Luận văn Nghiên cứu thực trạng và đề xuất các giải pháp góp phần phát triển kinh tế-xã hội các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi

pdf 51 trang phuongnguyen 3010
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Nghiên cứu thực trạng và đề xuất các giải pháp góp phần phát triển kinh tế-xã hội các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_thuc_trang_va_de_xuat_cac_giai_phap_gop_phan_phat.pdf

Nội dung text: Luận văn Nghiên cứu thực trạng và đề xuất các giải pháp góp phần phát triển kinh tế-xã hội các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi

  1. UBND TỈNH QUẢNG NGÃI ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH QUẢNG NGÃI BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ Tên đề tài: NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CÁC HUYỆN MIỀN NÚI TỈNH QUẢNG NGÃI Chủ nhiệm đề tài: TS. Võ Tuấn Nhân Quảng Ngãi, 2011
  2. PHẦN I. MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài Đảng và Nhà nước ta đã dành sự quan tâm đặc biệt đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của miền núi, ban hành nhiều chủ trương, chính sách, chương trình, dự án và tổ chức triển khai thực hiện trên các lĩnh vực trong nhiều năm qua, đã góp phần phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng, làm thay đổi bộ mặt nông thôn miền núi, tạo cơ sở cho sự phát triển. Ngân sách nhà nước đầu tư khá lớn cho khu vực miền núi. Tuy nhiên, kinh tế - xã hội tại miền núi vẫn còn rất nhiều khó khăn, bất cập. Đối với tỉnh Quảng Ngãi, nhiều năm qua Đảng bộ, chính quyền các cấp cũng rất quan tâm đến đầu tư cho miền núi và chắc chắn trong nhiều năm đến sẽ có sự đầu tư lớn cho phát triển kinh tế - xã hội khu vực miền núi. Một thực tiễn rất đáng quan tâm là: có nhiều chương trình, dự án triển khai thực hiện ở miền núi với tổng số vốn đầu tư lớn, nhưng sau khi kết thúc, tính ổn định, phát huy không được giữ vững hoặc hiệu quả thấp. Do vậy, cần phải có sự đánh giá khoa học, khách quan về hiệu quả các chương trình, dự án đầu tư cho miền núi, đánh giá việc tổ chức thực hiện sao cho đảm bảo tính hiệu quả và bền vững của chương trình, dự án được triển khai thực hiện trên địa bàn miền núi. Tình hình thực hiện các chương trình đầu tư phát triển kinh tế - xã hội ở các huyện miền núi Quảng Ngãi có nhiều kết quả, nhưng chuyển biến chưa mạnh, chưa đáp ứng mong đợi của nhân dân và yêu cầu của quản lý. Cơ chế chính sách cho phát triển kinh tế - xã hội miền núi đã có, nhưng trong giai đoạn hiện nay cần tập trung nhiều hơn nữa cho miền núi, nhất là việc nghiên cứu, triển khai thực hiện Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP để giảm nghèo nhanh và bền vững. Vấn đề này cần phải có nghiên cứu chuyên sâu dưới góc độ khoa học để đề xuất một số giải pháp đồng bộ, góp phần phát triển kinh tế - xã hội các huyện miền núi phù hợp với tình hình thực tiễn và yêu cầu phát triển miền núi trong sự phát triển chung của tỉnh. Từ trước đến nay, hàng năm các cơ quan nhà nước đều có các báo cáo đánh giá chung tình hình thực hiện các chương trình đầu tư phát triển kinh tế - xã hội ở các huyện miền núi Quảng Ngãi và đề ra nhiệm vụ thực hiện cho năm sau. Những báo cáo này phần nào đã phản ảnh thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội miền núi. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, chưa có điều kiện để thực hiện dưới góc độ một đề tài khoa học. Để đánh giá đúng thực trạng tình hình triển khai thực hiện các chương trình, dự án, chúng ta cần phải dựa trên các phương pháp khoa học, khách quan để xem xét về những vấn đề liên quan, đề xuất những giải pháp khả thi để tổ chức thực hiện hiệu quả hơn, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội khu vực miền núi trong thời gian đến một cách nhanh và bền vững. Với những lý do chính yếu nêu trên nói lên sự cần thiết để tiến hành nghiên cứu đề tài này. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu Mục tiêu của đề tài là:
  3. Đánh giá thực trạng tình hình tổ chức thực hiện các chương trình, chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển kinh tế - xã hội ở các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi trong giai đoạn 2006 - 2010. Qua đó đánh giá hiệu quả sử dụng các nguồn lực đầu tư ở miền núi. Đề xuất các giải pháp có tính khả thi góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011 - 2015. Để đạt được mục tiêu nêu trên, đề tài có nhiệm vụ: Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về sự phát triển kinh tế - xã hội các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi. Đánh giá tình hình thực hiện một số chính sách, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội tại các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi, qua đó đánh giá hiệu quả sử dụng các nguồn lực đầu tư ở miền núi. Xác định một số nhiệm vụ trọng tâm phát triển kinh tế - xã hội các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011 - 2015. Đề xuất các giải pháp góp phần phát triển kinh tế - xã hội các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi. 3. Phương pháp nghiên cứu Về phương pháp luận, đề tài dựa trên phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Phương pháp luận chủ yếu của đề tài là lý luận Mác-xít được sử dụng trong toàn bộ nội dung của đề tài. Chủ nghĩa duy vật biện chứng giúp nhìn nhận mọi sự vật và hiện tượng tồn tại trong mối liên hệ phổ biến và chúng luôn vận động, biến đổi, phát triển không ngừng. Trên cơ sở quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử cụ thể và quan điểm phát triển để xem xét và phân tích nội dung nghiên cứu của đề tài. Vận dụng các quan điểm này để làm cơ sở cho việc xem xét các sự kiện xã hội và quá trình phát triển của xã hội, mà cụ thể là kinh tế - xã hội tại các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi. Trên cơ sở phương pháp luận chung đó, đề tài chủ yếu vận dụng hướng tiếp cận của Lý thuyết cấu trúc - chức năng, Lý thuyết phát triển, quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong quá trình thực hiện đề tài. Một số lý thuyết, quan điểm vận dụng nghiên cứu đề tài được trình bày ở mục 1.1 Chương 1 báo cáo này. Các phương pháp cụ thể tiến hành nghiên cứu cụ thể là: Thu thập, phân tích tài liệu: Thu thập số liệu thống kê, các tài liệu liên quan đã có từ các cơ quan Trung ương, ở tỉnh, 06 huyện miền núi trong tỉnh. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi (Ankét): Sử dụng bảng hỏi được thiết kế phù hợp cho nội dung cần nghiên cứu (xem Phiếu khảo sát - Phụ lục 01). Số lượng mẫu là 1.000 phiếu, được điều tra tại tất cả 06 huyện miền núi trong tỉnh. Việc xử lý và phân tích số liệu phiếu điều tra được thực hiện bởi sự trợ giúp của máy vi tính, bằng phần mềm SPSS-11.5. Phương pháp phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm tập trung: Thực hiện với các đối tượng chủ yếu là cán bộ các tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước, đoàn thể cấp xã, cấp huyện, tỉnh và một số công dân tại các huyện miền núi. Phương pháp quan sát, được vận dụng xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu đề tài. 4. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu đề tài
  4. Như tên gọi của đề tài được giao nhiệm vụ là:“Nghiên cứu thực trạng và đề xuất các giải pháp góp phần phát triển kinh tế - xã hội các huyện miền núi tỉnh Quảng ngãi”, và được giới hạn trong mục tiêu, nhiệm vụ nêu trên. Thời gian và kinh phí đầu tư cho nghiên cứu còn hạn chế. Vì vậy, trong quá trình nghiên cứu “đánh giá thực trạng” ở đây cũng chỉ đi sâu vào một số lĩnh vực mà đề tài đặt ra. Các giải pháp đề xuất cũng trong khuôn khổ nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài. 5. Ý nghĩa của đề tài Kết quả nghiên cứu của đề tài đã bám sát mục tiêu, nhận diện được những thành công, bất cập trong một số chính sách, chương trình, dự án đầu tư phát triển kinh tế - xã hội tại các huyện miền núi trong thời gian qua; đề xuất các giải pháp có tính khả thi góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011 - 2015. Vì vậy, đây là luận cứ khoa học phục vụ cho sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành quản lý của tỉnh và trong việc thực hiện chủ trương phát triển kinh tế - xã hội miền núi nhanh và bền vững của Đảng và Nhà nước. Đề tài góp phần quan trọng trong việc làm rõ thực trạng, đề xuất các giải pháp có cơ sở khoa học, sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi nhanh và bền vững. Vì vậy, đề tài có giá trị thực tiễn, giải quyết vấn đề vừa mang tính cấp bách, vừa lâu dài, đồng thời góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận, nhận thức sâu sắc hơn các vấn đề liên quan đến phát triển kinh tế - xã hội miền núi. 6. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài được thể hiện trong ba chương: Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn. Chương 2. Đánh giá tình hình thực hiện một số chính sách, chương trình, dự án phát triển kinh tế-xã hội tại các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi. Chương 3. Các giải pháp góp phần phát triển kinh tế-xã hội các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi.
