Luận văn Phát triển công cụ option trên thị trường chứng khoán Việt Nam

pdf 111 trang phuongnguyen 2060
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Phát triển công cụ option trên thị trường chứng khoán Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_van_phat_trien_cong_cu_option_tren_thi_truong_chung_kho.pdf

Nội dung text: Luận văn Phát triển công cụ option trên thị trường chứng khoán Việt Nam

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ PHƯƠNG CHI PHÁT TRIỂN CÔNG CỤ OPTION TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM CHUYÊN NGÀNH : KINH TẾ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG MÃ SỐ : 60.31.12 LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN NGỌC ẢNH Thành phố Hồ Chí Minh – 2008
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này là do chính tôi nghiên cứu và thực hiện. Các thông tin và số liệu được sử dụng trong luận văn được trích dẫn đầy đủ nguồn tài liệu tại danh mục tài liệu tham khảo và hoàn toàn trung thực.
  3. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT CP : Cổ phiếu CTCK : Công ty chứng khoán CTCP : Công ty cổ phần DN : Doanh nghiệp DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước HĐQT : Hội đồng quản trị NĐT : Nhà đầu tư NĐTNN : Nhà đầu tư nước ngoài NH : Ngân hàng NHTM : Ngân hàng thương mại OTC : Thị trường chứng khoán phi tập trung P/E : Chỉ số giá trên thu nhập SGDCK : Sở giao dịch chứng khoán SXKD : Sản xuất kinh doanh TTTC : Thị trường Tài chính TTCK : Thị trường chứng khoán TTGDCK : Trung tâm giao dịch chứng khoán UBCKNN : Uỷ ban chứng khoán Nhà nước VN-Index : Chỉ số giá cổ phiếu tại Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM WTO : Tổ chức thương mại thế giới
  4. DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ ĐỒ THỊ Biểu đồ 1: Tỷ trọng của giao dịch phái sinh tiền tệ với giao dịch phái sinh tài chính khác (T6/2007) 42 Biểu đồ 2: Doanh số của HĐ phái sinh tiền tệ trên OTC (2000-2006) 43 Biểu đồ 3: Doanh số giao dịch của HĐ phái sinh tiền tệ trên các Sở giao dịch toàn cầu (2000-2006) 43
  5. MỤC LỤC Trang PHẦN MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÁC CÔNG CỤ OPTION 4 1.1. Tổng quan về công cụ Option 4 1.1.1. Khái niệm 4 1.1.2. Phân loại 4 1.2. Tổng quan về Option chứng khoán 6 1.2.1. Khái niệm 6 1.2.2. Mục đích sử dụng option và những yếu tố cấu thành một quyền chọn 7 1.2.3. Những mức giá liên quan đến một quyền chọn 9 1.2.4. Giao dịch quyền chọn 10 1.2.5. Ngày đáo hạn 10 1.2.6. Lợi nhuận và rủi ro của hợp đồng option 11 1.3. Vai trò của các công cụ option tham gia vào TTCK 13 1.4. Những tác động vĩ mô khi phát triển công cụ option vào thị trường chứng khoán hiện nay 13 1.5. Chiến lược phòng ngừa rủi ro bằng quyền chọn 14 1.5.1.Giao dịch quyền chọn mua 16 1.5.2. Giao dịch quyền chọn bán 18 1.5.3. Quyền chọn mua và cổ phiếu 20 1.5.4. Quyền chọn bán và cổ phiếu 22 1.5.5. Quyền chọn mua và quyền chọn bán lai tạp 24 1.6. Những bài học kinh nghiệm trong công cuộc xây dựng và phát triển TTCK - Thị trường phái sinh Việt Nam 25 1.6.1. Thị trường chứng khoán Trung Quốc 25 1.6.2. Thị trường phái sinh ở Mỹ 28 1.6.3 Thị trường phái sinh Thái Lan 29 Kết luận chương I 28
  6. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG VỀ TTCK VIỆT NAM VÀ CÁC CÔNG CỤ OPTION ĐANG CÓ TRÊN THỊ TRƯỜNG 31 2.1. Thực trạng về TTCK Việt Nam 31 2.1.1. Phân tích TTCK Việt Nam trong giai đoạn từ 7/2000-06/2008 31 2.1.2. Nhận diện các rủi ro trên TTCK 40 2.2. Thực trạng các công cụ Option đang có trên thị trường Việt Nam 47 2.2.1. Option ngoại tệ 48 2.2.2. Option tiền đồng Việt Nam 51 2.2.3. Option vàng 54 2.3.4 Option lãi suất 56 2.3. Bài học kinh nghiệm trong việc phát triển các loại Option 57 2.3.1. Những thành quả đạt được sau một khoảng thời gian áp dụng các công cụ option vào thị trường tài chính Việt Nam 57 2.3.1. Một số các khó khăn còn tồn tại khi phát triển các option 59 Kết luận chương II 63 CHƯƠNG III CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÔNG CỤ OPTION TRÊN TTCK VIỆT NAM 64 3.1. Các giải pháp nhằm phát triển công cụ Option vào TTCK 64 3.1.1. Giải pháp xây dựng và hoàn thiện thể chế, khung pháp lý 64 3.1.2. Giải pháp tuyên truyền, thông tin, tư vấn công cụ option đến các nhà đầu tư 71 3.1.3. Giải pháp phát triển hạ tầng công nghệ thông tin 73 3.1.4. Giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 75 3.1.5. Giải pháp phát triển thị trường chứng khoán 78 3.1.6. Giải pháp thu hút nguồn vốn đầu tư, tạo sức hấp dẫn cho thị trường 81 3.1. Kiến nghị về việc hỗ trợ các giải pháp phát triển công cụ Option vào TTCK Việt Nam 86 3.2.1. Kiến nghị với Chính phủ và Bộ Tài chính về việc nâng cao tính hiệu quả của TTTC Việt Nam 87 3.2.1. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nhằm đẩy mạnh
  7. việc hiện đại hoá các NH TM 83 3.2.3. Kiến nghị với Chính phủ, UBCK Nhà nước về việc cải tiến và làm tăng tính cạnh tranh trên TTCK Việt Nam 89 Kết luận chương III 90 PHẦN KẾT LUẬN 91 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
  8. LỜI MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Với tư cách là phương thức khơi thông dòng vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh, thị trường chứng khoán có vai trò cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế. TTCK thúc đẩy việc tích lũy và tập trung vốn để đáp ứng nhu cầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chính sách mở cửa, cải cách kinh tế thông qua việc phát hành chứng khoán ra nước ngoài, điều tiết hoạt động của thị trường, khống chế sự co giãn cung cầu tiền tệ, khống chế quy mô đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế và giá trị đồng tiền . Trong thời gian qua, TTCK Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc, được xem là thị trường chứng khoán hấp dẫn nhất năm 2006. Nhưng sự phát triển đó vẫn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Lợi nhuận càng cao, rủi ro càng lớn, nhưng điều ngược lại thì chưa hẳn đã đúng: lợi nhuận có thể thấp, song rủi ro chưa chắc đã nhỏ đi. Việc chỉ số VN-Index tăng giảm hết sức thất thường dẫn đến một số nhà đầu tư thua lỗ nặng, không thể nào trụ vững trên thị trường nên ồ ạt bán tháo để bảo toàn vốn và sớm rút ra khỏi thị trường, làm cho thị trường càng trở nên trầm trọng hơn, dễ dẫn đến khủng hoảng, sụp đổ. Có biện pháp gì để giúp nhà đầu tư bảo toàn được vốn khi giá chứng khoán liên tục tăng giảm thất thường, có biện pháp gì giúp cho thị trường tránh được tình trạng khủng hoảng? Các công cụ hạn chế rủi ro hữu hiệu nhất hiện nay được áp dụng hầu hết ở các nước phát triển đó là các công cụ tài chính phái sinh mà chủ yếu là option chứng khoán hay còn được gọi là quyền chọn chứng khoán Option chứng khoán là công cụ quản trị rủi ro rất cần thiết và hữu ích cho các nhà đầu tư. Đây là công cụ tài chính khá cao cấp, khá phức tạp nhưng lại có nhiều ứng dụng và có vai trò to lớn, thiết thực đối với các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, chúng cũng tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn song song với thị trường chứng khoán cơ sở, thúc đẩy tính năng động cho thị trường tài chính và ảnh hưởng tích cực đến nền kinh tế quốc gia. Việc nghiên cứu nhằm phát triển công cụ option vào thị trường chứng khoán là việc làm hết sức cần thiết và cấp bách hiện nay. Do đó tôi đã quyết định nghiên cứu và thực hiện luận văn thạc sĩ với đề tài: “ Phát triển công cụ option trên thị trường chứng khoán Việt Nam” 1
  9. 2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU - Hệ thống hóa các lý luận cơ bản về thị trường chứng khoán và công cụ option, các chiến lược phòng ngừa rủi ro bằng option. - Điểm qua tình hình thị trường chứng khoán Việt Nam sau 7 năm hoạt động qua đó nhận diện những rủi ro trên thị trường chứng khoán hiện nay. Phân tích tình hình triển khai các công cụ option, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm trong việc phát triển công cụ option chứng khoán. - Đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển công cụ option trên thị trường chứng khoán Việt Nam 3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU - Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu các lý luận về Thị trường chứng khoán và công cụ option. - Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu quá trình hoạt động của thị trường chứng khoán và thực trạng triển khai các công cụ option như Option ngoại tệ, Option tiền đồng, Option vàng và Option lãi suất trên thị trường tài chính từ tháng 7/2000 đến tháng 12/2007. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, kết hợp với các phương pháp phân tích, thống kê, mô tả , so sánh , khái quát nhằm làm rõ vấn đề luận văn nghiên cứu . - Phưong pháp thu thập xử lý số liệu: Số liệu thứ cấp được lấy từ cơ quan thống kê, tạp chí và được xử lý trên máy tính. 5. Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI Sự phát triển ổn định thị trường chứng khoán đòi hỏi quyền lợi của nhà đầu tư phải được đặt lên hàng đầu, option chứng khoán nhằm giảm thiểu rủi ro cho các nhà đầu tư, đồng thời cũng tạo điều kiện cho những người vốn ít tham gia thị trường .Vì vậy đề tài “Phát triển công cụ option trên thị trường chứng khoán Việt Nam” nhằm giảm thiểu rủi ro và tránh những biến động lớn trên thị trường chứng khoán có thể thể dẫn đến những hậu quả xấu về mặt kinh tế và xã hội là có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao 6. KẾT CẤU LUẬN VĂN ¾ Phần mở đầu 2
  10. ¾ Chương 1: Những lý luận cơ bản về các công cụ Option ¾ Chương 2: Thực trạng về thị trường chứng khoán Việt Nam và các công cụ option đang có trên thị trường ¾ Chương 3: Các giải pháp phát triển công cụ option trên thị trường chứng khoán Việt Nam ¾ Kết luận 3
  11. CHƯƠNG I NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG CỤ OPTION 1.1. TỔNG QUAN VỀ CÔNG CỤ OPTION 1.1.1. Khái niệm Option (quyền chọn) là một hợp đồng giữa hai bên - người mua và người bán – trong đó cho người mua quyền, nhưng không phải là nghĩa vụ, để mua hoặc bán một tài sản nào đó vào một ngày trong tương lai với giá đã đồng ý vào một ngày hôm nay. Người mua quyền chọn trả cho người bán một số tiền gọi là phí quyền chọn. Người bán quyền chọn sẵn sàng bán hoặc tiếp tục nắm giữ tài sản theo các điều khoản của hợp đồng nếu người mua muốn như vậy. Một quyền chọn để mua tài sản gọi là quyền chọn mua. Một quyền chọn để bán tài sản gọi là quyền chọn bán. Hầu hết các quyền chọn mà chúng ta quan tâm là mua hoặc bán các tài sản tài chính chẳng hạn như cổ phiếu hoặc trái phiếu. Mặc dù vậy, chúng ta cũng đề cập đến các quyền chọn trên hợp đồng giao sau, kim loại và ngoại tệ. Nhiều loại thoả thuận tài chính khác chẳng hạn như hạn mức tín dụng, bảo đảm khoản vay và bảo hiểm cũng là các hình thức khác nhau của quyền chọn. Ngoài ra, chính bản thân cổ phiếu cũng là quyền chọn trên tài sản của công ty. 1.1.2. Phân loại. * Phân loại theo quyền của người mua: - Quyền chọn mua: là hợp đồng quyền chọn trong đó bên mua quyền chọn mua có quyền mua (hoặc không mua) một đồng tiền, hàng hoá, chứng khoán (gọi chung là tài sản cơ sở ) theo mức giá được thỏa thuận trong hợp đồng . Còn bên bán quyền chọn mua phải thực hiện nghĩa vụ bán loại tài sản cơ sở này khi bên mua quyết định thực hiện quyền của mình trong thời gian đáo hạn. Nếu giá tài sản cơ sở giảm, giá quyền chọn mua cũng sẽ giảm. Rõ ràng người mua quyền chọn mua có kỳ vọng về xu hướng tăng giá của tài sản đó. - Quyền chọn bán: là hợp đồng quyền chọn trong đó người mua quyền chọn bán có quyền bán (hoặc không bán) một tài sản cơ sở theo mức giá được thoả thuận trong hợp đồng. Còn người mua quyền chọn bán phải thực hiện nghĩa vụ mua loại tài sản cơ sở này khi người mua quyết định thực hiện quyền của mình trong thời gian đáo hạn. 4
  12. Cả hai đối tượng trong hợp đồng quyền chọn mua và quyền chọn bán là người mua và người bán đều sử dụng Option để phòng ngừa rủi ro vị thế đối với tài sản cơ sở. * Phân loại theo thời gian thực hiện. - Quyền chọn kiểu Mỹ (American style option): cho phép người nắm giữ quyền chọn thực hiện hợp đồng quyền chọn vào bất kỳ ngày nào trong thời hạn hợp đồng và trước ngày đáo hạn. - Quyền chọn kiểu Châu Âu ( European style Option): cho phép người nắm giữ thực hiện hợp đồng quyền chọn vào ngày đáo hạn. Việc thanh toán giữa hai bên thực tế xảy ra sau khi hợp đồng đến hạn từ 1 đến 2 ngày làm việc giống trường hợp ngày giá trị trong các giao dịch giao ngay. Sự phân biệt giữa hai loại quyền chọn kiểu Châu Âu và quyền chọn kiểu Mỹ không liên quan đến vị trí địa lý. Đa số hợp đồng quyền chọn được trao đổi chủ yếu trên thị trường Mỹ. Tuy nhiên, quyền chọn kiểu châu Âu có đặc điểm dễ phân tích hơn quyền chọn kiểu Mỹ. * Phân loại theo tài sản cơ sở ( Underlying Assets). Gồm có các loại như Option chứng khoán; Option chỉ số chứng khoán; Option tiền tệ; Option vàng; Option lãi suất; Option về hợp đồng Future; Option hàng hoá . - Option chỉ số chứng khoán: Một chỉ số chứng khoán là một chỉ tiêu đo lường tổng giá trị của một nhóm các cổ phiếu được chỉ định. Như trong bất kỳ chỉ số nào, nó là một chỉ tiêu tương đối so với các giá trị trước đó. Đối với quyền chọn chỉ số, chúng ta hiểu các mức yết giá là giá trị thị trường của cổ phiếu so với một mức giá trị cơ sở, được thiết lập từ nhiều năm trước, khi chỉ số được khởi tạo. Một Option chỉ số chứng khoán là một hợp đồng quyền chọn với tài sản cơ sở là các chỉ số chứng khoán phổ biến. Một số chỉ số theo dõi sự biến động của từng ngành riêng biệt. Một hợp đồng quyền chọn chỉ số chứng khoán trao cho người nắm giữ nó quyền mua hoặc bán một khối lượng bằng 100 nhân với chỉ số ở mức giá thực hiện đã được nêu rõ và có hiệu lực trong một thời gian xác định. Các chỉ số chứng khoán thường gặp như chỉ số S&P 100; S&P 500; chỉ số Nasdaq trên thị trường NYSE; chỉ số Nikkei 225 trên TTCK Tokyo. - Option tiền tệ: Vì nhiều công ty và nhà đầu tư nhạy cảm với rủi ro tỷ giá, quyền chọn tiền tệ cũng như các công cụ phái sinh khác được sử dụng rộng rãi. Option tiền tệ là 5
