong quá trình sử dụng đất. Cụ thể: Hiến pháp 1992 tại Điều 17 của nước ta quy định: “Nhà nước thống nhất quản lý tòan bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài. Tổ chức và cá nhân có trách nhiệm bảo vệ, bồi bổ, khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm đất, được chuyển quyền sử dụng đất được Nhà nước giao đất theo quy định của pháp luật” Hiện thực hóa quy định của đạo luật gốc, Luật Đất đai 2003 tại Điều 5 khẳng định rõ hơn quyền sở hữu đất đai. Theo đó, khoản 1 Điều 5 Luật này khẳng định: Toàn bộ đất đai trong phạm vi cả nước thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu. Cùng với đó, với vai trò chủ sở hữu đại diện, Nhà nước có quyền
  28. 28 định đoạt đất đai thông qua hàng loạt các quyền như: quyền quyết định mục đích, thời hạn, hạn mức sử dụng đất; quyền phân bổ đất đai thông qua các hoạt động giao đất cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất; thực hiện quản lí nhà nước ở cả phương diện hành chính và kinh tế thông qua việc điều tiết các nghĩa vụ tài chính đối với người sử dụng đất, điều tiết các thu nhập đối với người sử dụng đất và thực hiện quyền giải quyết các tranh chấp, bất đồng, các khiếu nại, tố cáo về đất đai. Với các quy định cụ thể nêu trên của pháp luật hiện hành cho thấy, quyền sử dụng đất trong trường hợp này là một trong ba quyền năng của quyền sở hữu đó là: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt đất đai theo cách tiếp cận truyền thống từ Cổ luật La Mã về quyền sở hữu tài sản. Theo đó, khi một tài sản được xác định thuộc quyền sở hữu của ai thì người đó có quyền được chi phối đối với tài sản đó theo cách riêng của mình để thỏa mãn cho nhu cầu của họ. Việc tiến hành khai thác, sử dụng tài sản nhằm để hưởng thụ những giá trị do tài sản đó mang lại là một trong những cách thức chi phối của người có quyền sở hữu tài sản, miễn sao quá trình thực hiện quyền sử dụng tài sản phục vụ cho lợi ích của mình phải không được vượt ra khỏi phạm vi pháp luật quy định. Với ý nghĩa đó, quyền sử dụng tài sản là một trong nhữung cách thức thực hiện quyền sở hữu tài sản. Pháp luật Việt Nam cũng tiếp cận quyền sở hữu tài sản từ quan điểm gốc rễ này. Cụ thể, Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005 cũng đã ra khái niệm về quyền sở hữu: “Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật”. Từ cơ sở pháp lý nền tảng nêu trên hoàn toàn cho phép chúng ta có cách tiếp cận đối với quyền sở hữu, quyền sử dụng của những tài sản cụ thể (trong đó có tài sản là đất đai) một cách tương tự. Theo đó, người có quyền sở hữu đối với tài sản là đất đai cũng có ba quyền năng quan trọng: quyền chiếm hữu đất đai, quyền sử dụng đất đai và quyền định đoạt đất đai. Trong các quyền năng cơ bản nêu trên của chủ sở hữu đối với đất đai thì quyền có vai trò quan trọng và ý nghĩa quyết định trong việc chuyển hóa đất đai từ một tài sản tự nhiên thuần túy và ở dạng “tiềm năng”, “nguyên thủy” trở thành tài sản có giá trị và giá trị sử dụng cụ thể để đáp ứng cho nhu cầu của con người và sự phát triển của
  29. 29 xã hội, quyền có vai trò thực hiện hóa ý đồ của chủ sở hữu đất đai, làm cho đất đai có giá trị về mặt kinh tế đó là quyền sử dụng đất. Khi xem xét và tiếp cận quyền sử dụng đất trong mối quan hệ với quyền sở hữu đất đai cho chúng ta thấy, quyền sử dụng đất gắn liền với quyền sở hữu và bị chi phối bởi quyền sở hữu đối với đất đai. Ở các nước duy trì chế độ sở hữu tư nhân về đất đai thì quyền sử dụng đất là một quyền năng của quyền sở hữu và không tách rời quyền sở hữu. Người có quyền sử dụng đất cũng đồng thời là người có quyền sở hữu chính mảnh đất đó. Trong quá trình sử dụng đất và thực hiện các quyền đối với đất, họ cũng đồng thời là người có quyền quyết định số phận pháp lý đối với mảnh đất thuộc quyền sở hữu của mình. Khác với các nước thực hiện quyền sở hữu tư nhân đối với đất đai nêu trên, ở các nước duy trì chế độ sở hữu Nhà nước hay chế độ sở hữu toàn dân mà Nhà nước là đại diện chủ sở hữu thì quyền sử dụng đất được tiếp cận có phần khác biệt hơn. Theo đó, quyền sử dụng đất vừa mang tính phụ thuộc vào quyền sở hữu đất đai của Nhà nước, được phát sinh trên cơ sở quyền sở hữu của Nhà nước và cũng bị chi phối bởi quyền sở hữu Nhà nước đối với đất đai. Các quyền sử dụng đất của mỗi tổ chức, cá nhân có được xác lập hay không là phụ thuộc vào quyền sở hữu đất đai của Nhà nước, được phát sinh trên cơ sở quyền sở hữu của Nhà nước và cũng bị chi phối bởi quyền sở hữu Nhà nước đối với đất đai. Các quyền sử dụng đất của mỗi tổ chức, cá nhân có được xác lập hay không là dựa trên cơ sở sự chuyển giao hoặc cho phép của Nhà nước mới có được. Tuy nhiên, trong quá trình khai thác và sử dụng đất ấy, quyền sử dụng đất của mỗi chủ thể lại mang tính độc lập tương đối, chúng được thoát ly ra khỏi quyền sở hữu và trở thành một chế định độc lập trong quan hệ với Nhà nước và chủ thể khác, người có quyền sử dụng đất được Nhà nước xác lập có quyền chủ động khai thác và sử dụng cho các nhu cầu và mục đích khác nhau. Bằng các quy định về quyền sở hữu đất đai ghi nhận tại Điều 17 Hiến pháp 1992 và Điều 5 Luật đất đai năm 2003), Nhà nước đã trao quyền sử dụng đất cho các tổ chức và cá nhân thông qua các hình thức nhận giao đất không thu tiền, giao đất có thu tiền, cho thuê đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất và họ trở thành
