Luận văn Rào cản thương mại của Mỹ đối với hàng dệt may Việt Nam-Thực trạng và giải pháp

doc 76 trang phuongnguyen 3360
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Rào cản thương mại của Mỹ đối với hàng dệt may Việt Nam-Thực trạng và giải pháp", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docluan_van_rao_can_thuong_mai_cua_my_doi_voi_hang_det_may_viet.doc

Nội dung text: Luận văn Rào cản thương mại của Mỹ đối với hàng dệt may Việt Nam-Thực trạng và giải pháp

  1. - 1 - MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thương mại quốc tế những thập niên gần đây đã có bước tăng trưởng đột biến cả về chất và lượng. Song song với sự tăng trưởng mạnh mẽ này, các khu vực và quốc gia trên thế giới cũng đã và đang tích cực mở cửa thị trường nội địa của mình để phù hợp với xu hướng tự do hoá thương mại - một xu thế khách quan, là nền tảng của sự phát triển, đưa các quốc gia xích lại gần nhau, thân thiện hơn trong quan hệ sản xuất, kinh doanh và chia sẻ thịnh vượng chung. Tuy nhiên, càng thực hiện tự do hoá thương mại, càng mở cửa, thì cạnh tranh giữa các quốc gia, các khu vực cũng theo đó càng gay gắt. Với thực tế đó và để giữ vững quyền lợi của mình, các quốc gia đồng thời thực hiện các chính sách theo hai xu thế trái ngược: một mặt tăng cường đổi mới công nghệ, nâng cao kỹ năng quản lý, tăng chất lượng, giảm giá thành; mặt khác tăng cường bảo hộ trong nước thông qua những hàng rào thương mại. Thực tế cho thấy, không một quốc gia nào, dù là nước có nền kinh tế hùng mạnh như Mỹ hay Nhật Bản lại không có nhu cầu bảo hộ nền sản xuất trong nước cũng như tăng cường xâm nhập thị trường nước ngoài nhằm tối đa hoá lợi ích. Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), kể từ khi được thành lập, đã có những nỗ lực rất lớn trong việc điều chỉnh các rào cản thương mại quốc tế thông qua việc khuyến khích và ép buộc các thành viên giảm thuế, xoá bỏ hàng rào phi thuế. Tuy nhiên, lợi ích kinh tế lại là một điều rất hấp dẫn đối với con người, ở mọi chế độ và thời đại. Vì vậy, bất chấp những nỗ lực của WTO, song song với việc xoá bỏ những rào cản thương mại hữu hình, dễ phát hiện, các nước ngày càng có xu thế tạo nên những rào cản vô hình mà thoạt nhìn qua, nhiều người sẽ lầm tưởng đó là những chính sách, quy định, yêu cầu có vẻ hợp lý nhưng thực chất đó là những biện pháp cạnh tranh không lành
  2. - 2 - mạnh. Với tinh thần hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế, Việt Nam đã gia nhập nhiều tổ chức khu vực và quốc tế như: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Hợp tác Á - Âu (ASEM), Hiệp định Thương mại tự do ASEAN-Trung Quốc (ACFTA) và mới đây nhất là gia nhập WTO. Việc gia nhập WTO đã mang lại cho Việt Nam nhiều thuận lợi trong việc đưa các mặt hàng xuất khẩu chủ lực – trong đó có hàng dệt may - xâm nhập vào các thị trường rộng lớn, nhất là thị trường đầy tiềm năng như Hoa Kỳ. Tuy nhiên, thị trường Hoa Kỳ cũng lại là thị trường chứa đựng nhiều rào cản thương mại phức tạp và đa dạng nhất. Việc nhận biết, hiểu rõ những rào cản thương mại này là điều kiện tiên quyết để các doanh nghiệp dệt may Việt Nam có đối sách phù hợp trong quá trình mở rộng thị trường tại Hoa Kỳ. Mặc dù vậy, hiện nay mới chỉ có những đề tài nghiên cứu về rào cản thương mại trên thế giới nói chung chứ chưa có một đề tài nào tập trung nghiên cứu các rào cản thương mại đối với một mặt hàng xuất khẩu chủ lực như dệt may tại một thị trường khó tính như thị trường Mỹ. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài “Rào cản thương mại của Mỹ đối với hàng dệt may Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” làm đề tài nghiên cứu hoàn thành luận văn thạc sỹ của mình. Đề tài sẽ đề cập đến những kiến thức cơ bản và mới nhất về các rào cản thương mại mà Hoa Kỳ áp dụng đối với các sản phẩm dệt may, đồng thời cũng đưa ra những kiến nghị với chính phủ và các giải pháp thực tiễn, cụ thể cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1Mục đích nghiên cứu Đánh giá thực trạng vượt qua các rào cản thương mại của Mỹ đối với hàng
  3. - 3 - dệt may nhập khẩu từ Việt Nam và đề xuất các giải pháp nhằm vượt qua những rào cản đó đối với hàng dệt may Việt Nam đến 2010 và các năm tiếp theo khi Việt Nam là thành viên chính thức của WTO 2.2Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện được mục đích nghiên cứu nói trên, cần thực hiện các nhiệm vụ cơ bản sau: - Nghiên cứu sự hình thành, khái niệm cơ bản về rào cản thương mại; phân loại các loại rào cản; chỉ ra xu thế phát triển của rào cản thương mại trên thế giới; sự cần thiết phải vượt qua các rào cản thương mại và kinh nghiệm của một số quốc gia trong việc vượt qua rào cản thương mại đối với hàng dệt may của Mỹ. - Phân tích thực trạng các rào cản nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ; ảnh hưởng của các rào cản thương mại Mỹ đối với hàng dệt may Việt Nam; đánh giá những ưu điểm và những tồn tại, hạn chế của những biện pháp mà Việt Nam đã thực hiện để vượt qua các rào cản; nguyên nhân của những tồn tại đó. - Đề xuất những giải pháp từ phía chính phủ, Hiệp hội dệt may và doanh nghiệp nhằm vượt qua các rào cản thương mại khi doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ đến năm 2010 trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các rào cản thương mại của Mỹ đối với hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam và các biện pháp vượt qua các rào cản thương mại đó. 3.2Phạm vi nghiên cứu Do những hạn chế về mặt kiến thức, kinh phí cũng như thời gian nên phạm
  4. - 4 - vi nghiên cứu của đề tài mới chỉ dừng lại ở nghiên cứu các rào cản thương mại đối với hàng dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu vào thị trường Mỹ từ khi Việt Nam và Hoa Kỳ bình thường hoá quan hệ ngoại giao năm 1995 đến nay. Đề tài cũng được nghiên cứu trên giác độ vĩ mô, tức là nghiên cứu các rào cản thương mại của Mỹ đối với các doanh nghiệp dệt may nói chung chứ không nghiên cứu cụ thể rào cản đối với một doanh nghiệp dệt may nào. 4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin được vận dụng xuyên suốt đề tài để đảm bảo tính liên kết về mặt thời gian và nội dung giữa các chương, các mục và tính hệ thống của đề tài. - Phương pháp tiếp cận cá biệt và so sánh: dùng để tiếp cận từng loại rào cản thương mại cụ thể, sau đó so sánh tác động, ảnh hưởng của các loại rào cản với sự phát triển thương mại hàng hoá nói chung và hàng dệt may nói riêng. - Phương pháp phân tích và tổng hợp. 5. Kết cấu luận văn Ngoài các phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo, kết cấu của luận văn gồm 3 chương: - Chương 1: Lý luận chung về rào cản trong thương mại quốc tế và kinh nghiệm vượt qua rào cản thương mại đối với hàng dệt may của một số nước - Chương 2: Thực trạng vượt qua rào cản thương mại đối với hàng dệt may Việt Nam nhập khẩu vào thị trường Mỹ - Chương 3: Các giải pháp vượt qua rào cản thương mại đối với hàng dệt may Việt Nam nhập khẩu vào thị trường Mỹ
  5. - 5 - CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ RÀO CẢN THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VÀ KINH NGHIỆM VƯỢT QUA RÀO CẢN THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY CỦA MỘT SỐ NƯỚC Chương này trình bày khái niệm và các loại rào cản nói chung trong thương mại quốc tế. Trên cơ sở đó, trình bày những rào cản cụ thể trong ngành dệt may và tổng kết một số kinh nghiệm vượt qua các rào cản này của hai quốc gia xuất khẩu dệt may lớn là Trung Quốc và Ấn Độ và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 1.1 Một số vấn đề chung về rào cản trong thương mại quốc tế 1.1.1 Khái niệm rào cản thương mại quốc tế - Khái niệm về rào cản trong Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại của tổ chức thương mại thế giới - Khái niệm về rào cản trong Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ - Khái niệm chung về rào cản thương mại 1.1.2 Sự hình thành các loại rào cản trong thương mại quốc tế - Ban đầu, khi cung hàng hoá chưa đáp ứng đủ nhu cầu, thương mại quốc tế diễn ra tự do, các rào cản hầu như không tồn tại. - Khi cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra, cung hàng hoá lớn hơn cầu hàng hoá thì bắt đầu xuất hiện các rào cản thương mại nhằm hạn chế nhập khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước. - Rào cản sẽ mang lại lợi ích cho một nhóm người nhất định. Xét về khía cạnh này, sự hình thành các loại rào cản trong thương mại quốc tế xuất phát từ một trong ba chủ thể chính: các doanh nghiệp, người lao động và người tiêu dùng, chính phủ. Phân tích sự hình thành các rào cản xuất phát từ nhu cầu của ba chủ thể này. 1.1.3 Phân loại các loại rào cản
  6. - 6 - 1.1.3.1 Rào cản thuế quan - Khái niệm thuế quan - Các loại thuế quan: thuế phần trăm, thuế đặc định, thuế hỗn hợp 1.1.3.2 Rào cản phi thuế quan - Khái niệm rào cản phi thuế quan - Các loại rào cản phi thuế quan  Các rào cản phi thuế quan truyền thống: hạn chế định lượng, cấp phép nhập khẩu, định giá hải quan để tính thuế  Các rào cản phi thuế quan mới: trợ cấp, rào cản về chống bán phá giá, các rào cản kỹ thuật (TBT), các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại, rào cản về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ - Phân tích các loại rào cản phi thuế quan trên các khía cạnh:  Định nghĩa các loại rào cản  Đặc điểm và xu hướng áp dụng của từng loại rào cản  Tác động của các rào cản đến thương mại quốc tế 1.1.4 Xu thế phát triển của các loại rào cản thương mại - Các rào cản được mở rộng từ thương mại hàng hoá sang thương mại dịch vụ - Các biện pháp kỹ thuật không chỉ được áp dụng đối với sản phẩm như nhãn mác, chất lượng, bao bì mà được mở rộng sang cả quá trình chế biến sản phẩm và hoạt động của doanh nghiệp - Xuất hiện các hiệu ứng lan truyền, mở rộng ảnh hưởng từ một sản phẩm sang nhiều sản phẩm liên quan, từ một quốc gia sang một loạt các quốc gia và thậm chí là toàn thế giới - Nhiều rào cản kỹ thuật đang không ngừng được sửa đổi nâng cao tiêu chuẩn, mức độ chặt chẽ để phù hợp với mức sống xã hội ngày càng cao và sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật. - Xu hướng sử dụng kết hợp các rào cản kỹ thuật và các rào cản về
  7. - 7 - bằng sáng chế đang tăng lên - Các nước đang phát triển ngày càng chú trọng hơn tới các rào cản thương mại. 1.2 Rào cản đối với hàng dệt may trong thương mại quốc tế Phần 1 đã nghiên cứu về rào cản thương mại quốc tế nói chung. Trên cơ sở đó, phần 2 sẽ phân tích sự hình thành rào cản thương mại đối với hàng dệt may, và sự khác biệt của các rào cản này với rào cản thương mại nói chung. 1.2.1 Sự hình thành rào cản thương mại đối với hàng dệt may - Trước 1974, chưa hình thành các rào cản đối với hàng dệt may trong thương mại quốc tế. - Sau 1974, các nước bắt đầu hạn chế nhập khẩu hàng dệt may bằng các biện pháp thuế quan và phi thuế quan. Cùng với sự phát triển của xu hướng tự do hoá thương mại quốc tế, thương mại hàng dệt may được điều chỉnh bởi các Hiệp định thương mại song phương và đa phương. Trong đó, thương mại hàng dệt may giữa các nước thành viên GATT trước đây (hiện nay là WTO) được điều chỉnh theo một số Hiệp định sau qua các thời kỳ:  Từ 01/01/1974 đến 31/12/1994: Thương mại hàng dệt may được điều chỉnh bởi Hiệp định đa sợi – MFA: cho phép các thành viên ký kết GATT đàm phán các hiệp định song phương nhằm hạn chế về số lượng đối với hàng dệt và quần áo nhập khẩu  Từ 01/01/1995 đến 31/12/2004: Các rào cản về hạn ngạch đối với hàng dệt may được dỡ bỏ dần theo một lịch trình gồm ba giai đoạn của Hiệp định dệt may – ATC.  Từ 01/01/2005: Thương mại hàng dệt may được điều chỉnh theo khung khổ pháp lý chung của WTO về thương mại hàng hoá. Các nước thành viên WTO sẽ không được phép áp đặt
  8. - 8 - hạn ngạch hàng dệt may với nhau và hàng dệt may được hưởng mức thuế MFN. Ngoài ra, các rào cản phi thuế quan khác cũng được các quốc gia xây dựng dựa trên một số Hiệp định của WTO như Hiệp định về định giá hải quan, Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng, Hiệp định về các rào cản kỹ thuật (TBT), Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMS), 1.2.2 Đặc điểm của các rào cản đối với hàng dệt may trong thương mại quốc tế Rào cản đối với hàng dệt may trong thương mại quốc tế cũng có đầy đủ các đặc điểm của rào cản thương mại nói chung như: Ngày càng giảm bớt các rào cản thuế quan và gia tăng các rào cản phi thuế quan, các rào cản phi thuế quan ngày càng đa dạng và phức tạp, các nước đang phát triển ngày càng quan tâm hơn đến các rào cản trong thương mại quốc tế, Ngoài ra, do dệt may là ngành truyền thống của hầu hết các nước và sử dụng nhiều lao động nên rào cản đối với hàng dệt may trong thương mại quốc tế cũng có một số đặc điểm riêng như: - Các rào cản về thuế quan được dựng lên sớm và được loại bỏ chậm hơn - Các rào cản phi thuế quan dưới dạng các tiêu chuẩn về môi trường, về trách nhiệm xã hội, thường cao quá mức cần thiết, khó tuân thủ đối với các nước đang phát triển - Ngoài các rào cản hàng dệt may phổ biến dựa trên các cam kết của WTO, một số thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn như Mỹ, EU, còn có nhiều rào cản khác dưới dạng các quy định riêng. 1.3 Sự cần thiết phải vượt qua rào cản thương mại nói chung và rào cản đối với hàng dệt may nói riêng
  9. - 9 - 1.3.1 Khái niệm vượt qua rào cản thương mại 1.3.2 Sự cần thiết phải vượt qua rào cản thương mại 1.3.2.1 Ý nghĩa của việc vượt qua rào cản đối với các quốc gia và doanh nghiệp 1.3.2.2 Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi các doanh nghiệp phải vượt qua các rào cản thương mại để hội nhập có hiệu quả 1.3.2.3 Các doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn có khả năng vượt qua các rào cản thương mại 1.3.2.4 Dệt may là mặt hàng truyền thống của Việt Nam nên các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã vượt qua các rào cản thương mại và sẽ tiếp tục vượt qua các rào cản thương mại khác để hội nhập vào thị trường dệt may thế giới 1.4 Kinh nghiệm vượt qua rào cản thương mại đối với hàng dệt may của một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam 1.4.1 Trung Quốc - Những lợi thế về dệt may của Trung Quốc - Tình hình xuất khẩu dệt may Trung Quốc trong những năm gần đây - Các rào cản mà hàng dệt may Trung Quốc đã gặp phải - Một số biện pháp vượt qua các rào cản hàng dệt may của Trung Quốc 1.4.2 Ấn Độ - Những lợi thế về dệt may của Ấn Độ - Tình hình xuất khẩu dệt may Ấn Độ trong những năm gần đây - Các rào cản mà hàng dệt may Ấn Độ đã gặp phải - Một số biện pháp vượt qua các rào cản hàng dệt may của Ấn Độ 1.4.3 Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam - Tự kiểm soát việc xuất khẩu hàng dệt may của các doanh nghiệp trong nước và áp dụng các biện pháp phù hợp để đảm bảo hàng dệt
  10. - 10 - may không bị áp mức thuế chống bán phá giá hoặc thuế đối kháng. - Tích cực tiến hành các biện pháp ngoại giao ở cấp Chính phủ khi có căng thẳng với các đối tác để tìm ra giải pháp hợp lý. - Tích cực chuyển hướng sản xuất gắn với bảo vệ môi trường, nâng cao trách nhiệm xã hội - Tiếp cận, liên kết với các nước lân cận để giảm bớt chi phí, hạ thấp các rào cản khi xuất khẩu hàng dệt may vào các thị trường lớn Tóm lại, chương 1 đã trình bày những vấn đề khái quát về rào cản trong thương mại quốc tế nói chung và rào cản đối với hàng dệt may nói riêng, sự cần thiết phải vượt qua các rào cản thương mại, kinh nghiệm vượt rào cản về dệt may của hai nước xuất khẩu lớn là Trung Quốc và Ấn Độ. Dựa trên những kiến thức đó, chương 2 sẽ nghiên cứu cụ thể hơn về rào cản đối với hàng dệt may trên thị trường Mỹ, những điểm chung và đặc trưng riêng có; Việt Nam đã có những biện pháp gì để vượt qua những rào cản đó và đánh giá hiệu quả của các biện pháp.