  13. một hợp đồng quyền chọn với tài sản cơ sở là các loại tiền tệ, nó trao cho người nắm giữ option quyền mua hay bán một lượng ngoại tệ nhất định theo tỷ giá xác định trước trong một khoảng thời gian đáo hạn ở tương lai. - Option lãi suất: Option về lãi suất là dạng option đặc biệt của option về hợp đồng Future. Tài sản cơ sở là các hợp đồng Future về lãi suất. Khi option lãi suất được thực hiện, cùng với thu nhập bằng tiền mặt, người nắm giữ option sẽ có vị thế dài hạn trên hợp đồng Future cơ sở; còn người phát hành option sẽ có vị thế ngắn hạn tương ứng. Trong những năm gần đây, option về lãi suất ngày càng trở nên phổ biến và được giao dịch sôi động trên thị trường OTC và các thị trường có tổ chức. - Option chứng khoán: Option chứng khoán là một hợp đồng quyền chọn kiểu Mỹ với tài sản cơ sở là các loại chứng khoán; nó trao cho người nắm giữ option quyền mua hoặc bán 100 cổ phiếu với mức giá thực hiện xác định và có hiệu lực đến ngày đáo hạn. Các chi tiết của hợp đồng như: quy định về ngày đáo hạn, giá thực hiện, những thay đổi khi công bố cổ tức, chia cổ phiếu, nhà đầu tư nắm giữ vị thế trong bao lâu thường được quy định rõ trên thị trường giao dịch option . 1.2. TỔNG QUAN VỀ OPTION CHỨNG KHOÁN. 1.2.1. Khái niệm. Quyền chọn là một hợp đồng được ký kết giữa một bên là “người ký phát” và một bên là người mua hợp đồng, trong đó cho phép người mua hợp đồng được quyền mua hoặc bán cho người ký phát hợp đồng một số lượng chứng khoán với một giá cả nhất định và trong một thời hạn quy định của tương lai. Hợp đồng quyền lựa chọn cung cấp quyền cho người sở hữu nó chứ không phải là nghĩa vụ mua hoặc bán. Vì vậy người chủ quyền lựa chọn có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng quyền lựa chọn. Nếu không muốn thực hiện quyền, người chủ của quyền có thể bán quyền lựa chọn đó trên TTCK, nghĩa là chuyển quyền sở hữu cho người chủ khác. Vì vậy, hợp đồng quyền lựa chọn cũng được xem là một loại chứng khoán của TTCK. Trên thực tế người ta ít khi thực hiện hợp đồng call và put option. Thay vào đó, nhà đầu tư sẽ mua và bán hợp đồng option khi đáo hạn, mua bán dựa trên giá cả của giá phí mua option tăng hay giảm. Bởi vì người mua option chỉ bỏ ra một số tiền nhỏ (phí mua option) để khống chế một số lượng lớn CK, nên mua 6
  14. bán option giúp họ có một đòn bẩy tài chính (leverage) rất lớn có thể kiếm lợi nhuận khổng lồ. Người mua bán option có thể bán (viết hợp đồng-writer) hợp đồng option có bảo kê, nghĩa là họ có chứng khóan cơ sở (chứng khóan làm cơ sở cho hợp đồng) trong tay, hợp đồng này có rủi ro rất lớn. Thông thường người mua bán option hay mất phí mua option trên số mua bán không thành công trước khi đạt nhiều lợi nhuận. Nhiều nhà mua bán(traders) khôn ngoan kết hợp nhiều loại hợp đồng call và put option theo cách “dàn trải” (spread) hay “hàng hai”, số lời hay lỗ của họ tùy thuộc vào mức chênh lệch rộng hay hẹp của giá cả giữa các hợp đồng options. Quyền lựa chọn có hai loại: - Quyền chọn mua (Call option): Hợp đồng này cho người mua hợp đồng được quyền mua một số cổ phần chứng khoán cơ sở ấn định (thường 1 hợp đồng là 100 cổ phiếu) theo giá cố định trước một thời điểm trong tương lai- thường là 3,6 hay 9 tháng. Để được có quyền này, người mua trả cho người bán hợp đồng call option (gọi là người viết hợp đồng- writer) một lệ phí gọi là premium (phí option), phí này coi như mất nếu như người mua không thực hiện hợp đồng option trước thời hạn ấn định. Vì thế người mua suy đoán rằng giá cổ phiếu cơ sở sẽ tăng trong thời gian đã định. - Quyền chọn bán (Put option): Hợp đồng này ngược với call option. Hợp đồng put option cho người mua hợp đồng được quyền bán một số lượng cổ phần ấn định với price ấn định trong khoảng thời gian ấn định. Trong trường hợp này người mua mong là giá CK sẽ hạ. - Ngoài ra còn loại hợp đồng option thưởng CK (incentive stock options) được trao cho các nhân viên điều hành công ty nếu như công ty đạt được các mục tiêu tài chính nào đó, như mức số bán hay lợi nhuận tăng cao. Viên chức điều hành được hưởng loại option này có quyền mua cổ phần công ty với giá thấp hơn giá thị trường sau đó họ bán ra thị trưởng để kiếm lời. 1.2.2. Mục đích sử dụng option và những yếu tố cấu thành một quyền lựa chọn. * Mục đích sử dụng option. - Sử dụng options để bảo hộ. Hợp đồng option được dùng để bảo hiểm, chúng đưa ra cách thức cho nhà đầu tư tự bảo vệ trước sự thay đổi giá cả của tài sản trong tương lai trong khi vẫn cho phép họ có lợi từ việc thay đổi giá thích hợp. Ví dụ: nhà đầu tư sở hữu 500 cổ phiếu ABC vào tháng 8, giá hiện hành là $102/cổ phiếu. Nhà đầu tư quan tâm việc 7
  15. giá cổ phiếu có thể giảm mạnh trong 2 tháng tới và muốn bảo hộ, nhà đầu tư mua option chọn bán tháng 10 trên thị trường CBOE để bán 500 cổ phiếu với đơn giá là $100/cổ phiếu. Mỗi hợp đồng quyền chọn bán 100 cổ phiếu, tổng cộng 5 hợp đồng được mua. Nếu giá phí option là $4, lệ phí cho mỗi hợp đồng là 100*$4 =$400 và tổng cộng lệ phí mà nhà đầu tư phải trả là :$2000. Với phí là $2000 nhưng đảm bảo rằng cổ phiếu có thể bán với đơn giá ít nhất là $100/cổ phiếu trong suốt thời hạn của option. Nếu giá thị trường có thể giảm xuống dưới $100/cổ phiếu thì nhờ bảo hộ option số cổ phiếu vẫn có thể bán được $50,000- $2000 =$ 48000.Nếu giá thị trường vượt trên $100/cổ phiếu thì option sẽ không được thực hiện. tuy nhiên trong trường hợp này giá trị của số cổ phiếu luôn ở mức $50,000 hoặc trên $48000 khi tính cả lệ phí option. - Sử dụng option để đầu cơ. Giả sử nhà đầu cơ nghĩ rằng cổ phiếu của ABC sẽ tăng trong 3 tháng tới hiện tại là tháng 9 và mức giá được chào như sau: giá cổ phiếu hiện hành là 78 $ giá quyền chọn cổ phiếu ABC tháng 12 ( có giá trị thực hiện là 80$) là 3$ chiến lược đầu cơ: - Cách 1: mua 100 cổ phiếu ABC. - Cách 2: mua 2600 quyền chọn (hay 26 hợp đồng) sẽ được thực hiện vào tháng 12 với giá thực hiện 80$. Chi phí của mỗi chiến lược là 7.800$, lợi ích có thể đạt được: 1. giá cổ phiếu ABC tăng đến 90 $ vào tháng 12. Nhà đầu tư thu lợi được 100*(90$-78$)=1.200$ khi sử dụng chiến lược thứ nhất. Với chiến lược thứ 2 nhà đầu tư sẽ được 2.600*10$=26000$, trừ đi chi phí phải trả khi mua quyền chọn: 26000$- 7800$=18200$. Vì vậy chiến lược quyền chọn thu lợi gấp 15 lần chiến lược mua cổ phiếu. 2. giá cổ phiếu ABC giảm xuống 70$ vào tháng 12. Nhà đầu tư sẽ bị lỗ 100*(70$-78$)= - 800$ khi dùng chiến lược đầu tiên và 7.800 $ với chiến lược thứ 2. Giá chứng khoán tháng 12 Chiến lược của nhà đầu tư 70$ 90$ Mua cổ phiếu (800$) 1200$ Mua quyền chọn (7800$) 18200$ Kết quả là :Khi có lợi thì càng có lợi, nhưng khi bị thiệt hại thì sẽ càng trở nên tồi tệ hơn. 8
  16. * Những yếu tố cấu thành một quyền lựa chọn. - Tên của loại chứng khoán và khối lượng được mua theo quyền. - Loại quyền (chọn mua hay chọn bán). - Thời hạn của quyền: tất cả các quyền lựa chọn được niêm yết đều có ngày hết hạn cố định. Người mua quyền có quyền bán hoặc mua cổ phiếu nguồn gốc tại một thời điểm bất kỳ trước ngày đáo hạn. Nếu nó không được thực hiện trước ngày đáo hạn, nó sẽ chấm dứt tồn tại. - Mức giá thực hiện theo quyền: giá mà người mua quyền có thể mua cổ phiếu từ người viết quyền (trong trường hợp quyền lựa chọn mua) hoặc là bán cổ phiếu cho người viết quyền (trong trường hợp đối với quyền lựa chọn bán) tổng số tiền thực hiện bằng số lượng chứng khoán của hợp đồng nhân với giá thực hiện và được xác định trên sở giao dịch mà tại đó các hợp đồng này được niêm yết. 1.2.3. Những mức giá liên quan tới một quyền lựa chọn. - Giá thị trường hiện hành của loại chứng khoán. - Giá chứng khoán thực hiện theo quyền. - Giá quyền lựa chọn. + Đối với quyền chọn mua, nếu giá thực hiện thấp hơn giá hiện hành của chứng khoán cơ sở, thì quyền đó được gọi là đang được tiền (in the money), tức là người có quyền có thể có lợi từ việc thực hiện quyền. Nếu giá thực hiện bằng với giá thị trường, quyền đang ở trạng thái hoà vốn ( at the money), và nếu cao hơn, gọi là đang mất tiền (out of money). + Đối với quyền chọn bán thì ngược lại, người thực hiện quyền sẽ có lợi nếu giá bán thực hiện quyền cao hơn giá thị trường của chứng khoán và sẽ bị mất tiền nếu giá thực hiện quyền thấp hơn giá thị trường của chứng khoán. Giá trị mà người nắm giữ quyền lựa chọn sẽ nhận được bằng cách thực hiện quyền được gọi là giá trị nội tại (intrinsic value). Nếu quyền ở trạng thái bị mất tiền, giá trị nội tại bằng 0. Giá thị trường của một quyền thường ít nhất là bằng giá trị nội tại. Giá bán quyền được gọi là phần phụ trội, chênh lệch giữa giá bán quyền với giá trị nội tại (trong trường hợp quyền đang được tiền) được gọi là phần phụ trội giá trị theo thời gian. Nói cách khác, khi đó: Giá trị theo thời gian quyền chọn mua = Giá quyền - (giá thị trường - giá thực hiện) 9
  17. 1.2.4. Giao dịch quyền chọn. Các hợp đồng quyền chọn được giao dịch ở sở chứng khoán do các nhà tạo thị trường mua bán các hợp đồng quyền chọn bằng tài khoản của họ. Khách hàng sẽ mở một tài khoản để giao dịch quyền lựa chọn sau đó họ sẽ điền vào phiếu lệnh, các lệnh sẽ được chuyển đến quầy giao dịch bằng điện báo hay điện thoại. Sau khi lệnh được thực hiện, người môi giới của khách hàng phải thông báo và thanh toán với trung tâm thanh toán bù trừ quyền lựa chọn và thông báo cho khách hàng. Vì giao dịch quyền chọn có rủi ro cao nên không phải ai cũng có thể giao dịch. Mọi thông tin giao dịch quyền chọn như yết giá hàng ngày tổng kết giao dịch hàng tuần về quyền lựa chọn được công bố trên báo chí và các loại bảng tổng kết. Nhà đầu tư cần lựa chọn 3 chiến lược: -Hủy bỏ hợp đồng: được thực hiện khi nhà đầu tư tham gia vào giao dịch đóng. Khi đó họ bán hợp đồng này cho người khác với giá bán lớn hơn số tiền đầu tư ban đầu, hoặc người viết quyền mua lại hợp đồng mà họ đã bán trên thị trường, họ sẽ có lãi nếu số tiền bán quyền lựa chọn ban đầu lớn hơn số tiền đã mua lại hợp đồng này. -Giữ lại hợp đồng khi đến hạn: khi đó người mua quyền sẽ mất toàn bộ số tiền bỏ ra để có quyền này, người viết quyền sẽ có lãi là số tiền nhận được khi bán quyền lựa chọn. -Thực hiện quyền: người mua quyền sẽ mua hay bán chứng khoán với người viết quyền. Khi đó người viết quyền phải thực hiện của hợp đồng. 1.2.5. Ngày đáo hạn. Một trong những điều khoản được sử dụng để mô tả hợp đồng option về chứng khoán là tháng xảy ra ngày đáo hạn của hợp đồng. Ngày đáo hạn chính xác là vào lúc 22h 59ph ngày thứ bảy sau ngày thứ sáu của tuần lễ thứ ba của tháng đáo hạn. Ngày cuối cùng của giao dịch option là vào ngày thứ sáu của tuần lễ thứ ba của tháng đáo hạn. Theo thông lệ nhà đầu tư ở vị thế dài hạn trên option có thời gian đến 16h30 của ngày thứ 6 đó để chỉ thị cho nhà môi giới thực hiện option. Sau đó nhà môi giới còn thời gian đến 22h59 ngày hôm sau để hoàn thành các thủ tục. Option chứng khoán có chu kỳ theo tháng giêng, tháng hai hoặc tháng ba. Chu kỳ tháng giêng bao gồm tháng giêng, tháng tư, tháng bảy và tháng mười. Chu kỳ tháng hai bao 10