  30. 30 người có quyền sử dụng đất chứ không phải người có quyền sở hữu đất đai. Khi chuyển giao đất cho người sử dụng đất, tùy thuộc vào các hình thức sử dụng đất khác nhau mà Nhà nước cho phép các chủ thể sử dụng đất khác nhau được hưởng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước. Theo từ điển giải thích Luật học thì : “Quyền sử dụng đất của Nhà nước là quyền khai thác các thuộc tính có ích từ đất để phục vụ cho các mục đích phát triển kinh tế và đời sống xã hội. Nhà nước thực hiện quyền sử dụng đất một cách gián tiếp thông qua việc giao đất cho các tổ chức, cá nhân sử dụng. Các tổ chức, cá nhân này khi sử dụng có nghĩa vụ đóng góp vật chất cho Nhà nước dưới dạng thuế sử dụng đất, tiền sử dụng đất” [93, tr.59]. Theo định nghĩa này thì quyền sử dụng đất của Nhà nước không được thực hiện trực tiếp bởi Nhà nước mà gián tiếp thực hiện qua chủ thể là người sử dụng đất, là người được Nhà nước cho phép sử dụng đất thông qua các hình thức pháp lý khác nhau và trao cho họ những quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể trong quá trình khai thác quyền sử dụng đất. Và như vậy, những giá trị và khả năng sinh lợi của đất, những thuộc tính có ích trên từng mảnh đất và ở phạm vi toàn bộ đất đai của quốc gia có được khai thác và sử dụng có hiệu quả hay không là tùy thuộc vào Người sử dụng đất – người trực tiếp thực hiện quyền sử dụng đất theo ý đồ của Nhà nước. Tuy nhiên, không phải bất kỳ chủ thể nào cũng có thể trở thành chủ thể sử dụng đất, cũng đương nhiên có quyền sử dụng đất, mà quyền đó phụ thuộc vào sự cho phép của Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu. Đến đây có thể thấy rằng quyền sử dụng đất vừa mang tính phụ thuộc (nếu xem xét chúng với ý nghĩa một trong ba quyền năng của chủ sở hữu) và vừa mang tính độc lập (nếu xem xét chúng với ý nghĩa là quyền khai thác trực tiếp các giá trị của đất của từng chủ thể sử dụng đất cụ thể). Tuy không đồng nhất giữa quyền sở hữu đất đai và quyền sử dụng đất nhưng quyền sở hữu đất đai được chủ sở hữu đất đai chuyển giao cho người sử dụng đất thực hiện và trở thành một loại quyền tài sản thuộc về người sử dụng đất [92, tr.82-83]. Về điểm này, PGS.TS. Phạm Duy Nghĩa cho rằng: “Phải thừa nhận quyền sử dụng đất của cá nhân và tổ chức là quyền tài sản tư, cần được Nhà nước tôn trọng và bảo hộ. Điều đó không có nghĩa là phải thay đổi sở hữu về đất đai. Sáng tạo ra khái
  31. 31 niệm quyền sử dụng đất cả người Việt Nam và người Trung Quốc dường như đã tạo ra một khái niệm sở hữu kép, một khái niệm sở hữu đa tầng: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, song quyền sử dụng đất lại thuộc về cá nhân hoặc tổ chức” [32, tr.64]. Như vậy, chủ thể thực hiện QSDĐ với tư cách là chủ thể sử dụng đất chứ không phải với tư cách chủ sở hữu. Với tư cách là người đại diện chủ sở hữu, Nhà nước thống nhất quản lí đất đai thông qua các quyền năng được pháp luật ghi nhận và đảm bảo thực hiện, đó là: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt. Tuy nhiên, không phải tự bản thân nhà nước trực tiếp chiếm hữu, sử dụng đất đai để khai thác những thuộc tính vốn có của đất mà Nhà nước giao cho NSDĐ sử dụng tức là giao cho NSDĐ một trong 3 quyền năng của mình đó là QSDĐ. Nắm trong tay QSDĐ diện tích đất mà nhà nước giao cho, bên cạnh QSDĐ ổn định, lâu dài, NSDĐ còn được thực hiện các giao dịch QSDĐ của mình như chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, góp vốn, bằng giá trị QSDĐ nhằm đảm bảo quyền lợi thiết thực cho mình . Để đảm bảo các quyền trên của NSDĐ được thực hiện trên thực tế, pháp luật nước ta cũng xác lập tiền đề và điều kiện để QSDĐ của mỗi người dân được đảm bảo. Từ đây, chế định về QSDĐ được hình thành. Từ những phân tích trên ta có khái niệm: Quyền sử dụng đất là chỉ những khả năng của một chủ thể được thực hiện hoặc được hưởng những quyền nhất định khi khai thác và sử dụng đất để phục vụ cho các nhu cầu khác nhau của đời sống xã hội. Những quyền đó được pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện trên thực tế. Từ khái niệm trên ta có thể thấy chế định QSDĐ có những đặc trưng sau: Thứ nhất, chế định QSDĐ phát sinh trên cơ sở chế độ sở hữu đất đai. Ở Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu tòan dân do Nhà nước làm đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lí. Với tư cách là đại diện chủ sở hữu, nhà nước có quyền định đoạt tòan bộ vốn đất đai trên phạm vi cả nước. Nhà nước có quyền năng của một sở hữu chủ đối với tài sản là đất đai tuy nhiên riêng QSDĐ nhà nước lại giao cho các cá nhân, hộ gia đình sử dụng. Như vậy, QSDĐ được chuyển giao từ chủ sở hữu tòan dân sang người đại diện là Nhà nước và từ đó người đại diện giao QSDĐ cho các cá
  32. 32 nhân, hộ gia đình, tổ chức. Trong quá trình sử dụng diện tích đất mà nhà nước giao cho, NSDĐ được phép thực hiện các quyền trong phạm vi luật định. Thứ hai, quyền sử dụng đất của NSDĐ mang tính phụ thuộc vào Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu. Vì quyền sử dụng đất của người sử dụng có được từ Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu đại diện nên trong quá trình sử dụng đất, nhà nước có quyền đặt ra những yêu cầu và điều kiện mà NSDĐ phải tuân theo. Với tài sản thông thường, chủ thể có quyền sử dụng tài sản sẽ đồng thời có quyền chiếm hữu và định đoạt tài sản đó theo ý chí của mình miễn là việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đó không gây thiệt hại và làm ảnh hưởng tới lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Tuy nhiên, đối với tài sản là QSDĐ, do đây là một loại tài sản đặc biệt với đại diện chủ sở hữu là Nhà nước, NSDĐ chỉ được chuyển giao QSDĐ chứ không phải tòan bộ quyền năng của một chủ sở hữu cho nên Nhà nước có quyền đưa ra những điều kiện và yêu cầu đối với NSDĐ để đảm bảo cho QSDĐ thực sự phát huy giá trị của nó. Đến đây có thể nhận thấy rằng, quyền sử dụng đất của NSDĐ mang tính phụ thuộc vào Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu đại diện. Nếu như quyền sử dụng đất của Nhà nước mang tính gián tiếp và trừu tượng thì ngược lại, quyền sử dụng đất của người sử dụng lại mang tính trực tiếp và cụ thể [92, tr.92- 96]. Thứ ba, quyền sử dụng đất của NSDĐ mang tính độc lập tương đối với quyền sở hữu đại diện của Nhà nước về đất đai. Điều 181 BLDS 2005 quy định: “quyền tài sản là quyền giá trị được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ”. Như vậy, là một quyền tài sản, QSDĐ có thể là đối tượng của nhiều giao dịch dân sự như chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, cầm cố, Những quyền này tạo điều kiện cho NSDĐ phát huy tính năng động, tự chủ trong quá trình sử dụng đất. Những quy định này cũng đảm bảo cho người có QSDĐ có điều kiện khai thác tốt tiềm năng đất đai, đẩy nhanh quá trình tích tụ, tập trung đất đai vào tay những người có khả năng kinh doanh, sản xuất từ đó góp phần cơ cấu lại nền kinh tế nông thôn, thúc đẩy