  11. - 11 - CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG VƯỢT QUA RÀO CẢN THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM NHẬP KHẨU VÀO THỊ TRƯỜNG MỸ Sau khi đã nghiên cứu các loại rào cản trong thương mại quốc tế, một số rào cản cụ thể trong thương mại hàng dệt may ở chương 1, chương này sẽ đề cập đến các rào cản đối với hàng dệt may vào thị trường Mỹ một cách cụ thể, tình hình nhập khẩu của Mỹ đối với hàng dệt may Việt Nam, ảnh hưởng của các rào cản đến việc hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ và các biện pháp vượt qua rào cản hàng dệt may của Mỹ mà Việt Nam đã áp dụng. Trên cơ sở đó đánh giá những ưu điểm, những tồn tại và nguyên nhân của các tồn tại trong việc vượt qua rào cản thương mại đối với hàng dệt may của Việt Nam nhập khẩu vào thị trường Mỹ thời gian qua 2.1 Lịch sử hình thành và phát triển các rào cản thương mại đối với hàng dệt may nhập khẩu vào thị trường Mỹ Trước cuộc chiến tranh thương mại 1930, cuộc chiến tranh mà các nước cạnh tranh với nhau nhằm tăng thêm các hàng rào mậu dịch để bảo vệ các nhà sản xuất trong nước và trả đũa rào cản của các nước khác, Chính phủ và các doanh nghiệp Mỹ đã tập trung phát triển nền kinh tế trong nước mặc cho những diễn biến xảy ra ở bên ngoài. Từ sau cuộc đại khủng hoảng 1929-1933 và nhất là sau chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ đã giảm bớt các rào cản thương mại và phối hợp với hệ thống kinh tế thế giới. Tuy nhiên, do đặc thù của Mỹ là thuộc địa của Anh nên ngành dệt và những sản phẩm len rất phát triển, các rào cản thương mại đối với ngành dệt may cũng được thiết lập sớm và duy trì lâu hơn so với hầu hết các ngành khác (trừ nông nghiệp), ví dụ Luật nhãn hàng sản phẩm len (WPLA) ra đời từ năm 1939. Trước năm 1974, Mỹ căn cứ vào điều 204 của Luật nông nghiệp năm
  12. - 12 - 1956, uỷ quyền cho tổng thống tham gia đàm phán các hiệp định với nước ngoài để hạn chế xuất khẩu nông sản và hàng dệt sang Mỹ. Từ 1974 đến hết năm 1994, thương mại hàng dệt may của Mỹ với các nước khác tuân theo hiệp định đa sợi (MFA). Mặc dù ngành công nghiệp dệt may Mỹ liên tục giảm sút do chi phí về lao động ngày càng tăng, Mỹ vẫn là nước sản xuất hàng dệt may lớn. Năm 2005, giá trị sản lượng công nghiệp quần áo của nước này đạt 30,2 tỷ USD, công nghiệp dệt vải đạt 24,3 tỷ USD, công nghiệp xơ sợi đạt 17,2 tỷ USD và công nghiệp dệt thảm đạt 14 tỷ USD. Công nghiệp dệt may của Mỹ tập trung chủ yếu ở các bang phía nam, trong đó Bắc Carolina và Nam Carolina là hai bang có ngành công nghiệp lớn nhất. Sản phẩm dệt may chủ yếu được tiêu thụ trong nước, xuất khẩu chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Thị trường xuất khẩu chủ yếu là các nước trong khu vực như Canada, Mêhicô, các nước vùng Caribê và Trung Mỹ. Vải (kể cả vải đã cắt) được chuyển sang các nước này để gia công thành quần áo và các sản phẩm khác, sau đó được nhập khẩu trở lại Mỹ. Chính vì vậy, trong hiệp định về Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) có hiệu lực từ 01/01/1994, Mỹ đã miễn thuế nhập khẩu cho hàng dệt may có xuất xứ từ Mêhicô và Canada. Theo Hiệp định dệt may ATC có hiệu lực từ năm 1995, Mỹ cũng dỡ bỏ các rào cản về thuế và hạn ngạch đối với hàng dệt may từ các nước là thành viên của WTO. Tuy nhiên, để hạn chế nhập khẩu từ các nước đang phát triển – các nước có lượng xuất khẩu dệt may vào thị trường Mỹ tăng đáng kể trong những năm gần đây - Mỹ lại đề ra những quy định khắt khe về môi trường, trách nhiệm xã hội, Những quy định này không có tác động đáng kể đến hai nước láng giềng có điều kiện tương tự như Mỹ nhưng lại gây khó khăn rất nhiều cho ngành dệt may của các nước đang phát triển, các nước có điều kiện sản xuất thấp hơn nhiều so với Mỹ.
  13. - 13 - 2.2 Thực trạng các rào cản thương mại đối với hàng dệt may nhập khẩu vào thị trường Mỹ và kết quả nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ từ Việt Nam 2.2.1 Thực trạng các rào cản thương mại đối với hàng dệt may nhập khẩu vào thị trường Mỹ 2.2.1.1 Rào cản thuế quan Mức thuế suất đối với hàng dệt may nhập khẩu vào thị trường Mỹ được căn cứ vào chủng loại hàng hoá dựa trên các Hiệp định song phương và đa phương mà Mỹ đã ký kết với các quốc gia khác. Mức thuế này được thể hiện trong Biểu thuế suất hài hoà (HTS) hiện hành của Mỹ, được ban hành trong Luật thương mại và Cạnh tranh Omnibus năm 1988 và có hiệu lực từ 01 tháng 01 năm 1989. Biểu thuế nhập khẩu của Hoa Kỳ gồm 21 phần và 96 chương được bố cục thành 7 cột như mẫu dưới đây: Bảng 2.1 Harmonized Tariff Schedule of the United States (2008) Annotated for Statistical Purposes Stat Unit Rate of Duty Heading/ Suf- of 1 Subheading Article Description 2 fix Quantity General Special 5204 Cotton sewing thread, whether or not put up for retail sale: Not put up for retail sale: 5204.11.00 00 Containing 85 percent or more by weight of kg 4.4% Free (BH,CA, 25.5% cotton (200) IL,JO,MX,P,SG) 1.3% (MA) 3%(AU) 5204.19.00 00 Other (200) kg 4.4% Free (BH,CA, 25.5% IL,JO,MX,P,SG) 1.3% (MA) 3%(AU) 5204.20.00 00 Put up for retail sale (200) kg 4.4% Free (BH,CA, 25.5% IL,JO,MX,P,SG) 1.3% (MA) 3%(AU) 2008 có nghĩa là mức thuế ghi trong biểu thuế được áp dụng cho năm 2004.
  14. - 14 - Cột Heading/Sub-heading là mã số hàng hoá đến 4 số, 6 số hoặc 8 số. Cột Stat-Suf-Fix là mã số đuôi phục vụ cho mục đích thống kê của Hoa Kỳ. Những mặt hàng không có mã số đuôi này thì hai số không (00) sẽ được thêm vào sau mã số 8 số. Article Decription là mô tả hàng hóa. Unit of Quantity là đơn vị số lượng (có thể là trọng lượng, hoặc khối lượng hoặc chiếc). Mức thuế phi tối huệ quốc (Non-MFN) được ghi ở cột 2. Mức thuế tối huệ quốc (MFN) được ghi ở cột “General” thuộc cột 1. Mức thuế áp dụng đối với hàng nhập khẩu từ Việt Nam hiện nay là mức thuế MFN ghi ở cột này. Mức thuế ưu đãi được ghi ở cột “Special” thuộc cột 1. Trong mẫu biểu thuế trên ta thấy mức thuế phi tối huệ quốc năm 2008 đối với vải cotton là 25,5%, trong khi đó mức thuế tối huệ quốc đối với mặt hàng này chỉ là 4,4%. Cột “Special” trong mẫu biểu thuế trên ghi Free (BH, CA, CL, IL, JO, MX, P, SG); 1,3% (MA); 3% (AU) có nghĩa là hàng nhập từ các nước có ký hiệu BH, CA, CL, IL, JO, M, P và SG được miễn thuế hoàn toàn, hàng nhập từ Malaysia chịu mức thuế 1,3%, hàng nhập từ Áo chịu mức thuế 3%. Hàng dệt may đa số tính thuế theo trị giá, tức là bằng một tỷ lệ phần trăm trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu. Ví dụ: mức thuế tối huệ quốc (MFN) đối với thảm nhung chất liệu nhân tạo là 8%. Một số loại phải chịu thuế theo trọng lượng hoặc khối lượng. Ví dụ thuế suất đối với các loại vải cotton không chải sợi là 4,4 cent/kg. Thuế suất đánh vào dệt may cũng có nhiều mức thuế:  Mức thuế phi tối huệ quốc (Non-MFN) được áp dụng đối với những nước chưa phải là thành viên WTO và chưa ký hiệp định song
  15. - 15 - phương với Mỹ như Lào, Cuba, Bắc Triều Tiên. Thuế suất Non-MFN đối với hàng dệt may nằm trong khoảng từ 20% đến 50%. Mức thuế Non-MFN được ghi trong cột 2 của biểu thuế HTS của Hoa Kỳ.  Mức thuế tối huệ quốc (MFN) đối với hàng dệt may thường ở mức từ 2% đến 15%, đa số mặt hàng chịu mức thuế từ 7% đến 10%. Mức thuế MFN được ghi trong cột “General” của cột 1 trong biểu thuế nhập khẩu (HTS) của Hoa Kỳ.  Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (Generalized System of Preferences – GSP) của Mỹ được áp dụng đối với hàng dệt may nhập khẩu từ một số nước đang phát triển.  Mức thuế áp dụng với Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA): hàng dệt may nhập khẩu từ Canada và Mexico được miễn thuế nhập khẩu. Thuế suất ưu đãi đối với hàng nhập từ Canada hoặc Mexico được ghi ở cột “Special” của cột 1 trong biểu thuế HTS trong đó CA là ký hiệu dành cho Canada và MX là ký hiệu dành cho Mexico. Ngoài ra, mức thuế đối với hàng dệt may của từng quốc gia cũng phụ thuộc vào các Hiệp định song phương và đa phương khác như Sáng kiến khu vực lòng chảo Caribe (CBI); luật ưu đãi thương mại Andean (ATPDEA) đối với các nước Bolivia, Colombia, Ecuador và Peru; luật hỗ trợ phát triển châu Phi (AGOA); các hiệp định thương mại song phương với Israel, Jordan, Singapore, Chile, Australia. 2.2.1.2 Rào cản phi thuế quan Dựa trên các điều khoản cam kết trong các Hiệp định WTO, chính phủ Mỹ đã ban hành nhiều luật riêng để điều chỉnh thương mại hàng hoá nói chung và một số quy định đối với hàng dệt may nói riêng. Những luật lệ, quy định này lại trở thành rào cản đối với những nước xuất khẩu dệt may vào thị trường Mỹ. - Hạn ngạch dệt may: Trong khuôn khổ của ATC, các hạn ngạch và hạn
  16. - 16 - chế đối với việc buôn bán hàng dệt may được dỡ bỏ dần trong 3 giai đoạn và hết hạn vào ngày 1 tháng 1 năm 2005. Sau đó, tất cả các nước là thành viên WTO sẽ được xoá bỏ hạn ngạch đối với hàng dệt may xuất khẩu vào thị trường Mỹ (trừ Trung Quốc do bị áp dụng điều khoản tự vệ theo thoả thuận với Mỹ khi gia nhập WTO). Những nước không phải là thành viên WTO sẽ tiếp tục là đối tượng của hiệp định dệt may song phương. Việc nhập khẩu hàng dệt từ Canada và Mehico sẽ được điều chỉnh trong NAFTA. - Chống bán phá giá: Có 3 nhóm điều luật Mỹ xử lý các dạng khác nhau của việc bán phá giá: Luật chống bán phá giá năm 1916 nêu hình phạt hình sự và dân sự đối với việc bán phá giá hàng nhập khẩu với giá quá thấp so với trị giá thị trường hoặc giá bán buôn của loại hàng đó, với ý đồ phá hoại hoặc gây thiệt hại cho ngành công nghiệp Mỹ. Phần VII của Luật thuế quan 1930 được bổ sung quy định việc đánh giá và thu thuế chống bán phá giá của chính phủ Mỹ sau khi xác định bằng thủ tục hành chính rằng hàng ngoại nhập đã được bán ở Mỹ với giá thấp hơn giá hợp lý và như vậy đã gây thiệt hại vật chất cho ngành công nghiệp Mỹ. Phần 1317 của Luật về thương mại và cạnh tranh 1988 quy định thủ tục cho USTR yêu cầu chính phủ nước ngoài áp dụng hành động chống lại việc bán phá giá của nước thứ ba làm phương hại tới công nghiệp Mỹ và phần 232 Luật Hiệp định vòng đàm phán Uruguay cho phép một nước thứ ba quyền yêu cầu chống lại việc nhập hàng phá giá từ một nước khác làm thiệt hại ngành công nghiệp ở một nước thứ ba. Các luật này quy định các quy trình, thủ tục tiến hành các bước xác định thiệt hại, quy định thế nào là bán phá giá, các cơ quan có quyền liên quan đến thuế đối kháng và bán phá giá, thời hạn tố tụng. Thời hạn và các bước điều tra chống bán phá giá được quy định như trong bảng sau:
  17. - 17 - Bảng 2.2: Các bước điều tra chống bán phá giá (AD) Ngày Các bước 0 Nộp đơn yêu cầu cho USITC và Bộ Thương mại 20 Bắt đầu điều tra 45 ITC sơ bộ xác định 160 Bộ Thương mại sơ bộ xác định 235 Bộ Thương mại kết luận 280 ITC kết luận - Trợ cấp: các mặt hàng xuất khẩu vào Mỹ bị xác định là được trợ cấp của chính phủ nước xuất khẩu sẽ bị đánh thuế đối kháng. Phần A Chương VII Luật thuế quan 1930, bổ sung bằng Luật Hiệp định thương mại 1979, bổ sung bằng Luật thuế quan và thương mại 1984, Luật về thương mại và cạnh tranh 1988 và Luật về các hiệp định thương mại vòng đàm phán Uruguay nêu rõ: ngoài các loại thuế, phí khác, thuế đối kháng sẽ được đánh tương đương với trị giá tịnh của phần trợ cấp, nếu thoả mãn hai điều kiện: một là, Bộ Thương mại Mỹ cần phải làm rõ là có trợ cấp đối kháng, trực tiếp hay gián tiếp, liên quan đến sản xuất, xuất khẩu của nhóm/loại hàng nhập khẩu hoặc được bán vào Mỹ và phải xác định trị giá của phần trợ cấp tịnh; hai là, Uỷ ban Thương mại quốc tế Mỹ (ITC) phải xác định được là ngành công nghiệp Mỹ bị thiệt hại vật chất, hoặc có nguy cơ bị thiệt hại vật chất, hoặc việc hình thành một ngành công nghiệp Mỹ bị đẩy lùi, vì lý do nhập khẩu mặt hàng đó hoặc việc bán (hoặc tương tự như bán) hàng đó vào Mỹ - gọi là việc kiểm tra thiệt hại. Luật được áp dụng cho nhập khẩu từ các nước WTO là Hiệp định trợ cấp và các biện pháp chống đối kháng. Theo hiệp định này, có 2 loại trợ cấp bị cấm hay còn gọi là trợ cấp “đèn đỏ” là 1.trợ cấp dựa trên năng lực xuất khẩu, 2.trợ cấp dựa trên sử dụng nhiều hàng nội hơn hàng nhập. Hiệp định cho phép 3 loại trợ cấp “đèn xanh” – không gây phản ứng đối kháng – đó là: 1.một số trợ cấp nghiên cứu (ngoại trừ trợ cấp cho ngành hàng không), 2.trợ cấp cho
  18. - 18 - khu vực kém phát triển, 3.trợ cấp cho phương tiện hiện thời đáp ứng yêu cầu mới về môi trường. Đối với các nước đang phát triển có GDP bằng hoặc hơn 1.000USD/người được 8-10 năm (tính từ 1994/1995) để loại bỏ dần trợ cấp xuất khẩu. Đối với các nước kém phát triển có GDP ít hơn 1.000USD/người được 8 năm để loại bỏ dần trợ cấp xuất khẩu cho loại hàng cạnh tranh. Các nước đang phát triển được 5 năm, kém phát triển được 8 năm để loại bỏ dần các biện pháp bị cấm về trợ cấp thay thế hàng nhập khẩu. Thời hạn và các bước điều tra chống trợ cấp được quy định như trong bảng sau: Bảng 2.3: Các bước điều tra chống trợ cấp (CVD) Ngày Các bước 0 Nộp đơn yêu cầu cho USITC và Bộ Thương mại 20 Bắt đầu điều tra 45 ITC sơ bộ xác định 85 Bộ Thương mại sơ bộ xác định 160 Bộ Thương mại kết luận 280 ITC kết luận - Nhãn hiệu thương mại: Những yêu cầu về nhãn hiệu đối với hàng dệt may được quy định cụ thể trong Luật về nhãn sản phẩm len (WPLA) 1939 và quy chế về nhãn mác hàng dệt may (Care Labelling). Tất cả các sản phẩm có chứa sợi len khi nhập khẩu và Mỹ (trừ thảm, chiếu và các sản phẩm đã được sản xuất từ hơn 20 năm trước khi nhập khẩu) đều phải có tem hoặc gắn nhãn theo yêu cầu của WPLA và các quy định dưới luật do FTC ban hành. Những thông tin cần có là:  Tỷ lệ trọng lượng các sợi thành phần của sản phẩm len (trừ các thành phần trang trí dưới 5% tổng trọng lượng) gồm len mới, len tái chế, các sợi khác không phải len (nếu lớn hơn 5%) và tổng số các sợi khác không phải len.