  18. gồm tháng hai, tháng năm, tháng tám và tháng mười một. Chu kỳ tháng ba bao gồm tháng ba, tháng sáu, tháng chín và tháng mười hai. Nếu ngày đáo hạn của tháng hiện tại vẫn chưa dến thì option được giao dịch với các ngày đáo hạn trong tháng hiện tại, tháng liền sau và hai tháng kế tiếp trong chu kỳ. 1.2.6. Lợi nhuận và rủi ro của hợp đồng option. * Lợi nhuận và rủi ro của người mua option. Đối với người mua, hợp đồng option cho một đòn bẩy tài chính (leverage) với rủi ro có thể tính trước. Giá phí hợp đồng option là premium (phí hợp đồng option) và giá phí hợp đồng thường chỉ là một phần nhỏ so với giá thị trường của chứng khóan cơ sở (underlying stock- chứng khoán làm cơ sở cho hợp đồng). Vì thế người tham gia hợp đồng có thể tham gia vào bất cứ trường hợp chuyển giá chứng khóan mà không phải mua chính chứng khóan đó, nên không phải bỏ ra một số tiền lớn để đầu tư. Ngoài ra người mua option biết rằng sự thua lỗ tối đa chỉ bằng tổng số phí mua option. Trên thực tế, người mua option đều mong muốn kiếm lợi nhuận từ số phí mua option tăng giá trị. Họ không quan tâm hợp đồng có chính chứng khóan, mà họ bị hấp dẫn bởi số đòn bẩy tài chính(một số tiền nhỏ) để đem lại tư bản kiếm đợc cao(capital gain) với số vốn đầu tư dài hạn. * Lợi nhuận và rủi ro của người bán option. Người bán hợp đồng Option được gọi là “writers”, nó xuất phát từ những ngày đầu tiên mua bán ngoài danh mục(OTC- Over The Counter) khi chi tiết của hợp đồng được viết cẩn thận bằng tay. Ngày nay từ ngữ được giữ nguyên thể. Mục tiêu của người bán hợp đồng là kiếm thêm tiền bằng phí mua Option do người mua trả. Số lợi tức này đôi khi cộng vào tổng số lợi nhuận trong danh mục đầu tư. Phí option cũng có thể là tấm đệm khichứng khóan chuyển biến nghịch- nhưng chỉ trong mức độ phí option. Phí option cũng là phương tiện bảo hộ giá (hedges) cho chứng khóan khi sụt còn $45. Nếu chứng khóan sụt hơn phí option, lúc đó nhà đầu tư (người bán hợp đồng) mới chịu lỗ. Dĩ nhiên viết hợp đồng call option có bảo kê sẽ tảng tỉ lệ lợi nhuận trong danh mục đầu tư chỉ khi nào chứng khóan cở sở không tăng hay giảm hơn phí option. Trong khi mua option cần phải có đủ tiền mặt, còn bán option thì phức tạp hơn nhiều. Hầu hết 11
  19. người bán đều dùng tài khỏan Margin (tài khoản vay tiền để mua chứng khóan). Hợp đồng call option có thể có bảo kê (covered) hoặc không có bảo kê(uncovered) còn gọi là hợp đồng khống (naked). Hợp đồng Call có bảo kê thì đơn giản nhất vì người bán chỉ cần kí thác với broker chính xác số cổ phần cơ sở của hợp đồng để bán khi hợp đồng được người mua hợp đồng thực hiện. Người viết (bán) hợp đồng Call option có bảo kê có thể chọn 2 cạch để giao chứng khóan, hai là mua ở thị trường tự do để giao khi người mua thực hiện hợp đồng. Người bán có chứng khóan giá phí thấp sẽ chọn cách thứ hai để tránh trả phí cao về tư bản kiếm được vào thời điểm đó. Hợp đồng Call option khống chỉ có thể bán bằng tài khoản Margin. Broker yêu cầu phải có một ngân quỹ tương xứng sẵn trong tài khoản lúc nào để mua chứng khóan trong thị trường tự do nếu như người mua thực hiện hợp đồng Option. Các qui định về việc bán hợp đồng put và Call không có bảo kê tương tự như nhau. Khi nào sử dụng tài khỏan Mergin nhà đầu tư phải tính lợi nhuận sau cùng của giao dịch mua bán dựa trên số vốn đã kí thác. Bán hợp đồng call option khống có nhiều rủi ro hợp đồng có bảo kê. Nếu chứng khóan đứng yên hay xuống giá hợp đồng Call đem lại nhiều lợi nhuận rong số vốn kí thác trong tai khỏan Mergin. Nhưng nếu nó tăng cứ mỗi điểm (point) tăng được số phí option nó nhận được ban đầu sẽ làm cho người bán thua lỗ tiền túi khi hợp đồng Call thực hiện. Người bán hợp đồng Call khống giống như người bán khống (bán chứng khóan vay mượn- short sell) có thể thua lỗ khống có giới hạn. Một vài nhà đầu tư muốn tăng lợi tức từ phí có từ phí Option sẽ phối hợp từ hoạt động Call có bảo kê và Call khống theo sách lựơt được gọi là”variable hedging” (bảo hộ giá theo biến đổi). Họ sẽ bán nhiều hợp đồng option cho mỗi đơn vị 100 cổ phần. Cứ mỗi hợp đồng option thêm vào sẽ tăng điểm hòa vốn ở chiều xuống và hạ điểm hòa vốn ở chiều lên. Nhà đầu tư nhận được nhiều phí option hơn nhưng phải chịu rủi ro khi bán hợ đồng Call khống. Rủi ro này cộng thêm sự khó khăn tiên đoán biến chuyển giá ngắn hạn làm cho việc bán hợp đồng Call khống khó có lý do để đứng vững. Mặc dù có những biểu hiện chứng khóan sẽ sụp đỗ, bán hợp đồng Call khống không là phương pháp tốt nhất để khai thác giá chứng khóan giảm theo như dự đóan. Tất cả người bán option có thể mua ngăn chặn(buy-in) hay mua chấm dứt (closing Purchase), đây lag phương pháp nhằm chấm dứt trách nhiệm giao hay nhận chứng khóan, 12
  20. nghĩa là người bán hợp đồng sẽ mua hợp đồng option tương tự như hợp đồng đã bán (nhưng chỉ có phí option và gía điểm là khác nhau). Hợp đồng thứ hai sẽ bù đắp cho hợp đồng thứ nhất. Người bán sẽ lời hay lỗ tùy theo chênh lệch giữa hai phí option. 1.3. VAI TRÒ CỦA CÁC CÔNG CỤ OPTION THAM GIA VÀO TTCK. - Quản lý rủi ro giá cả: cũng giống như hợp đồng future nhưng có nhiều ưu điểm hơn Future, option cung cấp một cơ chế hiệu quả cho phép phòng tránh rủi ro từ những người không thích rủi ro sang những người chấp nhận rủi ro tìm kiếm lợi nhuận - Vai trò định giá: hợp đồng quyền chọn tuy không trực tiếp phản ánh dự đoán về giá giao ngay trong tương lai như hợp đồng Future, nhưng nó phản ánh sự biến động giá của các loại hàng hóa cơ sở hay nói cách khác, option phản ánh độ rủi ro gắn liền với mỗi tài sản cơ sở. - Thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển: Thị trường quyền chọn và hợp đồng Future cho phép các nhà đầu tư kinh doanh đạt được một tỷ suất sinh lợi cao, chính điều này hấp dẫn mạnh các nguồn vốn đầu tư mạo hiểm từ đó hình thành các Quỹ mạo hiểm, góp phần giúp huy động thêm được nhiều nguồn lực tài chính xã hội. Bên cạnh đó, việc tham gia trên thị trường không đòi hỏi một chi phí quá lớn do đó cho phép các nhà đầu tư có thể dễ dàng tham gia hoặc rút lui ra khỏi thị trường một cách dễ dàng. Việc tham gia trên thị trường Future và Option sẽ khuyến khích, thu hút được nhiều nhà sản xuất, kinh doanh, doanh nghiệp xuất khẩu, các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia tích cực hơn trên thị trường chứng khoán, thúc đẩy thị trường chứng khoán ngày một phát triển và sôi động hơn với các lợi ích của công cụ chứng khoán phái sinh. 1.4. NHỮNG TÁC ĐỘNG VĨ MÔ KHI PHÁT TRIỂN CÔNG CỤ OPTION VÀO THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN HIỆN NAY. - Sự phát triển của thị trường phái sinh nói chung và của công cụ option chứng khoán nói riêng là một yếu tố quan trọng, là yếu tố song hành cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán và thị trường tài chính, giúp gia tăng nhiều lần giá trị các đối tượng đầu tư như cổ phiếu, trái phiếu - Option chứng khoán sẽ giúp đa dạng danh mục sản phẩm trên thị trường tài chính, giúp nhà đầu tư có nhiều lựa chọn và cân nhắc đầu tư có hiệu quả nhất vì đây là một công cụ đầu tư có chi phí thấp. 13
  21. - Việc gia nhập WTO của Việt Nam yêu cầu các doanh nghiệp cần thêm các biện pháp và công cụ để phòng ngừa rủi ro trong việc tham gia vào một thị trường cạnh tranh, hoà nhập và kết nối toàn cầu. Đặc biệt là thị trường chứng khoán Việt Nam, một thị trường chứng khoán còn non trẻ, nhiều sai sót và đầy rủi ro. Option chứng khoán ra đời và phát triển sẽ giúp đáp ứng yêu cầu này với vai trò là rào chắn rủi ro cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. 1.5. CHIẾN LƯỢC PHÒNG NGỪA RỦI RO BẰNG QUYỀN CHỌN. Một trong những đặc tính hấp dẫn nhất của quyền chọn là nó có thể được kết hợp với cổ phiếu hoặc một quyền chọn khác để tạo ra nhiều chiến lược đa dạng nhằm đáp ứng mức rủi ro ưa thích của nhà đầu tư và phù hợp với dự báo của thị trường. Nếu trong một thế giới không có quyền chọn, các chiến lược hiện hữu sẽ rất hạn chế. Nếu thị trường được kỳ vọng sẽ tăng lên, người mua sẽ đi mua cổ phiếu, nếu nó được kỳ vọng giảm xuống thì người ta sẽ bán khống cổ phiếu. Tuy nhiên, để bán khống một cổ phiếu, yêu cầu nhà đầu tư phải đáp ứng một số điều kiện như phải có một số vốn tối thiểu để mạo hiểm, bán khống khi giá đang xu hướng lên, tức là giá cổ phiếu hiện tại đang giao dịch ở mức cao hơn so với những giao dịch trước, và duy trì mức ký quỹ tối thiểu. Quyền chọn làm cho việc chuyển từ dự báo sang một kế hoạch hành động đem lại lợi nhuận nếu dự báo đúng. Tất nhiên, chiến lược sẽ trừng phạt nhà đầu tư nếu họ dự báo sai. Tuy nhiên, với việc sử dụng quyền chọn một cách đúng đắn, mức trừng phạt sẽ khá nhỏ và có thể biết trước được. Một số khái niệm và thuật ngữ Để hiểu rõ các nội dung sắp tới, chúng ta cần xem xét một số khái niệm và thuật ngữ sau: - Cao giá ITM : Quyền chọn mua/quyền chọn bán được xem là Cao giá ITM nếu giá chứng khoán cao/thấp hơn giá thực hiện . - Kiệt giá OTM : Quyền chọn mua/quyền chọn bán được xem là kiệt giá OTM khi giá chứng khoán thấp/cao hơn giá thực hiện. - Ngang giá ATM : Khi giá cổ phiếu bằng giá thực hiện thì quyền chọn mua hay quyền chọn bán được xem là ngang giá ATM. - C : Giá quyền chọn mua hiện tại 14
  22. - P : Giá quyền chọn bán hiện tại - S0 : Giá cổ phiếu hiện tại - X : Giá thực hiện - St : Giá cổ phiếu khi đáo hạn - t : Thời gian khi đáo hạn, dưới dạng phân số theo năm - π : Lợi nhuận chiến lược - Nc : Số quyền chọn mua - Np : Số quyền chọn bán - Ns : Số lượng cổ phiếu - Với Nc, Np, Ns >0 : Nhà đầu tư đang mua quyền hay mua cổ phiếu - Với Nc, Np, Ns <0 : Nhà đầu tư đang bán quyền hay bán cổ phiếu. Để xác định lợi nhuận từ một chiến lược đặc biệt; chúng ta chỉ cần có bao nhiêu quyền chọn mua, quyền chọn bán và cổ phiếu được sử dụng, vị thế là dài hạn hay ngắn hạn, giá mà quyền chọn hay cổ phiếu được mua hoặc bán, và các mức giá khi vị thế được đóng lại. Với quyền chọn mua được nắm giữ cho đến khi đáo hạn, chúng ta đã biết rằng quyền chọn mua sẽ có giá trị bằng giá trị nội tại khi đáo hạn. Vì vậy, lợi nhuận sẽ là: π = Nc[Max (0,St – X) – C] Hãy xem dấu của Nc giúp cho phương trình tính ra kết quả của cả người mua và người bán quyền chọn như thế nào. Giả sử có một người mua một quyền chọn mua, Nc = 1, có lợi nhuận là: π = Max(0,St – X) – C Đối với người bán một quyền chọn mua, Nc = -1, lợi nhuận sẽ là: π = -Max(0,St – X) – C Đối với quyền chọn bán, lợi nhuận được biểu diễn như sau : π = Np[Max(0,X – St) – P] Đối với người mua một quyền chọn bán, Np = 1 π = Max(0,X – St) – P Đối với người bán một quyền chọn bán, Np = - 1 π = - Max(0,X – St) + P Đối với giao dịch chỉ bao gồm cổ phiếu, phương trình lợi nhuận chính là: 15
  23. π = Ns(St – S0) Đối với người mua một cổ phiếu, Ns = 1, lợi nhuận là: π = St – S0 Đối với người mua một cổ phiếu, Ns = - 1, lợi nhuận là : π = - St + S0 Các giả định Có rất nhiều giả định quan trọng làm nền tảng cho việc phân tích chiến lược quyền chọn. Thứ nhất, chúng ta giả định rằng cổ phiếu không trả cổ tức. Như chúng ta đã biết, cổ tức có thể làm quyết định về quyền chọn trở nên phúc tạp hơn. Mặc dù xét luôn cả trường hợp này ở đây sẽ không phải là đặc biệt khó khăn, chúng ta sẽ qua nó một cách có dụng ý nhằm làm cho việc phân tích trở nên đơn giản. Ở những tình huống mà nó đặc biệt quan trọng, chúng ta sẽ quan tâm đến hiệu ứng cổ tức. Thứ hai, chúng ta giả định rằng không có thuế và chi phí giao dịch. Những điều này đã được trình bày và dĩ nhiên là cần quan tâm trong quyết định về quyền chọn nhưng chúng ta sẽ chỉ bổ sung chút ít cho phân tích ở đây. Ở những trường hợp có thuế và chi phí giao dịch đặc biệt, chúng ta sẽ tìm hiểu thêm về tác động của chúng Để hiểu rõ hơn các chiến lược chúng ta hãy tìm hiểu qua một chút về các giao dịch cổ phiếu. Giao dịch cổ phiếu bao gồm : - Mua cổ phiếu: là giao dịch đơn giản nhất. Khi đó phương trình lợi nhuận sẽ là : π = Ns(St – S0) với Ns > 0 - Bán khống cổ phiếu : là hình ảnh tương phản với mua cổ phiếu Phương trình lợi nhuận sẽ là : π = Ns(St – S0) với Ns 0 Xét trường hợp mà số quyền chọn mua được mua chỉ là 1 (Nc = 1). Giả định rằng giá cổ phiếu khi đáo hạn nhỏ hơn hoặc bằng giá thực hiện vì vậy tại thời điểm đáo hạn ta có quyền chọn kiệt giá OTM hoặc ngang giá ATM. Vì quyền chọn mua đáo hạn mà 16
  24. không được thực hiện, lợi nhuận chính là –C. Người mua quyền chọn gánh chịu một khoản lỗ bằng với phí quyền chọn. Giả định rằng tại thời điểm đáo hạn quyền chọn rơi vào trạng thái cao giá ITM. Khi đó, người mua quyền chọn sẽ thực hiện quyền chọn mua, mua cổ phiếu với giá X và bán nó với giá St, sẽ có lợi nhuận ròng là St – X – C Các kết quả này được tổng kết như sau: π = St – X – C Nếu St>X π = - C Nếu St≤X Chúng ta có thể tính giá cổ phiếu hòa vốn khi đáo hạn bằng cách cho lợi nhuận bằng 0 ứng với trường hợp giá cổ phiếu cao gơn giá thực hiện. Sau đó chúng ta giải * phương trình tìm giá cổ phiếu hòa vốn St . Ta có: * π = St - X – C = 0 * Giải tìm St ta được: * St = X + C Như vậy, giá cổ phiếu hòa vốn khi đáo hạn bằng giá thực hiện cộng với giá quyền chọn mua. Giá quyền chọn mua –C là khoản tiền đã được chi trả để mua quyền chọn mua. Để hòa vốn, người mua quyền chọn mua phải thực hiện quyền chọn ở một mức giá đủ cao để bù đắp chi phí quyền chọn. Ứng với mỗi đôla mà giá cổ phiếu khi đáo hạn vượt hơn giá thực hiện, người mua quyền chọn mua thu được 1 đôla. Vì vậy, giá cổ phiếu phải cao hơn giá thực hiện C đôla để người mua quyền chọn mua bù đắp được chi phí quyền chọn. Mua quyền chọn mua là một chiến lược tăng giá có mức lỗ có giới hạn và có mức lợi nhuận tiềm năng không giới hạn. Do đó mua quyền chọn mua là một chiến lược đặc biệt hấp dẫn đối với những người có nguồn vốn hạn chế muốn: cùng thử thách với thị trường” mà vẫn giới hạn mức lỗ của họ ở một mức không đến mức hủy diệt họ hoàn toàn. + Về việc lựa chọn giá thực hiện : Mua quyền chọn mua với giá thực hiện thấp hơn có mức lỗ tối đa cao hơn nhưng lợi nhuận khi giá tăng cũng cao hơn. Vì vậy, lựa chọn quyền chọn mua nào là không dễ dàng và phụ thuộc vào việc người mua quyền chọn tự tin bao nhiêu về triển vọng thị trường. Nếu một người linh cảm mạnh mẽ rằng giá cổ 17