  33. 33 quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, điều tiết thị trường đúng với chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Tiếp cận theo hướng này, đã có nhiều quan điểm đồng tình, theo đó, quyền sử dụng đất được coi là một loại hàng hóa đặc biệt: “Quyền sử dụng đất hiện nay được quan niệm là loại hàng hóa đặc biệt, được lưu chuyển đặc biệt trong khuôn khổ các quy định của pháp luật” [92, tr.24]. Quyền sử dụng đất là một loại quyền dân sự đặc thù vì: Quyền sử dụng đất là quyền về tài sản mà nó gắn liền với một loại tài sản đặc biệt là đất đai; Phạm vi chủ thể tham gia bị hạn chế; Hình thức, thủ tục thực hiện các quyền năng của người sử dụng đất được pháp luật quy định chặt chẽ [Xem thêm: 35]. Từ các phân tích và nhận định nêu trên cho thấy rằng quyền sử dụng đất dù được chế định với ý nghĩa là một trong các quyền cơ bản của quyền sở hữu đất đai hay quyền sử dụng đất được chế định với ý nghĩa là một quyền độc lập của người sử dụng đất thì suy cho cùng, quyền sử dụng đất ở Việt Nam cũng được phát sinh trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân về đất đai. Sự đa dạng về nội dung quyền sử dụng đất là phụ thuộc chủ yếu vào chế độ sở hữu. Xét cho cùng, quyền sử dụng đất là quyền phái sinh, quyền thứ hai, quyền phụ thuộc vào ý chí của chủ sở hữu đất đai. Điều này cũng minh chứng rõ vì sao, khi nghiên cứu các chế định cụ thể về quyền sử dụng đất của người sử dụng đất, các quyền của người sử dụng đất luôn thể hiện mối quan hệ gắn bó mật thiết, bị chi phối, ràng buộc chặt chẽ với quyền sở hữu; theo đó, Nhà nước với vai trò chủ sở hữu đại diện của mình luôn thể hiện sự định hướng, quản lý, kiểm soát và thậm chí là thể hiện sự can thiệp sâu vao trò của mình đối với các chủ thể khi thực hiện quyền sử dụng đất. Có thể khẳng định rằng, nghiên cứu bản chất của QSDĐ nói chung và bản chất của QSDĐ trong các giao dịch dân sự và thương mại nói riêng có ý nghĩa thiết thực trong việc luận giải sâu sắc hơn ở cả phương diện lý luận và thực tiễn về tranh chấp đất đai. Cụ thể, QSDĐ với ý nghĩa là một quyền phái sinh trên cơ sở quyền sở hữu đại diện của Nhà nước về đất đai cho phép chúng ta nhận định được mức độ can thiệp và sự chi phối của Nhà nước với vai trò là chủ sở hữu đại diện trong quan hệ tranh chấp đất đai và tính đặc thù trong việc giải quyết tranh chấp đất đai nói chung và giải
  34. 34 quyết tranh chấp đất đai bằng Tòa án nói riêng. Theo đó, có những tranh chấp, mâu thuẫn, bất đồng của các chủ thể tham gia quan hệ đất đai, đặc biệt là những tranh chấp gắn chặt với yếu tố lịch sử, tranh chấp mà tính chất và sự ảnh hưởng của chúng có tính chất lan tỏa ở phạm vi diện rộng, tác động lớn đến đời sống kinh tế, chính trị, xã hội thì khi Tòa án giải quyết, một mặt tuân thủ các quy định của pháp luật để giải quyết, song mặt khác, phải đặt chúng trong mối quan hệ giữa hiện tại với lịch sử, giữa tính chất của tranh chấp với tình hình chính trị xã hội để có những phán quyết vừa minh bạch, khách quan, vừa hài hòa giữa pháp luật, đạo lí và tình người, góp phần ổn định đời sống, tinh thần cho người dân, gắn với trật tự, an toàn xã hội. Đây chính là sự chi phối của ý chí Nhà nước với vai trò là chủ sở hữu đại diện được hiện thực hóa bởi quyền hạn và nhiệm vụ của những người "cầm cân nảy mực" đó là cán bộ Thẩm phán khi thực hiện hoạt động xét xử. Mặt khác, nghiên cứu QSDĐ với ý nghĩa là một loại tài sản cho phép chúng ta thấy được nhu cầu và đòi hỏi khách quan từ hệ thống pháp luật về sự cần thiết phải ghi nhận QSDĐ vận hành một cách bình thường như các tài sản khác trong nền kinh tế thị trường. Theo đó, Nhà nước với vai trò “kiến tạo” tạo sân chơi pháp lý bình đẳng và an toàn cho các chủ thể khi tham gia vào quan hệ đất đai cÇn ph¶i cã nh÷ng thiÕt chÕ thuËn lîi, th«ng tho¸ng, an toµn vµ cã hiÖu qu¶ cho c¸c bªn tham gia quan hÖ đất đai. Và một khi QSDĐ được pháp luật xác lập đầy đủ cơ sở pháp lý, người có QSDĐ có đủ tư cách trở thành chủ thể trong các quan hệ đất đai thì bất kỳ một ngoại lệ nào nhằm can thiệp sâu vào quá trình xác lập, thực hiện các quan hệ đó đều là sự can thiệp không cần thiết và là những rào cản cần phải được xoá bỏ. Quán triệt được tinh thần này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc định hướng cho các cán bộ Tòa án, đặc biệt là Thẩm phán khi xét xử các tranh chấp đất đai, đặc biệt là các tranh chấp về hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất trên cơ sở tôn trọng các thỏa thuận, các cam kết và quyền tự do Hợp đồng là cái gốc để định hướng giải quyết vụ việc. Tránh tình trạng "Hình sự hóa các quan hệ dân sự". 2.1.2. Khái niệm tranh chấp đất đai