  19. - 19 -  Tỷ lệ tối đa tổng trọng lượng len, các thành phần không phải sợi (nonfibrous), các chất phụ khác.  Tên nhà sản xuất hoặc tên người đưa sản phẩm vào lưu thông tại Mỹ (nhà nhập khẩu). Luật WPLA cũng yêu cầu xuất trình hoá đơn thương mại cho các lô hàng nhập khẩu có trị giá trên 500 USD. Hoá đơn thương mại phải đầy đủ các thông tin theo yêu cầu của luật này. Quy chế về nhãn mác hàng dệt may yêu cầu các nhà sản xuất và nhà nhập khẩu quần áo và một số sản phẩm dệt phải cung cấp những chỉ dẫn thông thường về bảo quản sản phẩm tại thời điểm những sản phẩm đó được bán cho người mua hay thông qua việc sử dụng các ký hiệu về bảo quản hay các cách khác được mô tả trong quy định này. Các mặt hàng phải tuân thủ luật này gồm: quần áo mặc để che hay bảo vệ thân thể. Các mặt hàng được miễn trừ áp dụng quy định này gồm giày dép, găng tay, mũ, khăn mùi xoa, thắt lưng, dây nịt tất, ca vát. Các loại quần áo không thuộc loại dệt và được làm ra chỉ để dùng một lần thì không phải có chỉ dẫn sử dụng thông thường. Theo quy định của luật này các nhà sản xuất và nhập khẩu phải:  Cung cấp đầy đủ những chỉ dẫn về bảo quản thông thường đối với quần áo, hay cung cấp những cảnh báo nếu như quần áo có thể bị hỏng khi giặt  Đảm bảo những chỉ dẫn bảo quản, nếu được tuân thủ, sẽ không gây thiệt hại đáng kể đối với sản phẩm  Cảnh báo người tiêu dùng về một số quy trình mà họ cho rằng có thể phù hợp với những chỉ dẫn trên nhãn nhưng vẫn có thể gây ảnh hưởng đến sản phẩm. Ví dụ, một chiếc quần có thể bị hỏng khi là, và nhãn phải ghi chữ “không được là”  Đảm bảo rằng nhãn hướng dẫn sử dụng sẽ tồn tại rõ ràng trong suốt
  20. - 20 - quá trình sử dụng của sản phẩm. Nhà sản xuất hay nhà nhập khẩu phải có cơ sở hợp lý cho những chỉ dẫn sử dụng và bảo quản ghi trên nhãn hướng dẫn sử dụng. Điều đó có nghĩa là phải có chứng cớ xác thực để biện minh cho những chỉ dẫn bảo quản của mình. Ví dụ, nhà sản xuất không thể nói “chỉ được giặt khô” trừ phi họ có lý do để chứng minh rằng giặt nước thông thường sẽ làm hỏng sản phẩm. - Quy định về xuất xứ hàng hoá: Luật phân biệt các sản phẩm sợi dệt (TFPIA) và các quy định của Uỷ ban thương mại liên bang (FTC) quy định các sản phẩm sợi dệt nhập khẩu vào Mỹ phải được dán tem hoặc gắn nhãn hoặc đánh dấu cung cấp những thông tin liên quan đến loại sợi. Những thông tin phải cung cấp theo yêu cầu của Luật TFPIA gồm:  Tên và tỷ lệ phần trăm theo trọng lượng của các loại sợi cấu thành sản phẩm dệt (không kể sợi trang trí cho phép) với trọng lượng lớn hơn 5% trong sản phẩm, theo thứ tự tỷ lệ trọng lượng giảm dần. Các sợi thành phần có trọng lượng từ 5% trở xuống được ghi là “sợi khác” hoặc “các sợi khác” ở cuối cùng.  Tên của nhà sản xuất hoặc tên số đăng ký (do FTC) cấp của một hoặc nhiều nguời bán hoặc giao dịch sản phẩm sợi này. Tên thương hiệu (trademark) đã được đăng ký tại Cơ quan đăng ký sở hữu trí tuệ của Mỹ có thể được ghi trên tem hoặc nhãn thay cho các tên khác, nếu chủ của thương hiệu này trước đó đã cung cấp cho FTC một bản sao thương hiệu  Tên của nước gia công hoặc nước sản xuất Hàng nhập khẩu vào Mỹ không tuân thủ các quy định cung cấp thông tin liên quan đến thành phần sợi của sản phẩm sẽ bị Hải quan Mỹ giữ hàng lại và tiến trình giao hàng do vậy có thể bị chậm lại. - Bản quyền: Phần 602(a) thuộc Luật sửa đổi về bản quyền nhãn hiệu 1976 quy định rằng việc nhập khẩu vào Mỹ các bản sao chép từ nước ngoài mà
  21. - 21 - không được phép của người có bản quyền là vi phạm luật bản quyền, và sẽ bị bắt giữ và tịch thu, các bản sao sẽ bị huỷ. Tuy nhiên, các hàng hoá này có thể được trả lại nước xuất khẩu nếu chứng minh thoả đáng cho cơ quan Hải quan là hàng không phải cố tình vi phạm. Các chủ sở hữu bản quyền muốn được cơ quan hải quan Mỹ bảo vệ quyền lợi cần đăng ký khiếu nại bản quyền với Văn phòng bản quyền và đăng ký với Hải quan theo quy định hiện hành Nếu hàng hoá thuộc quyền sở hữu của người khác thì người không có quyền đó không được nhập khẩu sản phẩm đó vào Mỹ. - Tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm: Mức độ sử dụng các tiêu chuẩn do các tổ chức tiêu chuẩn quốc tế ban hành ở Mỹ tương đối thấp, hoặc thậm chí các tiêu chuẩn này không được biết đến ở Mỹ. Tất cả các bên của Hiệp định Rào cản kỹ thuật đối với thương mại (TBT) đều cam kết sử dụng rộng rãi hơn các tiêu chuẩn quốc tế nhưng mặc dù khá nhiều tiêu chuẩn của Mỹ được coi “tương đương về mặt kỹ thuật” với các tiêu chuẩn quốc tế, và một số các tiêu chuẩn đó thực tế đã được sử dụng rộng rãi trên thế giới, rất ít các tiêu chuẩn quốc tế được áp dụng trực tiếp và một số tiêu chuẩn của Mỹ còn mâu thuẫn trực tiếp với các tiêu chuẩn quốc tế. Các bang của Mỹ cũng có quy định khác nhau. Ở Mỹ có hơn 2.700 cơ quan chính quyền cấp bang và thành phố có quy định cụ thể về các tiêu chuẩn kỹ thuật và an toàn đối với các sản phẩm được bán trong phạm vi địa hạt của các cơ quan này. Những yêu cầu này thường là không đồng nhất hoặc nhất quán với nhau. Sự không thống nhất này là một rào cản kỹ thuật lớn gây cản trở thương mại đối với hàng nhập khẩu trong đó có dệt may. - Mã số nhà sản xuất hàng dệt may (MID): Theo quy định của Cục Hải quan và Bảo vệ biên giới Mỹ (CPB), kể từ ngày 05/10/2005, các nhà nhập khẩu hàng dệt may Mỹ phải khai báo mã số của nhà sản xuất nước ngoài (Manufacturer Identification Code viết tắt là MID). Mã MID là cơ sở để CPB xác định xuất xứ hàng hoá và ngăn chặn hàng hoá khai sai xuất xứ nhập khẩu
  22. - 22 - vào Mỹ. Mã MID chỉ dành cho các nhà sản xuất chứ không dành cho các công ty kinh doanh hoặc công ty bán hàng không phải là nhà sản xuất. Nếu nghi ngờ mã MID không phải là của nhà sản xuất, Hải quan cảng có thể yêu cầu sửa đổi thông tin sau khi hàng đã qua cửa khẩu. Lỗi lặp lại trong khai báo mã MID khi nhập khẩu có thể dẫn đến tăng mức phát đối với công ty nhập khẩu hoặc công ty môi giới hải quan. Ngoài ra, Mỹ cũng sử dụng các tiêu chuẩn về môi trường theo ISO 14000 và tiêu chuẩn về an toàn lao động SA 8000 đối với hàng dệt may nhập khẩu. 2.2.2 Tình hình nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam của Mỹ 2.2.2.1 Thực trạng nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ Hoa Kỳ là một trong những thị trường tiêu thụ chính của hàng dệt may thế giới. Nhập khẩu dệt may của Mỹ trong giai đoạn từ năm 1990 đến 2007 tăng trưởng bình quân hàng năm với tốc độ 7.25%/năm. 96.41 93.28 89.21 83.31 77.43 71.69 72.18 70.24 63.74 60.39 54.00 45.91 43.95 39.98 36.08 34.11 27.94 29.04 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Đơn vị: tỷ USD Hình 2.1: Tổng kim ngạch dệt may của Mỹ (thời kỳ 1990 – 2007) Nhập khẩu năm 2007 tăng gần gấp đôi về mặt lượng so với 10 năm trước
  23. - 23 - đó, năm 1997. Mặc dù các rào cản đối với nhập khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ rất đa dạng, phức tạp và ẩn dưới nhiều hình thức khác nhau, nhập khẩu vào thị trường Mỹ được dự đoán là vẫn tăng đều trong những năm sắp tới. Bảng 2.4: Kim ngạch nhập khẩu dệt may của Mỹ từ một số nước xuất khẩu chính đơn vị: triệuUSD Country 2003 2004 2005 2006 2007 Thế giới 77.434 83.310 89.205 93.278 96.407 Trung Quốc 11.608 14.558 22.405 27.067 32.320 Mêhicô 7.940 7.793 7.246 6.376 5.625 Ấn Độ 3.211 3.633 4.616 5.031 5.103 Việt Nam 2.484 2.719 2.880 3.396 4.557 Inđônêsia 2.375 2.620 3.081 3.901 4.206 Băngladesh 1.939 2.065 2.456 2.997 3.191 Pakistan 2.215 2.546 2.904 3.250 3.170 Honduras 2.507 2.677 2.629 2.445 2.517 Campuchia 1.251 1.441 1.726 2.150 2.435 Ý 2.182 2.260 2.143 2.067 2.233 Canada 3.117 3.085 2.844 2.587 2.201 Hồng Kông 3.817 3.959 3.606 2.892 2.123 Thái Lan 2.072 2.198 2.124 2.124 2.059 Philippines 2.040 1.938 1.921 2.085 1.794 Nguồn : OTEXA Các nước xuất khẩu dệt may chính vào Hoa Kỳ là Trung Quốc, Mêhicô, Ấn Độ, Hồng Kông, Canada, Inđônêsia, Honduras, Việt Nam, Pakistan, Campuchia, Italia, Thái Lan, Philippines. Năm 2005, kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Hoa Kỳ lên tới 89,2 tỷ USD. Phần lớn sự gia tăng nhập khẩu trong năm 2005 là do kết quả của việc loại bỏ hạn ngạch nhập khẩu từ ngày 1/1/2005 đối với hàng dệt may từ 39 nước là thành viên WTO. Trong khi đó, sản xuất nội địa giảm 0,5% đối với hàng dệt và 3% đối với hàng may. Tăng nhập khẩu từ các nước châu Á, đặc biệt là Trung Quốc là nguyên nhân chính làm tăng thâm hụt. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Trung Quốc vào Hoa Kỳ không
  24. - 24 - những lớn nhất mà còn có tốc độ tăng trưởng cao. Sau khi hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may được xóa bỏ giữa các nước thành viên WTO, xuất khẩu dệt may của Trung Quốc vào Hoa Kỳ đã tăng vọt. Năm 2005, Trung Quốc xuất vào Hoa Kỳ xấp xỉ 22,5 tỷ USD, tăng 53,9 % so với năm 2004 và chiếm 25,11 % tổng kim ngạch nhập khẩu dệt may của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, sau khi Hoa Kỳ áp dụng trở lại hạn ngạch đối với Trung Quốc từ tháng 5/2005 thì tốc độ tăng nhập khẩu hàng dệt may từ nước này vào Hoa Kỳ đã chậm lại. Tiếp theo Trung Quốc, Ấn Độ được đánh giá có khả năng cạnh tranh lớn thứ hai ở thị trường Hoa Kỳ. Năm 2005, Ấn Độ xuất khẩu vào Hoa Kỳ 5,2 tỷ USD, tăng 26,5 % so với năm 2004. Sức mạnh cạnh tranh của Ấn Độ dựa vào lực lượng lao động nhiều, khá rẻ, lành nghề; có khả năng thiết kế; là một trong những nước sản xuất sợi và vải lớn nhất thế giới; có thể sản xuất rất nhiều loại quần áo khác nhau; được coi là nguồn cung cấp cạnh tranh về các sản phẩm dệt sử dụng trong nhà như vải trải giường, khăn tắm. Trong số các nước ASEAN, chỉ có Việt Nam và ở chừng mực thấp hơn là Inđônêsia được đánh giá là có khả năng cạnh tranh với Trung Quốc và Ấn Độ. Mêhicô và Canada, hai quốc gia hầu như được miễn thuế hoàn toàn đối với hàng dệt may xuất khẩu sang Mỹ theo Hiệp định NAFTA đang mất dần lợi thế cạnh tranh vào tay các nước đang phát triển khi các nước này giảm được các rào cản thuế quan (được hưởng mức thuế MFN) và được xoá bỏ chế độ hạn ngạch khi gia nhập WTO. Bảng dưới đây tóm tắt ảnh hưởng của việc loại bỏ hạn ngạch dệt may năm 2005 và những yếu tố cạnh tranh chính của một số quốc gia và khu vực. Bảng 2.5: Tóm tắt những ảnh hưởng của việc loại bỏ hạn ngạch dệt may năm 2005 và những yếu tố cạnh tranh chính Khu vực Những khả năng ảnh hưởng Những yếu tố ảnh hưởng tới do loại bỏ hạn ngạch cạnh tranh Trung Có thể trở thành nguồn cung cấp Lao động - Chi phí lao lao động