  25. phiếu sẽ tăng, quyền chọn với giá thực hiện thấp nhất sẽ được ưa thích hơn. Ngược lại, một quyền chọn có giá thực hiện cao hơn sẽ tối thiểu hoá các khoản lỗ. + Về việc lựa chọn thời gian sở hữu : Với giá cổ phiếu cho trước, quyền chọn mua được sở hữu càng lâu, giá trị thời gian mất đi càng nhiều và lợi nhuận càng thấp. * Bán quyền chọn mua. Một nhà kinh doanh quyền chọn bán một quyền chọn mua mà không đồng thời sở hữu cổ phiếu được gọi là bán một quyền chọn mua không được phòng ngừa. Đây là một lĩnh vực ưu tiên chỉ được thực hiện bởi một số ít là nhà khinh doanh có đủ vốn tương ứng với rủi ro. Tuy nhiên, bán một quyền chọn mua không được phòng ngừa có thể kết hợp được với các chiến lược khác để tạo thành một chiến lược với rủi ro rất thấp. Vì vậy, cần thiết phải thiết lập các kết quả đối với việc bán quyền chọn mua trước khi kết hợp nó với các chiến lược khác. Vì Lợi nhuận của người mua và người bán trái chiều nhau nên phương trình lợi nhuận của chiến lược này cũng khá quen thuộc. Lợi nhuận của người bán sẽ là : π = Nc[Max(0, St – X) – C] với Nc X Bán quyền chọn mua là một chiến lược kinh doanh giá xuống và mang lại lợi nhuận có giới hạn chính là phí quyền chọn, nhưng mức lỗ thì vô hạn. + Về việc lựa chọn giá thực hiện: Bán quyền chọn mua với giá thực hiện thấp hơn có mức lợi nhuận tối đa cao hơn nhưng mức lỗ do giá tăng cũng cao hơn. + Về việc lựa chọn thời gian sở hữu : Với giá cổ phiếu cho trước, vị thế bán quyền chọn mua được duy trì càng lâu, giá trị thời gian càng mất dần và lợi nhuận càng lớn. 1.5.2. Giao dịch quyền chọn bán. * Mua quyền chọn bán. Mua quyền chọn bán là một chiến lược dành cho thị trường giá xuống. Mức lỗ tiềm năng được giới hạn trong phí quyền chọn được chi trả. Lợi nhuận cũng bị giới hạn nhung vẫn có thể rất lớn. Lợi nhuận từ việc mua một quyền chọn bán được thể hiện qua phương trình 18
  26. π = Np[Max(0, X – St) – P] với Np>0 Xét việc mua một quyền chọn bán duy nhất, Np = 1. Nếu giá cổ phiếu khi đáo hạn thá6p hơn gí thực hiện, quyền chọn bán là cao giá ITM và sẽ được thực hiện. Nếu giá cổ phiếu khi đáo hạn lớn hơn hoặc bằng giá thực hiện, quyền chọn bán kiệt giá OTM hoặc ngang giá ATM. Lợi nhuận là : π = X – St – P Nếu St = X π = - P Nếu St ≥X Hòa vốn khi đáo hạn xảy ra khi giá cổ phiếu nhỏ hơn giá thực hiện. Cho phương trình lợi nhuận bằng 0 ta được: π = X – St – P = 0 Giải phương trình tìm giá cổ phiếu hòa vốn, St* khi đáo hạn. kết quả là : * St = X – P Mua quyền chọn bán là một chiếc lược giảm giá có mức lỗ có giới hạn (phí quyền chọn bán) và một mức lợi nhuận tìm năng lớn, nhưng có giới hạn. Người mua quyền chọn bán phải bù đắp đủ chi phí quyền chọn đã trả trước nhờ giá thực hiện quyền chọn. Trong bất kỳ trường hợp nào, mua một quyền chọn bán là một chiếc lược phù hợp nếu dự đoán thị trường sẽ giảm giá. Mức lỗ được giới hạn ở mức phí quyền chọn, và lợi nhuận tiềm năng cũng khá cao. Hơn nữa, thực hiện một giao dịch quyền chọn bán sẽ dễ dàng hơn bán khống. quyền chọn bán không cần phải được mua khi giá cổ phiếu trong trạng thái tăng lên và số tiền trả cho quyền chọn bán thấp hơn nhiều so với khoản ký quỹ bán khống. Quan trọng hơn, quyền chọn bán giới hạn mức lỗ trong khi bán khống có mức lỗ không giới hạn. + Về việc lựa chọn giá thực hiện: Mua một quyền chọn bán với giá thực hiện cao hơn có mức lỗ tối đa lớn hơn nhưng lợi nhuận do giá giảm cũng lớn hơn. Thực hiện một giao dịch quyền chọn bán sẽ dễ dàng hơn bán khống. Quyền chọn bán không cần phải được mua khi giá cổ phiếu trong trạng thái tăng lên và số tiền trả cho quyền chọn bán thấp hơn nhiều so với khoản ký quỹ bán khống. Quan trọng hơn, quyền chọn bán giới hạn mức lỗ khi bán khống có mức lỗ giới hạn. + Về việc lựa chọn thời gian sở hữu: Với mức giá cổ phiếu cho trước, một quyền chọn bán được sở hữu càng lâu giá trị thời gian mất đi càng nhiều và lợi nhuận càng thấp. 19
  27. Đối với quyền chọn bán kiểu châu Âu, tác động này ngược lại khi giá cổ phiếu khá thấp. Thời gian sở hữu ngắn hơn không nhất thiết tốt hơn hay kém hơn thời gian sở hữu dài hơn. Sự lựa chọn phụ thuộc vào dự báo của nhà kinh doanh về giá cổ phiếu, đặc biệt là mong đợi nó sẽ biến động bao nhiêu, hướng biến động và trong thời gian bao lâu. * Bán quyền chọn bán. Phương trình lợi nhuận của người bán quyền chọn bán: π =Np[Max(0, X – St) – P] với Np X π = P Nếu St ≥X Bán quyền chọn bán là một chiến lược kinh doanh giá lên với mức lợi nhuận có giới hạn là phí quyền chọn và một mức lỗ tiềm năng lớn nhưng cũng có giới hạn. + Về việc lựa chọn giá thực hiện : Bán một quyền chọn bán với giá thực hiện cao hơn mức lợi nhuận tối đa lớn hơn nhưng mức lỗ tiềm năng cũng lớn hơn khi giá giảm. + Về việc lựa chọn thời gian sở hữu : Với giá cổ phiếu cho trước, vị thế bán quyền chọn bán được duy trì càng lâu, giá trị thời gian mất đi càng nhiều và lợi nhuận càng cao. Đối với quyền chọn bán kiểu châu Âu, tác động này ngược lại khi giá cổ phiếu thấp. 1.5.3. Quyền chọn mua và cổ phiếu. Một chiến lược đơn giản nhưng có rủi ro thấp là bán một quyền chọn mua tương ứngvới mỗi cổ phiếu đáng sở hữu. Mặc dù chiến lược này không phải là phi rủi ro, nhưng nó cũng làm giảm rủi ro của việc chỉ sở hữu cổ phiếu. Nó cũng là một trong số các chiến lược phổ biến nhất của các nhà kinh doanh quyền chọn chuyên nghiệp. Một nhà đầu tư thực chiến lược này được gọi là Bán một quyền chọn mua được phòng ngừa. Nên nhớ rằng, chúng ta đã nghiên cứu quyền chọn mua không được phòng ngừa trong đó nhà đầu tư bán một quyền chọn mua đối với một cổ phiếu mà người đó không sở hữu. Với hợp đồng bán quyền chọn mua cổ phiếu, người bán phải chịu rủi ro không giới hạn, nếu kết hợp với việc sở hữu cổ phiếu, sẽ không còn rủi ro phải mua nó trên thị trường với mức giá cao. Khi quyền chọn mua được thực hiện, nhà đầu tư chỉ phải chuyển giao cổ phiếu. Đứng trên một quan điểm khác, người sở hữu cổ phiếu mà không bán quyền chọn gặp 20
  28. phải rủi ro đáng kể của việc giá cổ phiếu giảm xuống. Bằng cách bán một quyền chọn mua với cổ phiếu đó, nhà đầu tư đã làm giảm rủi ro giảm giá. Nếu giá cổ phiếu giảm đáng kể, khoản lỗ sẽ được bù đắp một phần bởi phí quyền chọn từ việc bán quyền chọn mua. Ta có phương trình lợi nhuận của việc mua cổ phiếu là (1.1) : π = Ns(St – So) Nếu Ns>0 Mặc khác, phương trình của động tác bán quyền chọn mua cũng được biểu diễn như sau (1.2): π = Nc[Max(0, St – X) – C] Nếu Nc 0 (mua cổ phiếu), Nc<0 (bán quyền) và Ns = -Nc. Phương trình lợi nhuận lúc này là : π = St – So- Max(0, St – X) +C Nếu quyền chọn kết thúc ở trạng thái kiệt giá OTM, khoản lỗ của cổ phiếu sẽ được giảm đi nhờ phí quyền chọn. Nếu quyền chọn kết thúc ở trạng thái cao giá ITM, nó sẽ được thực hiện và chi phí sẽ được thực hiện và cổ phiếu sẽ được chuyển giao. Điều này sẽ làm giảm lợi nhuận của cổ phiếu. Trong trường hợp quyền chọn mua kết thúc ở trạng thái kiệt giá OTM, lợi nhuận tăng theo mỗi đô la mà giá cổ phiếu khi đáo hạn cao hơn giá mua cổ phiếu ban đầu. Trong trường hợp quyền chọn kết thúc ở trạng thái cao giá ITM, lợi nhuận không bị ảnh hưởng bởi giá cổ phiếu khi đáo hạn. Giá cổ phiếu hòa vốn xảy ra khi lợi nhuận bằng 0. Điều này xảy ra khi quyền chọn mua kết thúc ở trạng thái kiệt giá OTM. Cho lợi nhuận bằng 0 đối với trường hợp quyền chọn mua kiệt giá OTM. * π = St - So + C = 0 * Giải phương trình tìm St ta được giá hòa vốn * St = So – C 21
  29. + Về việc lựa chọn giá thực hiện: Bán một quyền chọn mua được phòng ngừa với mức giá thấp nhất là lựa chọn mang tính bảo thủ nhất, vì mức lỗ khi cổ phiếu giảm giá là thấp nhất. Tuy nhiên, mức tăng khi cổ phiếu tăng giá cũng thấp hơn. Bán một quyền chọn mua có phòng ngừa với mức giá thực hiện cao nhất là chiến lược mạo hiểm hơn, vì lợi nhuận tiềm năng khi giá cổ phiếu tăng lên là lớn hơn nhưng mức bảo vệ khi giá cổ phiếu giảm thì thấp hơn. Bất chấp mức giá thực được lựa chọn, bán một quyền chọn mua được phòng ngừa ít rủi ro hơn nhiều so với việc chỉ sở hữu cổ phiếu. Phí quyền chọn mua, bất kể là lớn hay nhỏ, làm giảm bớt mức lỗ của người sở hữu cổ phiếu khi giá thị trường xuống. + Về việc lựa chọn thời gian sở hữu: Với giá cổ phiếu cho trước, quyền chọn mua được phòng ngừa duy trì càng lâu càng tốt, giá trị thời gian mất đi càng nhiều và lợi nhuận càng lớn 1.5.4. Quyền chọn bán và cổ phiếu. Chiến lược để nhận được sự bảo vệ trước thị trường giá xuống vẫn có thể chia lợi nhuận trong một thị trường giá lên là mua một quyền chọn bán bảo vệ nghĩa là chỉ đơn giản mua cổ phiếu và mua một quyền chọn bán. Quyền chọn bán cung cấp một mức giá tối thiểu dành cho cổ phiếu. Phương trình lợi nhuận của quyền chọn bán bảo vệ được thiết lập bằng cách cộng hai phương trình lợi nhuận của chiến lược mua cổ phiếu và chiến lược mua quyền chọn bán. Từ đó ta được: π = Ns(St – So) + Np[Max(0,X – St) – P] với Ns>0, Np>0 và Ns = Np Giả định rằng có một cổ phiếu và một quyền chọn bán, Ns = Np = 1. Nếu giá cổ phiếu cuối cùng cao hơn giá thực hiện quyền, quyền chọn bán sẽ đáo hạn ở trạng thái kiệt giá OTM. Nếu giá cổ phiếu cuối cùng vẫn thấp hơn giá thực hiện, quyền chọn bán sẽ được thực hiện. Kết quả như sau : π = St – So – P Nếu St ≥X π = St – S0 +X – St – P = X – S0 – P Nếu St<X Ta thấy, quyền chọn bán bảo vệ hoạt động như một hợp đồng bảo hiểm. Khi chúng ta mua bảo hiểm cho một tài sản ví dụ như nhà, chúng ta sẽ trả phí và chắc chắn rằng 22
  30. trong trường hợp có tổn thất, hợp đồng bảo hiểm sẽ đền bù ít nhất một phần tổn thất. Nếu như tổn thất không diễn ra trong suốt thời hạn cũa hợp đồng bảo hiểm, chúng ta đơn giản chỉ mất phí bảo hiểm. Tương tự, quyền chọn bán bảo vệ là bảo hiểm đối với cổ phiếu. Trong thị trường giá xuống, tổn thất của cổ phiếu sẽ phần nào được bù đắp bởi việc thực hiện quyền chọn. Điều này giống như nộp hồ sơ thông báo tổn thất cần đền bù trong hợp đồng bảo hiểm. Trong thị trường giá lên, bảo hiểm là không cần thiết và mức lợi nhuận do tăng giá bị giảm đi do phí quyền chọn trả trước. Từ các phương trình trên ta thấy lợi nhuận trên một thị trường giá lên biến động cùng chiều giá cổ phiếu khi đáo hạn. St càng cao, lợi nhuận (pi) càng cao. Trên thị trường giá xuống, lợi nhuận không bị ảnh hưởng bởi giá cổ phiếu khi đáo hạn. Những tổn thất của cổ phiếu được bù đắp bởi lợi nhuận của quyền chọn bán. Quyền chọn bán bảo vệ ấn định mức lỗ tối đa do giá giảm nhưng lại chịu một loại chi phí là lợi nhuận ít hơn khi giá tăng. Nó tương đương với một hợp đồng bảo hiểm tài sản. Như đã trình bày ở phần Quyền chọn mua và cổ phiếu, người sở hữu cổ phiếu muốn được bảo vệ đối với việc giá cổ phiếu giảm có thể chọn cách bàn một quyền chọn mua. Trong một thị trường giá lên, cổ phiếu gần như sẽ được mua lại bằng cách thực hiện quyền chọn. Một cách để nhận được sự bảo vệ trước thị trường gía xuống và vẫn có thể chia phần lợi nhuận trong một thị trường giá lên là mua một quyền chọn bán bảo vệ; nghĩa là nhà đầu tư chỉ đơn giản mua một cổ phiếu và mua một quyền chọn bán. Giá cổ phiếu hoà vốn vào thời điểm đáo hạn xảy ra khi giá cổ phiếu khi đáo hạn lớn hơn giá thực hiện. Đặt mức lợi nhuận này bằng 0 và giải phương trình tìm giá cổ * phiếu hòa vốn, St như sau : * π = St - S0 – P = 0 * Suy ra St = P + S0 Ta thấy, điểm hoà vốn diễn ra khi giá cổ phiếu vào lúc đáo hạn bằng với giá cổ phiếu ban đầu cộng với phí quyền chọn. Điều này hiển nhiên vì giá cổ phiếu phải tăng so với mức giá cổ phiếu ban đầu một mức đủ để bù đắp phí quyền chọn của quyền chọn bán. + Về việc lựa chọn giá thực hiện: Quyền chọn bán bảo vệ với giá thực hiện cao hơn tạo ra mức bảo vệ lớn hơn nhưng lợi nhuận do tăng giá thấp hơn. 23
  31. + Về việc lựa chọn thời gian sở hữu: Với giá cổ phiếu cho trước, quyền chọn bán được bảo vệ sở hữu càng lâu, giá trị thời gian mất đi càng lớn và lợi nhuận càng thấp. Đối với quyền chọn bán kiểu châu Âu, tác động này ngược lại khi giá cổ phiếu là thấp. 1.5.5. Quyền chọn mua và quyền chọn bán lai tạp. Quyền chọn mua và quyền chọn bán lai tạp có thể được xây dựng từ các quyền chọn và cổ phiếu. Xét một quyền chọn bán lai tạp, bao gồm một vị thế dài hạn đối với các quyền chọn mua và vị thế bán khống đối với một số tương đương các cổ phiếu. Phương trình lợi nhuận: π = Nc[Max(0,St-X) – C] + Ns(St – S0) với Nc>0, Nc X Nếu giá cổ phiếu khi đáo hạn nhỏ hơn hoặc bằng giá thực hiện, lợi nhuận sẽ biến động ngược chiều với giá cổ phiếu khi đáo hạn. Nếu giá cổ phiếu khi đáo hạn cao hơn giá thực hiện, lợi nhuận không bị ảnh hưởng bởi giá cổ phiếu khi đáo hạn. Đây là một kết quả lợi nhuận giống như kết quả của một quyền chọn bán, vì vậy tên của chiến lược này là quyền chọn bán lai tạp. Xét một quyền chọn bán lai tạp, bao gồm một vị thế dài hạn đối với các quyền chọn bán và vị thế mua một số tương đương các cổ phiếu. Phương trình lợi nhuận: π = Nc[Max(0,St – X) – C] + Ns(St – S0) Với Nc 0 và Nc = - Ns Cho số cổ phiếu và số quyền chọn bán đều bằng 1, lợi nhuận ứng với hai phạm vi giá cổ phiếu khi đáo hạn là : π = C + St – S0 Nếu St≤X π = -St + X + C + St – S0 = X + C – S0 Nếu St>X Nếu giá cổ phiếu khi đáo hạn nhỏ hơn hoặc bằng giá thực hiện, lợi nhuận sẽ biến động cùng chiều với giá cổ phiếu khi đáo hạn. Nếu giá cổ phiếu khi đáo hạn lớn hơn giá thực hiện, lợi nhuận sẽ không bị ảnh hưởng bởi giá cổ phiếu khi đáo hạn. Đây cũng là kết 24