  5. PHẦN II. NỘI DUNG ĐỀ TÀI Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN I. CƠ SỞ LÝ LUẬN, ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ DÂN CƯ 1.1. Một số lý thuyết, quan điểm vận dụng nghiên cứu đề tài Trong phạm vi của đề tài, các tác giả tập trung tìm hiểu, vận dụng một số lý thuyết: “Cấu trúc - chức năng”, “Lý thuyết phát triển”, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta có liên quan để nghiên cứu đề tài. 1.1.1. Vận dụng Lý thuyết cấu trúc - chức năng Lý thuyết cấu trúc - chức năng gắn liền với tên tuổi của các nhà Xã hội học nổi tiếng như: H. Spencer, E. Durkheim, T. Parsons, là một trong những lý thuyết quan trọng được sử dụng rộng rãi trong các phân tích xã hội học. Lý thuyết này nhấn mạnh đến những đóng góp chức năng của mỗi bộ phận trong xã hội để duy trì cấu trúc cũ, giúp ta vận dụng xem xét cấu trúc kinh tế - xã hội một vùng, một khu vực nhất định (mà ở đây là khu vực miền núi tỉnh Quảng Ngãi). Vận dụng lý thuyết cấu trúc - chức năng giúp ta nhìn nhận: Xã hội là một hệ thống các thiết chế phụ thuộc lẫn nhau và tham gia tạo nên sự ổn định bền vững của tổng thể. Để giải thích tồn tại của một thiết chế xã hội, chúng ta phải tìm hiểu hệ thống xã hội, như một tổng thể, đòi hỏi những nhu cầu của nó phải được thoả mãn như thế nào. Bởi vì chỉ trong một trạng thái như vậy thì mới bảo đảm cho các chức năng hoạt động mà xã hội luôn trong trạng thái cân bằng. Do vậy, khi xem xét về thực trạng và giải pháp triển kinh tế - xã hội miền núi, chúng ta cần thấy được các chức năng mới xuất hiện và có những chức năng cũ sẽ bị triệt tiêu vì không có cơ sở để tồn tại dẫn đến sự biến đổi về kinh tế - xã hội của cộng đồng dân cư khu vực miền núi. Vận dụng lý thuyết cấu trúc - chức năng phân tích nội dung đề tài “Nghiên cứu thực trạng và đề xuất các giải pháp góp phần phát triển kinh tế - xã hội các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi”; nhằm thấy được cơ cấu mới của cơ cấu xã hội cũng như chức năng bộ phận của cơ cấu ấy trong phát triển kinh tế - xã hội miền núi. Sự tác động của các bộ phận mới với các chức năng mới sẽ tạo cơ sở cho sự tồn tại, phát triển của xã hội và dẫn đến sự biến đổi xã hội của cộng đồng dân cư, trong đó cộng đồng dân cư khu vực nghiên cứu cũng nằm trong mối quan hệ chung đó. 1.1.2. Vận dụng Lý thuyết phát triển Lý thuyết phát triển được nhiều nhà khoa học quan tâm và vận dụng nghiên cứu các vấn đề kinh tế - xã hội. Nhưng có rất nhiều quan điểm khác nhau khi nói đến thuật ngữ “phát triển”. Có quan điểm coi phát triển và tăng trưởng có cùng nội dung. Chúng ta không thể hiểu phát triển như là một hiện tượng kinh tế mà phải được xem như là toàn bộ quá trình bao gồm các đặc điểm kinh tế - chính trị - xã hội và văn hoá. Trên quan điểm về kinh tế - xã hội, phát triển giúp cho con người hướng tới một cuộc sống đầy đủ hơn, giàu có hơn. Lý thuyết về sự phát triển hiện nay đang có xu hướng giảm bớt những vấn đề thuần tuý có tính kinh tế. Lý thuyết phát triển ngày nay chú ý nhiều hơn các vấn đề phi kinh tế trong quá trình phát triển, về lĩnh vực văn hoá, xã hội Do đó, phát triển xã hội không còn đồng nhất với tăng trưởng kinh tế mà là sự phát
  6. triển một cách tổng thể. Với yêu cầu như vậy, khi vận dụng Lý thuyết phát triển vào nghiên cứu đề tài đòi hỏi chúng ta phải xây dựng khung lý thuyết nghiên cứu trên cơ sở của lý thuyết phát triển hiện đại. 1.1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới phát triển đất nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2010; Cùng với những chủ trương, đường lối phát triển chung của đất nước, công tác Dân tộc và miền núi luôn được Đảng và Nhà nước xác định có vị trí chiến lược quan trọng. Kế thừa và phát huy kết quả sau 15 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nhất là từ khi có Nghị quyết 22-NQ/TW ngày 27/11/1989 của Bộ Chính trị Về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi, tình hình miền núi và các vùng đồng bào dân tộc thiểu số có bước chuyển biến quan trọng. Đảng và Nhà nước ta đã dành sự quan tâm đặc biệt đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của miền núi và đã có rất nhiều chủ trương lớn lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện phát triển kinh tế-xã hội trong nhiều năm qua. Những năm gần đây, trong các Nghị quyết của Đảng và Nhà nước đều rất quan tâm và có chủ trương đầu tư ngày càng nhiều cho miền núi. Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ về Chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo, với quan điểm xoá đói giảm nghèo là chủ trương lớn, nhất quán của Đảng, Nhà nước và là sự nghiệp của toàn dân. Phải huy động nguồn lực của Nhà nước, của xã hội và của người dân để khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế của từng dịa phương, nhất là sản xuất lâm nghiệp, nông nghiệp để xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 01/2011) xác định: Đẩy mạnh giảm nghèo bền vững, nâng cao thu nhập, không ngừng cải thiện đời sống và chất lượng dân số của đồng bào các dân tộc thiểu số.Chú trọng phát triển hạ tầng kinh tế, xã hội. Trong Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng khoá X, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng cũng đã xác định nhiệm vụ trong 5 năm tới đối với vùng trung du, miền núi. Phát triển kinh tế - xã hội hài hoà giữa các vùng, đô thị và nông thôn. Phát huy tiềm