  35. 35 Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử với những chính sách pháp luật đất đai khác nhau, cho dù đất đai là tài sản thuộc sở hữu tư nhân, hay chỉ được giao quyền sử dụng cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thì ở nước ta, hiện tượng TCĐĐ vẫn xảy ra phổ biến, diễn biến phức tạp, ảnh hưởng xấu đến công tác quản lý nhà nước về đất đai nói chung và việc sử dụng đất nói riêng, gây ra nhiều bất ổn nhất định đối với đời sống kinh tế - xã hội. Nhà nước phải ban hành nhiều quy định pháp luật để giải quyết vấn đề trên. Vậy TCĐĐ là gì? Khái niệm này tưởng chừng đơn giản nhưng nhưng lại có nhiều ý nghĩa trong việc phân định thẩm quyền, xác định nội dung cần giải quyết đối với các TCĐĐ Theo giải thích của Từ điển tiếng Việt thì tranh chấp nói chung được hiểu là việc “Giành nhau một cách giằng co cái không rõ thuộc về bên nào” [96, tr. 989]. Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng: “Tranh chấp: 1. Giành giật, giằng co nhau cái không rõ thuộc về bên nào. 2. Bất đồng, trái ngược nhau” [102, tr.808]. Trong đời sống xã hội có nhiều loại tranh chấp khác nhau, tùy theo loại tranh chấp mà có các khái niệm khác nhau như: Tranh chấp dân sự có thể hiểu là những mâu thuẫn, bất hoà về quyền và nghĩa vụ hợp pháp giữa các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự. Tranh chấp kinh doanh là những mâu thuẫn, bất đồng, xung đột giữa những chủ thể kinh doanh với nhau trong các hoạt động kinh doanh Tiếp cận ở góc độ pháp lý thì tranh chấp hợp đồng được hiểu là những xung đột, bất đồng, mâu thuẫn giữa các bên về việc thực hiện hoặc không thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng [Xem 93]. Vậy, tranh chấp đất đai là gì? Có thể khẳng định rằng, Trước khi Luật Đất đai 2003 ra đời, thuật ngữ “TCĐĐ” chưa được chính thức giải thích, mà chủ yếu là chỉ được “hiểu ngầm” qua các quy định của pháp luật về giải quyết TCĐĐ, quy định về giải quyết các tranh chấp khác có liên quan đến quyền sử dụng đất. Lần đầu tiên tại khoản 26 Điều 4 của Luật Đất đai 2003 đã định nghĩa “TCĐĐ là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai”. Tuy nhiên, quy định trên đã lấy một thuật ngữ đang cần làm rõ nội hàm là cụm từ “tranh chấp” để định nghĩa cho
  36. 36 một khái niệm có nội hàm tương tự “TCĐĐ”. Việc định nghĩa như vậy chưa thể hiện được tính khoa học cao. Theo khái niệm này, đối tượng tranh chấp trong TCĐĐ là quyền và nghĩa vụ của NSDĐ. Nhưng, đây là tranh chấp tổng thể các quyền và nghĩa vụ hay chỉ là tranh chấp từng quyền và nghĩa vụ “đơn lẻ” của NSDĐ do pháp luật đất đai quy định, hay bao gồm cả tranh chấp những quyền và nghĩa vụ mà NSDĐ có được khi tham gia vào các quan hệ pháp luật khác cho đến nay vẫn chưa được chính thức xác định. Bên cạnh đó, chủ thể tranh chấp vốn được gọi là “hai hay nhiều bên” cũng không được xác định rõ ràng: chỉ bao gồm NSDĐ hay là tất cả các chủ thể có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của NSDĐ trong quan hệ TCĐĐ? Chính sự chung chung này đã khiến cho nội dung của TCĐĐ nhiều lúc được mở rộng tối đa ở mức độ có thể. Các nhà khoa học pháp lý đã đưa ra định nghĩa về TCĐĐ như sau: “TCĐĐ là sự bất đồng, mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai” [92, tr.455]. Theo quan điểm này thì TCĐĐ là một khái niệm có nội hàm tương đối rộng, trong đó: các chủ thể tham gia quan hệ tranh chấp là các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật đất đai bao gồm Nhà nước và người sử dụng đất; đối tượng của TCĐĐ là tất cả những xung đột về lợi ích, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể là Nhà nước và người sử dụng đất. Dẫn chiếu tới quy định của Luật Đất đai năm 2003 về giải quyết TCĐĐ chúng ta có thể thấy, các chủ thể tham gia TCĐĐ chỉ bao gồm những người sử dụng đất. Mặc dù, Điều 135 và Điều 136 của Luật Đất đai năm 2003 sử dụng cả hai khái niệm “TCĐĐ” và “tranh chấp quyền sử dụng đất” nhưng chúng ta phải khẳng định rằng khái niệm “TCĐĐ” rộng hơn khái niệm “tranh chấp quyền sử dụng đất”. Chính do chế độ sở hữu toàn dân về đất đai ở Việt Nam nên nội dung chính của quan hệ TCĐĐ chỉ bó hẹp lại là tranh chấp về QSDĐ. Nhà nước không thừa nhận và đứng ra là một bên chủ thể ngang hàng với người sử dụng đất trong các vụ TCĐĐ. Theo đó, nếu người sử dụng đất thấy quyền lợi của mình bị ảnh hưởng bởi
  37. 37 các quyết định của cơ quan nhà nước, hành vi hành chính của cán bộ công chức thì có quyền khiếu nại theo thủ tục khiếu nại, tố cáo. Ở một khía cạnh khác, khoản 26 Điều 4 Luật Đất đai 2003 cũng có thể được hiểu ở phạm vi khác. Cụ thể, TCĐĐ là tranh chấp về “quyền” và tranh chấp về “nghĩa vụ” liên quan đến đất đai của người hiện đang quản lý, sử dụng đất với những người có liên quan trong quan hệ đất đai. Theo đó, tất cả các giao dịch dân sự giữa các chủ thể mà đối tượng của giao dịch đó là đất đai, quyền và nghĩa vụ về đất đều được hiểu là quan hệ đất đai. Và theo cách hiểu này, các tranh chấp liên quan đến việc thực hiện các hợp đồng về đất đai sẽ được hiểu là tranh chấp đất đai, chẳng hạn tranh chấp về nghĩa vụ nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất giữa các bên tham gia quan hệ chuyển nhượng - nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hay tranh chấp về quyền yêu cầu trả công trong hợp đồng ủy quyền quản lý, sử dụng đất Rõ ràng, các tranh chấp dạng này là những tranh chấp dân sự thuần túy, và thực tiễn các vụ việc này đều không được các cơ quan hành chính thụ lý mà được Tòa án nhân dân thụ lý, giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Tiếp đó, “Quan hệ đất đai” được hiểu là quan hệ giữa người với người trong việc sở hữu, quản lý và sử dụng đất đai [Xem 92], trong đó có cả các chủ thể là cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai. Nếu hiểu một cách thuần túy tranh chấp đất đai là tranh chấp “giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai” thì có nghĩa là sẽ có loại tranh chấp đất đai giữa cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai với người sử dụng đất. Điều này là hoàn toàn mâu thuẫn với chế độ sở hữu toàn dân về đất đai. Bởi lẽ, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý với tư cách đại diện chủ sở hữu. Trong quá trình quản lý đó, Nhà nước giao đất, công nhận quyền sử dụng đất cho các chủ thể sử dụng đất, giao một phần diện tích đất cho các cơ quan, trong đó có Ủy ban nhân dân các cấp để làm trụ sở phục vụ hoạt động quản lý xã hội. Người sử dụng đất, nếu không nhất trí với cơ quan Ủy ban nhân dân về việc quản lý, sử dụng đối với một diện tích đất cụ thể nào đó, chỉ có quyền đề nghị Nhà nước xem xét lại việc giao đất đó đã thực sự công bằng, hợp lý hay chưa, chứ không có quyền tranh chấp diện tích đất đó với cơ quan Ủy ban nhân dân.