  32. quả lợi nhuận giống như kết quả của một quyền chọn mua, do đó tên của chiến lược này là “quyền chọn mua lai tạp”. 1.6. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG & PHÁT TRIỂN TTCK – THỊ TRƯỜNG PHÁI SINH VIỆT NAM 1.6.1. Thị trường chứng khoán Trung Quốc TTCK Trung Quốc được thành lập cuối những năm 1980. Vào đầu thập niên sau đó, CP lên giá rất nhanh nhưng rồi chững lại và đi xuống từ năm 2001. Cơn sốt lạnh này khiến nhiều NĐT – trong đó có những người vét sạch tài khoản tiết kiệm đổ vào CP và sau đó trắng tay. Khi không còn xu nào, họ quay ra đổ lỗi cho Chính phủ. Vì thế, trong những năm gần đây, giới chức Trung Quốc đã có nhiều biện pháp mạnh để lấy lại niềm tin vào thị trường. Nhiều NĐT nước ngoài giờ đã được phép đầu tư nhiều hơn nữa vào TTCK Trung Quốc. Điều này khiến thị trường trở nên hấp dẫn hơn và lôi kéo lại một số NĐT nội địa. Tháng 4/2007, TTCK Trung Quốc ghi nhận con số NĐT mở tài khoản ở mức kỷ lục 4,79 triệu người. Người dân đổ xô vào CK đã khiến TTCK Trung Quốc nóng lên và trong tình trạng bong bóng. Trong năm 2006, chỉ số SSE 180 Index tại Thượng Hải đã tăng 110% lên 4.847 điểm và từ đầu năm 2007 đến nay tiếp tục tăng thêm 17% lên 5.673 điểm. Cùng với đó là hàng dài người đứng xếp hàng ở các ngân hàng để chờ được rút tiền đầu tư vào CK, một cảnh tượng chưa từng diễn ra từ trước tới nay. Việc giá nhiều loại CP tăng mạnh là nguyên nhân chính khiến nhiều người dân Trung Quốc tham gia và đổ tiền vào thị trường. Tuy nhiên, tại thời điểm này TTCK đã bắt đầu có những biểu hiện của tình trạng đầu cơ và đang tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với các NĐT thiếu kinh nghiệm, nhất là những NĐT đã vay tiền hoặc bán nhà cửa để đầu tư vào CK. Một khi bong bóng vỡ tung thì hậu quả sẽ khốc liệt vì TTCK Trung Quốc thu hút một lượng lớn người về hưu, sinh viên, công chức, người buôn bán nhỏ, Đầu tư, đầu cơ và các hoạt động mạo hiểm trên TTCK đã trở nên phổ biến ở Trung Quốc. Các chuyên gia đầu tư luôn cảnh báo về những rắc rối, khó khăn có thể xảy ra tại TTCK Trung Quốc. Họ cho rằng dù TTCK Trung Quốc hiện có giá trị gấp 4 lần so với thời điểm tháng 6/2005 nhưng có khá nhiều công ty vẫn đang gặp rắc rối về các vấn đề tham nhũng và sự công khai, thực tế có nhiều công ty báo cáo sai về lợi nhuận để lôi kéo 25
  33. các NĐT mua CP của họ. Vì vậy giới kiểm toán phải công khai những thông tin trên nhằm cố gắng điều chỉnh trật tự của TTCK. Mặc dù có nhiều cảnh báo về sự tăng trưởng quá nóng của TTCK Trung Quốc nhưng NĐT vẫn quyết tâm bỏ tiền thêm vào thị trường bởi họ tin rằng xu thế thị trường mới là quyết định quan trọng nhất chứ không phải những lời nhận định từ bên ngoài và cả cảnh báo từ bên trong. Nhiều người Trung Quốc cho rằng đầu tư vào CK là con đường ngắn nhất dẫn đến sự giàu sang. Bất chấp sự lạc quan và kỳ vọng lợi nhuận của một bộ phận lớn các NĐT trên thị trường, các cơ quan quản lý Nhà nước về TTCK ở Trung Quốc đã tỏ ra thận trọng với sự mở rộng nhanh chóng của thị trường. Chính phủ Trung Quốc thông báo thành lập một lực lượng đặc nhiệm nhằm kiểm soát và ngăn chặn các hoạt động bất hợp pháp trên TTCK. Hơn nữa, các chỉ số CK cao ngất ngưỡng trong thời gian qua không nói lên được những vấn đề cốt lõi của TTCK Trung Quốc hiện nay. Nhằm phòng chống rủi ro cho thị trường chứng khoán của mình, những ngày đầu tháng 4/2007, chính quyền Trung Quốc đã có một loạt động thái và những quy định mới áp dụng cho thị trường chứng khoán Trung Quốc. Đầu tiên có thể kể đến việc Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước Trung Quốc vừa cho phép các hoạt động mua bán chứng khoán quyền chọn được diễn ra tại thị trường chứng khoán nước này. Theo quy định mới này, các tổ chức tài chính sẽ không bị ngăn cấm giao dịch chứng khoán quyền chọn cũng như không bị hạn chế huy động vốn cho công tác giao dịch kiểu này. Quy định mới sẽ cho phép thực hiện các giao dịch quyền chọn đối với các loại cổ phiếu, ngoại hối và chứng khoán phái sinh. Giới chuyên gia dự báo, quy định mới sẽ tạo điều kiện cho các nhà môi giới chứng khoán, các quỹ đầu tư và các ngân hàng thương mại được tham gia năng động hơn và mạnh mẽ hơn vào thị trường chứng khoán nước này. Song song với những động thái cởi mở thì chính quyền Trung Quốc cũng không quên mối lo về sự tăng trưởng nóng tại nước này. Do vậy, những quy định có vẻ thắt chặt cũng đã được ban hành trong những ngày đầu tháng 4/2007 này. Chẳng hạn như việc Uỷ ban chứng khoán Nhà nước Trung Quốc hôm 11/4 đã ra quy định mới nhằm hạn chế việc lãnh đạo các công ty niêm yết bán cổ phiếu ra ngoài để 26
  34. trục lợi và làm lũng đoạn thị trường. Theo quy định mới này, lãnh đạo các công ty đại chúng không được phép bán cổ phiếu của mình trước thời hạn 1 năm kể từ ngày công ty niêm yết trên sàn, và 6 tháng kể từ ngày nghỉ việc tại công ty niêm yết. Quy định mới sẽ có hiệu lực ngay lập tức từ bây giờ, nhằm nhanh chóng bình ổn thị trường, chống đầu cơ lũng đoạn. Cùng lúc, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước Trung Quốc cũng yêu cầu các nhà môi giới chứng khoán nước này phải tra danh tính khách hàng để tránh hiện tượng lợi dụng các sàn chứng khoán để rửa tiền và các hành vi phạm pháp khác. Theo đó, từ nay, các nhà môi giới chứng khoán nước này phải yêu cầu khách hàng cung cấp tên thật, số chứng minh thư và sau đó sẽ tiến hành xác minh các thông số này để đảm bảo cung cấp dịch vụ cho đúng người, đúng mục đích. Các nhà đầu tư không đảm bảo cung cấp đủ các thông tin chính xác về mình sẽ bị khoá tài khoản giao dịch chứng khoán cùng với số tiền nằm trong đó, đồng thời bị cấm các hoạt động giao dịch chứng khoán ngay lập tức. Thêm vào đó, những tài khoản giao dịch chứng khoán có số dư ít hơn 13USD hoặc ngừng giao dịch trong 3 năm liền cũng sẽ bị khoá tạm thời. Bên cạnh đó, Ủy ban Giám quản chứng khoán Trung Quốc (CSRC) đã công bố rộng rãi các quy chế về tiết lộ thông tin trong đó yêu cầu các công ty dự định phát hành cổ phiếu phải công bố trên các tờ báo địa phương trước khi tiến hành niêm yết. Với các quy chế này, mục đích của CSRC là nhằm tăng cường việc giám sát của công chúng đối với các công ty niêm yết, giúp giải quyết các vấn đề tranh chấp trước khi các công ty này nộp các hồ sơ chính thức lên ủy ban để xin niêm yết, đồng thời CSRC buộc các ngân hàng trong nước, các công ty bảo hiểm và các công ty chứng khoán phải tiết lộ các thông tin về chất lượng tài sản, các tài sản không hoạt động và các thông lệ kế toán trong các bản cáo bạch của các công ty này. Hơn nữa, các công ty niêm yết sẽ phải lập các báo cáo tài chính và các báo cáo này phải được các công ty kiểm toán quốc tế cũng như các công ty kiểm toán trong nước kiểm toán trong ngành chứng khoán cho biết thì các quy chế mới này được ban hành để tạo một "bức tường lửa" phòng tránh rủi ro có hiệu quả. Với việc buộc các công ty này phải tiến hành kiểm toán theo các tiêu chuẩn kiểm toán quốc tế, mục đích của CSRC là bảo vệ cho các nhà đầu tư nhỏ và vừa, điều mà lâu nay vẫn được mọi người mong đợi. 27
  35. Ngoài ra, Ủy ban giám quản chứng khoán Trung Quốc hiện cũng đang nghiên cứu kế hoạch sát nhập các cổ phiếu A (chỉ bán cho người dân Trung Quốc) và các cổ phiếu B (hiện nay chỉ bán cho người nước ngoài) nhằm kích thích tính thanh khoản trên các thị trường chứng khoán của Trung Quốc và kế hoạch sát nhập hai sở giao dịch chứng khoán Thâm Quyến và Thượng Hải. Có thể dễ dàng nhận thấy, những động thái, những quy định mới của Nhà nước Trung Quốc nhằm mục tiêu kiên định là tiếp tục phát triển thị trường chứng khoán để TTCK trở thành một kênh huy động vốn chủ lực cho nền kinh tế Trung Quốc. 1.6.2. Thị trường phái sinh ở Mỹ: Thị trường tài chính phái sinh ở Mỹ xúât hiện và phát triển gắn liền và song hành cùng với sự ra đời và phát triển của những sở giao dịch, trung tâm giao dịch lớn của nước này như Hội đồng Mậu dịch Chicago (CBOT), Sở Thương mại Chicago(CME), Sàn giao dịch chứng khoán Chicago (CBOE), các thị trường chứng khoán NYSE, NASDAQ, AMEX. Ở thời kỳ đầu, các sở giao dịch này thường chỉ giao dịch hàng hóa là nông sản (CBOT) hay các cổ phiếu niêm yết (NYSE), cổ phiếu OTC (NASDAQ, AMEX). Tuy nhiên, từ thập kỷ 80, CBOT và AMEX chuyển hướng kinh doanh chính sang các sản phẩm tài chính phái sinh. Việc giao dịch tại các sở giao dịch này thực hiện thông qua đấu giá mở với các công cụ tự động hóa và khớp lệnh liên tục. Điều này giúp tạo ra tính minh bạch của các hợp đồng phái sinh đối với các thành viên của sở (các cổ đông) và các khách hàng nhằm phòng ngừa, quản lý rủi ro hoặc đầu cơ. Các ngân hàng và các công ty tài chính thường tham gia vào giao dịch với tư cách là thành viên của Sở giao dịch thông qua việc mua cổ phần của nó để đạt được một tư cách thành viên (một chỗ ngồi). Với tư cách đó, họ có thể vừa là là môi giới để hưởng phí vừa tham gia với tư cách là nhà đầu tư thu lợi nhuận. Các nhà đầu tư, đầu cơ khác không phải là thành viên của Sở giao dịch muốn thực hiện giao dịch thì phải thông qua các công ty môi giới. Còn sàn giao dịch chứng khoán Chicago (CBOE) được thành lập vào 1973. Ngay ngày giao dịch đầu tiên đã có 911 hợp đồng mua bán được ký kết. Tuy nhiên, thời gian đầu thì sàn giao dịch chưa được hiện đại hoá, chưa có hệ thống báo giá tự động, chưa có 28
  36. các trung tâm thanh toán , mãi đến năm 1975, các dịch vụ này mới được hình thành. Đến năm 1984 thì khối lượng giao dịch thường niên qua sàn lần đầu tiên đạt đến con số 100 triệu hợp đồng, điều này chứng tỏ sự phát triển rất tốt của CBOE, từ đó kéo theo việc CBOE thành lập Viện Nghiên cứu quyền chọn; đưa vào giao dịch chỉ số Nasdaq và quyền chọn được niêm yết NYSE. Đến năm 1987 thì TTCK rơi vào khủng hoảng kéo theo sự sụp đổ của thị trường phái sinh. Tình trạng này kéo dài khoảng 02 năm thì CBOE mới khôi phục lại và từ đó đến nay thì CBOE đạt khối lượng giao dịch ở mức kỷ lục là 783 triệu hợp đồng với tổng giá trị ước tính lên đến 21.214 tỷ đô la Mỹ. (www.cboe.cm) 1.6.3. Thị trường phái sinh ở Thái Lan Sở giao dfịch sản phẩm phái sinh Thái Lan (TFEX), một thành viên của Sở giao dịch chứng khoán Thái Lan (SET), được thành lập vào năm 2004 với 24 thành viên (cổ đông), hoạt động như một công ty đại chúng dưới sự giám sát của Uỷ Ban Chứng khoán và giao dịch (SEC) theo Luật Công cụ phái sinh (2003). Luật này cho phép Sở được giao dịch các hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn với các sản phẩm chủ yếu là chứng khoán, chỉ số chứng khoán, các công cụ nợ, lãi súât, hàng hóa phi nông nghiệp và các chỉ số tài chính khác (như vàng, dầu thô, ngoại tệ ) Sở giao dịch sản phẩm phái sinh Thái Lan là thị trường giao dịch các sản phẩm phái sinh, là rào chắn rủi ro hiệu quả cho các sản phẩm giao dịch, đảm bảo công bằng và minh bạch cho thị trường tài chính Thái Lan. Bên cạnh hạ tầng giao dịch tự động, Thái Lan có một trung tâm thanh toán (Clearing) là Công ty trách nhiệm hữu hạn thanh toán bù trừ Thái Lan (The Thailan Clearing House Company Limited) thực hiện thanh toán bù trừ cho ttá6 cả các giao dịch của Sở. Công ty này sẽ cung cấp đa dạng các giao dịch dịch vụ thanh toán từ việc đăng ký, thanh toán giao dịch, bảo lãnh hợp đồng, xử lý rủi ro cho các thành viên của nó. Vai trò quan trọng nhất của công ty này là hoạt động như một bên đối tác cho tất cả các giao dịch, nghĩa là khi người mua/ người bán thanh toán giao dịch thì công ty sẽ thực hiện nghĩa vụ của người bán/người mua trong hợp đồng; cả người mua, người bán hợp đồng chỉ giao dịch trực tiếp với công ty mà thôi (vai trò trung gian môi giới). Khối lượng giao dịch bình quân trên ngày tại Sở giao dịch này tăng liên tục từ khoảng 3.000 hợp đồng vào quý I/2007 đến quý IV/2007 đạt bình quân 6.000 hợp 29