năng, thế mạnh của từng vùng với tầm nhìn dài hạn, tăng cường liên kết giữa các địa phương trong vùng theo quy hoạch, khắc phục tình trạng đầu tư trùng lặp, thiếu liên kết giữa các địa phương trong vùng; Tăng cường chính sách hỗ trợ phát triển các vùng còn nhiều khó khăn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tỉnh Quảng Ngãi cũng đã có nhiều chủ trương để phát triển kinh tế - xã hội miền núi. Tỉnh ủy khóa XVII đã ban hành Nghị quyết 05-NQ/TU Về phát triển kinh tế - xã hội các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi 2006-2010; Hội đồng nhân dân tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 17/2007/NQ-HĐND ngày 16/7/2007 nhằm cụ thể hoá Nghị quyết trên và Ủy ban nhân dân tỉnh đã xây dựng , ban hành Quyết định số 295/QĐ-UBND ngày 28/02/2008 Về phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội miền núi của tỉnh đến năm 2010để triển khai thực hiện. 1.2. Điều kiện tự nhiên và dân cư
  7. 1.2.1. Điều kiện tự nhiên Miền núi tỉnh Quảng Ngãi nói riêng và tỉnh Quảng Ngãi nằm giữa hai trung tâm kinh tế lớn là Thành phố Đà Nẵng và Thành phố Quy Nhơn trong trục kinh tế trọng điểm của Miền Trung, là cửa ngõ nối liền giữa Miền Trung với Tây Nguyên và vùng Hạ Lào qua Quốc lộ 24A và là cầu nối Bắc - Nam với nước ngoài qua tuyến giao thông Thủy - Bộ. Với vị trí địa lý trên đã tạo cho Quảng Ngãi những yếu tố thuận lợi cho việc mở rộng giao lưu kinh tế với các tỉnh trong nước và nước ngoài. Là một địa bàn chiến lược quan trọng về quân sự, là căn cứ địa cách mạng gắn liền với lịch sử chống áp bức giai cấp và chống ngoại xâm của nhân dân Quảng Ngãi. - Về khí hậu, nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, một năm chia thành hai mùa rõ rệt: Mùa nóng (từ tháng 3 đến tháng 8); mùa mưa (từ tháng 9 đến tháng 12) và được phân theo ba tiểu vùng khí hậu. - Về địa hình, có nhiều rừng núi trùng điệp. Vùng núi thấp: Có độ cao từ 300 - 700m, phân bố thành dãy núi hẹp, chạy dọc theo hướng Bắc - Nam, lượn vòng theo các cánh cung của dãy Trường Sơn, độ dốc trung bình 200 - 250. Vùng thung lũng và gò đồi: Có độ cao dưới 300m so với mặt nước biển, độ dốc dưới 150. Vùng địa hình núi trung bình và núi cao tập trung phần lớn ở phía Tây; địa hình được chia thành nhiều bậc có độ cao trung bình trên 700m, độ dốc trên 250, địa hình chia cắt mạnh có nhiều núi cao. - Về đất đai, có 6 loại đất chính: Nhóm đất phù sa suối (P): Diện tích 9.470ha chiếm 2,93% diện tích toàn vùng; Nhóm đất đỏ vàng trên đá Granit (Fa): Diện tích 97.190,2ha, chiếm 30,04% diện tích toàn vùng; Nhóm đất đỏ vàng trên đá phiến sét (Fs): Diện tích 93.555,5ha, chiếm 28,92% diện tích; Nhóm đất dốc tụ (D): Diện tích 5.608ha, chiếm 1,73% tổng diện tích; Đất đỏ vàng biến đổi do trồng lúa nước (FL): Diện tích 3.059ha, chiếm 0,94% tổng diện tích; Đất mùn trên núi cao (H): Diện tích 114.668,3ha, chiếm 33,44% tổng diện tích toàn vùng. - Về nguồn nước: Hệ thống sông suối tỉnh Quảng Ngãi đều được bắt nguồn từ những vùng núi cao của các huyện miền núi đổ vào các con sông lớn như Trà Bồng, Trà Khúc, Sông Vệ, Trà Câu Đặc tính của các con sông này là ngắn, dốc và lưu lượng dòng chảy lớn, nên thường gây ra lũ lụt vào mùa mưa và khô hạn vào mùa khô. - Về tài nguyên rừng: Nhìn chung thực vật rừng khá phong phú, trong tổng số 560 loài được phát hiện được, có 19 loài quý hiếm được ghi vào Sách đỏ Việt Nam. Núi rừng Quảng Ngãi là kho tài nguyên phong phú về lâm thổ sản với nhiều loại gỗ quý như: lim, giổi, sao cát, vênh vênh, chò, trắc, huỳnh đàng, kiền kiền, gõ. Ngoài gỗ, rừng Quảng Ngãi còn có nhiều loại cây thuốc như sa nhân, hà thủ ô, thiên niên kiện, ngũ gia bì, sâm; các loại cây có sợi, cây có dầu, trầm hương, cây lấy nhựa và các loại cây lấy nấm. Cây quế là đặc sản nổi tiếng với diện tích rộng, sản lượng lớn.Về động vật, có trên 478 loài động vật, trong đó có 76 loài thú, 308 loài chim, 65 loài bò sát và 29 loài ếch nhái. Có 55 loài quý hiếm được ghi vào Sách đỏ Việt Nam. - Về tài nguyên khoáng sản: Đá xây dựng có ở nhiều nơi, nhất là ở Trà Bồng; Nước khoáng Thạch Bích ở Trà Bồng; Wolfram ở Minh Long; vàng, đồng, kẽm có ở Trà Bồng, Sơn Hà, Ba Tơ
  8. Khu vực miền núi Quảng Ngãi có nhiều địa danh có thể khai thác phục vụ du lịch như núi Cà Đam huyện Trà Bồng, Hồ chứa nước Nước Trong, Khu căn cứ địa cách mạng Ba Tơ và di tích quốc gia Trường Thành 1.2.2. Dân cư - Dân tộc Khu vực miền núi có diện tích chiếm 3.245 Km2, dân cư hiện nay có 200.783 người, mật độ dân cư là 61,87 người/km2. Miền núi Quảng Ngãi có các dân tộc Kinh, Hrê, Cor, Ca Dong sinh sống. Các dân tộc thiểu số là cư dân bản địa lâu đời, sống theo từng khu vực và có sự đan xen nhất định, có sự giao lưu, buôn bán với nhau và với người Kinh ở miền xuôi lên buôn bán, khai khẩn. Nói đến dân cư, dân tộc ở miền núi Quảng Ngãi chủ yếu là các dân tộc Hrê, Cor, Ca Dong và Kinh. Người Kinh cư trú chủ yếu ở các thị tứ, thị trấn các huyện miền núi, một số ít sinh sống đan xen với người dân tộc thiểu số. Khu vực miền núi, dân tộc Kinh có 50.579 người, chiếm tỷ lệ khoảng 25,2%. Người Kinh ở miền núi Quảng Ngãi còn giữ khá đầy đủ các hình thức canh tác, phong tục tập quán như ở miền xuôi. Người Hrê ở miền núi Quảng Ngãi có 107.171 người, chiếm tỷ lệ 53,4%. Người Hrê cư trú tập trung ở các huyện Sơn Hà, Ba Tơ, Minh Long. Các làng Hrê đan xen với người Ca Dong ở địa bàn phía Đông huyện Sơn Tây và sống đan