  25. - 25 - Quốc được hầu hết các công ty kinh doanh trên mỗi đơn vị sản phẩm rất thấp và bán lẻ quần áo HK lựa chọn; Tăng do mức lương thấp và năng suất trưởng xuất khẩu vào Hoa Kỳ có thể lao động cao. bị ảnh hưởng do Hoa Kỳ có thể áp dụng những biện pháp tự vệ đặc biệt. Vật tư: có thể sản xuất các loại Về lâu dài, khả năng cạnh tranh có vải, đồ trang trí, bao bì, và hầu thể giảm đi do tăng trưởng kinh tế hết các phụ kiện khác dùng để mạnh dẫn đến tăng nhu cầu nội địa sản xuất hàng dệt may và các sản cũng như tăng chi phí lao động và phẩm dệt khác. vốn để sản xuất những mặt hàng này. Sản phẩm - Được các giới Thực tế cho thấy Trung Quốc đã có chuyên ngành đánh giá là một sự tăng trưởng rất mạnh về xuất khẩu nơi tốt nhất về sản xuất quần áo, của những hàng được hưởng quy chế và các sản phẩm dệt may khác WTO loại bỏ hạn ngạch trong năm với bất kỳ chất lượng nào hay với 2002. bất cứ mức giá nào. Là nước sản xuất và xuất khẩu hàng dệt maylớn nhất thế giới, mặc dù phải chịu hạn ngạch rất chặt chẽ ở các nước nhập khẩu chính của thế giới. Ấn Độ Có thể vẫn là một nguồn cung cấp Lao động- lực lượng lao động cạnh tranh cho Hoa Kỳ khi hạn ngạch nhiều, khá rẻ, lành nghề; có khả được loại bỏ vào năm 2005. Được các năng thiết kế. công ty Hoa Kỳ coi là một nguồn thay thế chủ yếu cho nguồn từ Trung Vật tư- thuộc số các nhà sản xuất Quốc. sợi và vải lớn nhất thế giới. Về lâu dài, khả năng cạnh tranh có Sản phẩm – có thê sản xuất rất thể giảm do tăng trưởng kinh tế mạnh nhiều loại quần áo khác nhau; sẽ dẫn đến tăng nhu cầu nội địacung được xem là một nguồn cung cấp như tăng chi phí lao động và vốn để cạnh tranh về các sản phẩm dệt sản xuất các hàng này. trong nhà (ví dụ như vải trải giường, khăn tắm). Môi trường kinh doanh - An toàn cá nhân, an toàn giao hàng từ nhà máy đến cảng, hành chính quan liêu và cơ sở hạ tầng có vấn đề; do vậy, nhiều công ty Hoa Kỳ đang sử dụng đại lý để thay cho việc giao dịch trực tiếp với các nhà sản xuất. ASEAN Tỷ trọng của các nước nay trong nhập Lao động- chi phí lao động khá khẩu hàng dệt may của Hoa Kỳ có thể cao tại các nước ASEAN trừ giảm do các công ty Hoa Kỳ nói Indonesia và nước không phải là chung sẽ giảm mua từ hầu hết các thành viên WTO như Việt nam - nước trong khu vực này (trừ một số ít nước không được hưởng việc
  26. - 26 - nước). loại bỏ hạn ngạch. Vận tải- Thời gian giao hàng tới bờ tây Hoa Kỳ khoảng 45 ngày so với 12 đến 18 ngày từ Trung Quốc. Mehico Tỷ trọng trong tổng nhập khẩu của Lao động - Chi phí lao động khá Hoa Kỳ có thể giảm hơn nữa, mặc dù cao; chất lượng sản phẩm và tính có những ưu đãi của NAFTA. Có thể tin cậy của sản xuất có vấn đề; vẫn là một nguồn cung cấp ngách Cấp quản lý bậc trung chịu trách (niche) cho một số quần áo cơ bản, nhiệm điều hành nhà máy bị coi đặc biệt là hàng cần gấp. là yếu; kỹ năng thiết kế sản phẩm hạn chế. Có tiềm năng tăng xuất khẩu sợi và vải sang các nước khác trong khu vực Vật tư- sản xuất các loại vải dệt châu Mỹ theo các điều kiện của khu thoi và dệt kim. Chi phí thấp hơn vực mậu dịch tự do toàn Châu Mỹ so với sản phẩm tương tự của đang đàm phán hoặc sang các nước Hoa Kỳ nhưng cao hơn các sản Trung Mỹ nếu hiệp định thương mại phẩm cùng loại của châu á. tự do Mỹ – Trung Mỹ đang đàm phán cho phép sử dụng đầu vào của Sản phẩm- tập trung vào các loại Mêhicô. quần áo cơ bản sản xuất hàng loạt, đặc biệt là quần bò vải bông 5 túi, áo các loại dệt kim và đồ lót; công suất hạn chế đối với các loại quần áo thời trang. Khả năng cung cấp dịch vụ trọn gói có hạn Môi trường kinh doanh- phát sinh thêm chi phí để đảm bảo giao hàng chắc chắn từ nhà máy tới biên giới Hoa Kỳ và tuân thủ các yêu cầu về chứng từ để được hưởng ưu đãi theo NAFTA. CBERA Hầu hết các công ty Hoa Kỳ cho biết Sản phẩm- Các sản phẩm quần (Các nước họ sẽ giảm mua từ khu vực các nước áo sản xuất hàng loạt, đặc biệt là được hưởng CBERA, đặc biệt nếu như hiệp định những hàng có hàm lượng lao ưu đãi mậu dịch tự do Hoa Kỳ-Trung Mỹ động thấp và ít có những quy thương mại đang đàm phán không cho phép sử trình may phức tạp. theo Luật dụng vải khu vực (Mêhicô) hay từ Phục hồi các nước thứ ba (Mêhico hay Châu Vật tư- phụ thuộc nhiều vào nhập Kinh tế á). khẩu vải sợi từ Hoa Kỳ, phần lớn Khu vực thể hiện hàm lượng nguyên liệu Lòng chảo Tuy nhiên, cho dù không có điều Hoa Kỳ để được hưởng những Caribê) khoản cho phép sử dụng vải của khu ưu đãi thương mại theo CBTPA. vực hay nước thứ ba trong hiệp định Vải Hoa Kỳ và khu vực đáp ứng khu vực mậu dịch tự do Hoa Kỳ- tiêu chuẩn hưởng ưu đãi CBTPA Trung Mỹ, khu vực này vẫn có thể thường đắt hơn các vải tương tự
  27. - 27 - tiếp tục là nguồn cung đối với các sản xuất từ các nước châu á. loại quần áo sản xuất hàng loạt có hàm lượng lao động tối thiểu và đối Vận chuyển- Có những ưu thế do với các đơn hàng có vòng quay gấp. gần với thị trường Hoa Kỳ. Những ưu đãi đặc biệt: được nhập khẩu miễn thuế vào Hoa Kỳ theo CBERA. ANDEAN Tỷ trọng trong tổng nhập khẩu của Những ưu đãi đặc biệt- Luật Hoa Hoa Kỳ có thể giảm nhưng vẫn là Kỳ ban hành tháng 8/2002 dành một nguồn cung cấp ngách (niche) cho hàng quần áo nhập khẩu từ cho thị trường này. các nước thuộc khu vực vào thị trường này được miễn thuế khi sử dụng nguyên liệu vải và sợi khu vực. Thổ nhĩ kỳ Vị trí là nguồn cung cho thị trường Vật tư- Có nguồn cung cấp nội Hoa Kỳ trong tưong lai chưa chắc địa về bông thô, sợi và vải bông. chắn. Một số công ty cho rằng Thổ nhĩ kỳ có thể là một nguồn cung cấp Những ưu đãi đặc biệt- Gần và hấp dẫn nếu nước này có hiệp định được xuất khẩu miễn thuế vào thị mậu dịch tự do với Hoa Kỳ. Một số ít trường EU. công ty cho rằng họ sẽ tiếp tục tăng đặt hàng từ Thổ nhĩ Kỳ cho dù nước Sản phẩm- Có ngành công này không có hiệp định khu vực mậu nghiệp dệt dựa vào bông và dịch tự do với Hoa Kỳ. ngành quần áo hướng vào xuất khẩu lớn; Có khả năng cung ứng Có thể tiếp tục là một nhà cung cấp hàng quay vòng nhanh và hàng toàn cầu về vải bông. thời trang. Vận chuyển – Thòi gian vận chuyền tới thị trường Hoa Kỳ tương tự như từ Đông á. Israel và Israel vẫn có thể tiếp tục là một Lao động- Sản xuất ở Israel tự Jordan nguồn cung cấp ngách (niche) về động hoá cao và chi phí lao động hàng quần áo lót và mặc trong nhà. cao. Chi phí lao động khá thấp ở Jordan. Jordan sẽ vẫn là một nhà cung cấp ngách cho loại quần áo phải chịu mức Những ưu đãi đặc biệt- Theo thuế nhập khẩu cao của Hoa Kỳ, như Hiệp định thương mại tự do với là các quần áo sợi tổng hợp. Tuy Israel, Hoa Kỳ đã lập ra chương nhiên, việc mua hàng từ Jordan có thể trình “khu công nghiệp được bị ảnh hưởng bởi kết quả các cuộc hưởng lợi” với Jordan và Israel. đàm phán thương mại tự do với các Chương trình này dành ưu đãi nước ở Tây bán cầu. Nếu hiệp định miễn thuế nhập khẩu vào Hoa Kỳ thương mại tự do Hoa Kỳ-Trung Mỹ đối với những hàng dệt may đủ hay Khu vực mậu dịch tự do toàn tiêu chuẩn hưởng lợi. Châu Mỹ (FTAA) cho phép nhập khẩu miễn thuế vào Hoa Kỳ quần áo
  28. - 28 - được sản xuất ở những nước này bằng vải trong khu vực hay từ nước thứ ba thì các công ty Hoa Kỳ có thể chuyển hướng sang mua từ khu vực này thay cho mua từ các nguồn xa như Jordan. Nguồn: Đánh giá của Uỷ ban thương mại quốc tế (ITC) dựa trên kết quả phỏng vấn các đại diện của các công ty nhập khẩu và bán lẻ quần áo và dệt may Hoa Kỳ, các nhà sản xuất và đầu tư dệt may nước ngoài, và các quan chức chính phủ nước ngoài. Trong những tháng đầu năm 2008, nhập khẩu hàng may mặc của Mỹ giảm 1,8% so với cùng kỳ, từ 11,7 tỷ USD xuống còn 11,5 tỷ USD trong 2 tháng đầu năm 2008. Nhập khẩu từ Trung quốc trong 2 tháng trên giảm 6,8% xuống còn 3,4 tỷ USD. Tuy nhiên, so với một năm trước, thị phần của Trung Quốc trên thị trường hàng may mặc nhập khẩu của Mỹ chỉ giảm 1%, vẫn còn chiếm ở mức cao 32.70%.Nhập khẩu từ Việt nam tăng mạnh tới 45%, đạt 825 triệu và thay thế Mexico trở thành nhà cung cấp lớn thứ 2 vào thị trường Mỹ. Indonesia, nhà cung cấp lớn thứ 5 giảm nhẹ 0,1%, còn 683 triệu USD. Mexico giảm 10,2% xuống còn 616 triệu USD. Nhập khẩu từ Ấn độ, nước đứng thứ 3 trong số các nhà nhập khẩu vào Hoa kỳ, trong giai đoạn tháng 1- 2/2008 tăng 4,1% lên 598 triệu USD. Thái lan và Philippin lần lượt giảm 2,8% và 12,5% xuống còn 295 và 251 triệu USD. Đồng thời, nhập khẩu từ các nước thành viên Asean tăng 8,7% so với cùng kỳ, đạt 2,6 tỷ USD, trong lúc nhập khẩu từ các nước CAFTA giảm nhẹ 0,1% xuống còn 1,2 tỷ USD trong 2 tháng đầu năm 2008. 2.2.2.2 Thực trạng nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ đối với hàng dệt may Việt Nam Trước năm 1994, do ảnh hưởng về mặt chính trị, Mỹ cấm vận Việt Nam, nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam của Mỹ luôn bằng 0. Năm 1994, lần đầu tiên Việt Nam xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ với kim ngạch xấp xỉ 3 triệu USD.