  37. đồng/ngày, tương ứng với khối lượng giao dịch khoảng 6.000 triệu bạt (150 triệu USD)/ngày. Kết quả này phản ánh xu thế phát triển tất yếu của thị trường phái sinh ở các nước đang phát triển. KẾT LUẬN CHƯƠNG I Cùng với xu hướng mở cửa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam trên lĩnh vực tài chính - tiền tệ thì việc phát triển thị trường chứng khoán và sản phẩm phái sinh đi theo nó - quyền chọn chứng khoán là rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Để nhận dạng, xây dựng và phát triển quyền chọn chứng khoán ở Việt Nam trong giai đoạn tới thì người viết đã tập trung trình bày những vấn đề lý luận cơ bản quan trọng về Option và đặc biệt là Option chứng khoán như Khái niệm; phân loại; mục đích sử dụng; giao dịch quyền chọn, lợi nhuận và rủi ro trong hợp đồng; Vai trò của các công cụ option tham gia vào thị trường chứng khoán . Bên cạnh đó, người viết cũng đi sâu vào phân tích các chiến lược phòng ngừa rủi ro bằng quyền chọn. Đồng thời cũng đưa ra kinh nghiệm ở sàn giao dịch chứng khoán Trung Quốc để chúng ta có cơ hội nghiên cứu và tìm hiểu. 30
  38. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM VÀ CÁC CÔNG CỤ OPTION ĐANG CÓ TRÊN THỊ TRƯỜNG 2.1. THỰC TRẠNG VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 2.1.1. PHÂN TÍCH THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN TỪ 07/2000-06/2008 2.1.1.1. Thị trường chứng khoán Việt Nam từ 2000-2006. Thị trường chứng khoán Việt Nam chính thức đi vào hoạt động vào ngày 20/07/2000. Trong những ngày đầu mới thành lập, mặc dù có rất nhiều khó khăn, TTCK Việt Nam vẫn chứng tỏ tiềm năng phát triển mạnh. VN Index tăng vọt từ 100 điểm ngày 28/07/2000 lên 571,04 điểm vào ngày 25/06/2001. Tuy nhiên, TTCK đã để lại nỗi ám ảnh cho nhà đầu tư tham gia thị trường khi thị trường suy thoái ở dưới 140 điểm (giai đoạn 1). Thời kỳ này kéo dài 04 năm. Một điều may mắn là sau một thời kỳ trầm lắng, TTCK lại vươn mình đi lên. VN Index tăng ngoạn mục từ 300 điểm cuối năm 2005 lên đến 632 điểm vào 25/04/2006 (giai đoạn 2). Thế nhưng, đến 01/08/2006, TTCK chỉ còn có 400 điểm (giai đoạn 3). Đến tháng 11/2006, thị trường tăng đạt mức kỷ lục 665,53 điểm. Và tiếp tục theo chiều thẳng đứng đi lên đến 1200 điểm vào giữa tháng 03/2007 (giai đoạn 4) và đi xuống chỉ còn 968 điểm vào cuối tháng 04/2007 (giai đoạn 5). Có thể tổng hợp nguyên nhân tăng trưởng và suy thoái của thị trường như sau: Giai đoạn 1: Đây là giai đoạn đầu tiên hình thành thị trường. Tính bền vững của thị trường còn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố chính sách, cơ sở vật chất cũng như tính phổ cập của TTCK đến với dân chúng. Cung - cầu trên thị trường giai đoạn này còn yếu ớt. Hơn thế nữa, quá trình cổ phần hoá của doanh nghiệp diễn ra quá chậm không thể tạo ra lượng hàng hoá cho thị trường. Hầu như nhà đầu tư nước ngoài không được tham gia TTCK. Giai đoạn 2: Giai đoạn này thị trường có nhiều khởi sắc, thể hiện sự chuyển biến về chất. Có thể tổng hợp một số nguyên nhân chính sau đây: 31
  39. - Các yếu tố vĩ mô tích cực: như tình hình chính trị ổn định, kinh tế tăng trưởng khá, Việt Nam đang chuẩn bị hoàn tất thủ tục để gia nhập WTO. - Kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp niêm yết rất khả quan, các thông tin về cổ tức, phát hành thêm có tính hấp dẫn của nhà đầu tư. - Sự mất cân đối cung cầu trên thị trường thể hiện qua số lượng doang nghiệp niêm yết gia tăng không đủ nhanh so với sức cầu tăng ồ ạt của nhà đầu tư khi thấy khả năng kiếm lãi trên TTCK. Giai đoạn 3: Giai đoạn này TTCK lại sụt giảm nghiêm trọng. Nhiều nhà đầu tư không chịu nổi sự suy giảm đã bán ra ồ ạt dần đến VN Index sụt giảm 37% so với mức tăng trước đây kể từ ngày 25/04/2006. Nguyên nhân chính là : - Tác động của yếu tố báo chí : tháng 4, 5/2006, có rất nhiều luồng thông tin phản ánh là giá cổ phiếu tăng nóng vượt giá trị thực của doanh nghiệp, điều này tác động đến tâm lý nhà đầu tư. - UBCK tăng cung chứng khoán, trong đó có một số doanh nghiệp có khối lượng giao dịch rất lớn như VSH và STB. Điều này làm giảm sức nóng cầu của một số loại cổ phiếu niêm yết trước đó. Hơn thế nữa, đây là cơ hội để các nhà đầu tư bán ra để cơ cấu lại danh mục. - Thông tin về một số ngành nghề trước thềm WTO đã tác động đến tâm lý nhà đầu tư : tăng cường nắm cổ phiếu của một số cổ phiếu của ngành nghề có lợi thế cạnh tranh, loại bỏ một số ngành nghề gặp khó khăn, kém hấp dẫn khi gia nhập WTO. Giai đoạn 4 : Giai đoạn này TTCK đã có những trưởng thành về chất và về lượng thể hiện giá trị khớp lệnh bình quân của cổ phiếu qua mỗi phiên tăng lên rõ rệt và số lượng nhà đầu tư tham gia đạt mức kỷ lục. Nguyên nhân dẫn đến tăng trưởng này: - Sự kiện Việt Nam gia nhập WTO, tổ chức thành công Hội nghị cấp cao APEC 14, - Những dự báo lạc quan về tình hình kinh tế và phát triển của các doanh nghiệp. - Khả năng tăng cường vốn đầu tư của các quỹ nước ngoài thông qua việc tăng cường đặt lệnh mua một số cổ phiếu tốt của một số tổ chức, kế hoạch giải ngân của một số quỹ nước ngoài. - Thông tin về việc mở room, phát hành cổ phiếu thưởng của các doanh nghiệp. 32
  40. 2.1.1.2. Thị trường chứng khoán năm 2007 Năm 2007 được coi là năm có nhiều yếu tố tác động đến sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam như: Luật Chứng khoán có hiệu lực từ ngày 01/01/2007; Trung tâm giao dịch chứng khoán Tp.HCM được nâng cấp thành Sở Giao dịch chứng khoán Tp.HCM; Luật thuế thu nhập cá nhân đã được Quốc hội thông qua vào ngày 20/11/2007, theo đó có quy định mức thu thuế đối với lãi đầu tư chứng khoán; thực hiện khớp lệnh liên tục tại sàn Tp.HCM từ ngày 30/07/2007 đã khắc phục được hạn chế của phương thức khớp lệnh định kỳ là bảng điện tử thể hiện hết cung cầu, nên khó bị làm giá hơn Năm 2007, cũng là năm đánh dấu tiến trình cổ phần hóa nhiều tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp lớn chủ chốt của nền kinh tế như: Tập đoàn Bảo Việt, Đạm Phú Mỹ, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) Trong đó, sự kiện phát hành cổ phần lần đầu ra công chúng (IPO) của Vietcombank có ảnh hưởng lớn và được giới đầu tư cả trong và ngoài nước quan tâm nhất. Thêm vào đó, cùng với làn sóng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã làm thay đổi diện mạo TTCK. Số lượng nhà đầu tư nước ngoài tham gia ngày càng nhiều, đặc biệt có sự gia tăng đáng kể của các nhà đầu tư nước ngoài có tổ chức đã làm cho thị trường thực sự bùng nổ, thể hiện số tài khoản tăng nhanh. Sở Giao dịch chứng khoán Tp.HCM vẫn là tâm điểm chú ý của các nhà đầu tư, mặc dù bên cạnh sàn giao dịch này còn có sàn giao dịch của Trung Tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội. Các nhà đầu tư quan tâm các cổ phiếu niêm yết trên sàn giao dịch tại Tp.HCM. Vì hiện nay khối lượng các công ty niêm yết ở trên sàn này là nhiều nhất, tính đến thời điểm ngày 31/12/2007, đã có 138 công ty cổ phần niêm yết tại SGDCK Tp.HCM, tăng 32 công ty so với năm 2006. Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội đã đi vào hoạt động được hơn 2 năm. Phương thức giao dịch áp dụng đồng thời hai phương thức báo giá và giao dịch thỏa thuận, cho phép khách hàng có thể linh hoạt lựa chọn hình thức giao dịch thích hợp. Nhờ sự phát triển tương đối nhanh của TTCK hai năm vừa qua, số lượng công ty cổ phần đăng ký giao dịch tại trung tâm tăng khá nhanh. Tính đến ngày 31/12/2007 tổng số doanh nghiệp đăng ký giao dịch tại sàn Hà Nội là 113 đơn vị. 33
  41. Có thể thấy TTCK năm 2007 diễn biến khó lường, không còn những giai đoạn tăng trưởng nóng kéo dài như thời điểm cuối năm 2006 đầu năm 2007. Hầu hết các nhà đầu tư mới tham gia thị trường vào năm 2007 đều bị thua lỗ. Nhìn tổng thể, qua một năm hoạt động. TTCK Việt Nam đã phát triển khá toàn diện trên các phương diện như: Quy mô thị trường, các tổ chức kinh doanh và dịch vụ chứng khoán, thể chế thị trường và khung pháp lý .Tuy nhiên, sự biến động về giá chứng khoán năm 2007 vẫn chưa thoát khỏi hiện tượng tâm lý “đám đông”, những đợt tăng giá hoặc giảm giá chứng khoán không mang tính quy luật thị trường mà chủ yếu đều do hiện tượng làm giá tạo nên. Chính vì vậy mà ngay từ đầu năm, hầu hết các nhà đầu tư dự đoán thị trường sẽ tăng mạnh về cuối năm. Nhưng cuối năm diễn biến thị trường lại suy giảm trái ngược với dự đán của nhà đầu tư. Dưới đây là một số đánh giá chi tiết về toàn cảnh thị trường: Thị trường cổ phiếu niêm yết: Thị trường cổ phiếu niêm yết tăng trưởng mạnh mẽ, giá trị vốn hoá thị trường cả hai sàn đạt 468 ngàn tỷ đồng, tăng 115% so với năm 2006 và đạt khoảng 44% GDP. Sàn HOSE có thêm 23 công ty niêm yết trong năm 2007, trong đó có những công ty có vốn điều lệ lớn như SSI , DPM, HPG làm quy mô vốn hoá thị trường đạt 352 ngàn tỷ đồng, tăng 144% so với cuối năm 2006. Tại sàn Hà Nội, hiện có 100 công ty niêm yết, tăng 15% so với năm 2006, giá trị vốn hóa đạt 115 ngàn tỷ đồng, tăng 58% trong các công ty lên sàn 2007 có PVS với vốn điều lệ là 1.000 tỷ đồng. Thị trường cổ phiếu OTC: Hiện nay, trên thị trường OTC có khoảng 2.000 công ty cổ phần từ các doanh nghiệp nhà nước, và hàng ngàn công ty cổ phần được thành lập theo Luật Doanh nghiệp, ngoài ra, hiện đã có nhiều công ty FDI chuyển thành công ty cổ phần tạo ra một lượng hàng hóa lớn trên thị trường OTC. Theo ước tính thì giá trị vốn hoá thị trường của các cổ phiếu xuyên giao dịch trên thị trường OTC vào khoảng 5-6 tỷ USD và ngày càng gia tăng tốc độ tăng vốn của các doanh nghiệp này. Thị trường OTC thu hút được sự quan tâm rất lớn của các nhà đầu tư cá nhân cũng như các tổ chức chuyên nghiệp trong và ngoài nước. Trong cơ cấu danh mục của các quỹ đầu tư chuyên nghiệp như VFMVF1, BF1,v.v có tới 50-60% giá trị danh mục cổ phiếu đầu tư vào các cổ phiếu chưa niêm yết. Các công ty giao dịch trên thị trường chứng khoán OTC được quan tâm 34
  42. nhất là các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực Ngân hàng, Bảo hiểm, Tài chính, Dầu khí, Dịch vụ công cộng, Thủy sản, Dược phẩm Các nhà đầu tư cá nhân: Hiện nay, trên thị trường có hơn 250.000 ngàn tài khoản đầu tư cá nhân, trong đó có hơn 100.000 tài khoản nhà đầu tư tham gia từ đầu năm 2007. Đa số các nhà đầu tư mới tham gia từ năm 2007 còn thiếu kiến thức và kinh nghiệm thị trường, mua vào khi thị trường tăng mạnh và bán ra khi thị trường giảm. Đặc điểm của các nhà đầu tư cá nhân là không được trang bị kiến thức đầu tư đầy đủ, đầu tư theo phong trào do đó đa số bị thua lỗ. Trong năm 2007, thị trường chứng khoán suy giảm dài hạn, hầu hết các nhà đầu tư mới tham gia thị trường đều bị thua lỗ, tâm lý của các nhà đầu tư chán nản, nhiều nhà đầu tư rời bỏ thị trường. Các nhà đầu tư nước ngoài: Tính đến cuối năm 2006, có tổng số 2100 tài khoản nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có 2003 tài khoản nhà đầu tư cá nhân, 97 nhà đầu tư tổ chức. Hiện tại, có 5.568 tài khoản giao dịch nhà đầu tư nước ngoài trong đó có 5.353. tài khoản cá nhân và 215 tài khoản tổ chức. Như vậy, so với thời điểm cuối năm 2006, số tài khoản nhà đầu tư nước ngàoi tăng 154% so với năm 2006, trong đó tài khoản tổ chức tăng từ 97 lên 215 tài khoản. trong số các tài khoản tổ chức, các tập đoàn tài chính toàn cầu cũng đã mở tài khoản tại Việt Nam như HSBC, Citi Global, Deutsche Bank, JP Morgan, Merrill Lynch và đầu tư lâu dài vào Việt Nam. Lượng vốn của các nhà đầu tư nước ngoài đổ vào thị trường Việt Nam năm 2007 dự kiến đạt 5 tỷ USD, trong đó có khoảng 2- 3 tỷ USD đang chờ giải ngân cho các đợt IPO lớn sắp tới. Thị trường IPO: Trong 11 tháng đầu năm số lượng các công ty bán cổ phần lần đầu ra công chúng tuy không nhiều và rầm rộ như trong năm 2006, nhưng rất được nhà đầu tư quan tâm do có nhiều công ty lớn, có tên tuổi như vận tải dầu khí, Bảo hiểm bảo việt, Phân đạm và hóa chất dầu khí, Cổ phần Vincom, Vietcombank . Đặc điểm chung của những đợt đấu giá này là khối lượng cổ phiếu bán ra nhiều, hút một lượng vốn lớn từ thị trường, đồng thời sự kỳ vọng và sự quan tâm của nhà đầu tư rất cao, nên có ảnh hưởng nhiều đến thị trường niêm yết và OTC. Tổng số lượng các đợt bán đấu giá qua sàn tính đến tháng 9 là 54 đợt, với tổng khối lượng phát hành là 466,568 triệu cổ phần tương đương 4.668 tỷ đồng, với tổng giá trị phát hành là 27.600 tỷ đồng tương đương 1,725 tỷ USD. 35
  43. Đợt đấu giá cổ phần của công ty Phân đạm và hóa chất dầu khí, giá đấu bình quân chỉ cao hơn giá khởi điểm một chút, một phần vì thị trường đã trải qua nhiều cơn sốt giá, cụ thể có một số đợt bán đấu giá trước đó giá đấu bị đẩy lên rất cao, nhưng sau đó lại có hiện tượng nhiểu nhà đầu tư bỏ cọc hàng loạt, do vậy, số lượng nhà đầu tư đăng ký mua lần này chỉ xấp xỉ bằng số lượng cổ phiếu chào bán. Đợt đấu giá cổ phiếu Bảo Việt cũng không thành công như dự tính khi công ty không bán được hết cổ phần như dự tính và phải ghi giảm vốn điều lệ. Đợt đấu giá Vietcombank vào tháng 12/2007 với giá trị IPO là 975 tỷ đồng và giá khởi điểm 100.000 đồng/cổ phần, đây là đợt đấu giá lớn nhất năm 2007và được mong đợi nhất thị trường, thu hút một lượng vốn lớn của thị trường. Đợt đấu giá này đã làm cho thị trường niêm yết suy giảm trong thời gian qua khi nhà đầu tư phải bán bớt cổ phiếu niêm yết để dành tiền cho đợt đấu giá VCB. 2.1.1.3. Thị trường chứng khoán 06 tháng đầu năm 2008 Trong 6 tháng đầu năm 2008 chỉ số VN- Index đã giảm hơn 56,6% so với thới điểm cuối năm 2007, khối lượng giao dịch qua khớp lệnh bình quân mỗi tháng đạt trên137 triệu đơn vị. Do sự sụt giảm của TTCK, tổng số vốn huy động chỉ đạt gần 5.000 tỷ đồng trong tổng cộng 41 đợt chào bán chứng khoán ra công chúng (trung bình 122 tỷ đồng/đợt). Trong năm 2007 đã có gần 200 đợt phát hành được đăng ký với tổng lượng vốn huy động gần 60.000 tỷ đồng. Nhóm ngành có nhiều DN thực hiện chào bán chứng khoán ra công chúng là công nghiệp sản xuất và chế biến (13 DN), thương mại và dịch vụ (11 DN), xây dựng và bất động sản (11 DN). Các DN đang niêm yết trên Sở GDCK TP. HCM và TTGDCK Hà Nội huy động 48,1% tổng vốn huy động, các DN chưa niêm yết huy động được gần 2.600 tỷ đồng. Kết quả IPO của các DNNN thực hiện qua Sở/TTGDCK trong nửa đầu năm 2008 khá khiêm tốn. Có 15 DNNN thực hiện IPO, với tổng giá trị thu được là 6.033 tỷ đồng, số cổ phiếu bán được thông qua đấu giá chỉ đạt 51,87%, giá trị thu được không cao hơn so với giá trị dự kiến (khoảng 2%). *Tại sàn chứng khoán TP Hồ Chí Minh. 36