xen với người Cor ở các xã phía Nam của huyện Trà Bồng. Người Cor có số dân đông thứ hai trong các dân tộc thiểu số, sau dân tộc Hrê. Người Cor ở miền núi Quảng Ngãi có 26.643 người, chiếm tỷ lệ 13,4%. Dân tộc Cor sống chủ yếu ở các huyện Trà Bồng, Tây Trà. Người Ca Dong có số dân đông thứ ba trong các dân tộc thiểu số, sau dân tộc Hrê, Cor. Người Ca Dong ở miền núi Quảng Ngãi có 15.940 người, chiếm tỷ lệ gần 8,0%. Địa bàn cư trú của người Ca Dong phân bố chủ yếu ở các huyện Sơn Tây, sau đó là Sơn Hà, Tây Trà. Các dân tộc thiểu số Quảng Ngãi cùng nằm trong một khu vực lịch sử - dân tộc học, có chung một vận mệnh lịch sử lâu đời, đã cùng nhau tham gia vào những cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột của các triều đại phong kiến và xâm lược. Đặc biệt, sống trong vùng thiên nhiên phong phú, đa dạng nhưng vô cùng khắc nghiệt, đồng bào các dân tộc miền núi đã xây dựng nên truyền thống đoàn kết, gắn bó cùng nhau để sinh tồn. Các mối liên hệ chặt chẽ về kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các dân tộc đã có từ lâu đời. Nhưng mỗi tộc người đều có những đặc điểm riêng. Về kinh tế, quan hệ mua bán, trao đổi giữa các dân tộc thực hiện bằng nhiều hình thức, đã được xác lập từ lâu đời. Đồng bào trao đổi với nhau các công cụ lao động như dao, rựa, những sản vật từ săn bắt, hái lượm được hoặc những đặc sản như quế, trầu, cau, chè Mối quan hệ giao lưu kinh tế đó diễn ra không chỉ trong nội bộ tộc người mà còn diễn ra giữa các tộc người cận cư, đặc biệt là với người Kinh để trao đổi, mua bán các sản phẩm và nhu yếu phẩm cần thiết cho cuộc sống. Về ngôn ngữ, mỗi dân tộc ở miền núi Quảng Ngãi thường không chỉ nói ngôn ngữ mẹ đẻ, mà còn biết tiếng nói các dân tộc láng giềng. Vì cùng chung hệ ngôn ngữ Môn - Khơme nên các dân tộc Hrê, Cor, Ca Dong rất dễ dàng hiểu
  9. tiếng nói của nhau. Hiện nay, sự giao lưu văn hóa, mối quan hệ giữa các dân tộc miền núi Quảng Ngãi ngày càng được củng cố và phát triển về mọi mặt, phù hợp với xu thế thời đại và phù hợp với nguyện vọng chính đáng của bà con các dân tộc miền núi trên con đường hội nhập đi lên xây dựng cuộc sống mới. II. THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI CÁC HUYỆN MIỀN NÚI TỈNH QUẢNG NGÃI 1.1. Khái quát chung về thực trạng kinh tế - xã hội Nhìn chung, kinh tế các huyện miền núi đang trong quá trình thoát ra tình trạng tự cấp tự túc, từng bước tiếp cận thị trường. Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2006 - 2010 chậm, tăng 13,66%, trong đó N-L-TS tăng 10,25%; CN-XDCB tăng 22,39%; Dịch vụ tăng 18,97%. Tổng giá trị sản xuất toàn vùng (theo giá 1994) năm 2006 đạt 688.904 triệu đồng, năm 2010 ước đạt 1.068.552 triệu đồng. Về cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng ngành N-L-TS giảm dần. Tỷ trọng CN-TTCN tăng chậm. Dịch vụ chiếm tỷ trọng thấp nhưng cáo xu hướng tăng dần. Tổng thu ngân sách của vùng ngày một gia tăng, năm 2010 đạt 27,831 tỷ đồng, tuy nhiên còn rất nhỏ. Mức thu này chưa thể có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế của các huyện trong vùng mà chủ yếu dựa vào sự hỗ trợ ngân sách của cấp trên. Thu nhập bình quân đầu người được cải thiện, năm 2006 là 3.052 ngàn đồng, đến năm 2009 là 4.384 ngàn đồng; Lương thực bình quân đầu người năm 2006 là 296 kg/người/năm, đến năm 2010 là 327 kg/người/năm. Đầu tư xây dựng cơ bản của khu vực miền núi được chú trọng, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển khá, nhất là hệ thống thủy lợi, đường giao thông, hệ thống cấp nước sinh hoạt, kè chống xói lở bờ sông Đến nay, 100% các huyện trong vùng có điện lưới quốc gia và mạng lưới bưu chính viễn thông. Lĩnh vực văn hoá - xã hội, nhất là giáo dục, y tế, văn hoá thông tin có những bước tiến triển mới, gắn kết hơn với quá trình phát triển kinh tế - xã hội chung của toàn tỉnh và trong nội bộ vùng. Công tác xoá đói, giảm nghèo được đẩy mạnh, tỷ lệ nghèo năm 2010 là 35,23%, chất lượng cuộc sống có mặt được nâng lên. Đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc được cải thiện đáng kể. Thế trận quốc phòng - an ninh được giữ vững. Khối đại đoàn kết toàn dân tiếp tục được củng cố và tăng cường. Tuy nhiên, kinh tế - xã hội các huyện miền núi vẫn còn chậm phát triển và nhiều khó khăn.Tính tự phát, manh mún trong sản xuất còn phổ biến. Sản xuất nông nghiệp chưa đáp ứng đủ nhu cầu lương thực, thế mạnh kinh tế rừng chưa được phát huy đúng mức; công tác quản lý, bảo vệ, phát triển rừng còn nhiều yếu kém, một số nơi rừng bị tàn phá nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh thái. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và hệ thống dịch vụ còn sơ khai. Tiềm năng du lịch chưa được khai thác. Hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội còn yếu kém. Các vấn đề thiết yếu như: nhà ở, đất ở, đất sản xuất nông nghiệp, đất rừng, nước sinh hoạt chưa được giải quyết căn bản. Đời sống của nhân dân trong vùng còn thấp xa so với các vùng khác trong tỉnh. Trình độ dân trí thấp,