  29. - 29 - Tháng 7/1995, Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã tuyên bố dỡ bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam và chính thức bình thường hoá quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ. Với việc bình thường hoá quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, lần đầu tiên Việt Nam có quan hệ với tất cả các nước lớn trên thế giới. Sự kiện này cũng giúp thúc đẩy nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam ở Mỹ tăng lên 17,5triệu USD trong năm 1995 và tiếp tục tăng lên 23,9 triệu USD và 26,4 triệu USD lần lượt trong các năm 1996 và 1997. Nguồn: OTEXA Hình 2.2: Nhập khẩu quần áo của Mỹ từ Việt Nam tính theo triệu USD, 10 năm (1998-2007) Tuy nhiên, lượng xuất khẩu sang thị trường Mỹ còn ở mức thấp do khi đó Việt Nam chưa phải là thành viên WTO cũng chưa ký hiệp định song phương với Hoa Kỳ, phải chịu mức thuế phi tối huệ quốc. Thuế suất phi tối huệ quốc nằm trong khoảng từ 20% đến 110%. Việt Nam chỉ xuất cảng được xấp xỉ 50 triệu đô la Mỹ hàng dệt may vào Hoa Kỳ vào năm 2001 vì thuế nhập cảng cao. Kể từ khi có Hiệp định thương mại song phương (BTA) năm 2001, hàng dệt may Việt Nam được hưởng mức thuế Quan hệ thương mại bình thường (NTR), hay còn gọi là mức thuế Tối huệ quốc (MFN). Mức thuế tối huệ quốc đối với hàng dệt may nằm trong
  30. - 30 - phạm vi từ dưới 5% đến 15%. Chính nhờ được hưởng mức thuế ưu đãi này mà nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam năm 2002 tăng vọt lên mức 951,72 triệu USD, gấp hơn 19 lần so với năm 2001 và tiếp tục tăng lên mức 2.484,26 triệu USD năm 2003. Hàng dệt may không được đề cập trong Hiệp Định Thương Mại Việt-Mỹ. Tuy nhiên, phía Mỹ cho rằng mức nhập khẩu này có khả năng gây rối loạn thị trường dệt may Mỹ nên đòi hỏi Việt Nam phải thương lượng về hạn ngạch áp dụng vào hàng dệt may. Vào tháng 4 năm 2003, hai nước đã đạt được một thỏa hiệp về hàng dệt may. Theo Hiệp định này, trị giá hàng dệt may quản lý bằng hạn ngạch năm 2003 gồm 25 nhóm hàng và 38 mặt hàng cụ thể sau: Bảng 2.6: Các mặt hàng dệt may quản lý bằng hạn ngạch Cat nhóm Đơn Hạn ngạch Mặt hàng hàng vị 2003 200 Chỉ may, sợi để bán lẻ Kg 300.000 301 Sợi, bông đã chải Kg 680.000 332 Tất chất liệu bông Tá 1.000.000 333 Áo khoác nam dạng comple Tá 36.000 334/335 Áo khoác nam nữ chất liệu bông Tá 675.000 338/339 Sơ mi dệt kim nam nữ chất liệu bông Tá 14.000.000 340/640 Sơmi nam dệt thoi chất liệu bông và sợi Tá 2.000.000 341/641 Sơmi dệt thoi chất liệu bông và sợi nhân tạo Tá 762.698 342/642 Váy ngắn chất liệu bông và sợi nhân tạo Tá 554.654 345 Aó len chất liệu bông Tá 300.000 347/348 Quần nam nữ chất liệu bông Tá 7.000.000 351/651 Quần áo ngủ chất liệu bông và sợi nhân tạo Tá 582.000 352/652 Đồ lót chất liệu bông và sợi nhân tạo Tá 1.850.000 359/659-c Quần yếm Kg 325.000 359/659-s Quần áo bơi Kg 525.00 434 Aó khoác nam chất liệu len Tá 16.200 435 Áo khoác nữ chất liệu len Tá 40.000 440 Sơmi nam, nữ chất liệu len Tá 2.500 447 Quần nam chất liệu len Tá 52.500 448 Quần nữ chất len Tá 32.000 620 Vải bằng sợi filamăng tổng hợp khác m2 6.364.000 632 Chất liệu sợi nhân tạo Tá 500.000 638/639 Áo sơmi nam nữ dệt kim chất liệu sợi tơ nhân Tá 1.271.000 tạo 645/646 Aó len chất liệu sợi tơ nhân tạo Tá 200.000 647/648 Quần nam nữ chất liệu sợi nhân tạo Tá 1.973.318
  31. - 31 - Các mức hạn ngạch này sẽ được tăng thêm 7% mỗi năm (2% đối với các sản phẩm từ len). Hiệp định sẽ có hiệu lực từ ngày 01/05/2003 đến ngày 31/12/2004. Nếu các Bên không chấm dứt Hiệp định hoặc đàm phán lại Hiệp định trước ngày 01/12/2004 hoặc trước ngày 01/12 của các năm sau đó cho đến khi Việt Nam gia nhập WTO, thì Hiệp định này sẽ tự động có hiệu lực thêm một năm nữa. Các hạn ngạch cụ thể có thể được điều chỉnh (tăng lên) không quá 6% một năm (bằng cách điều chỉnh các hạn ngạch khác (giảm xuống) để tổng hạn ngạch không thay đổi). Các hạn ngạch cụ thể cũng có thể được điều chỉnh hàng năm bằng cách Mượn trước (vay một phần hạn ngạch của năm tiếp theo) hoặc Chuyển tiếp (sử dụng những phần hạn ngạch chưa dùng của năm trước), mặc dù vậy không có hạn ngạch nào được phép điều chỉnh quá 11% một năm bằng cách sử dụng những điều chỉnh linh hoạt nêu trên. Phần Mượn trước sẽ chiếm không quá 8% đối với các Cat. 338/339 và 347/348, và chiếm không quá 6% cho tất cả các sản phẩm khác. Với mức hạn ngạch như trên được áp dụng từ 01/05/2003, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam không có sự đột phá mà tăng đều đặn, kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam của Mỹ từ năm 2003 đến năm 2006 lần lượt là 2.484,26 triệu USD; 2.719, 64 triệu USD; 2.880,54 triệu USD và 3.396,09 triệu USD. Việc Việt Nam gia nhập WTO vào đầu năm 2007 đã tạo ra một thuận lợi lớn cho ngành dệt may Việt Nam. Ngày 11/01/2007, tân Chủ tịch Uỷ ban Thực thi các hiệp định hàng dệt Hoa Kỳ (CITA) Matthew Priest đã tuyên bố chính thức huỷ bỏ hạn ngạch dệt may đối với hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam theo các cam kết của WTO. Do không còn bị không chế bởi hạn ngạch, các doanh nghiệp dệt may sẽ có nhiều cơ hội xuất khẩu theo nhu cầu thị trường, theo các hợp đồng ký với các khách hàng nhập khẩu Hoa Kỳ. Tuy nhiên, dự đoán trước tình hình này, ngay khi hàng dệt may Việt Nam
  32. - 32 - được xoá bỏ hạn ngạch nhập khẩu vào thị trường Mỹ, phía Mỹ đã đưa ra cơ chế giám sát hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam với mục đích lấy các số liệu nhằm điều tra hàng dệt may Việt Nam có được bán phá giá vào Mỹ, gây ảnh hưởng đến ngành công nghiệp dệt may của Mỹ hay không. Cơ chế này tập trung vào việc thu thập các số liệu cơ bản như: lượng hàng xuất khẩu, giá trị, đơn giá đối với 5 nhóm hàng chính bao gồm quần âu (cat 347/ 348/ 447/ 448/ 647/ 648/ 847), áo sơ mi (cat 338/ 339/ 340/ 341/ 438/ 440/ 638/ 639/ 640/ 641/ 838/ 840), đồ lót (cat 352/652/852), đồ bơi (cat 359-s/659-s) và áo len (cat 345/445/446/645/646/845) và tiến hành phân tích mức độ ảnh hưởng của các nhóm hàng này đến ngành công nghiệp dệt may Mỹ định kỳ 6 tháng một lần. Những mặt hàng được giám sát bởi cơ chế này có thể được điều chỉnh trong tương lai tương ứng với các dữ liệu đầu vào nhận được từ các bên liên quan, các thay đổi trong thương mại hoặc được Uỷ ban giám sát mở rộng các mã hàng và nhóm hàng căn cứ vào cơ cấu, lợi ích của ngành công nghiệp dệt may nội địa. Có sự khác biệt lớn giữa quy chế giám sát hàng dệt may Việt Nam so với việc chống bán phá giá: đối với trường hợp áp dụng chống bán phá giá, Mỹ phải xác định được liệu hàng Việt Nam có sự phân biệt về giá ở các thị trường khác nhau hay không và các nhà sản xuất của Mỹ chịu thiệt hại từ sản xuất Việt Nam. Tuy nhiên, quy chế này cũng ảnh hưởng rất lớn tới xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ vì quy chế này dẫn đến nhiều thủ tục, công đoạn giấy tờ phức tạp, hoặc đòi hỏi cửa khẩu mới nên sẽ trở thành gánh nặng đối với các nhà nhập khẩu dệt may của Mỹ. Trong 5 tháng đầu năm 2007, kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam tăng thấp hơn so với kế hoạch, bình quân mỗi tháng chỉ đạt hơn 500 triệu USD. Các nhà nhập khẩu Mỹ cũng chậm trễ trong việc ký hợp đồng quý 3/2007 với hàng dệt may Việt Nam vì lo ngại những phản ứng của cơ quan quản lý phía Mỹ sẽ gây bất lợi cho việc nhập khẩu và kinh doanh hàng dệt may Việt Nam.
  33. - 33 - Một số công ty thành viên Hiệp hội các nhà nhập khẩu dệt may Hoa Kỳ (USD-ITA) đã xem xét lại việc tìm nguồn hàng từ Việt Nam. Các nhà bán lẻ thuộc Liên đoàn bán lẻ quốc gia (NRF) cũng đã hạn chế mức độ rủi ro cao bằng cách hạn chế tìm kiếm nguồn hàng tại Việt Nam, cắt giảm đáng kể hoặc chấm dứt hoàn toàn các đơn đặt hàng của họ từ cuối năm 2007. Trong khi đó, các nhà sản xuất tại Việt Nam lo ngại trước việc các đơn hàng giảm, yếu tố rủi ro cao, vì thế nên một số doanh nghiệp đã chuyển từ việc làm theo phương thức FOB trước đây sang gia công thuần túy. Xét về tổng thể, đây cũng là một thiệt hại lớn đối với ngành dệt may Việt Nam, sau nhiều năm nỗ lực nâng cấp chuyển hình thức từ gia công thuần túy lên phương thức sản xuất FOB (tạm hiểu doanh nghiệp mua nguyên liệu và sản xuất theo đơn đặt hàng dưới sự đồng ý của chủ hàng). Mặc dù vậy, xuất khẩu dệt may của Việt Nam vào thị trường Mỹ năm 2007 vẫn có mức tăng ấn tượng. Tính chung cả năm 2007, lượng hàng dệt may Việt Nam nhập khẩu vào Mỹ tăng khoảng gần 30% so năm 2006, với giá trị tuyệt đối lên đến gần 1,2 tỷ USD, chiếm khoảng 56% trong tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam. Tất cả 5 Cat hàng dệt may bị áp dụng cơ chế giám sát không có biểu hiện nào đáng lo ngại và phía Mỹ cũng tuyên bố chưa bán phá giá vào thị trường Mỹ Đến đầu năm 2008, Mỹ vẫn tiếp tục duy trì chương trình giám sát. Quyết định mới đây cho thấy, Mỹ không giảm bớt số mặt hàng nằm trong diện giám sát và cũng không nêu các tiêu chí, điều kiện cụ thể làm cơ sở tự khởi kiện điều tra chống bán phá giá hàng dệt may Việt Nam. Cơ chế giám sát này sẽ được duy trì đến hết năm 2008. Mỹ sẽ tiến hành 2 lần đánh giá số liệu hàng xuất khẩu dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ vào tháng 3 và tháng 8. Mặc dù vậy, theo số liệu thống kê của tổng cục hải quan, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ trong quý I/2008 đạt 1,1 tỷ USD, tăng 19% so với cùng kỳ năm trước.
  34. - 34 - Quý I vừa qua, Việt Nam đã trở thành nước cung cấp hàng dệt may lớn thứ 7 về khối lượng và đứng thứ 3 về trị giá vào thị trường Mỹ. Tính theo khối lượng thì hàng dệt may của Việt Nam chiếm 3,45% thị phần hàng dệt may tại Mỹ. Nếu tính theo trị giá nhập khẩu thì hàng dệt may của Việt Nam chiếm tới 5,5%. Hình 2.3: Thị phần hàng dệt may tại Mỹ (% tính theo trị giá) Trong 3 tháng đầu năm 2008, nhập khẩu các nhóm mặt hàng của Mỹ từ Việt Nam đều có mức tăng trưởng khá như nhóm 30 tăng 31,08%; 31 tăng 31,36%; 32 tăng 10,37%60 tăng 32,24%; 61 tăng 36,52% mặc dù cũng có một vài nhóm có khối lượng nhập khẩu giảm như 11 giảm 14,08%; 14 giảm 0,46%; 40 giảm 2,31%; 41 giảm 2,33% và một vài nhóm 80, 81 và 62. Tuy nhiên, mức độ sụt giảm nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ từ Việt Nam ở các nhóm này đều ở mức thấp và các nhóm này đều có khối lượng nhập khẩu thấp, nên không ảnh hưởng nhiều đến tình hình nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ từ Việt Nam. Nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ từ Việt Nam ở các nhóm hàng chính vẫn tăng trưởng khá. Ở nhóm hàng 30 (các sản phẩm cotton): Nhập khẩu các Cat.334/335 của Mỹ từ Việt Nam tăng trưởng mạnh, tăng lần lượt 153,82% và 128,93% so với cùng kỳ năm ngoái đạt 7,5 triệu USD và 34,9 triệu USD. Nhập khẩu Cat.336 của Mỹ từ Việt Nam cũng tăng khá, tăng 35% đạt 28,3 triệu USD. Trong khi tổng nhập khẩu áo thun và áo sơ mi của Mỹ giảm nhưng nhập khẩu các mặt hàng này của Mỹ từ Việt Nam vẫn tăng trưởng tốt, với các mức tăng trưởng
  35. - 35 - lần lượt là 22,65%; 41,97%; 12,75% và 43% đối với các Cat.338, 339, 340, 341. Tương tự, nhập khẩu Cat.347/348 của Mỹ từ Việt Nam cũng tăng trưởng khá. Đối với các mặt hàng sử dụng chất liệu nhân tạo (nhóm 60): Nhập khẩu các mặt hàng có thế mạnh từ Việt Nam của Mỹ cũng tăng khá. Nhập khẩu các Cat.638/639 tăng tới 123% và 174%; Cat.347/348 tăng 73% và 25%. Bên cạnh đó nhập khẩu các Cat.641/642/643 cũng tăng khá mạnh. Ngoài ra, nhập khẩu Cat.334/335 của Mỹ từ Việt Nam lại giảm nhẹ giảm lần lượt 28% và 4,25%. Ngày 06/05/2008, Bộ Thương mại Mỹ (DOC) khẳng định không có đủ bằng chứng để tiến hành điều tra bán phá giá đối với mặt hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam. Trong thông cáo báo chí, DOC cho biết trong đợt xem xét thứ hai về dữ liệu của 5 nhóm sản phẩm dệt may của Việt Nam gồm quần dài, áo sơ mi, đồ lót, quần áo bơi và áo len nhập khẩu vào thị trường Mỹ trong thời gian 6 tháng, từ 8/2007 đến 1/2008, DOC nhận thấy cả 5 nhóm sản phẩm này đều không có dấu hiệu bán phá giá, do vậy không đe dọa tới sự cạnh tranh của các công ty dệt may nội địa Mỹ. Giá cả của các sản phẩm dệt may nhập khẩu từ Việt Nam đều ngang với mức giá của các nhóm hàng hóa tương tự nhập từ các bạn hàng khác của Mỹ như Bangladesh, Ấn Độ, Indonesia, Pakistan, Thái Lan, Campuchia, Ma Cao, Malaysia và Phiippines và các nước khu vực Trung Mỹ và trong nhiều trường hợp thậm chí còn cao hơn. Kết luận này của DOC đã giúp củng cố lòng tin của các nhà nhập khẩu Mỹ đối với hàng dệt may Việt Nam. Tuy nhiên, cơ chế giám sát vẫn tiếp tục gây nhiều tác động bất lợi đối với hàng dệt may trong năm 2008. Hiện nay, ngành dệt may Việt Nam cũng đang gặp không ít khó khăn trước những rào cản thương mại do các đối tác đặt ra trong đó có vấn đề môi trường. Các nhà nhập khẩu đang quan tâm nhiều đến tiêu chuẩn“xanh”, “sạch” đối với sản phẩm ngay từ khâu nguyên liệu đến thành phẩm. Tiêu
  36. - 36 - chuẩn Greentrade Barrer – ( tiêu chuẩn thương mại “ xanh”) cũng chính là rào cản thương mại“ xanh”. Rào cản này được áp dụng đối với sản phẩm dệt may là đòi hỏi các sản phẩm may mặc phải đáp ứng được các tiêu chuẩn sinh thái quy định, an toàn về sức khoẻ đối với người sử dụng, không gây ô nhiễm môi trường trong quá trình sản xuất. Quy định về nhãn mác hàng hoá đối với hàng dệt may nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ cũng làm cho xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam gặp nhiều khó khăn. Ví dụ như hàng dệt may Việt Nam xuất sang thị trường Mỹ đều phải được dán mác hàng hoá, ghi rõ tên sản phẩm, tên và hàm lượng của loại sợi chiếm hơn 5% về khối lượng trong thành phẩm cuối cùng. Bất kỳ sản phẩm len nào chứa sợi len ngoại trừ thảm và các thành phẩm khác được sản xuất từ 20 năm trước khi nhập khẩu phải được dán nhãn mác rõ ràng theo quy định của đạo luật về nhãn mác sản phẩm len năm 1939. 2.3 Các biện pháp Việt Nam đã áp dụng để vượt qua các rào cản thương mại của Mỹ đối với hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam 2.3.1 Các biện pháp từ phía của Chính phủ Chính phủ đã rất tích cực tham gia đàm phán để giảm thiểu các rào cản thương mại. Trước hết, đó là nỗ lực về mặt chính trị khi Việt Nam bình thường hoá quan hệ với Mỹ vào năm 1995. Việt Nam đã bước đầu có thể xuất khẩu hàng hoá vào thị trường Mỹ. Tiếp đó là hiệp định thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực năm 2001 cho phép hàng dệt may Việt Nam hưởng mức thuế tối huệ quốc (MFN), thấp hơn nhiều so với mức thuế thông thường và là mức thuế phổ biến mà Mỹ áp dụng đối với hàng dệt may nhập khẩu từ nước ngoài.Gần đây nhất là việc gia nhập WTO, giúp cho hàng dệt may Việt Nam nhập khẩu vào thị trường Mỹ được chính thức dỡ bỏ hạn ngạch từ ngày 11/01/2007. Chính phủ cũng đưa ra được những biện pháp đối phó với các rào cản mà