  44. Trong 6 tháng đầu năm 2008 chỉ số VN- Index đã giảm hơn 56,6% so với thới điểm cuối năm 2007, khối lượng giao dịch qua khớp lệnh bình quân mỗi tháng đạt trên137 triệu đơn vị Diễn biến mua bán của nhà đầu tư ngoại trong 6 tháng qua vẫn rất cao, tuy nhiên chủ yếu là xu thế mua vào. Lượng mua vào trong 6 tháng đầu năm 2008 vẫn gấp đôi lượng bán ra. *. Tại sàn chứng khoán Hà Nội Trong 6 tháng đầu năm 2008 cũng với xu hướng sụt giảm như VN- Index chỉ số HASTC- Index cũng đã giảm tới 65% so với cuối năm 2007. Khối lượng giao dịch bình quân mỗi tháng đạt 66 triệu đơn vị, tương đương giá trị giao dịch đạt 3.360 tỷ đồng. Nhà đầu tư ngoại giao dịch mua bán tại sàn Hà Nội cũng khá sôi động, trong 6 tháng đầu năm 2008 họ mua vào 11.940.110 cổ phiếu, và chỉ bán ra 7.185.900 cổ phiếu. *. Nguyên nhân sụt giảm Thị trường chứng khoán sụt giảm trong những tháng qua chủ yếu xuất phát từ chính nội tại của nền kinh tế, bên cạnh đó là yếu tố bày đàn của các nhà đầu tư trong nước. Lạm phát ở mức 2 con số đe dọa sự phát triển của nền kinh tế, trong khi đó các thành phần kinh tế từ ngân hàng, doanh nghiệp cho tới các nhà đầu tư đều rơi vào tình trạng thiếu tiền mặt .Trong những tháng đầu năm lạm phát đã tăng đột biến mà nguyên nhân chủ yếu do giá dầu, giá vàng, giá lương thực thế giới tăng cao. Sự lo ngại về khả năng thanh khoản và rủi ro từ hệ thống ngân hàng đã tạo áp lực đến TTCK. Hệ quả của tình trạng mất cân đối cung - cầu do hậu quả của việc IPO, tăng vốn đồng loạt của các ngân hàng các công ty. Tuy rằng cũng có những công ty thực sự cần vốn, có những công ty chỉ đơn giản tăng cho đủ điều kiện trụ lại sàn, và đánh bóng thương hiệu. Điều này đã làm cho các cổ phiếu bị pha loãng, dẫn đến tính thanh khoản thấp. 37
  45. Tác động tiêu cực từ TTCK Thế giới khi mà những ngày đầu năm 2008 hàng loạt các sàn chứng khoán hàng đầu Thế giới đã phải đối đầu với nguy cơ khủng hoảng kinh tế, tài chính của những nền kinh tế hàng đầu Thế giới như Mỹ, Nhật Thị trường tiền tệ nóng lên; lãi suất của hệ thống ngân hàng tăng cao; Ngân hàng Nhà nước điều hành chính sách tiền tệ thắt chặt. Khách hàng vay cầm cố cổ phiếu tại các NHTM đến nay đến hạn phải trả nợ, hoặc chưa đến hạn nhưng do giá cổ phiếu giảm mạnh so với thời điểm cầm cố vay vốn, nên phải bổ sung tài sản hoặc rút giảm dư nợ, nên hầu như chỉ còn cách là bán cổ phiếu, bán chứng khoán ra thị trường. Trong bối cảnh không mấy khả quan của nền kinh tế, chỉ số chứng khoán liên tục giảm, giá cổ phiếu xuống thấp. Hàng loạt nhà đầu tư thua lỗ, hụt vốn gây tâm lý chán nản cho các nhà đầu tư Niềm tin của NĐT vào TTCK sụt giảm 1 cách nghiêm trọng. Đa phần các NĐT chuyển sang trữ vàng và USD. Trong khi đó TTCK lại không thu hút được nhà đầu tư mới. Đồng thời do những bất ổn của nền kinh tế các NĐT trở nên nghi ngờ đối với tính an toàn của hệ thống ngân hàng VN, và tính hiệu quả của các kênh đầu tư khác như chứng khoán, bất động sản Đồng thời vào trung tuần tháng 5 vừa qua, hàng loạt những nhận định của các tổ chức tài chính lớn và có uy tín lớn về sự bi quan của nền kinh tế nên đã khiến cho giới đầu tư càng thêm lo lắng. Tạo làn sóng bán cổ phiếu diễn ra ngày càng tăng làm cho TTCKVN trở thành một trong những thị trường sụt giảm nhiều nhất trên thế giới. Chỉ số VN-INDEX giảm từ 921,07 điểm (02/01/2008) xuống còn 399,04 điểm ( 30/06/2008) mất 521,67 điểm tương đương giảm 56,64%. Với chủ trương “ Cứu cấp cho thị trường chứng khoán” chính phủ đã chỉ đạo các cơ quan chức năng trong việc thực hiện các biện pháp nhằm bình ổn thị trường và đã đạt được những thành công. Một số biện pháp nhằm bình ổn thị trường trong 6 tháng đầu năm 2008 cụ thể như sau : Thứ 1 : SCIC mua vào cổ phiếu : 38
  46. Đây là giải pháp thứ 13 trong gói 19 giải pháp của chính phủ và bộ tài chính nhằm hỗ trợ thị trường chứng khoán, tiền tệ cũng như kiềm chế lạm phát được đưa ra vào ngày 04/03/2008. Theo đó với việc chỉ đạo của chính phủ, Tổng công ty Đầu Tư và Kinh Doanh Vốn Nhà Nước (SCIC) sẽ mua 1 số cổ phiếu có tính thanh khoản để ngăn chặn đà sụt giảm của TTCK. Kết quả với việc SCIC chính thức mua vào cổ phiếu từ phiên giao dịch ngày 07/03/2008 trên cả 2 sàn thị trường đã có những chuyển biến tích cực, lòng tin của NĐT đã hồi phục trở lại. Thứ 2 : Điều chỉnh biên độ giá lần 1 : Trước sự sụt giảm nghiêm trọng của TTCK ngày 25/03/2008 UBCK đã quyết định áp dụng biên độ dao động mới trên cả 2 sàn nhằm tạo tâm lý ổn định cho NĐT, giảm bớt hiện tượng lướt sóng khi tham gia thị trường. Theo đó biên độ dao động mới cho HOSE là 1% (thay vì 5%). Và tại HASTC là 2% (thay vì 10% ). Tuy nhiên việc điều chỉnh biên độ giao dịch này đã làm cho tính thanh khoản của thị trường bị ảnh hưởng 1 cách nghiêm trọng. Cụ thể theo thống kê cho thấy trung bình giao dịch 1 tuần tại sàn TPHCM chỉ đạt 1,8 triệu đơn vị/phiên. Thứ 3 : Điều chỉnh biên độ giá lần 2 : Với sự điều chỉnh biên độ giá lần 1 đã làm cho tính thanh khoản của thị trường bị ảnh hưởng 1 cách nghiêm trọng. Từ những hạn chế đó ngày 03/04/2008, UBCKNN đã công bố điều chỉnh biên độ giao dịch tăng từ 1% lên 2% tại HOSE và 2% lên 3% ở HASTC. Một phép thử với thị trường trong bối cảnh thị trường vẫn chưa thực sự tìm được chỗ dựa vững chắc từ nền kinh tế Vĩ Mô. Việc điều chỉnh biên độ làm cho thị trường có 1 phiên tăng nhẹ tuy nhiên vào phiên giao dịch thứ 2 ngày 08/04/2008 khối lượng bán ra đạt mức kỷ lục là 25 triệu cổ phiếu và chứng chỉ quỹ. Lượng cung lớn hơn cầu đã làm cho TTCK bước vào thời kỳ “tâm tối” nhất trong hơn 7 năm thành lập. Thứ 4 : Điều chỉnh biên độ giá lần 3 : Vào trung tuần tháng 6, cụ thể là vào ngày 11/06/2008 chỉ số VN-INDEX chạm mốc 370,45 điểm. HASTC-INDEX chạm mốc 107,76 điểm mức điểm thấp nhất từ trước đến nay. Tuy nhiên với sự kỳ vọng vào sự khởi sắc của TTCK. Ngày 17/06/2008 UBCK đã ban công văn điều chỉnh biên độ dao động giá cố phiếu. Theo đó biên độ giá dao động tại sàn HOSE tăng từ 2% lên 3%, tại HASTC tăng từ 3% lên 4%. 39
  47. Thứ 5 : Điều chỉnh biên độ giá lần 4 : Với sự tăng trưởng trở lại của TTCK vào trung tuần tháng 7. UBCK đã có công văn điều chỉnh biên độ giao động giá bắt đầu từ ngày 18/08/2008 biên độ giao động giá tại HOSE tăng từ 3% lên 5%. Tại HASTC tăng từ 4% lên 7%. Thứ 6 : Một số biện pháp khác của UBCK : Với đà sụt giảm của TTCK, vào ngày 26/03/2008 UBCK NN đã có công văn yêu cầu HASTC và HOSE tạo điều kiện cho các doanh nghiệp niêm yết mua lại cổ phiếu quỹ nhằm bình ổn thị trường. Tóm lại, khôi phục sự ổn định của TTCK chính là cần khôi phục tính thanh khoản của thị trường. Để thực hiện điều này đòi hỏi chúng ta phải có những giải pháp mạnh để nhanh chóng khôi phục niềm tin của nhà đầu tư, đồng thời gia tăng được sức cầu cho TTCK. Thị trường tuy là tụt giảm sâu, nhưng không phải không có các ngôi sao hy vọng ở phía xa. Nhìn xa hơn nữa, với khung đầu tư từ 1-3 năm, thời điểm hiện nay là thời điểm rất tốt cho việc lựa chọn các cổ phiếu tăng trưởng nhằm phục vụ hoạt động đầu tư trung hạn và dài hạn. Thị trường đã giảm rất mạnh, tuy nhiên chính quá trình giảm mạnh đó lại bộc lộ những cơ hội rất tốt cho những nhà đầu tư tỉnh táo 2.1.2. NHẬN DIỆN CÁC RỦI RO TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN. 2.1.2.1. Rủi ro đến từ các nhà đầu tư tham gia thị trường. TTCK Việt Nam vẫn do các nhà đầu tư cá nhân chiếm ưu thế (đến 90%) và chủ yếu vẫn là các nhà đầu tư nhỏ lẻ. Các nhà đầu tư cá nhân ở Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu mang tâm lý đầu cơ ngắn hạn, thiếu kinh nghiệm và tính chuyên nghiệp. Điều này dễ gây những biến động về giá và giảm độ tin cậy của thị trường, nhất là trong bối cảnh tính công khai, minh bạch chưa cao. Bên cạnh đó các nhà đầu tư nước ngoài cũng có tâm lý đầu cơ ngắn hạn. Bởi vậy, nếu không có cơ chế giám sát từ xa hữu hiệu đối với vốn nước ngoài vào có thể dẫn đến hệ quả xấu cho thị trường tài chính trong nước. TTCK tăng trưởng quá nhanh trong thời gian ngắn, tăng trưởng nóng tất yếu sẽ dẫn đến sự điều chỉnh giảm với tốc độ tương tự như trường hợp Việt nam đang diễn ra tại thời điểm hiện nay và nên coi là hiện tượng bình thường. Tuy nhiên, sự sụt giảm nhanh và kéo dài có thể dẫn đến hệ quả là làm mất niềm tin của nhà đầu tư và kết cục là họ quay đầu lại với thị trường chứng khoán. Khi điều này xảy ra, sẽ mất nhiều thời gian mới lấy lại được 40
  48. niềm tin của họ hay nói cách khác là sẽ mất nhiều nổ lực mới lấy lại sự phục hồi của thị trường chứng khoán. Một điểm nữa muốn nói đến ở đây là sự tăng lên rồi giảm xuống khá nhanh của thị trường chứng khoán Việt Nam vừa qua là do những quyết định đầu tư của phần lớn những nhà đầu tư thiếu kinh nghiệm, thể hiện ở số lượng đăng ký tài khoản giao dịch chứng khoán tăng vọt trong thời gian ngắn và thể hiện ở hiện tượng giá tất cả các loại chứng khoán (bất kể công ty nào) đồng loạt tăng kéo dài trong nhiều phiên giao dịch liền. Như vậy, sự sụt giảm nhanh đang diễn ra hiện nay chắc chắn là bài học lớn cho các NĐT và sẽ góp phần không nhỏ cho sự phát triển và ổn định của TTCK trong thời gian tới. 2.1.2.2. Rủi ro đến từ tình hình kinh doanh của các công ty niêm yết Trong thời gian qua, có một hiện tượng trên TTCK Việt Nam là việc các công ty niêm yết đua nhau tăng vốn, tăng phát hành CP. Việc mở rộng qui mô và lĩnh vực kinh doanh bằng việc phát hành CP không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với việc tư động mang lại những khoản lợi nhuận lớn như kỳ vọng của cả DN lẫn NĐT trong bối cảnh ngày càng cạnh tranh gay gắt hơn. Đặc biệt, rủi ro sẽ càng cao nếu công ty phát hành CP không chuẩn bị kỹ những phương án về nhân sự và tổ chức SXKD thích ứng với phần vốn huy động thêm. Và khi đó, DN có khả năng gặp phải những khó khăn lớn về trả lợi tức (nhất là duy trì mức lợi tức cao như trước khi phát hành bổ sung CP), thậm chí duy trì sự tồn tại của công ty. Điều này cũng có nghĩa là những rủi ro sẽ đến tức thời với những NĐT nắm trong tay CP của những công ty nói trên. Chỉ số P/E bình quân trên TTCK Việt Nam năm 2007 khoảng 19 lần, chỉ số này căn cứ trên 20 công ty đứng đầu thị trường . Tuy nhiên, chỉ số này trung bình là 38,18 khi thị trường đạt đỉnh cao vào tháng 3/2007, nhiều công ty có chỉ số P/E lên tới 60-70. Trong khi đó P/E trung bình của các thị trường khác chỉ khoảng 10-17. Chỉ số này ở Việt Nam phản ánh mức kỳ vọng quá cao vào lợi nhuận đem lại của cổ phiếu hoặc là giá cổ phiếu bị đẩy quá cao. Điều này dẫn đến thị trường tăng trưởng nóng từ cuối năm 2006 đến sang quý I năm 2007 và VN-Index tăng kỷ lục 1170,67 điểm vào ngày 12/03/2007. Từ cuối tháng 4/2007 đến nay thị trường đã có những đợt điều chỉnh giảm, VN-Index giảm xuống còn 883,90 điểm vào ngày 06/08/2007, giá nhiều loại CP blue-chip giảm sâu và mạnh đến 41
  49. 50% như FPT, STB, làm cho nhiều NĐT hoang mang, lo lắng thị trường sẽ xuống nữa nên đã bán tháo CP, chấp nhận một mức thua lỗ tương đối lớn. 2.1.2.3. Rủi ro đến từ việc công bố thông tin, thông tin thị trường và các báo cáo nghiên cứu thị trường. * Tình hình công bố thông tin của các DN niêm yết trong thời gian qua. Ngày 18/04/2007 Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 38/2007/TT-BTC hướng dẫn việc công bố thông tin trên TTCK theo Luật Chứng khoán nhưng vẫn còn chung chung không bao quát hết lĩnh vực thông tin cần công bố. Vì thế, tình hình công bố thông tin của các công ty niêm yết trong thời gian qua chưa hoàn toàn đúng như các qui định. Hầu hết các vi phạm thường thấy là do thiếu kinh nghiệm, cung cấp thông tin không theo định kỳ, không công bố thông tin kịp thời trên các phương tiện thông tin đại chúng, đưa ra những nhận định không chính xác, thiếu độ tin cậy thị trường. Một quan điểm khá phổ biến của các công ty niêm yết hiện nay là việc công bố thông tin chủ yếu nhìn nhận dưới góc độ nghĩa vụ. Những bản cáo bạch, báo cáo tài chính vẫn còn thiếu sót và chưa chính xác, NĐT muốn có bản chi tiết phải tìm đến tận công ty để lấy là vô lý. Chính những điều này đã tạo nên sự bất công cho các NĐT, đã gây ra sự phản ứng gay gắt của NĐT, thậm chí nhiều NĐT cảm thấy không bình đẳng trong giao dịch và đã quay lưng lại với thị trường Hiện nay, tình trạng “rò rỉ” thông tin vẫn còn tồn tại dẫn đến tình trạng tư lợi thông tin mà chúng ta thường gọi là “tin nội bộ”, “giao dịch nội gián” và một vài cá nhân đã sử dụng thông tin này để trục lợi cá nhân. * Rủi ro từ thông tin chứng khoán và các báo cáo nghiên cứu thị trường. Hiếm có hoạt động kinh doanh nào mà sự thành bại của nhà đầu tư lại gắn bó mật thiết, thậm chí phụ thuộc vào sự đa dạng, hệ thống, toàn diện, cập nhật và chính xác các thông tin có liên quan trực tiếp và gián tiếp như đầu tư chứng khoán. NĐT phải trả giá khi không nắm được các thông tin chính xác nhất, đầy đủ và kịp thời nhất liên quan đến môi trường đầu tư, chất lượng chứng khoán và tình hình thị trường. Nắm được thông tin luôn là lợi thế kinh doanh trên TTCK. Hiện nay, không ít các NĐT vẫn thiếu kỹ năng tìm kiếm và phân tích thông tin. Tuy nhiên, điều đáng nói hơn là các kênh cung cấp thông tin liên 42