  10. điều kiện phát triển giáo dục, y tế khó khăn, học sinh bỏ học còn nhiều; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn cao. Đồng bào dân tộc vẫn còn tồn tại một số tập tục lạc hậu. 1.2. Thực trạng về các ngành kinh tế 1.2.1. Nông nghiệp - Lâm nghiệp - Thủy sản + Sản xuất Nông nghiệp - Về trồng trọt: Cây lúa: Từ năm 2001 đến nay, tuy diện tích có tăng có giảm, nhưng năng suất bình quân trong vùng tăng đều: từ 26,6 tạ/ha (2001), 31,2 tạ/ha (2005) lên 40,2 (2010) làm cho sản lượng tăng lên. Cây ngô: Sản xuất ngô có nhiều tiến bộ cả về mở rộng diện tích thâm canh tăng năng suất. Diện tích ngô lai đang thay thế dần các giống ngô cũ năng suất thấp. Phương thức trồng ngô thâm canh cũng đang thay thế dần trồng ngô quảng canh. Năng suất bình quân trong vùng tăng từ: 18,8 tạ/ha (2001), 21,8 tạ/ha (2005) lên 28,7 tạ/ha (2010). Cây sắn: Cùng với sự phát triển của hai nhà máy chế biến tinh bột sắn của tỉnh kéo theo vùng nguyên liệu phát triển không ngừng. Năng suất bình quân trong vùng tăng từ: 85,8 tạ/ha (2001), 107,9 tạ/ha (2005) lên 134,1 tạ/ha (2010). Việc phát triển cây sắn hiện nay cần có giải pháp quy hoạch hợp lý và canh tác khoa học để không dẫn đến phá rừng và huỷ hoại môi trường. Ngoài ra, trong vùng còn có khoai lang, rau đậu các loại: Diện tích có lúc giảm lúc tăng, nhưng sản lượng và năng suất các năm đều tăng do áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất. Cây công nghiệp ngắn ngày: Trong vùng có trồng các loại cây công nghiệp ngắn ngày như: mía, lạc, vừng Diện tích mía có tăng có giảm qua các năm, năng suất bình quân trong vùng không ổn định từ: 372,2 tấn/ha (2001), 449,9 tấn/ha (2005) giảm còn 336,6 tấn/ha (2010). Diện tích và sản lượng cây lạc tuy có tăng có giảm, nhưng năng suất lại ngày càng tăng. Năm 2001 diện tích 1.340 ha, sản lượng 1.643 tấn, năng suất chỉ đạt 12,3 tạ/ha. Đế năm 2008 diện tích giảm xuống còn 872 ha, nhưng nhờ năng suất tăng lên 15,7 tạ/ha nên sản lượng đạt 1.358 tấn. Diện tích trồng cây vừng tuy có tăng có giảm, nhưng năng suất và sản lượng hàng năm đều tăng. Năm 2001 diện tích 29,0 ha đến 2002 diện tích tăng lên 74,0 ha, nhưng năm 2008 diện tích lại giảm xuống còn 63,0 ha. Năng suất tăng từ 1,7 tạ/ha năm 2001 lên 3,9 tạ/ha năm 2008. Sản lượng tăng từ 5,0 tấn năm 2001 lên 24,3 tấn năm 2008. Cây công nghiệp dài ngày: Cây quế (Diện tích 2.521 ha, sản lượng 2.255 tấn); Cây cau (Diện tích 620 ha, sản lượng 6.875 tấn); Cây chè (Diện tích 140 ha, sản lượng 252 tấn); Cây ăn quả: Diện tích 663 ha, sản lượng 3.434 tấn. Trồng phân tán trong vườn các hộ gia đình. - Về chăn nuôi: + Đàn trâu, bò: Hình thức chăn nuôi hiện nay vẫn là chăn nuôi quảng canh, chưa phát triển thành các trang trại chăn nuôi tập trung trong khi vùng có các điều kiện để phát triển. Số lượng đàn trâu, bò có xu hướng ngày càng gia tăng.
  11. - Đàn lợn: Số lượng đàn lợn tương đối ổn định, tuy có năm tăng, năm giảm. + Đàn gia cầm: Sản lượng thịt gia cầm trong 5 năm trở lại đây có xu hướng gia tăng, năm 2004 sản lượng thịt gia cầm 290 tấn đến năm 2008 tăng lên 560 tấn. Nhìn chung, chăn nuôi chậm phát triển so với trồng trọt, chủ yếu hướng tự cung, tự cấp, chưa định hướng sản xuất hàng hóa. - Ngành lâm nghiệp Diện tích đất lâm nghiệp hiện nay là 175.307,1 ha chiếm 54,18% diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Năm 2006 tổng doanh thu của ngành lâm nghiệp là 56.460 triệu đồng, chiếm 17,02% giá trị ngành Nông - Lâm - Ngư nghiệp. Ngoài diện tích rừng tự nhiên đã được khoán bảo vệ, chăm sóc hàng năm. Các huyện miền núi còn tiến hành trồng, khoanh nuôi, tái sinh bảo vệ được diện tích rừng khá lớn. Công tác trồng rừng và bảo vệ rừng được quan tâm trong những năm gần đây. Diện tích rừng trồng chủ yếu các cây Sao đen, Lim, Dầu, keo, bạch đàn, quế Keo hiện nay chiếm diện tích khá lớn, năng suất bình quân khu vực trong khoảng từ 70 - 88 tấn/ha và ngày càng đem lại nguồn lợi kinh tế khá cao. - Thủy sản Ngành nuôi trồng và đánh bắt thủy sản của vùng miền núi quá nhỏ bé, sản lượng và giá trị sản phẩm không đáng kể, chủ yếu chỉ đáp ứng một phần nhu cầu nội vùng. Năm 2008, tổng sản lượng thủy sản toàn vùng đạt 210 tấn. Tiềm năng khai thác không lớn. 1.2.2. Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp, Xây dựng Trong những năm qua, ngành Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp và Xây dựng đã có sự phát triển đáng kể. Hầu hết các cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng đều nhỏ bé và tập trung ở các thị trấn, trung tâm huyện lỵ và các trung tâm cụm xã. Tuy nhiên, ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong cơ cấu giá trị sản xuất của vùng. Năm 2008, trên toàn địa bàn 06 huyện miền núi có tổng số 1.605 cơ sở thì hầu hết đều thuộc loại hình hộ kinh doanh cá thể và tư nhân (1.600 cơ sở), chỉ có 02 cơ sở sản xuất thuộc loại hình nhà nước, 03 cơ sở tập thể. 1.2.3. Thương mại - Dịch vụ và Du lịch Những sản phẩm hàng hóa của vùng trao đổi với bên ngoài chủ yếu là gỗ và sản phẩm chế biến từ gỗ, cây mía, cây quế và một số lâm sản khác. Còn các sản phẩm nhập vào trong vùng là nguyên vật liệu xây dựng, nhiên liệu, phân bón, lương thực và đồ dùng phục vụ sinh hoạt hàng ngày. Về dịch vụ có tốc độ tăng trưởng khá, ngày càng chiếm tỷ trọng đáng kể trong cơ cấu kinh tế. Các hoạt động dịch vụ vận tải, ngân hàng phát triển, có tác dụng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của vùng. Tuy nhiên, vận tải trong vùng chủ yếu là đường bộ, phương tiện chính là xe ô tô và chưa đáp ứng được nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hóa trong vùng. Du lịch trên địa bàn chưa được đầu tư phát triển, cơ sở hạ tầng còn quá khó khăn, khâu dịch vụ chưa phát triển. 1.3. Thực trạng về xã hội và an ninh quốc phòng