  38. 38 Như vậy, định nghĩa tranh chấp đất đai theo khoản 26 Điều 4 Luật Đất đai 2003 do có nội hàm rất rộng nên đã gây nhiều cách hiểu không chính xác. Nhiều quan điểm đã đồng tình với cách hiểu rằng, tranh chấp đất đai là tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật đất đai về quyền và nghĩa vụ trong quá trình quản lý và sử dụng đất [94, tr.74]. Hơn nữa, các tranh chấp có liên quan đến quyền sử dụng đất của người sử dụng đất cũng đã từng được quy định cụ thể trong một số văn bản hướng dẫn về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp liên quan đến đất đai với tên gọi là tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất chứ không phải tranh chấp đất đai một cách chung chung [Xem: 56]. Vì vậy, theo chúng tôi, tranh chấp đất đai, tự thân khái niệm đã nói lên nội hàm của khái niệm. Theo đó, tranh chấp đất đai cần được hiểu là tranh chấp quyền sử dụng đối với diện tích đất cụ thể giữa các chủ thể trong hoạt động quản lý, sử dụng đất. Các dạng tranh chấp khác đều được hiểu là tranh chấp liên quan đến đất đai và được giải quyết bởi cơ quan Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự. Như vậy, nên hiểu tranh chấp đất đai ở nước ta chính là tranh chấp quyền sử dụng đất hay bao gồm cả tranh chấp quyền sử dụng đất và các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất, vì làm rõ khái niệm tranh chấp đất đai có thể giúp xác định chính xác đối tượng tranh chấp trong tranh chấp đất đai, góp phần áp dụng pháp luật một cách chính xác và thống nhất, góp phần hoàn thiện pháp luật đất đai, tránh được trường hợp quy định của luật này chồng chéo lên quy định của luật kia. Hiện nay, ngành tòa án ở nước ta vẫn thống kê các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất vào mục tranh chấp đất đai nói chung. Vì vậy theo tôi, tranh chấp đất đai là bao gồm tranh chấp quyền sử dụng đất và tất cả các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất và trong điều kiện của nước ta hiện nay, cũng nên hiểu tranh chấp đất đai chính là tranh chấp quyền sử dụng đất và các tranh chấp khác liên quan đến quyền sử dụng đất thì phù hợp hơn. Như vậy, có thể hiểu: tranh chấp đất đai là sự bất đồng, mâu thuẫn hay xung đột về mặt lợi ích, về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia vào quan hệ đất đai trong quá trình quản lý và sử dụng đất đai.
  39. 39 Việc nhận thức như vậy là hoàn toàn phù hợp với xu hướng Nhà nước đang ngày càng mở rộng quyền cho người sử dụng đất và các cơ quan Nhà nước được giao quản lý đất đai nếu không tuân thủ pháp luật, gây thiệt hại cho lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất cũng có thể bị người sử dụng đất khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại chứ không còn đơn thuần là mệnh lệnh hành chính một chiều. Khách quan cũng cần phải thừa nhận rằng, cũng chính định nghĩa tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật hiện hành còn chưa rõ ràng, chưa cụ thể nên trên thực tế chúng cũng là nguyên nhân dẫn đến tình tràng "mù mờ", thiếu đi sự phân định rạch ròi và thậm chí trong nhiều trường hợp người ta đồng nhất giữa tranh chấp với khiếu nại, tố cáo về đất đai, trong khi chúng hoàn toàn có đối tượng, tính chất, đặc điểm và phạm vi khác nhau. Vì vậy, để đảm bảo cho hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai nói chung và giải quyết tranh chấp đất đai bằng Tòa án nói riêng đúng pháp luật, đúng thẩm quyền thì sự cần thiết phải làm rõ nội hàm của vấn đề này. Trước tiên cần phân biệt tranh chấp đất đai và khiếu nại liên quan đến đất đai: Trong quá trình giải quyết khiếu kiện, nếu không hiểu đúng các vấn đề mang tính nguyên tắc pháp luật thì không thể đánh giá đúng bản chất sự việc và như vậy không thể vận dụng những quy định pháp luật phù hợp với vấn đề cần giải quyết. Tuỳ thuộc vào bản chất các sự kiện pháp lý xảy ra liên quan đến việc khai thác, quản lý, sử dụng đất đai, nên có nhiều ngành luật cùng điều chỉnh quan hệ pháp luật này. Đến nay, thực tiễn vẫn còn tình trạng không phân biệt được thế nào là khiếu nại, thế nào là khởi kiện hành chính về đất đai, thế nào là khởi kiện về tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật dân sự. Sự nhầm lẫn không đáng có này, từ phía cơ quan công quyền, và cả từ phía cá nhân, pháp nhân đã gây ra những rắc rối, bất ổn trong đời sống pháp luật, có lúc đã xâm hại đến quyền, lợi ích chính đáng của người dân. Như đã nêu trên, theo Từ điển Tiếng Việt thì “tranh chấp” là: (1) Giành nhau một cách giằng co cái không rõ thuộc về bên nào và (2) Đấu tranh giằng co khi có ý kiến bất đồng thường là trong vấn đề quyền lợi giữa hai bên . Theo định nghĩa này, có thể hiểu theo nghĩa thông thường “tranh chấp đất đai” là việc giành nhau về một
  40. 40 phần đất nào đó hoặc quyền và nghĩa vụ liên quan đến phần đất đó mà chưa rõ nó thuộc về bên nào. Việc “giành nhau” này có thể bằng hành động trực tiếp (chiếm trực tiếp), cũng có thể mới ở phần ý kiến (đòi cơ quan có thẩm quyền phải công nhận cho mình thay vì cho người khác). Việc giành nhau này không chỉ “giữa hai bên” như Từ điển nêu mà có thể giữa nhiều bên. “Khiếu nại” được quy định và điều chỉnh tại Luật Khiếu nại tố cáo, còn “tranh chấp đất đai” lại được quy định và điều chỉnh tại Luật Đất đai. Mặc dù Luật Đất đai cũng có quy định về khiếu nại nhưng ở phạm vi hẹp là “khiếu nại quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính về quản lý đất đai” (Điều 138, Luật Đất đai 2003). Rõ ràng đây là 2 vấn đề do 2 Luật khác nhau điều chỉnh, nhưng những năm vừa qua việc nhầm lẫn 2 vấn đề này trong quá trình giải quyết tại địa phương là khá phổ biến. Có rất nhiều vụ việc tranh chấp đất đai được người giải quyết cho là “khiếu nại” nhưng sau đó người ta thêm từ “đòi đất” hay “tranh chấp đất đai” để thành cụm từ không rõ ràng và chưa hề có một văn bản pháp luật nào của Nhà nước ta quy định (như: “khiếu nại đòi đất”, “khiếu nại tranh chấp đất đai”, “khiếu nại đòi đất cũ”, “khiếu nại đòi đất tập đoàn” ). Theo đó, vì coi “tranh chấp” là “khiếu nại” nên trong quá trình giải quyết, nhiều nơi không tuân theo quy định của Luật Đất đai (Điều 135 và 136) mà lại vận dụng Luật Khiếu nại, tố cáo để giải quyết. Điều đó là sai vì trình tự, thẩm quyền giải quyết khác nhau, thời hạn, thời hiệu cũng khác nhau và đặc biệt là quyết định giải quyết tranh chấp không được quyền khiếu nại (khoản 3 Điều 138 Luật Đất đai 2003), mặc dù đây cũng là quyết định hành chính. Trong nhiều năm gần đây, khiếu kiện về đất đai luôn chiếm tỷ lệ lớn và cũng là những vụ việc gay gắt, phức tạp, khó giải quyết. Chính vì lẽ đó, việc xác định đúng bản chất của các vụ khiếu kiện từ đó định ra một cơ chế giải quyết có hiệu quả là vấn đề mà chúng ta cần cố gắng đạt được. Muốn vậy, trước hết không thể không đề cập đến sự phân định tương đối về mặt lý thuyết giữa tranh chấp và khiếu nại.