  50. quan đến thị trường vẫn rất thiếu và việc công bố thông tin chưa được chú trọng đúng mức khi các đối tượng liên quan mới chỉ nhìn nhận dưới góc độ nghĩa vụ. Một báo cáo tài chính hoặc cáo bạch chưa được kiểm toán, thẩm định bởi các tổ chức độc lập, chuyên nghiệp, có uy tín và trình độ chuyên môn cao; một thông tin đến chậm hoặc bị cắt xén không đầy đủ, không chính xác về hoạt động kinh doanh của công ty phát hành cổ phiếu, về môi trường pháp lý và về các nhà đầu tư khác trên cùng “sân chơi”, hoặc đơn giản là về tình hình thời tiết hay dịch bệnh nào đó đều có thể trở thành đầu mối trực tiếp gây ra các thiệt hại khôn lường cho nhà đầu tư chứng khoán. Các hoạt động đầu cơ, tung tin đồn thất thiệt, gây nhiễu thông tin và tự đánh bóng, thổi giá hoặc thậm chí lừa đảo và thông đồng có tổ chức của các NĐT chuyên nghiệp đủ sức gây biến động thị trường hòng trục lợi. Những báo cáo nghiên cứu thị trường của các tổ chức đầy danh tiếng trong và ngoài nước trong thời gian gần đây như IMF, HSBC, Merrill Lynch, SSI, TSC có những tác động nhất định đến tâm lý thị trường. Điều đáng bàn luận ở đây là tính chính xác của các báo cáo nước ngoài này khi nêu lên những thống kê và những cảnh báo về TTCK Việt Nam, nhất là những kiến nghị mang tính nhạy cảm khiến cho các NĐT trong nước hoang mang và có những dự đoán tiêu cực về thị trường, thế là họ đẩy mạnh việc bán CP ra, khiến giá CP giảm xuống, trong khi các NĐT nước ngoài lại đẩy mạnh mua vào. Vấn đề đã được rõ ràng: ai được lợi và ai bị tổn thất từ các thông tin sai lệch trên. 2.1.2.4. Rủi ro về biến động giá, đầu tư hay đầu cơ trên TTCK? Giá thật hay giá ảo? Rủi ro biến động giá là một loại rủi ro đặc biệt. Nó đặc biệt bởi đây là một loại rủi ro có thể biến NĐT thành triệu phú thậm chí tỷ phú ngày hôm nay nhưng cũng có thể trở thành kẻ trắng tay ngày mai. Chứng khoán có thể là tờ giấy có giá trị rất lớn ngày hôm nay nhưng cũng có thể là tờ giấy không có giá trị ngày mai. Vì thế, những biến động lớn về giá chứng khoán thường tạo ra làn sóng gây chấn động thị trường. TTCK đã nổ bùng sau khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO, với kỳ vọng doanh nghịêp nước ngoài tăng cường đổ vốn vào thị trường Việt Nam. Chỉ có điều nó nổ bùng một cách đầy rủi ro. Giá trị cổ phiếu tăng vọt ở Việt Nam thời gian qua không phải 43
  51. do sự phát triển của thị trường cổ phiếu mà do đầu cơ và tâm lý đánh bạc vì cầu tăng mạnh chạy đuổi mua số lượng chứng khoán hạn chế. Chính yếu tố tâm lý, cụ thể là tâm lý “bầy đàn” đã đẩy giá chứng khoán tăng vọt liên tục lên cái mà chúng ta gọi là “giá ảo”. Bên cạnh đó, tâm lý ưa thích đánh bạc ham muốn làm giàu nhanh và dễ dàng trong một bộ phận không nhỏ nhà đầu tư, lại được các phương tiện thông tin đại chúng trực tiếp hay gián tiếp cổ vũ, được các cơ quan quản lý “làm ngơ” đã biến TTCK thành một sòng bạc lớn, ở đó có cả các đại gia, các nhà đầu cơ nước ngoài, những nhà môi giới và cò mồi, và đông hơn cả là những “thiêu thân” với ước vọng đổi đời chỉ sau vài tháng sẵn sàng thế chấp tất cả tài sản, sẵn sàng vay nợ, sẵn sàng đầu tư toàn bộ thời gian, công sức, tâm trí vào những con số trên bảng điện tử, họ sẵn sàng đổ tiền vào bất chấp tình hình kinh doanh của các công ty niêm yết như thế nào mà họ trông chờ vào mức tăng cổ phiếu hàng ngày. Tính chất đầu cơ của các “nhà đầu tư chứng khoán” đã bộc lộ ngày càng rõ ràng. Bên cạnh đó nguy cơ giá ảo còn nằm ở tảng băng ngầm là đại đa số trong gần 7000 công ty cổ phần chưa niêm yết nhưng cổ phiếu vẫn đang được giao dịch trên cái gọi là thị trường không chính thức với khối lượng giao dịch ước tính lớn gấp 3-6 lần so với lượng giao dịch trên TTGDCK và giá trị giao dịch cổ phiếu bình quân mỗi ngày cũng lớn hơn 3 lần. Điều gì sẽ xảy ra khi TTCK, cả chính thức và không chính thức giảm giá kéo dài? Ước tính có ít nhất nửa triệu người/hộ gia đình lâm vào tình trạng thua lỗ kéo dài dẫn đến phá sản. Điều đó nếu xảy ra là bước ngoặc lớn đối với TTCK Việt Nam, đồng thời là bi kịch lớn đối với sự phát triển kinh tế và tác động xã hội trầm trọng. 2.1.2.5. Rủi ro từ tính thanh khoản thấp của chứng khoán đầu tư. Vấn đề khả năng thanh khoản của chứng khoán là vấn đề rất quan trọng trên TTCK. Rủi ro về khả năng thanh khoản của CP trên TTCK Việt Nam hiện nay là khá cao. Lựa chọn không đúng cơ cấu chứng khoán đầu tư. Nhà đầu tư chứng khoán có thể chịu rủi ro từ việc “bỏ hết trứng vào một giỏ”. Việc sở hữu thuần túy các cổ phiếu ưu đãi mà không được chuyển nhượng trong thời hạn nhất định (thường từ 3-5 năm) cũng có thể khiến nhà đầu tư gặp rủi ro liên quan đến tính thanh khoản thấp của các chứng khoán này, nhất là khi họ cần tiền để trả lãi vay ngân hàng hoặc muốn rút vốn về để đầu tư vào nơi khác có lãi hơn, an toàn hơn Sự cạnh tranh khốc liệt và biến động khôn lường của thị 44
  52. trường. Ngay cả những chứng khoán tốt nhất có sức hấp dẫn nhất, “hot” nhất thuộc dạng “blue-chip” cũng có thể không giữ vững được vị thế của mình một cách ổn định, lâu dài trước sự cạnh tranh và biến động tới chóng mặt của thị trường trong xu thế toàn cầu hóa. Điều này cũng đồng nghĩa với việc các nhà đầu tư chứng khoán có thể phải hứng chịu cả hai dạng thiệt hại “khấu hao hữu hình” và “khấu hao vô hình” giá trị và tính thanh khoản của các chứng khoán mà họ nắm giữ. 2.1.2.6. Rủi ro từ các quy định và chất lượng dịch vụ của các sàn, trung tâm giao dịch và công ty chứng khoán. Vì yêu cầu đặc thù đòi hỏi bắt buộc phải thông qua các tổ chức trung gian, môi giới trong kinh doanh chứng khoán, nên các nhà đầu tư chứng khoán có thể phải chịu những rủi ro liên quan đến các quy định, quy trình nghiệp vụ và chất lượng dịch vụ của các tổ chức trung gian này, như hình thức khớp lệnh định kỳ gây rủi ro cho nhà đầu tư vì họ không thể hủy ngang lệnh đã đặt mua, nó dễ gây tình trạng cung – cầu ảo trên thị trường và cả tình trạng nghẽn mạch, quá tải hoặc phân biệt đối xử theo kiểu bỏ rơi nhà đầu tư nhỏ ở các sàn, trung tâm và công ty chứng khoán. Còn khớp lệnh liên tục thì quyền ưu tiên luôn dành cho các lệnh mua có mức giá cao hơn và các lệnh bán có mức giá thấp hơn. Trường hợp các lệnh mua và bán có đồng mức giá thì quyền ưu tiên sẽ dành cho lệnh nhập vào hệ thống giao dịch trước. Rủi ro cho nhà đầu tư theo 2 cách: hoặc rủi ro vì lệnh mua – bán của họ bị nhập vào hệ thống chậm hơn so với các nhà đầu tư khác có lệnh tương tự nên không thực hiện được sớm hoặc hết các lệnh đã đặt; hoặc rủi ro vì họ buộc phải mua – bán bằng hết các chứng khoán đã đặt lệnh theo mức giá thị trường thời điểm hiện hành cao (khi mua vào) hoặc thấp hơn (khi bán ra) so với mức lệnh đã đặt. Các nhà đầu tư nhỏ lẻ trên thị trường chứng khoán còn có thể phải đối diện với các rủi ro khi giao dịch từ 10 cổ phiếu trước đây, đã nâng lên tối thiểu 100 cổ phiếu mỗi lô giao dịch khiến cho các nhà đầu tư không thể xé nhỏ các khoản đầu tư như trước. Các NĐT cũng không có cơ hội mua các hàng - chứng khoán tốt vì chúng chỉ được giao dịch theo lô lớn. Chịu nhiều cảnh phân biệt đối xử khác khi thụ hưởng các dịch vụ chứng 45
  53. khoán nếu vẫn muốn là người trực tiếp đầu tư, không muốn thông qua các quỹ đầu tư đại chúng, quỹ tín thác và các công ty chứng khoán Các tổ chức trung gian và hỗ trợ thị trường còn hạn chế về năng lực tài chính, quản trị công ty và chất lượng dịch vụ. Mạng lưới công ty còn hẹp, chỉ tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn là Hà Nội và Tp.HCM nên đã hạn chế việc cung cấp dịch vụ cho nhà đầu tư rộng khắp trên toàn quốc. Hệ thống công nghệ thông tin lạc hậu, đội ngũ nhân viên hành nghề cả về số lượng và chất lượng, kiểm tóan nội bộ còn yếu dẫn đến chất lượng dịch vụ chưa cao Vừa qua, NĐT đã có những lời phàn nàn về việc sàn giao dịch để xảy ra tình trạng mất điện, nghẽn mạng khiến bảng điện tử không hoạt động được. Qua đó cho thấy, hệ thống CNTT ngày càng trở nên quan trọng hơn, tình trạng bị nghẽn lệnh giao dịch đã xảy ra nhiều lần với hầu hết CTCK. Do đó, nhiệm vụ hết sức quan trọng của CTCK là phải cung cấp dịch vụ một cách tốt nhất, kịp thời và hiệu quả. Hiện nay, phiếu lệnh bắt buộc phải ghi thời gian đặt lệnh, nên CTCK sẽ kiểm soát được thời gian đặt lệnh của NĐT, nhưng không ai kiểm soát thời gian đặt lệnh của CTCK (đưa lệnh cuối phiên vẫn có thể ghi thời gian là đầu phiên). Để giải tỏa mâu thuẫn này, không có cách nào khác là phải tạo ra một thị trường giao dịch bình đẳng cho tất cả các chủ thể tham gia. Hơn ai hết, các CTCK là những người hiểu rất rõ những qui định của luật nhưng những hành vi vi phạm về việc đặt lệnh mua và bán một loại CK trong cùng một phiên giao dịch vẫn thường xuyên xảy ra. 2.1.2.7. Rủi ro về cơ chế chính sách của cơ quan quản lý. Đây là rủi ro tác động lớn nhất đến thu nhập của NĐT, bởi nó tác động đến toàn thị trường và hầu như NĐT không thể chống đỡ được. Quyết định 1141/QĐ-NHNN về tăng dự trữ bắt buộc lên gấp đôi (từ 5% lên 10%) và Chỉ thị 03/2007/CT-NHNN về khống chế hạn mức cho vay đầu tư CK của NH không vượt quá 3% tổng dư nợ đã đẩy NĐT ra xa ngân hàng nói riêng và TTCK nói chung trong thời điểm thị trường có những đợt điều chỉnh giảm như hiện nay, làm cho TTCK Việt Nam thêm phần ảm đạm. Hiện nay, hầu hết các NHTM cổ phần đều có tỷ lệ cho vay đầu tư CK vượt quá tỷ lệ theo qui định của Chỉ 46
  54. thị 03, vì vậy các NH đã nhanh chóng thu hồi nợ của NĐT để tránh vượt quá mức dư nợ theo qui định. Việc ngân hàng không gia hạn các khoản vay cho NĐT chứng khoán từ đầu tháng 7/2007 mà yêu cầu khoản nợ phải tất toán ngay khi đáo hạn khiến cho nhiều NĐT buộc phải nhanh chóng bán CP, rút vốn khỏi thị trường chấp nhận thua lỗ để trả nợ NH bất chấp giá CP đang xuống bởi họ không còn cách lựa chọn nào khác. Bên cạnh đó, cộng với các nguồn cung không nhỏ từ các đợt IPO lớn và các đợt phát hành thêm dồn dập làm cho cung – cầu mất cân đối, thị trường sụt giảm, thị giá CP mất đến 30% - 40% vào thời điểm đen tối nhất của thị trường. Nếu trong tháng 6/2007, tổng mức vốn hóa của cả 2 sàn Hà Nội và TP.HCM là 341.264 tỷ đồng thì đến tháng 7/2007 chỉ còn 315.271 tỷ đồng. Vừa qua, Bộ Tài chính ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân đưa các loại thu nhập từ đầu tư vốn, mua bán chứng khoán vào diện thu nhập chịu thuế nhằm thực hiện mục tiêu công bằng và kiểm soát thu nhập. Vẫn biết việc đánh thuế thu nhập cá nhân là hoàn toàn hợp lý, nhưng mức đánh thuế bao nhiêu để thu nhập thực tế mà NĐT nhận được bù đắp được rủi ro mà họ gặp phải là vấn đề cần phải quan tâm. Với một thị trường diễn biến không theo một quy luật nhất định, lên xuống thất thường như TTCK Việt Nam, cộng thêm một nguồn phí phải trả cho thuế thu nhập từ đầu tư CK trong thời điểm sắp tới thì việc đại chúng hóa đầu tư CK với tất cả người dân là rất khó xảy ra. Ngoài ra, có rất nhiều văn bản pháp lý về chứng khoán và TTCK được ban hành mới chưa phù hợp với sự phát triển của thị trường, và cũng chưa đồng bộ với các văn bản pháp luật thể hiện ở tính pháp lý chưa cao, chưa điều chỉnh được toàn diện hoạt động của TTCK, do đó cần phải có một văn bản pháp lý cao hơn để tạo cơ sở pháp lý cho TTCK phát triển. Ngoài ra, các NĐT còn phải chịu các rủi ro liên quan đến các chính sách của Chính phủ, như: những thay đổi trong chính sách tỷ giá, lãi suất, lạm phát, tỷ lệ nắm giữ cổ phần trong CTCP của các NĐT chiến lược, các NĐTNN; chính sách xuất nhập khẩu, độc quyền hoặc các quan hệ quốc tế song phương, đa phương 2.2. THỰC TRẠNG CÁC CÔNG CỤ OPTION ĐANG CÓ TRÊN THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM. Với lộ trình hội nhập đã vạch ra thì con đường " từ sông ra biển" của các doanh nghiệp chỉ còn một quãng ngắn. Khi môi trường kinh doanh nhiều biến động và cạnh tranh hơn thì bảo hiểm cần phải trở thành một thói quen được quan tâm hàng đầu. Chính 47