  12. Công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cộng đồng cho đồng bào dân tộc trong vùng từng bước khắc phục tình trạng xuống cấp về cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ y tế được tăng cường. Các chương trình y tế đều đạt kế hoạch đề ra, góp phần hạ thấp tỷ lệ các bệnh như sốt rét, bướu cổ Tuy nhiên, tỷ lệ mắc bệnh và tử vong trong vùng còn cao. Cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ y tế hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu. Việc xây dựng đời sống văn hóa, nhất là Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” và các chính sách phát triển văn hóa của nhà nước trong vùng tiếp tục được chú trọng thực hiện. Sự nghiệp giáo dục - đào tạo được các cấp, các ngành quan tâm, hiện nay tỷ lệ học sinh tới trường đạt 80% so với độ tuổi đi học. Tuy nhiên, chất lượng giáo dục trên địa bàn vẫn còn thấp, nhất là trong vùng các xã đặc biệt khó khăn. Hệ thống trường lớp và trang thiết bị còn thiếu, phòng học tranh tre, phòng tạm vẫn còn. Hiện tại chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục. Công tác ứng dụng, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật được triển khai thực hiện bằng nhiêu mô hình. Năng lực cán bộ chuyển giao tuy đã có kiến thức và kinh nghiệm nhưng còn rất thiếu trang thiết bị, phương tiện. Cơ sở vật chất kỹ thuật tại các huyện còn thiếu nhiều và quá sơ sài. Về an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội ở các huyện miền núi luôn được ổn định và giữ vững. Thực hiện có kết quả các chủ trương về xây dựng khu vực phòng thủ, phong trào toàn dân tham gia bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. 1.4. Thực trạng kết cấu hạ tầng Hệ thống giao thông còn nhiều khó khăn, ảnh hưởng lớn đến việc lưu thông kinh tế giữa các địa phương trong vùng, đặc biệt vào mùa mưa. Các tuyến đường tỉnh lộ, huyện lộ nhìn chung đã được xây dựng tương đối khá, một số tuyến khác đang có dự án đầu tư. Nhiều tuyến đường liên xã, thôn xóm còn quá kém, hệ thống cầu cống và hệ thống thoát nước đã có nhưng còn nhiều hạn chế. Về thủy lợi: Trong vùng hiện có 279 công trình thủy lợi, tổng diện tích tưới 4.128 ha. Tuy nhiên, chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất của người dân. Về điện năng: Hệ thống điện chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất và sinh hoạt. Hiện nay số hộ có điện trong vùng chỉ là 34.140 hộ, chiếm 81% toàn vùng. Hệ thống cấp nước sinh hoạt: Chương trình NS&VSMTNT cùng với các nguồn từ các chương trình khác đã đầu tư 162 công trình với tổng vốn khoảng 53.978 triệu đồng, cấp nước cho khoảng 9.997 hộ, nâng tổng số hộ được cung cấp nước sinh hoạt hợp vệ sinh đến năm 2010 chiếm khoảng 76,83% dân số toàn vùng. Về bưu chính viễn thông: Nhìn chung đã đáp ứng được yêu cầu cơ bản của dịch vụ bưu chính viễn thông trong vùng. Toàn vùng có 15.167 máy điện thoại cố định, bình quân 7,63 máy/100 dân, tổng số thuê bao Internet là 786 thuê bao. Về văn hóa thông tin: Đến nay, trong vùng đã có 6 đài truyền thanh - phát lại truyền hình, tập trung vào tuyên truyền đường lối chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ chính trị địa phương. Hệ thống văn hóa thông tin mới chỉ đáp ứng được ở khu vực trung tâm huyện và các trung tâm
  13. cụm xã, còn đối với các khu vực vùng sâu, vùng xa chưa được đầu tư nhiều để đảm bảo yêu cầu thiết yếu. Cơ sở vật chất phục vụ cho công tác thể dục thể thao chưa phát triển. Toàn vùng hiện có 17 sân vận động, vận động viên chủ yếu chỉ tập trung từ các xã, thị trấn khi có phong trào thi đấu. Hệ thống thoát nước và vệ sinh môi trường chưa được chú trọng đầu tư. Phương thức sản xuất lạc hậu, cơ sở hạ tầng còn nhiều khó khăn, ảnh hưởng không ít đến đời sống của nhân dân, là mầm mống gây ra các dịch bệnh. Tóm lại, cả sáu huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi đều là những huyện nghèo và có sự phát triển không đồng đều theo vùng lãnh thổ và theo lĩnh vực sản xuất. Theo vùng lãnh thổ, có huyện có điều kiện phát triển mạnh như Ba Tơ, Sơn Hà, Trà Bồng; có huyện kinh tế khó phát triển hơn như: Tây Trà, Sơn Tây, Minh Long. Có huyện cơ sở hạ tầng khá như: Ba Tơ, Sơn Hà; có huyện cơ sở hạ tầng yếu kém như Tây Trà, Sơn Tây. Theo lĩnh vực sản xuất, có huyện có hướng phát triển công nghiệp vì nguyên liệu dồi dào như: Ba Tơ, Sơn Hà, Trà Bồng, nhưng cũng có huyện ít có lợi thế phát triển công nghiệp mà chỉ phát triển tiểu thủ công nghiệp, làng nghề, như Tây Trà, Sơn Tây. Thực trạng nêu trên là những chỉ báo rất đáng quan tâm trong quá trình đầu tư phát triển kinh tế - xã hội miền núi tỉnh Quảng Ngãi trong những năm đến. Chương 2. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN MỘT SỐ CHÍNH SÁCH, CHƯƠNG TRÌNH, DỰ ÁN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TẠI CÁC HUYỆN MIỀN NÚI TỈNH QUẢNG NGÃI I. CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CÁC XÃ ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN MIỀN NÚI VÀ VÙNG SÂU VÙNG XA (CHƯƠNG TRÌNH 135) 1.1. Chương trình 135 giai đoạn I a. Nội dung của Chương trình là: Quy hoạch bố trí lại dân cư ở những nơi cần thiết; Đẩy mạnh phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp, gắn với chế biến, tiêu thụ sản phẩm; Phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn phù hợp với quy hoạch sản xuất và bố trí lại dân cư; Quy hoạch và xây dựng các trung tâm cụm xã; Đào tạo cán bộ xã, bản, làng, phum, sóc.