  37. - 37 - Mỹ dựng lên khi xuất khẩu hàng Việt Nam vào Mỹ tăng mạnh. Để thực hiện Hiệp định dệt may ngày 28 tháng 4 năm 2003, Bộ thương mại có văn bản số 0962/TM-XNK hướng dẫn thực hiện, theo đó các doanh nghiệp phải báo cáo chi tiết, chính xác về năng lực và quy mô sản xuất của mình để làm cơ sở đối chiếu hạn ngạch và cấp hạn ngạch hàng dệt may xuất khẩu sang Hoa Kỳ năm 2003. Văn bản quy định các mẫu và nội dung hồ sơ gồm các chứng từ: đơn xin cấp giấy chứng nhận xuất khẩu hàng dệt may sang Hoa kỳ, hợp đồng xuất khẩu (hoặc gia công hàng xuất khẩu), hoá đơn thương mại, bảng kê đóng gói hàng Văn bản nghiêm cấm các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may sử dụng giấy chứng nhận xuất khẩu hàng dệt may để xuất khẩu sang Hoa Kỳ của Việt Nam để xuất khẩu hàng hoá của nước khác hoặc dùng visa của nước khác xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Ngày 27/05/2003, bộ Kế hoạch đầu tư, bộ Công nghiệp và bộ Thương mại cũng có Thông tư liên tịch quy định cụ thể việc phân giao hạn ngạch: dành 65 - 70% hạn ngạch cho những thương nhân đã xuất khẩu trong năm 2002 và 3 tháng đầu năm 2003; dành 23 - 28% cho thương nhân có năng lực sản xuất, năng lực xuất khẩu; 3% ưu tiên cho những thương nhân ký hợp đồng sản xuất và xuất khẩu trực tiếp với các tập đoàn nhập khẩu, phân phối lớn của Mỹ; dành 7% hỗ trợ các thương nhân sử dụng vải sản xuất trong nước để sản xuất hàng xuất khẩu, hỗ trợ thương nhân thuộc vùng kinh tế khó khăn có năng lực sản xuất và hợp đồng xuất khẩu. Nhằm thực hiện việc xuất khẩu theo đúng mức hạn ngạch, Bộ Thương mại cũng đã đưa mại ra thông tư 03/2003 hướng dẫn việc cấp VISA hàng dệt may xuất khẩu sang Mỹ. Các doanh nghiệp Việt Nam cần đặc biệt quan tâm đến VISA và C/O vì đây là những thứ dễ bị làm giả và nếu các doanh nghiệp không cảnh giác thì sẽ phải gánh phần thua thiệt. Về mức phí hạn ngạch, Bộ Thương mại đưa ra mức tối đa bằng 50% phí hạn ngạch vào EU, với các cat. không quá nóng là 1/3 phí hạn ngạch EU. Toàn bộ phí sẽ được đưa vào quỹ
  38. - 38 - hỗ trợ xuất khẩu. Khi Mỹ áp dụng cơ chế giám sát hàng dệt may đầu năm 2007, để đảm bảo kiểm soát được các Cat hàng bị giám sát bởi bộ Thương mại Mỹ, trong thời gian chờ nối mạng điện tử giữa Bộ Thương mại và Tổng cục Hải quan Việt Nam, liên bộ tạm thời cấp giấy phép xuất khẩu (E/L) cho một số chủng loại hàng dệt may xuất khẩu sang Hoa Kỳ theo quy định tại thông báo 0616/BTM- DM ngày 29/12/2006. Những thương nhân thuộc phạm vi điều chỉnh của thông tư này bao gồm thương nhân có gấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc có giấy phép đầu tư theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, đã đăng ký mã số kinh doanh xuất nhập khẩu, được cấp E/L; thương nhân có năng lực sản xuất hàng dệt may chưa có mã số nhà sản xuất (MID) đăng ký với các phòng quản lý xuất nhập khẩu khu vực để được cấp mã số MID; thương nhân thương mại không có năng lực sản xuất hàng dệt may phải có hợp đồng ký kết với cơ sở sản xuất và kê khai tên nhà sản xuất/mã số MID của hàng do mình xuất khẩu khi đăng ký xuất khẩu. Thông tư cũng quy định, với những thương nhân vi phạm luật pháp, các quy định hiện hành về thực hiện xuất khẩu dệt may sang Hoa Kỳ (về xuất xứ hàng hoá, hồ sơ, năng lực sản xuất, chủng loại hàng thực xuất ) sẽ bị xử lý tuỳ theo mức độ vi phạm như thu hồi E/L, C/O, đình chỉ không cấp phép chủng loại quản lý, không cho phép xuất khẩu tất cả các chủng loại hàng dệt may vào Hoa kỳ, không cho phép xuất khẩu tất cả các chủng loại hàng dệt may đi các nước, phạt tiền theo quy định của nhà nước hoặc theo quy định khác của pháp luật. Tuy nhiên, hình thức cấp giấy phép xuất khẩu này làm cho thủ tục hành chính đối với các doanh nghiệp dệt may Viêt Nam trở nên phức tạp, gây khó khăn cho hoạt động xuất khẩu. Thấy rõ bất cập trên, kể từ ngày 22/6/2007, Liên bộ Thương mại - Bộ Công nghiệp trước đây đã bãi bỏ giấy phép tự động (E/L) và chủ trương xây
  39. - 39 - dựng cơ chế quản lý, giám sát hàng dệt may xuất khẩu theo phương pháp “hậu kiểm” nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất xuất khẩu hàng dệt may, giảm bớt các thủ tục hành chính nhưng vẫn đảm bảo ngăn ngừa các hành vi gian lận thương mại. Bộ Thương mại cũng đã tạm dừng việc tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu đối với hàng dệt may, bán thành phẩm dệt may và nguyên phụ liệu dệt may qua Việt Nam sang Mỹ. Đây là biện pháp nhằm hạn chế tình trạng chuyển tải hàng từ nước thứ 3 vào Việt Nam, rồi xuất sang Mỹ với giá rẻ, ảnh hưởng đến cơ chế giám sát dệt may. Bộ Thương mại cũng cảnh báo tình trạng gian lận thương mại trong dệt may, như hàng Trung Quốc tạm nhập để gia công rồi tái xuất mang nhãn hiệu Việt Nam. Đồng thời, bộ cũng sử dụng các biện pháp nghiệp vụ để quản lý, giám sát hàng dệt may xuất khẩu sang Mỹ như cấp C/O hay phối hợp với hải quan quản lý xuất khẩu. Ngày 30/11/2007, Bộ Công thương đã ra quyết định số 1935/QĐ-BCT thành lập Tổ kiểm tra cơ động hàng dệt may xuất khẩu. Thành phần của Tổ Kiểm tra có sự tham gia của Vụ Xuất nhập khẩu, Vụ Công nghiệp và Tiêu dùng thực phẩm, Cục Quản lý thị trường (Bộ Công Thương), Tổng cục Hải quan (Bộ Tài chính), Hiệp hội Dệt may Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Nhiệm vụ chính của Tổ Kiểm tra cơ động bao gồm: kiểm tra những doanh nghiệp có những lô hàng có giấu hiệu gian lận thương mại, vi phạm các quy định về xuất xứ hàng hoá, quy định về quản lý xuất nhập khẩu; kiểm tra doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm về quy trình sản xuất, xuất khẩu số lượng tăng đột biến, hoặc đơn giá xuất khẩu quá thấp so với mức trung bình hoặc có dấu hiệu bán phá giá ; kiểm tra việc chấp hành các quy định của Nhà nước trong lĩnh vực xuất khẩu hàng dệt may của các doanh nghiệp. Khi phát hiện các trường hợp vi phạm pháp luật trong lĩnh vực xuất khẩu hàng dệt may, Tổ sẽ báo cáo và kiến nghị các cơ quan hữu quan có thẩm quyền ra quyết định xử lý. Tổ cũng giúp Bộ Công thương thu thập thêm thông tin về tình hình sản xuất, xuất khẩu của các doanh nghiệp trong diện kiểm tra
  40. - 40 - để đề xuất những chính sách phù hợp với tình hình thực tế và các thông lệ quốc tế, nhằm đẩy mạnh xuất khẩu, khắc phục những hạn chế, những cản trở trong sản xuất và xuất khẩu nhất là tránh được các rào cản thương mại kiện bán phá giá có thể xảy ra. Tổ Kiểm tra cơ động ra đời thể hiện bước chuyển mới trong cơ chế giám sát xuất khẩu hàng dệt may từ cơ chế quản lý “tiền kiểm” thông qua cấp giấy phép xuất khẩu theo kế hoạch xuất khẩu đăng ký sang cơ chế “hậu kiểm”, nhằm giảm bớt các thủ tục hành chính nhưng vẫn đảm bảo giám sát, hạn chế các vi phạm và các lô hàng có đơn giá thấp và xử lý các doanh nghiệp vi phạm quy định. Để đảm bảo không mắc phải các vụ kiện bán phá giá trong khi Mỹ vẫn tiếp tục giám sát hàng dệt may Việt Nam cho đến hết năm 2008, Vụ Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cũng có công văn số 3712/BCT-XNK ngày 7/5/2008, đề nghị các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ thực hiện một số nội dung như: Đối với các mặt hàng, chủng loại hàng (Cat.) phía Hoa Kỳ đang giám sát nhập khẩu, doanh nghiệp cần kê khai đầy đủ, chính xác các thông tin trên tất cả các chứng từ xuất khẩu, trong đó cần thực hiện nghiêm túc các quy định tại Công văn số 6540/TCHQ-CNTT ngày 15/11/2007 của Tổng cục Hải quan về việc hướng dẫn khai hải quan và cập nhật thông tin liên quan đến hàng dệt may xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Riêng với các chủng loại hàng (Cat.) : 338, 339, 340, 341, 347, 348, 352 đề nghị các doanh nghiệp cần khai báo bổ sung với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đối với các lô hàng không đề nghị VCCI cấp Giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) để VCCI có đầy đủ số liệu thống kê gửi các cơ quan liên quan. Bộ Công Thương cũng lưu ý các doanh nghiệp không dựa vào đơn giá tối thiểu quy định tại Thông báo số 0262/BTM-DM ngày 7/7/2006 để xác định
  41. - 41 - giá FOB khi ký kết hợp đồng, do Thông báo này chỉ áp dụng đối với hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ khi có hạn ngạch xuất khẩu trước ngày 11/01/2007 và đơn giá quy định trong Thông báo này chỉ bằng khoảng 30% so với đơn giá xuất khẩu trung bình thực tế của năm 2007.Các doanh nghiệp cần kê khai đúng giá xuất khẩu (giá FOB) thực tế của lô hàng. Như vậy, mặc dù phía Mỹ có áp dụng giám sát nhưng cơ chế còn lỏng lẻo, thậm chí không xác định được phải thực hiện như thế nào. Trong khi Bộ Thương mại Việt Nam cũng theo dõi chặt lượng hàng xuất khẩu sang nước này để theo dõi về giá. Các đơn hàng có số lượng lớn nhưng giá trị thấp đã được hạn chế tối đa. Để hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc vượt qua các rào cản kỹ thuật khi xuất khẩu, Bộ Thương mại đã thành lập Văn phòng Thông báo và Điểm hỏi đáp về hàng rào kỹ thuật trong thương mại đặt tại Vụ Xuất nhập khẩu, Bộ Thương mại. Theo đó, Văn phòng Thông báo và điểm hỏi đáp về hàng rào kỹ thuật trong thương mại là một phần của mạng lưới cơ quan thông báo và điểm hỏi đáp của Việt Nam về hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT). Văn phòng tại Bộ Thương mại sẽ phối hợp với hệ thống TBT trong việc trả lời về các văn bản pháp quy kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp (trong phạm vi quản lý của Bộ Thương mại) có khả năng cản trở thương mại đối với các nước thành viên WTO; các hiệp định hoặc thoả thuận song phương, đa phương do Chính phủ ký hoặc Bộ Thương mại ký theo thẩm quyền liên quan đến văn bản pháp quy kỹ thuật, tiêu chuẩn và quy trình đánh giá sự phù hợp thuộc phạm vi quản lý của Bộ. Văn phòng cũng sẽ tiếp nhận và trả lời các câu hỏi của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước liên quan đến việc ban hành và áp dụng văn bản pháp quy kỹ thuật, tiêu chuẩn, quy trình đánh giá sự phù hợp của Bộ
  42. - 42 - Thương mại. Đặc biệt, văn phòng sẽ tiếp nhận và trả lời câu hỏi của hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp lớn xuất khẩu nhiều hàng hoá trong trường hợp có khả năng bị kiện về hàng rào kỹ thuật trong thương mại thuộc phạm vi quản lý của Bộ Thương mại, bằng Fax hoặc E-mail trong vòng 24 giờ kể từ khi nhận được thông báo từ Văn phòng TBT Việt Nam. Bên cạnh đó, văn phòng còn có nhiệm vụ soạn thảo và rà soát các văn bản quy phạm pháp luật, quy định kỹ thuật, tiêu chuẩn kỹ thuật phù hợp với quy định của Hiệp định TBT; tổ chức phổ biến, cung cấp thông tin cho các Hiệp hội ngành hàng, các doanh nghiệp xuất khẩu về các biện pháp phát triển hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật, công nghệ nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình trước và sau khi gia nhập WTO và nhằm vượt qua rào cản kỹ thuật của các nước nhập khẩu. 2.3.2 Các biện pháp từ phía Hiệp hội dệt may Hiệp hội Dệt may đã tập hợp được đa số các nhà sản xuất, xuất khẩu lớn trong ngành với tổng số 450 hội viên. Hiệp hội đã thực hiện được chức năng là cầu nối giữa doanh nghiệp với Chính phủ. Khi phía Mỹ áp dụng hạn ngạch dệt may với Việt Nam và chính phủ Việt Nam đưa ra cơ chế phân bổ hạn ngạch, hiệp hội dệt may đã đóng góp nhiều ý kiến với tổ phân bổ hạn ngạch để đảm bảo sự công bằng, khách quan, thể hiện tiếng nói chung của các doanh nghiệp dệt may. Mới đây, khi chính phủ thành lập Tổ kiểm tra cơ động hàng dệt may, hiệp hội dệt may cũng có thành viên tham gia. Trong ngày 22/04/2007, tại phiên điều trần thứ 2, Hiệp hội Dệt may Việt Nam đã có một bản điều trần gửi Nhóm phụ trách giám sát bên Hoa Kỳ. Hiệp hội cũng gửi người tham gia điều trần trực tiếp đối với Uỷ ban Thương mại Hoa Kỳ và liên tục thông tin về những bất hợp lý của cơ chế giám sát trên phương tiện thông tin đại chúng. Bên cạnh đó, hiệp hội cũng tác động đến Hiệp hội Doanh nghiệp nhập khẩu Hoa Kỳ và Hội Người tiêu dùng Hoa Kỳ
  43. - 43 - để các tổ chức đó hỗ trợ các doanh nghiệp dệt may Việt Nam, kiến nghị, tác động đến Chính phủ Hoa Kỳ trong vấn đề chống giám sát này. Hiệp hội cũng đã đề ra một số chương trình trọng điểm trong giai đoạn 2007-2010 để phát triển ngành dệt may nói chung và hỗ trợ các doanh nghiệp vượt qua rào cản đối với hàng dệt may của Mỹ nói riêng. Các chương trình này bao gồm: Chương trình đầu tư sản xuất nguyên liệu sẽ đầu tư sản xuất xơ sợi tổng hợp đủ sức cung ứng nhu cầu dệt, phát triển bông xơ nội địa đáp ứng 15% nhu cầu kéo sợi năm 2010. Chương trình đầu tư phát triển 1 tỉ mét vải phục vụ may mặc xuất khẩu vào năm 2015. Chương trình đầu tư hạ tầng, xây dựng 3 khu công nghiệp dệt nhuộm có hạ tầng cấp nước sạch và xử lý nước thải để thu hút đầu tư, xây dựng 3 trung tâm cung ứng nguyên phụ liệu dệt may tại TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội và Đà Nẵng kết hợp với việc di dời sản xuất về các vùng phụ cận của 3 trung tâm trên. Chương trình đào tạo 500 cán bộ trong nước và 100 cán bộ tại nước ngoài chuyên ngành thiết kế thời trang, công nghệ tiếp thị dệt may 2.3.3 Các biện pháp từ phía các doanh nghiệp Vừa qua, khi Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) thực hiện cơ chế giám sát hàng dệt may nhập khẩu vào thị trường này có xuất xứ từ Việt Nam, đã gây ảnh hưởng nhiều đến các đơn hàng sản xuất của Việt Nam. Các nhà sản xuất tại Việt Nam lo ngại trước việc các đơn hàng giảm, yếu tố rủi ro cao, vì thế nên một số doanh nghiệp đã chuyển từ việc làm theo phương thức FOB trước đây sang gia công thuần túy. Xét về tổng thể, đây cũng là một thiệt hại lớn đối với ngành dệt may Việt Nam, sau nhiều năm nỗ lực nâng cấp chuyển hình thức từ gia công thuần túy lên phương thức sản xuất FOB (tạm hiểu là doanh nghiệp mua nguyên liệu và sản xuất theo đơn đặt hàng dưới sự đồng ý của chủ hàng). Những năm qua, trong chiến lược tăng tốc, các doanh nghiệp ngành Dệt-