  41. 41 Khiếu nại thông thường xuất phát từ một mối quan hệ không bình đẳng giữa người khiếu nại và người bị khiếu nại mà người bị khiếu nại có quyền quyết định một vấn đề nào đó theo thẩm quyền được pháp luật quy định. Trong quan hệ giữa cơ quan hành chính Nhà nước và công dân thì công dân là người bị quản lý còn cơ quan hành chính Nhà nước là cơ quan quản lý. Cơ quan Nhà nước có quyền ban hành các quyết định hành chính có hiệu lực bắt buộc mọi cá nhân, tổ chức phải thi hành. Cá nhân, tổ chức có nhiệm vụ chấp hành quyết định hành chính đó nhưng đồng thời cũng có quyền khiếu nại với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Ngược lại, tranh chấp giữa hai cá nhân hoặc cá nhân với tổ chức là sự tranh chấp giữa hai chủ thể bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ trước pháp luật. Khi tranh chấp xảy ra thì người bị phía bên kia vi phạm có thể yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đề nghị người có hành vi vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm đó, khôi phục lợi ích cho mình, hoặc bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm đó gây ra. Sự nhầm lẫn giữa tranh chấp đất đai và khiếu nại đã dẫn tới một thực trạng, thủ tục giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất tại Ủy ban nhân dân các địa phương nhiều khi giải quyết giống như quy trình giải quyết khiếu nại hành chính nói chung, từ đó làm hạn chế việc bảo vệ quyền lợi của người liên quan. Thậm chí, nhiều nơi vẫn còn nhầm lẫn giữa quyết định giải quyết khiếu nại về đất đai với quyết định giải quyết tranh chấp đất đai cả về nội dung và hình thức, cưỡng chế thi hành quyết định giải quyết tranh chấp đất đai. Có những nơi vẫn xác định quyết định giải quyết tranh chấp đất đai là quyết định hành chính và giải quyết theo trình tự giải quyết khiếu nại. Như vậy, có thể thấy sự khác biệt về bản chất giữa tranh chấp và khiếu nại, trong đó những tranh chấp mang tính dân sự và cần phải được giải quyết theo các quy định của pháp luật về dân sự, ngược lại khiếu nại là “tranh chấp” có tính chất hành chính và cần được giải quyết theo pháp luật về hành chính. 2.2. Tranh chấp đất đai: Đặc điểm và phân loại
  42. 42 2.2.1. Đặc điểm của tranh chấp đất đai Tranh chấp đất đai là hiện tượng xã hội, có thể xảy ra ở mọi lúc, mọi nơi. Ở các vùng, miền khác nhau thì tranh chấp đất đai có thể có những nét riêng. Theo khoản 26, Điều 4 Luật Đất đai năm 2003 thì “tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai”. Hay nói cách khác, tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa các đương sự trong qua trình quản lý và sử dụng đất đai. Như vậy, tranh chấp đất đai chính là các mâu thuẫn, bất đồng ý kiến của các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai khi họ cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm. Trong thực tế, đôi khi người ta không phân biệt được tranh chấp đất đai và khiếu nại trong lĩnh vực đất đai. Tranh chấp đất đai có những đặc điểm chung của các tranh chấp kinh tế, dân sự, đồng thời nó có những đặc điểm riêng có để phân biệt với các loại tranh chấp khác: - Về đối tượng tranh chấp: Trước khi Hiến pháp năm 1980 ra đời thì ở nước ta có 3 hình thức sở hữu về đất đai đó là sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu cá nhân nên đối tượng của tranh chấp chính là quyền sở hữu đất đai. Hiến pháp năm 1980 chỉ công nhận một hình thức sở hữu duy nhất đối với toàn bộ đất đai đó là sở hữu toàn dân về đất đai, Nhà nước là đại diện chủ sở hữu [38], nên đối tượng tranh chấp đất đai không phải là quyền sở hữu mà là quyền sử dụng đất. “Dưới góc độ pháp lý thì đối tượng của tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai; dưới góc độ kinh tế thì đối tượng của tranh chấp đất đai là tranh chấp, mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể trong quá trình quản lý và sử dụng đất đai” [58, tr.2]. Vì thế, không thể có tranh chấp quyền sở hữu đất đai. Đối tượng của tranh chấp đất đai là quyền quản lý, quyền sử dụng và một số lợi ích vật chất khác phát sinh từ quyền quản lý, sử dụng một loại tài sản đặc biệt không thuộc quyền sở hữu của các bên tranh chấp mà thuộc quyền sở hữu toàn dân. Khác với chúng ta, ở Trung Quốc tồn tại hai hình thức sở hữu đối với đất đai đó là sở hữu Nhà nước và sở hữu tập thể nên đối tượng tranh chấp vẫn có thể là tranh chấp quyền sở hữu đất đai.