  14. - Thời gian thực hiện: Từ năm 1999-2005. - Phạm vi thực hiện trên địa bàn các xã ĐBKK, cụ thể: Năm 1999:22 xã; năm 2000: 44 xã; từ năm 2001-2005: 57 xã. b. Đánh giá kết quả Những kết quả đạt được: Chương trình đã góp phần xây dựng được hệ thống CSHT quan trọng, là lực lượng vật chất to lớn làm thay đổi bộ mặt nông thôn, tạo tiền đề cho phát triển vùng dân tộc và miền núi. Đưa kỹ thuật canh tác mới với những giống cây trồng, vật nuôi năng suất cao, chất lượng tốt đã dần thay thế những tập quán sản xuất lạc hậu; diện tích khai hoang ruộng lúa nước và năng lực tưới tiêu tăng lên giúp ổn định một phần lương thực. Góp phần cải thiện đời sống của đồng bào trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế và sức khỏe cộng đồng: Về cơ bản trên địa bàn không còn hộ đói kinh niên, tốc độ giảm nghèo hàng năm khá, từ 65% (trước khi có Chương trình) xuống còn 23,84% (cuối năm 2005), bình quân giảm 4-5%/năm. Hầu hết các xã đều có trường tiểu học và THCS kiên cố, thu hút trên 95% số trẻ em tiểu học, trên 75 % trẻ em THCS trong độ tuổi đến trường; nhiều địa phương đã hoàn thành phổ cập giáo dục THCS; có trạm y tế đã ngăn chặn cơ bản các dịch bệnh; đời sống văn hoá được nâng cao một bước, văn hoá truyền thống của các dân tộc được tôn trọng, giữ gìn và phát huy. Các dự án quy hoạch sắp xếp lại dân cư đã góp phần ổn định đời sống, giúp đồng bào được tiếp cận các hạ tầng kỹ thuật, dịch vụ xã hội. Những tồn tại, hạn chế: - Về tổ chức thực hiện: Chưa sát thực tế nên dẫn đến nhiều biến động về số xã thuộc Chương trình: Số xã thuộc diện đầu tư đã tăng dần từ 21 đến 57 xã. Chưa có chính sách khuyến khích các địa phương thoát khỏi Chương trình.Chỉ có 14/57 xã hoàn thành mục tiêu, đạt tỷ lệ rất thấp 24,56%. Mặt khác, do không có sự đánh giá khách quan và tâm lý không muốn thoát khỏi Chương trình. Công tác quản lý, chỉ đạo các dự án chưa được tập trung. Sự phối hợp giữa Ban chỉ đạo và các Sở, ngành chưa được chặt chẽ, đồng bộ. Công tác tuyên truyền phổ biến chưa được quan tâm đúng mức. Nhiệm vụ giám sát thiếu chặt chẽ, kém hiệu lực. Thực hiện đầu tư còn dàn trãi, chưa đồng bộ. Nội dung thiếu mục tiêu cụ thể cho từng vùng đầu tư. Dự án quy hoạch bố trí lại dân cư chỉ mới thực hiện được việc hỗ trợ dãn dân, công tác quy hoạch dân cư chỉ dừng ở bước lập dự án quy hoạch Trong xây dựng CSHT, cơ cấu đầu tư còn nặng về các công trình giao thông (chiếm 42,90%); trong khi vốn đầu tư cho thủy lợi (33,75%), nước sinh hoạt (7,39%), điện (3,6%), trường học (11,35%) và khai hoang (0,68%) là chưa hợp lý. - Về quản lý các nguồn vốn đầu tư: Chương trình do UBND các huyện trực tiếp quản lý, trong khi trình độ cán bộ còn nhiều hạn chế. Tuy chưa có vi phạm lớn nhưng còn biểu hiện những sai sót và lãng phí. Quy trình chọn và đánh giá nhà thầu thi công chưa tốt. Ở nhiều địa phương chọn nhà thầu không đủ năng lực. Công tác nghiệm thu thiếu cán bộ có chuyên môn phù hợp; một số công trình chưa đảm bảo chất lượng. Một số địa phương có thực hiện huy động dân khai thác vật liệu xây dựng tại chỗ, tham gia xây dựng công trình nhưng tỷ lệ rất thấp. Hầu hết, các công trình CSHT do nhà thầu làm, sự tham gia của người dân bản xứ là rất thấp. Một số nơi, việc lựa chọn công trình ít được thảo
  15. luận rộng rãi với dân, hoặc chỉ là hình thức, nên đầu tư không hợp lý, kém hiệu quả. - Về công tác quản lý vận hành, duy tu bảo dưỡng công trình: UBND tỉnh đã ban hành Quy chế quản lý, duy tu, bảo dưỡng, sửa chữa, nâng cấp và khai thác các công trình cơ sở hạ tầng tại xã miền núi. Tuy nhiên, nguồn lực chủ yếu để thực hiện là công lao động của nhân dân địa phương và vốn duy tu, bảo dưỡng của địa phương rất hạn hẹp, việc thực hiện còn nhiều bất cập. - Về lồng ghép các chương trình, dự án: Có gặp nhiều khó khăn do mỗi chương trình, dự án đầu tư đều có mục tiêu, cơ quan chủ trì riêng, cơ chế quản lý và thời điểm thực hiện khác nhau, cùng với những hạn chế trong công tác quy hoạch và cơ chế lồng ghép không rõ ràng nên hiệu quả chưa cao, chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp của các nguồn lực đầu tư. 1.2. Chương trình 135 giai đoạn II (2006 - 2010) a. Nội dung của chương trình là: Hỗ trợ phát triển sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ sản xuất của đồng bào các dân tộc; Phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn; Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở, nâng cao trình độ quản lý hành chính và kinh tế; đào tạo nâng cao năng lực cộng đồng; Trợ giúp pháp lý để nâng cao nhận thức pháp luật. - Thời gian thực hiện: Từ năm 2006 - 2010. - Phạm vi thực hiện trên địa bàn tỉnh: Gồm 43 xã ĐBKK miền núi và 31 thôn ĐBKK thuộc các xã khu vực II. b. Đánh giá kết quả thực hiện Những kết quả đạt được: Chương trình đã đạt được phần lớn các nội dung; về cơ bản, không còn tình trạng hộ đói thường xuyên; tỷ lệ hộ nghèo của các xã, thôn ĐBKK đã giảm từ 71,56% đầu năm 2006 xuống còn 44,24% vào giữa năm 2010 (giảm 27,32%, bình quân mỗi năm giảm khoảng 5,5%). - Một số chỉ tiêu đạt kế hoạch: Tỷ lệ xã có công trình thủy lợi nhỏ đảm bảo phục vụ cho sản xuất đạt 93,33% (MT 80%); Tỷ lệ thôn bản có điện ở các cụm dân cư đạt 88,81% (MT 80%); Tỷ lệ học sinh tiểu học trong độ tuổi được đến trường là 99,53% (MT 95%); Tỷ lệ học sinh THCS trong độ tuổi được đến trường là 91,17% (MT 75%); Tỷ lệ hộ có hố xí hợp vệ sinh đạt 52,33% (MT 50%); Tỷ lệ người dân có nhu cầu trợ giúp pháp lý được giúp đỡ pháp luật miễn phí là 100 % (MT 95%). - Về phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Sản xuất nông nghiệp đã có bước phát triển đáng kể nhờ áp dụng giống cây trồng, vật nuôi mới và ứng dụng khoa học, kỹ thuật vào sản xuất, năng suất cây trồng, vật nuôi tăng lên. Đồng bào các dân tộc thiểu số đã từng bước thay thế dần tập quán sản xuất lạc hậu. Tỷ lệ hộ có mức thu nhập bình quân đầu người trên 3,5 triệu đồng/năm của vùng tăng từ 26,71% năm 2006 lên 44,59% vào năm 2010. - Về hoàn thiện cơ sở hạ tầng: Hệ thống cơ sở hạ tầng thiết yếu tại các địa bàn ĐBKK đã được quy hoạch và triển khai thực hiện đầu tư từ nguồn vốn của CT 135-II, cùng với nguồn lực từ các chương trình, dự án khác đã cơ bản phục vụ được phần lớn những yêu cầu cấp thiết nhất trong sản xuất và sinh hoạt của