  44. - 44 - May đã chú trọng đáng kể đầu tư vào khâu nhuộm- hoàn tất. Nhiều loại máy móc, thiết bị tốt, mới, hiện đại đã được đầu tư chiều sâu, như các máy văng sấy Monforts, máy nhuộm liên tục Monforts ở Công ty Dệt Việt Thắng; các máy in lưới quay Stork, máy in lưới phẳng Buser ở hai Công ty Dệt- May thắng Lợi và Dệt 8- 3; các máy nhuộm “khí động lực” (Air- Jet) do được chế tạo ở Dệt kim Đông Xuân và Dệt 8-3; máy làm bóng trục mới của Công ty Dệt Nam Định, hệ thống máy xử lý trước- xử lý hoàn tất vải pha len của Công ty Dệt lụa Nam Định và Công ty 28 (Bộ Quốc phòng) v.v Và gần đây nhất là dây chuyền thiết bị hiện đại của Công ty Nhuộm Yên Mỹ vừa đi vào sản xuất. Tuy nhiên, xét về tổng thể, ngành nhuộm- in hoa- xử lý hoàn tất Việt Nam vẫn còn đang áp dụng các công nghệ và máy móc thiết bị “truyền thống”. Do vậy năng suất chưa cao, chất lượng chưa thật tốt và sử dụng nhiều hoá chất, thuốc nhuộm, tốn nhiều nước và năng lượng, giá thành cao đã làm giảm tính cạnh tranh trên thương trường. Ngoài ra, còn để lại hậu quả là lượng nước thải nhiều và bị ô nhiễm nặng nề, rất tốn kém khi phải xử lý nước thải. Một số công ty cũng rất quan tâm đến các vấn đề liên quan đến trách nhiệm xã hội. Ví dụ, ở công ty May 10, bình quân hàng năm, công ty đón tiếp hàng chục đoàn của các đối tác nước ngoài đến kiểm tra tình hình thực hiện trách nhiệm xã hội đối với người lao động. Đặc biệt, năm 2003, công ty đón tiếp 40 đoàn; 10 tháng đầu năm 2004 là 50 đoàn. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các đoàn kiểm tra, công ty đã đầu tư hàng trăm triệu đồng trang bị thẻ từ, bảng chấm công điện tử giúp cho việc kiểm tra số giờ làm thêm của công nhân được dễ dàng và minh bạch. Để kiểm tra việc có sử dụng lao động vị thành niên hay không, trong hồ sơ tuyển dụng lao động, công ty có đầy đủ các loại giấy tờ hợp lệ theo yêu cầu của đối tác nước ngoài như: chứng minh thư nhân dân, giấy khai sinh, sổ hộ khẩu, giấy kiểm tra sức khoẻ Đối với các phân xưởng sản xuất, công ty đã trang bị đầy đủ hệ thống chiếu sáng, thông
  45. - 45 - gió, thiết bị y tế, phòng cháy chữa cháy, có cửa thoát hiểm cho người lao động khi có sự cố. Về công tác an ninh doanh nghiệp, ngoài hệ thống bảo vệ chặt chẽ nghiêm ngặt, kiểm soát, kiểm tra tỉ mỉ những người ra vào, công ty còn có các giải pháp kiểm tra, giám sát những người làm việc tại các bộ phận quan trọng như kiểm tra chất lượng hàng, đóng gói hàng, nhập - xuất hàng kiên quyết không xảy ra những sai sót, dù nhỏ trong công tác giao nhận hàng. Tuy nhiên, những công ty thực sự quan tâm đến vấn đề trách nhiệm xã hội như May 10 còn ít; việc áp dụng và thực hiện các tiêu chuẩn phù hợp với SA 8000 còn rời rạc, chưa có tính đồng bộ và nhất quán 2.4 Đánh giá thực trạng trong việc vượt qua rào cản thương mại của Mỹ đối với hàng dệt may Việt Nam 2.4.1 Những ưu điểm trong việc vượt qua các rào cản thương mại của Mỹ đối với hàng dệt may Việt Nam - Từ phía Chính phủ:  Đánh giá được tầm quan trọng của xu hướng tự do hoá thương mại thế giới nên đã tích cực đàm phán, ký kết hiệp định song phương với Mỹ; kiên trì theo đuổi các vòng đàm phán gia nhập WTO  Có các biện pháp đối phó với các rào cản thương mại mà Mỹ dựng nên trong thương mại giữa hai nước qua các thời kỳ.  Hỗ trợ các doanh nghiệp các thông tin về rào cản kỹ thuật theo yêu cầu của WTO - Từ phía Hiệp hội dệt may  Có góp ý, kiến nghị với Chính phủ để bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp thành viên khi Chính phủ đưa ra các biện pháp đối phó với các rào cản đối với hàng dệt may do Mỹ dựng lên như trong việc phân bổ hạn ngạch, việc thành lập Tổ kiểm tra cơ động hàng dệt may.  Tham gia tổ chức quản lý, giám sát hàng dệt may trong nước nhằm
  46. - 46 - giúp các doanh nghiệp dệt may trong nước đi đúng hướng, tránh được các vụ kiện bán phá giá từ phía các doanh nghiệp Mỹ  Mở rộng hoạt động ra quốc tế bằng việc tác động đến Hiệp hội các doanh nghiệp nhập khẩu hàng dệt may, các tổ chức người tiêu dùng của Mỹ để các tổ chức này có tác động ngược lại đến Chính phủ Mỹ trong việc xoá bỏ các chính sách bất hợp lý đối với Việt Nam. - Từ phía doanh nghiệp: các doanh nghiệp đã chú ý đến việc đảm bảo các tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, tiêu chuẩn về môi trường và trách nhiệm xã hội (nêu ví dụ về một số công ty dệt may như dệt Việt Thắng, dệt may Thắng Lợi, may 10) 2.4.2 Những tồn tại, hạn chế trong việc vượt qua các rào cản thương mại của Mỹ đối với hàng dệt may Việt Nam - Từ phía Chính phủ:  Các biện pháp đối phó với các rào cản thương mại do Mỹ dựng nên còn nhiều bất cập. Ví dụ: theo thông tư liên tịch giữa bộ Kế hoạch đầu tư, bộ Công nghiệp và bộ Thương mại ngày 27/05/2003, những doanh nghiệp có thành tích xuất khẩu năm 2002 và 3 tháng đầu 2003 được ưu tiên giao hạn ngạch song thực tế là có các doanh nghiệp (nhất là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) năm 2002 chưa xuất khẩu nhưng đã đầu tư rất nhiều trong năm 2003, nếu áp dụng tiêu chí này thì chắc chắn sẽ bị thiệt. Hơn nữa, chưa có tiêu chí cụ thể để xác định năng lực sản xuất. Con số 3% ưu tiên cho thương nhân ký hợp đồng trực tiếp với nhà nhập khẩu và phân phối lớn của Mỹ tuy nhỏ nhưng gây thắc mắc vì nó dành cho các nhà nhập khẩu Mỹ, trong lúc các nhà xuất khẩu trong nước còn đang thiếu rất nhiều hạn ngạch. Việc hạn ngạch được phân bổ chứ không đấu thầu cũng thúc đẩy nhiều doanh nghiệp đi đường vòng, làm theo cơ chế xin - cho. Tổ phân bổ hạn ngạch cũng chưa đưa công
  47. - 47 - thức, danh sách phân bổ lên mạng để các doanh nghiệp có cơ sở so sánh, đối chiếu cũng như minh bạch hoá quá trình này; hình thức cấp giấy phép nhập khẩu (E/L) để kiểm soát hàng dệt may còn nặng về mặt hành chính, hạn chế khả năng xuất khẩu của các doanh nghiệp;  Đối với rào cản kỹ thuật về môi trường (hàng rào xanh) thì chính phủ mới chỉ khuyến khích áp dụng các tiêu chuẩn trong sản xuất, chưa xây dựng được một bộ tiêu chuẩn riêng, phù hợp với thông lệ quốc tế cho ngành dệt may. Ngành dệt có gần 200 tiêu chuẩn trong đó có tới 72 tiêu chuẩn cần phải xem xét hoặc thay thế do không còn phù hợp với xu thế chung, 49 tiêu chuẩn cần được xây dựng mới tập trung vào các phương pháp xác định tồn dư kim loại và hóa chất có tác động đến con người; bổ sung thêm các nội dung về quy cách ghi nhãn hàng hóa, bao gói; xây dựng và ban hành danh mục thuốc nhuộm độc hại không được phép sử dụng tại Việt Nam và các quy định không được sử dụng các nguyên liệu dệt có sử dụng thuốc nhuộm trong danh mục này. - Từ phía Hiệp hội dệt may: Hiệp hội vẫn chưa thực sự có sức cạnh tranh và sự liên kết chặt chẽ. Vẫn còn xảy ra hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh giữa các hội viên (tranh mua, tranh bán). Việc vi phạm nghị quyết của Hiệp hội vẫn còn tồn tại trong khi cơ chế ngăn chặn và xử lý lại kém hiệu quả. Hiệp hội với sự tham gia chủ yếu là các doanh nghiệp Nhà nước, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia còn ít và chưa có doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia Hiệp hội. Vai trò của Hiệp hội mới dừng ở mức đưa ra ý kiến, góp ý. Tiếng nói của Hiệp hội chưa có sức mạnh đủ để bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp dệt may thành viên. - Từ phía các doanh nghiệp:  Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam kém ưu thế hơn doanh nghiệp các nước xuất khẩu của nhóm các nước Caribe, Canada và Mêhicô vì các
  48. - 48 - nước này được hưởng mức thuế quan phổ cập GSP là 0% trong khi mức thuế thông thương của hàng Việt Nam là 15. Các nước đang phát triển như Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan tuy có chung mức thuế với Việt Nam nhưng lại có thế mạnh về nguyên phụ liệu.  Đầu tư vào cơ sở sản xuất để vượt qua các rào cản về môi trường còn ít. Một số nhà quản lý, điều hành doanh nghiệp chưa được trang bị kiến thức hoặc hiểu biết còn hạn chế về những yêu cầu “xanh” đối với những sản phẩm dệt may xuất khẩu. Tình trạng các công ty, xí nghiệp trong dây chuyền nhuộm hoàn tất vẫn còn sử dụng một số hoá chất, chất phụ trợ, thuốc nhuộm gây ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường sinh thái, sức khoẻ người lao động và thậm chí đến cả người sử dụng sản phẩm. Điển hình nhất là trong quá trình hồ sợi, do sử dụng nhiều hoá chất độc hại nên ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn nước, làm tăng tải lượng COD trong nước thải khó xử lý vi sinh. Nước thải rũ hồ thông thường chứa 4.000 đến 8.000 mg/l COD. Kỹ thuật giảm trọng polieste bông kiềm được áp dụng phổ biến làm sản sinh một lượng lớn terephtalat và glycol trong nước thải sử dụng 5-6 lần, đưa COD có thể lên tới 80.000mg/l. Nếu như tình hình ô nhiễm môi trường gia tăng do không kiểm soát được thì các doanh nghiệp phải đầu tư rất nhiều kinh phí cho việc xử lý môi trường, đáp ứng được các quy định về môi trường. 2.4.3 Nguyên nhân của các tồn tại - Từ phía Chính phủ  Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản dưới luật chưa đầy đủ:  Việc biên soạn, chỉnh sửa các bộ tiêu chuẩn về môi trường trong ngành dệt còn chưa kịp thời
  49. - 49 -  Các quy định về việc áp dụng các tiêu chuẩn về môi trường còn chung chung  Chưa có chế tài cụ thể đối với một số doanh nghiệp có các tiêu chuẩn sản xuất, tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội thấp; các doanh nghiệp hạ giá cục bộ ảnh hưởng chung đến việc xuất khẩu của ngành.  Các quy định về vai trò, nhiệm vụ, chức năng của Hiệp hội dệt may còn chưa rõ ràng dẫn đến việc các Bộ, ban, ngành chưa hiểu đúng về Hiệp hội, chưa coi trọng vai trò của Hiệp hội trong việc cùng Chính phủ vượt qua các rào cản đối với hàng dệt may của Mỹ.  Chưa có sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các bộ, ban, ngành trong việc đưa ra các quy định, các quyết định điều chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp dệt may trong các tình huống phát sinh như phân bổ hạn ngạch, giám sát hàng dệt may,  Chưa chủ động, tích cực đối phó với những rào cản thương mại đối với hàng dệt may mà thị trường Mỹ dựng lên. Ví dụ: việc hàng dệt may Việt Nam bị áp dụng chế độ hạn ngạch năm 2003 sau khi Việt Nam và Mỹ ký kết hiệp định thương mại song phương là có thể thấy trước được. Tuy nhiên, việc phân bổ hạn ngạch lại thiếu khoa học, hết sức chậm trễ, chưa có sự chuẩn bị trước.  Việc hỗ trợ các doanh nghiệp dệt may nâng cao nhận thức về các vấn đề liên quan đến trách nhiệm xã hội và sở hữu trí tuệ còn chưa được quan tâm đúng mức - Từ phía Hiệp hội dệt may  Cơ cấu tổ chức của Hiệp hội còn thiếu chặt chẽ, chưa phát huy được hết hiệu quả hoạt động:  Hiệp hội chưa có bộ phận thông tin riêng để thu thập và xử lý các
  50. - 50 - thông tin về thị trường Mỹ - thị trường hàng dệt may lớn nhất và nhiều tiềm năng nhất của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.  Bộ phận hỗ trợ luật pháp chưa nắm bắt các thông tin kịp thời để hướng dẫn và trợ giúp cho các doanh nghiệp khởi kiện và kháng kiện trong các vụ kiện bán phá giá.  Chưa khẳng định được vai trò định hướng của Hiệp hội trong việc điều hoà quy mô sản xuất và xuất khẩu, giá cả sản phẩm dệt may để tránh các vụ kiện bán phá giá, điều tra về trợ cấp  Các hoạt động của Hiệp hội mới chỉ tập trung trong nước, ít mở rộng ảnh hưởng ra phạm vi khu vực và quốc tế nên chưa thể hiện được tầm quan trọng của Hiệp hội. - Từ phía doanh nghiệp  Hiểu biết về luật pháp Mỹ và khả năng thích ứng với môi trường cạnh tranh quốc tế còn ở mức thấp  Hệ thống kế toán, hồ sơ lưu trữ còn chưa khoa học; khó cung cấp thông tin trong trường hợp bị kiện bán phá giá  Chưa chú trọng đến các tiêu chuẩn kỹ thuật, các tiêu chuẩn về môi trường và trách nhiệm xã hội  Tỷ lệ nội địa hoá của sản phẩm xuất khẩu còn thấp nên chưa được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) Tóm lại, chương 2 đã nghiên cứu sâu hơn về các rào cản của Mỹ đối với hàng dệt may, ảnh hưởng của các rào cản này đến việc xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Mỹ, các biện pháp mà Chính phủ, Hiệp hội dệt may cũng như các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã áp dụng để vượt qua các rào cản. Chương 2 cũng chỉ ra ưu điểm, tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại làm cơ sở đưa ra những giải pháp khắc phục ở chương 3. CHƯƠNG 3
  51. - 51 - CÁC GIẢI PHÁP VƯỢT QUA RÀO CẢN THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM NHẬP KHẨU VÀO THỊ TRƯỜNG MỸ Sau khi phân tích thực trạng nhập khẩu của Mỹ đối với hàng dệt may Việt Nam, các rào cản của Mỹ đối với hàng dệt may Việt Nam, rút ra các tồn tại, hạn chế của các biện pháp mà Chính phủ, Hiệp hội và các doanh nghiệp Việt Nam đang nỗ lực thực hiện để vượt qua các rào cản ở chương 2, chương 3 sẽ đề xuất các giải pháp để vượt qua các rào cản đối với hàng dệt may Việt Nam nhập khẩu vào thị trường Mỹ thông qua việc nghiên cứu chiến lược phát triển dệt may của Chính phủ Việt Nam đến năm 2015, tiềm năng thị trường tiêu thụ hàng dệt may của Mỹ cũng như những thuận lợi và khó khăn mà Việt Nam gặp phải khi gia nhập WTO. 3.1 Cơ hội và thách thức của việc Việt Nam xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ khi là thành viên chính thức của WTO 3.1.1 Cơ hội xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ - Khi Việt Nam gia nhập WTO, Mỹ buộc phải bãi bỏ hạn ngạch với hàng dệt may của Việt Nam. Nhờ đó, các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường này, tăng quy mô sản xuất từ đó hưởng tính lợi ích kinh tế nhờ quy mô - Việc phân bổ hạn ngạch dệt may theo Hiệp định ATC đã làm tăng chi phí xuất khẩu cho doanh nghiệp. Chi phí này chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng chi phí xuất khẩu đối với Việt Nam, chi phí do hạn ngạch sinh ra đối với mặt hàng dệt xuất khẩu sang Mỹ chiếm 6.9% tổng chi phí, đối với mặt hàng may mặc vào thị trường này là 7.1%. Với việc gia nhập WTO, Mỹ phải xoá bỏ hạn ngạch đối với Việt Nam, hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam sẽ có điều kiện giảm giá xuất khẩu do không phải mất chi phí do việc cấp hạn ngạch gây ra - Theo nguyên tắc minh bạch hóa chính sách, trong quá trình gia nhập WTO, Việt Nam phải minh bạch hoá toàn bộ các chính sách liên quan