  43. 43 - Chủ thể của quan hệ tranh chấp đất đai chỉ là chủ thể quản lý và sử dụng đất đai. Các bên tham gia tranh chấp không phải là chủ sở hữu đối với đất đai. Họ chỉ có quyền quản lý, sử dụng khi được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, hoặc nhận chuyển nhượng, thuê lại, được thừa kế quyền sử dụng đất hoặc được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất. Như vậy, giống như các tranh chấp khác, chủ thể của các tranh chấp đất đai có thể là các cá nhân; tổ chức; hộ gia đình; cộng đồng dân cư hay các đơn vị hành chính. Tuy nhiên, khác với các tranh chấp khác chủ thể của quan hệ tranh chấp đất đai không phải là chủ sở hữu của đối tượng bị tranh chấp. - Đất đai ở nước ta không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn có ý nghĩa về mặt chính trị và xã hội. Chính vì vậy, tranh chấp đất đai luôn luôn là vấn đề nhạy cảm, thu hút sự quan tâm của toàn xã hội, dễ bị kẻ xấu lợi dụng để gây điểm nóng. - Do đất đai liên quan trực tiếp đến lợi ích của mọi thành viên trong xã hội nên tranh chấp đất đai xảy ra ảnh hưởng không chỉ các cá nhân mà còn cả các thành viên trong gia đình, dòng họ, cộng đồng dân cư v.v . Tranh chấp đất đai còn phản ánh phong tục, tập quán, nếp suy nghĩ, hành vi ứng xử không giống nhau của từng nhóm người, từng cộng đồng dân cư ở các vùng, miền khác nhau. Do đó, tính chất của tranh chấp đất đai rất phức tạp và thường là gay gắt, quyết liệt hơn các loại tranh chấp khác nên không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của các bên tham gia tranh chấp mà còn ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội như: Tác động không tốt đến tâm lý, tinh thần của các bên, gây nên sự căng thẳng, mất đoàn kết, mất ổn định trong nội bộ nhân dân; làm cho những quy định của pháp luật đất đai cũng như những đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước không được thực hiện một cách triệt để; làm cho việc giải quyết gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. - Tranh chấp đất đai xảy ra là hậu quả của những nguyên nhân nhất định, nó là biểu hiện cụ thể của những mâu thuẫn, bất đồng về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể sử dụng đất với nhau. - Trong điều kiện nền kinh tế thị trường như hiện nay, các tranh chấp đất đai trở nên rất đa dạng, bởi đất đai không chỉ đơn thuần là tư liệu sản xuất đặc biệt quan
  44. 44 trọng không thể thay thế mà nó đã trở thành một thứ hàng hoá đặc biệt. Do sự tác động của quy luật thị trường nên giá đất thường xuyên biến động, vì vậy việc quản lý và sử dụng đất không chỉ là việc khai thác giá trị quyền sử dụng đất mà còn cả phần giá trị sinh lời của nó. - Một đặc điểm đặc thù chỉ có trong quan hệ đất đai là người có quyền sử dụng đất hợp pháp dù không có quyền sở hữu nhưng vẫn có quyền định đoạt quyền sử dụng trong phạm vi quy định của pháp luật. Có thể gọi đây là “Quyền sở hữu hạn chế” [Xem: 34], được người đại diện chủ sở hữu trao cho người sử dụng đất. Do đó, tùy theo mối quan hệ giữa các bên trong quan hệ tranh chấp đất đai mà việc áp dụng pháp luật, thẩm quyền để giải quyết tranh chấp khác nhau. Ví dụ: Giải quyết tranh chấp bằng tòa án thì áp dụng pháp luật Dân sự, Kinh tế; Giải quyết tranh chấp bằng ủy ban thì áp dụng pháp luật Đất đai, Luật Hành chính 2.2.2. Phân loại tranh chấp đất đai Việc phân loại tranh chấp đất đai rất quan trọng, nó giúp cho các cơ quan có thẩm quyền xác định kịp thời, chính xác các quan hệ pháp luật cần giải quyết và đưa ra các quyết định đúng đắn, hợp tình, hợp lý khi giải quyết tranh chấp đất đai. Việc phân loại có thể dựa theo nhiều tiêu chí khác nhau [Xem thêm: 30, tr.5-14] như: - Căn cứ theo mốc thời gian hoặc theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể, các tranh chấp đất đai có thể phân theo tiêu chí về sở hữu tư nhân hay công hữu. - Phân loại theo tiêu chí hành chính hay tranh chấp về kinh tế; dân sự hay hôn nhân gia đình. - Dựa theo tính chất vụ việc: Tranh chấp quyền sử dụng đất; tranh chấp về quyền và nghĩa vụ phát sinh trong quá trình sử dụng đất. - Căn cứ vào tính chất pháp lý và quan hệ pháp luật của tranh chấp đất đai. Trong khuôn khổ luận án này, tác giả chỉ nghiên cứu việc phân loại tranh chấp đất đai dựa trên tiêu chí tính chất pháp lý và quan hệ pháp luật của tranh chấp đất đai.
  45. 45 Xuất phát từ yếu tố đất đai là một loại tài sản đặc biệt, không thuộc quyền sở hữu của các bên tranh chấp; căn cứ vào tính chất pháp lý và quan hệ pháp luật của tranh chấp đất đai, chúng ta có thể chia tranh chấp đất đai thành các loại sau: Một là, tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Là việc các bên tranh chấp trong quá trình thực hiện các giao dịch về đất đai. Loại tranh chấp này thường là do các bên thực hiện việc chuyển nhượng khi chưa có đầy đủ điều kiện pháp luật cho phép; Thực hiện không đúng hoặc không thực hiện đầy đủ các điều khoản quy định trong hợp đồng; Không tuân thủ các quy định của pháp luật trong khi giao dịch. Hiện nay đây là loại tranh chấp phổ biến và có số lượng nhiều nhất, mức độ phức tạp lớn nhất. Hai là, các bên tranh chấp về ranh giới giữa những thửa đất được phép quản lý và sử dụng. Loại tranh chấp này thường là do các bên sử dụng đất không thoả thuận được với nhau hoặc là do một bên tự ý thay đổi ranh giới sử dụng trong quá trình đất đai được chuyển nhượng qua tay nhiều người, cho thuê, cho thuê lại, cũng có thể là do sai sót từ phía cơ quan nhà nước trong quá trình đo đạc, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ba là, tranh chấp quyền sử dụng đất trong quan hệ thừa kế. Loại tranh chấp này phát sinh trong trường hợp người chết có quyền sử dụng đất đai nhưng khi chết không để lại di chúc hoặc có để lại di chúc nhưng di chúc không hợp pháp một phần hay toàn bộ mà các đồng thừa kế lại không tự thoả thuận được với nhau nên khởi kiện ra toà. Loại tranh chấp này có trường hợp có tài sản gắn liền với đất, có trường hợp trên đất tranh chấp không có tài sản. Bốn là, tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn. Quyền sử dụng đất có được trong thời kỳ hôn nhân do nhận chuyển nhượng, được Nhà nước giao đất, được tặng cho, khai hoang được Nhà nước thừa nhận hoặc được thừa kế. Khi ly hôn hai người không tự thoả thuận được với nhau nên phát sinh tranh chấp. Năm là, tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất. Loại tranh chấp này phát sinh trong trường hợp trước đây người có quyền sử dụng đất đã cho mượn, cho thuê nhà đất, cho ở nhờ nhưng nay những người mượn, thuê, ở nhờ không chịu trả, hoặc do
  46. 46 theo chính sách pháp luật của Nhà nước đất đã được chia, cấp cho người khác nên nay họ khởi kiện để đòi lại, hoặc đất đã được tặng cho nhưng nay vì nhiều lý do khác nhau, người đã tặng cho đòi lại đất v.v Loại tranh chấp này gồm có các dạng sau: - Tranh chấp quyền sử dụng đất trong trường hợp đất đã đưa vào tập đoàn sản xuất, hợp tác xã mà sau đó tập đoàn sản xuất, hợp tác xã đã bị giải thể: Loại tranh chấp này thường phát sinh khi người được tập đoàn sản xuất, hợp tác xã giao đất (không phải chủ đã giao đất cho tập đoàn sản xuất, hợp tác xã trước đây) được cơ quan chức năng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên chủ cũ kiện đòi lại. - Tranh chấp quyền sử dụng đất có liên quan đến chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa của Nhà nước: Là loại tranh chấp mà nhà, đất của họ trước đây vì nhiều lý do khác nhau, bị Nhà nước cải tạo xã hội chủ nghĩa và theo chính sách pháp luật của Nhà nước đất đã được chia, cấp cho người khác sử dụng nên nay họ khởi kiện để đòi lại. Loại tranh chấp này thường có tài sản gắn liền trên đất. - Tranh chấp quyền sử dụng đất có liên quan đến việc người Việt Nam định cư ở nước ngoài mua đất nhưng nhờ người khác đứng tên hộ: Nhiều người Việt Nam định cư ở nước ngoài do không đủ điều kiện được đứng tên nhà đất ở Việt Nam nhưng lại muốn có nhà đất ở Việt Nam nên mua đất và nhờ người thân đứng tên hộ trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Loại tranh chấp này thường phát sinh khi người đứng tên hộ trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nảy lòng tham, tự ý chuyển nhượng đất mà mình đứng tên hộ hoặc khi người nhờ đứng tên hộ đã đủ diều kiện đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và yêu cầu người đứng tên hộ trả lại thì họ không chịu trả nên phải khởi kiện để đòi lại. - Tranh chấp quyền sử dụng đất liên quan đến việc tặng cho quyền sử dụng đất: Trong giao dịch tặng cho, nhất là tặng cho nhà đất, thường thì người tặng cho có điều kiện đi kèm. Song song với việc được nhận nhà đất thì người được tặng cho phải thực hiện một nghĩa vụ nhất định nào đó, ví dụ như nuôi dưỡng cha mẹ cho đến khi chết chẳng hạn. Hoặc cha mẹ tặng cho con khi con lập gia đình với mong muốn vợ chồng con chung sống hòa thuận, hạnh phúc. Loại tranh chấp này thường
  47. 47 phát sinh khi người được tặng cho không thực hiện hoặc không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình đối với người tặng cho nên người tặng cho kiện đòi lại. Hoặc khi vợ chồng con ly hôn, cha mẹ không cho nữa mà đòi lại. - Tranh chấp đất đai trong trường hợp đòi lại đất cho mượn, cho ở nhờ: Loại tranh chấp này phát sinh trong trường hợp trước đây người có quyền sử dụng đất đã cho mượn, cho thuê nhà đất, cho ở nhờ nhưng nay những người mượn, thuê, ở nhờ không chịu trả. - Tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất có tài sản gắn liền trên đất của dòng họ, nhà thờ, thánh thất, chùa chiền. Do hoàn cảnh đất nước, do yếu tố lịch sử để lại, các cơ sở này được Nhà nước mượn, trưng dụng vào các mục đích khác nhau không trả, nay họ đòi lại. Sáu là, tranh chấp giữa các đơn vị hành chính cấp tỉnh, huyện, xã với nhau. Đây thường là những tranh chấp diễn ra ở các khu vực có vị trí thuận lợi cho phát triển kinh tế địa phương nhưng tại đây sự phân chia ranh giới hành chính chưa rõ ràng dẫn đến tranh chấp phát sinh. Đây là tranh chấp giữa những người được Nhà nước giao quản lý đất đai. Bảy là, tranh chấp do việc thực hiện quyền sử dụng đất bị cản trở. Loại tranh chấp này phát sinh khi một bên được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất nhưng lại không thể sử dụng được do bị người khác cản trở. Tám là, tranh chấp liên quan đến việc bồi thường giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất. Thông thường đây là các tranh chấp liên quan đến mức độ và diện tích được bồi thường do người sử dụng đất không thoả mãn với mức bồi thường. Đây là tranh chấp giữa người đại diện chủ sở hữu (Nhà nước), người được giao quản lý với người sử dụng đất. Loại tranh chấp này cũng là loại tranh chấp điển hình và gay gắt. Chín là, tranh chấp về mục đích sử dụng đất: Các tranh chấp này hiện nay cũng diễn ra khá phổ biến, đó là tranh chấp giữa việc sử dụng đất vào việc trồng lúa với việc dùng đất vào việc nuôi trồng thuỷ sản, giữa dùng đất đất trồng cây hàng năm với dùng đất trồng cây lâu năm, giữa sử dụng đất nông nghiệp hoặc đất trồng
  48. 48 cây lâu năm với đất thổ cư trong quá trình phân bổ và sử dụng đất. Đây là tranh chấp giữa người được Nhà nước giao quản lý với người được giao đất. 2.3. Nguyên nhân và hậu quả của tranh chấp đất đai 2.3.1. Nguyên nhân của tranh chấp đất đai Tranh chấp đất đai xảy ra là hậu quả của những nguyên nhân nhất định. Nó là biểu hiện cụ thể của những mâu thuẫn bất đồng về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể sử dụng đất với nhau. Trong những năm vừa qua tranh chấp đất đai đã diễn ra ở hầu hết các địa phương trong cả nước. Tuy mức độ, tính chất và phạm vi khác nhau nhưng nhìn chung tranh chấp đất đai đã gây ra những hậu quả nặng nề ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội. Vì vậy phải căn cứ vào thực trạng sử dụng đất, vào đường lối chính sách của Nhà nước, vào những văn bản pháp luật để tìm ra những nguyên nhân dẫn đến tranh chấp đất đai, từ đó có những biện pháp giải quyết tranh chấp một cách thoả đáng, góp phần ngăn ngừa và hạn chế tới mức thấp nhất những tranh chấp đất đai có thể xảy ra. Từ thực tế của hiện tượng tranh chấp đất đai, có thể rút ra một số nguyên nhân chủ yếu sau đây: Thứ nhất, do lịch sử để lại [Xem thêm: 58]: Chiến tranh, sự thay đổi về chế độ sở hữu về đất đai, sự đổi mới về chính sách kinh tế. Đó là những vấn đề lịch sử để lại và hậu quả là ngày hôm nay chúng ta đang phải giải quyết nhiều các tranh chấp về đất đai với tính chất phức tạp, mức độ gay gắt, có những tranh chấp rất khó giải quyết. Chiến tranh đã làm thay đổi chủ thể sử dụng đất, về ranh giới đất đai gây ra những dạng tranh chấp như: Tranh chấp giữa chủ sử dụng trước đây (đi chiến đấu lâu này trở về, chạy nạn v.v ) với người đang chiếm hữu đất, tranh chấp về ranh giới đất đai do người có đất đi sơ tán, chạy loạn khá lâu v.v Việc thay đổi chế độ sở hữu về đất đai (từ đất đai thuộc nhiều hình thức sở hữu, trong đó có sở hữu tư nhân trước Hiến pháp năm 1980, đến đất đai thuộc sở hữu toàn dân - từ sau Hiến pháp năm 1980) đã khiến nhiều những tranh chấp về việc trưng thu, trưng dụng, thu hồi đất xảy ra. Về chính sách kinh tế, các chủ trương hợp tác hóa trong sản xuất nông nghiệp, xây dựng các hợp tác xã đã gây ra không ít các tranh chấp về đất nông nghiệp ở khu vực nông thôn.