  52. - 52 - đến thương mại của mình và thông báo các kế hoạch hành động để tuân thủ dần dần các nguyên tắc của WTO. Thông qua quá trình này, khuôn khổ pháp lý của Việt Nam về ngành dệt may sẽ minh bạch hơn, phù hợp với thông lệ quốc tế tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, cạnh tranh lành mạnh và khuyến khích thương mại, đầu tư cũng như hợp tác về các vấn đề khác với cộng đồng quốc tế. Việt Nam sẽ có cơ hội đàm phán với Mỹ khi có phát sinh tranh chấp theo quy định của WTO. Ví dụ, về bán phá giá, theo quy định của WTO, các nước thành viên có quyền khiếu kiện lên WTO và yêu cầu quốc gia khởi kiện ngồi vào bàn thương lượng nếu nước thành viên đó không chấp nhận kết luận của chính phủ nước khởi kiện. Ngay cả khi không thể thay đổi được những quyết định trừng phạt, sau thời hạn năm năm kể từ ngày bị áp thuế chống phá giá, doanh nghiệp có quyền nộp kháng nghị phúc thẩm. Đây là một lợi ích quan trọng của các thành viên WTO. 3.1.2 Thách thức đối với xuất khẩu dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ khi Việt Nam là thành viên của WTO - Khi Việt Nam gia nhập WTO, lượng hàng dệt may xuất khẩu vào thị trường Mỹ sẽ tăng mạnh, dẫn tới nguy cơ bị áp dụng các biện pháp tự vệ và chống bán phá giá của Mỹ. Mặc dù so với Trung Quốc, ngành dệt may Việt Nam có năng lực chỉ bằng 1/50 và hiện chỉ chiếm 3% thị phần hàng dệt may nhập khẩu vào Mỹ và Việt Nam đa phần chỉ xuất khẩu hàng may sẵn nhưng ngay khi Việt Nam gia nhập WTO, Mỹ đã áp dụng cơ chế kiểm soát dệt may đối với hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam, một biện pháp nhằm thu thập các số liệu điều tra về bán phá giá của dệt may Việt Nam. Biện pháp này có khả năng tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao và ảnh hưởng xấu tới ngành dệt may do đặc thù của ngành là thời gian từ khi ký kết hợp đồng – thu xếp vải, nguyên phụ liệu – sản xuất, giao hàng kéo dài từ 4-5 tháng. Việc các nước nhập khẩu có
  53. - 53 - quyền áp dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu hàng dệt may vào bất cứ thời điểm nào sẽ làm tăng tính bất ổn và gây thiệt hại nghiêm trọng đối với các nhà xuất khẩu và nhập khẩu do sản xuất bị dở dang. Bên cạnh đó, Việt Nam lại chưa được công nhận là nền kinh tế thị trường nên sẽ có nhiều bất lợi khi Mỹ tiến hành điều tra về việc bán phá giá. - Ngành dệt may chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng do các hình thức trợ cấp hiện tại bị bãi bỏ hoặc cắt giảm: Việt Nam sẽ phải cam kết bãi bỏ ngay từ thời điểm gia nhập hình thức trợ cấp dưới dạng cấp phát tiền trực tiếp cho doanh nghiệp theo doanh số xuất khẩu khi tham gia các chương trình xúc tiến thương mại và trên thực tế Việt Nam đã bỏ hình thức trợ cấp này từ tháng 7/2005. Như vậy, tác động đối với ngành dệt may đến từ việc Việt Nam sẽ phải cắt giảm 3 hình thức ưu đãi còn lại: ưu đãi về tín dụng, ưu đãi về đầu tư, bảo lãnh tín dụng. Như vậy, ngành dệt may sẽ nhận được ít hỗ trợ hơn từ phía Chính phủ, do đó sẽ bị ảnh hưởng sau khi Việt Nam gia nhập. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng cụ thể còn tùy thuộc vào khả năng chủ động, lường trước khó khăn và chủ động điều chỉnh chính sách sản xuất và xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp. 3.2 Chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam đến 2015 Ngày 10/03/2008, Thủ tướng chính phủ đã ra quyết định số 36/2008/QĐ- TTg phê duyệt chiến lược phát triển ngành dệt may đến 2015, định hướng 2020. Chiến lược đã nêu lên quan điểm phát triển, đề ra các mục tiêu, định hướng phát triển và nêu ra các giải pháp thực hiện chiến lược. 3.2.1 Quan điểm phát triển của ngành dệt may - Phát triển ngành Dệt May theo hướng chuyên môn hoá, hiện đại hóa, nhằm tạo ra bước nhảy vọt về chất và lượng sản phẩm. Tạo điều kiện cho ngành Dệt May Việt Nam tăng trưởng nhanh, ổn định, bền vững và hiệu quả. Khắc phục những điểm yếu của ngành dệt may là thương hiệu
  54. - 54 - của các doanh nghiệp còn yếu, mẫu mã thời trang chưa được quan tâm, công nghiệp phụ trợ chưa phát triển, cung cấp nguyên phụ liệu vừa thiếu, vừa không kịp thời. - Lấy xuất khẩu làm mục tiêu cho phát triển của ngành, mở rộng thị trường xuất khẩu, đồng thời phát triển tối đa thị trường nội địa. Tập trung phát triển mạnh các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, sản xuất nguyên phụ liệu, giảm nhập siêu, nâng cao giá trị gia tăng của các sản phẩm trong ngành. - Phát triển ngành Dệt May phải gắn với bảo vệ môi trường và xu thế dịch chuyển lao động nông nghiệp nông thôn. Di chuyển các cơ sở gây ô nhiễm môi trường vào các Khu, Cụm Công nghiệp tập trung để tạo điều kiện xử lý môi trường. Chuyển các doanh nghiệp Dệt May sử dụng nhiều lao động về các vùng nông thôn, đồng thời phát triển thị trường thời trang Dệt May Việt Nam tại các đô thị và thành phố lớn. -Đa dạng hóa sở hữu và loại hình doanh nghiệp trong ngành Dệt May, huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước để đầu tư phát triển Dệt May Việt Nam. Trong đó chú trọng kêu gọi những nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư vào những lĩnh vực mà các nhà đầu tư trong nước còn yếu và thiếu kinh nghiệm. - Phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng cho sự phát triển bền vững của ngành Dệt May Việt Nam; Trong đó, chú trọng đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề nhằm tạo ra đội ngũ doanh nhân giỏi, cán bộ, công nhân lành nghề, chuyên sâu. 3.2.2 Mục tiêu chiến lược của ngành dệt may 3.2.2.1 Mục tiêu tổng quát Phát triển ngành Dệt May trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu; đáp ứng ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước; tạo nhiều việc làm cho xã hội; nâng cao khả năng cạnh tranh, hội
  55. - 55 - nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế giới. 3.2.2.2 Mục tiêu cụ thể của ngành dệt may Tốc độ tăng trưởng Giai đoạn 2008-2010 Giai đoạn 2011-2020 - Tăng trưởng sản xuất hàng năm 16 - 18 % 12 - 14 % - Tăng trưởng xuất khẩu hàng năm 20 % 15 % Các chỉ tiêu chủ yếu trong Chiến lược phát triển ngành Dệt May Việt Nam đến năm 2015, định hướng đến năm 2020 như sau: Thực hiện Mục tiêu toàn ngành đến Chỉ tiêu Đơn vị tính 2006 2010 2015 2020 1. Doanh thu triệu USD 7.800 14.800 22.500 31.000 2. Xuất khẩu triệu USD 5.834 12.000 18.000 25.000 3. Sử dụng lao động nghìn người 2.150 2.500 2.750 3.000 4. Tỷ lệ nội địa hoá % 32 50 60 70 5. Sản phẩm chính: - Bông xơ 1000 tấn 8 20 40 60 - Xơ, Sợi tổng hợp 1000 tấn - 120 210 300 - Sợi các loại 1000 tấn 265 350 500 650 - Vải triệu m2 575 1.000 1.500 2.000 - Sản phẩm may triệu SP 1.212 1.800 2.850 4.000 3.2.3 Định hướng phát triển cho ngành dệt may Nghị định cũng đưa ra những định hướng phát triển cho ngành dệt may. Các định hướng này tập trung vào ba khía cạnh chính: sản phẩm, đầu tư và phát triển sản xuất, bảo vệ môi trường. Trong đó, định hướng về bảo vệ môi trường cho thấy sự quan tâm lớn của chính phủ trong việc vượt qua những rào cản thương mại của các nước nhập khẩu nói chung và của Mỹ nói riêng. Nội dung của định hướng bảo vệ môi trường:  Xây dựng Báo cáo đánh giá tác động môi trường phù hợp với Chiến lược phát triển ngành Dệt May và các quy định pháp luật về môi trường.  Tập trung xử lý triệt để các cơ sở ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Triển khai xây dựng các Khu, Cụm Công nghiệp Dệt May có hệ
  56. - 56 - thống xử lý nước thải tập trung, đạt tiêu chuẩn môi trường để di dời các cơ sở dệt may có nguy cơ gây ô nhiễm vào khu công nghiệp.  Triển khai Chương trình sản xuất sạch hơn trong ngành Dệt May, khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng tiêu chuẩn quản lý môi trường theo ISO 14000, tạo môi trường lao động tốt cho người lao động theo tiêu chuẩn SA 8000.  Xây dựng và thực hiện lộ trình đổi mới công nghệ trong ngành Dệt May theo hướng thân thiện với môi trường.  Tăng cường năng lực nghiên cứu khoa học công nghệ về môi trường.  Đáp ứng các yêu cầu về môi trường và rào cản kỹ thuật để hội nhập kinh tế quốc tế. 3.3 Dự báo về thị trường dệt may Mỹ đến năm 2010 và những rào cản thương mại đối với hàng dệt may của Mỹ Mỹ là thị trường khổng lồ với số dân khoảng 300 triệu người và GDP đạt mức 11 nghìn tỷ USD. Hiện tại Mỹ nhập hàng hoá từ 170 quốc gia với đủ chủng loại sản phẩm, từ cao cấp như ôtô, máy bay, các thiết bị điện công nghiệp đến hàng tiêu dùng như quần áo, giấy dép, đồ chơi trẻ em Do vậy, ngoại thương luôn là nguồn lực quan trọng làm giàu đất nước. Tăng trưởng thương mại và tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước là xu hướng chủ đạo trong nền kinh tế Mỹ trong thập kỷ qua. Xuất nhập khẩu của Mỹ tăng từ 10% GDP năm 1970 lên 25% năm 1997, và một phần ba mức tăng trưởng kinh tế là do mở rộng thương mại. Kim ngạch xuất nhập khẩu của Mỹ không ngừng tăng lên, trong đó kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá chiếm tỷ trọng trên 80%, còn dịch vụ chỉ chiếm 20%. Xã hội Mỹ là xã hội tiêu thụ bởi vì phần thu nhập dành cho tiêu dùng rất lớn. Thu nhập bình quân tính theo đầu người ở Mỹ là khoảng 36.200 USD năm 2000. Theo thống kê của Bộ Thương mại, Mỹ có khoảng 98 triệu hộ gia đình, trong đó khoảng 1 triệu hộ có tài sản trên 1 triệu USD, 5% số hộ có thu
  57. - 57 - nhập hàng năm trên 10.000 USD. Số hộ còn lại có thể chia thành bốn nhóm: nhóm một: nhóm có thu nhập thấp nhất, khoảng 17000 USD/năm; nhóm hai: gồm những hộ có thu nhập khoảng 30.000 USD/năm; nhóm ba: gồm những hộ có thu nhập khoảng 45.000 USD/năm; và nhóm bốn: nhóm có thu nhập cao nhất, khoảng 67.000 USD/năm. Qua các số liệu trên, có thể thấy rằng các hộ thuộc nhóm một (nhóm nghèo nhất) chỉ chiếm 15% dân số. Nhưng ngay cả nhóm này cũng có thu nhập cao hơn thu nhập bình quân của Việt Nam tới hơn 40 lần. Họ vẫn có sức mua đáng kể đối với hàng tiêu dùng các loại, đặc biệt là các hàng hoá bình dân có xuất xứ từ các nước đang phát triển. Người dân Mỹ có mức sống rất khác nhau nên nhu cầu tiêu dùng cũng khác nhau. Bởi vậy, hàng hoá nhập vào Mỹ cũng rất đa dạng về chủng loại và chất lượng, có cả hàng cao cấp và bình dân. Mỹ cũng nhập hàng và nguyên liệu từ nhiều nước khác, cả nước phát triển và nước đang phát triển, phục vụ cho những yêu cầu tiêu dùng khác nhau. Mỹ nhập khẩu hàng hoá từ hầu hết các nước trên thế giới. Trong số 170 nước xuất khẩu hàng hoá vào Mỹ, Việt Nam đứng thứ 72. Các nước đứng đầu về xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ năm 1998 là Canađa, Nhật Bản, Mêhicô, Đức, Trung Quốc, Anh, Hàn Quốc, Đài Loan. Những loại hàng hoá Việt Nam đã xuất sang Mỹ và có tiềm năng khai thác thế mạnh của mình là thuỷ, hải sản, quần áo, giầy dép, hàng mây tre đan, đồ gốm, cao su, cà phê, dầu và khí đốt Mỗi năm Mỹ nhập khoảng 50 tỷ USD giá trị nông sản; 200 tỷ USD nguyên liệu công nghiệp; 280 tỷ USD máy móc thiết bị; 150 tỷ USD ôtô, xe tải; 220 tỷ USD hàng tiêu dùng. Chỉ riêng hàng tiêu dùng, mỗi năm Mỹ nhập tới khoảng 200 tỷ USD. Nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ tăng đều đặn trong suốt thời kỳ từ 1990 đến 2007 với tốc độ tăng bình quân khoảng 7,25%/năm. Với tốc độ này, dự báo nhập khẩu hàng dệt may Mỹ trong đến năm 2010 sẽ vào khoảng 103,31 tỷ USD. Hiện nay, nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam mới chỉ chiếm gần 3%
  58. - 58 - kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ. Vì vậy, thị trường Mỹ là một thị trường đầy tiềm năng đối với ngành dệt may xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, để bảo vệ nền công nghiệp dệt may trong nước cũng như để đạt được những lợi ích về kinh tế, chính trị khác, Mỹ ngày càng đặt ra nhiều loại rào cản tinh vi, khó nhận biết hơn. Xu thế chung vẫn là nâng cao các rào cản về tiêu chuẩn kỹ thuật, bảo vệ môi trường, trách nhiệm xã hội; tiếp tục sử dụng các rào cản thông qua các cam kết song phương như buộc nước xuất khẩu tự áp dụng hạn ngạch hay thực hiện cơ chế giám sát; xuất hiện các rào cản về thuế quan và vấn đề tiếp cận thị trường cho những nước không thuộc các khu vực thương mại tự do mà Mỹ tham gia, 3.4 Một số quan điểm về vượt qua các rào cản thương mại dệt may của Mỹ đối với hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam - Việc đối phó với các rào cản thương mại dệt may của Mỹ phải đáp ứng tốt yêu cầu chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Vượt qua các rào cản thương mại dệt may của Mỹ trên cơ sở nâng cao nhận thức của chính phủ, hiệp hội và các doanh nghiệp dệt may Việt Nam về tác động của các loại rào cản thương mại. - Tạo điều kiện nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, các doanh nghiệp và cả nền kinh tế. Các doanh nghiệp nâng cao khả năng vượt qua các rào cản về kỹ thuật của hàng dệt may Việt Nam bằng cách nâng cao chất lượng tiêu chuẩn sản phẩm, gắn sản xuất với bảo vệ môi trường và quan tâm đến lợi ích của người lao động. - Nỗ lực đàm phán để được công nhận là nền kinh tế thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong các vụ kiện bán phá giá và trợ cấp. - Nhanh chóng khắc phục những tồn tại, bất hợp lý của chính sách và cơ chế hiện hành đối với ngành dệt may, đồng thời từng bước chuẩn bị các điều kiện để sẵn sàng và chủ động đối phó với các rào cản mới.