  16. người dân tại các địa bàn này. - Đời sống văn hoá, xã hội đã có bước chuyển biến tích cực. Tỷ lệ học sinh tiểu học và học sinh trung học cơ sở trong độ tuổi đến trường đều cao; số hộ được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh, số hộ được sử dụng điện đều tăng và đạt mục tiêu của Chương trình. - Về nâng cao năng lực: Trình độ, năng lực quản lý CT 135-II cũng như các chương trình, chính sách khác của cán bộ cấp xã và thôn được nâng lên một bước; đội ngũ cán bộ cấp xã, thôn đã được trang bị các kiến thức, kỹ năng về quản lý điều hành, quản lý đầu tư cũng như trình độ chuyên môn nghiệp vụ về xóa đói giảm nghèo. Vì vậy, trong giai đoạn 2006-2010, số lượng xã được giao làm chủ đầu tư các dự án, chính sách thuộc CT 135-II tăng lên: năm 2006 có 13,95%, đến năm 2010 có 81,3% xã; hợp phần Hỗ trợ sản xuất đến năm 2008 có 100% xã làm chủ đầu tư. Năng lực của cộng đồng được nâng lên, ngày càng có nhiều hộ biết áp dụng khoa học kỹ thuật và sử dụng loại giống cây trồng, vật nuôi có chất lượng và năng suất cao vào sản xuất để tăng thu nhập, nâng cao đời sống nhân dân. Những tồn tại, hạn chế: - Các mục tiêu, chỉ tiêu chưa đạt được: Mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo: Tỷ lệ hộ nghèo ở các xã, thôn ĐBKK của tỉnh năm 2010 đã giảm 27,32% so với năm 2006. Tuy nhiên, vẫn còn ở mức khá cao là 44,24% (MT dưới 30%). - Về phát triển cơ sở hạ tầng: Tỷ lệ xã có đường giao thông cho xe cơ giới từ trung tâm xã đến thôn bản chỉ đạt 76,8% (MT 80%); Tỷ lệ xã có đủ trường học, lớp học kiên cố chỉ đạt 95,34% (MT 100%); Tỷ lệ xã có Trạm y tế kiên cố, đúng tiêu chuẩn chỉ đạt 51,16% (MT 100%). -Về phân cấp cho cấp xã làm chủ đầu tư: Chỉ có 81,3% số xã ĐBKK được giao làm chủ đầu tư các công trình CSHT (MT 100%). Chỉ có 01xã hoàn thành mục tiêu chương trình (xã Ba Dinh, huyện Ba Tơ). Qua điều tra lấy ý kiến nhân dân về Chương trình, có 45,5% ý kiến cho rằng“chưa hiệu quả lắm” so với 30,6% ý kiến “hiệu quả tốt”. - Trong chỉ đạo, điều hành: Việc tổ chức triển khai chương trình còn nhiều lúng túng, nhiều văn bản hướng dẫn ban hành chậm. Một số nội dung của văn bản hướng dẫn phải sửa đổi nhiều lần gây khó khăn cho các địa phương. - Trong tổ chức thực hiện: Việc phân bổ vốn thực hiện Chương trình còn chậm, thường phân thành nhiều đợt đã gây khó khăn cho các địa phương trong việc lập kế hoạch tổ chức thực hiện cũng như giải ngân vốn. Nguyên tắc “xã có công trình, dân có việc làm, tăng thêm thu nhập từ việc tham gia lao động công trình tại xã” chưa được thực hiện tốt. Vai trò và nhiệm vụ của một số cơ quan cấp tỉnh, huyện trong quá trình tham mưu và tổ chức chỉ đạo thực hiện Chương trình có lúc, có việc thiếu đồng bộ, chưa kịp thời. Công tác quản lý, tổ chức triển khai thực hiện của cán bộ xã nhiều nơi còn lúng túng, gặp nhiều khó khăn. II. MỘT SỐ CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ ĐẤT SẢN SUẤT, ĐẤT Ở, NHÀ Ở VÀ NƯỚC SINH HOẠT CHO HỘ ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ NGHÈO, ĐỜI SỐNG KHÓ KHĂN (CHƯƠNG TRÌNH 134) 2.1. Nội dung, thời gian, phạm vi chương trình - Nội dungchương trình: Giao đất sản xuất nương rẫy, đất ruộng lúa; Giao
  17. đất ở tối thiểu cho hộ đồng bào; Hỗ trợ nhân dân xây dựng nhà ở theo phương châm: Nhân dân tự làm, nhà nước hỗ trợ và cộng đồng giúp đỡ; Hỗ trợ giải quyết nước sinh hoạt tập trung, phân tán. - Thời gian thực hiện: Từ năm 2005 - 2008. - Phạm vi thực hiện: 67 xã, 329 thôn thuộc 9 huyện (trọng tâm là 6 huyện miền núi). Số hộ thụ hưởng là: 13.907 hộ, được điều chỉnh lên 29.019 hộ. 2.2. Đánh giá kết quả Những kết quả đạt được: Chương trình bước đầu đã giải quyết cơ bản tình trạng khó khăn về đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt: Khai thác được tiềm năng đất đai, lao động và cải thiện đời sống người dân; đảm bảo một bộ phận đồng bào có điều kiện phát triển sản xuất, tạo cơ hội phấn đấu, nâng cao ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ để vươn lên thoát nghèo. Quy chế dân chủ được phát huy: Việc hỗ trợ một số chính sách được công khai dân chủ từ khâu lập và phân bổ kế hoạch, đến khâu giám sát thực hiện; công tác xã hội hóa trong việc kiểm tra, giám sát đã được hình thành và rõ nét hơn trong mỗi người dân. Nhiều địa phương đã chủ động thực hiện tốt các phương thức quản lý dự án: Nhiều xã thực hiện tốt trách nhiệm ký kết hợp đồng xây nhà cho dân (trường hợp hộ dân có nhu cầu) và đã làm tốt vai trò chủ đầu tư xây dựng công trình nước sinh hoạt tập trung. Nhận thức của người dân địa phương về chính sách của nhà nước được nâng lên. Ý thức tương trợ giúp đỡ trong cộng động cũng được nâng cao. Giải quyết cơ bản vấn đề nhà ở, đất sản xuất và nước sinh hoạt: Hỗ trợ cho 15.333 hộ có nhà ở được cứng hoá khung nhà, 597 hộ có đủ đất sản xuất và đại bộ phận cư dân trên vùng được dùng nước sạch, cải thiện chất lượng cuộc sống. Những tồn tại, hạn chế: Công tác điều tra, khảo sát còn hạn chế: Một số huyện điều tra thiếu chính xác, dẫn đến chỉ tiêu một số chính sách trong Đề án không sát với thực tế. Nguyên nhân là lực lượng và điều kiện để điều tra, khảo sát ban đầu gặp nhiều khó khăn, Trung ương quy định thời gian điều tra, khảo sát, lập Đề án là quá ngắn. Một số quy định về chính sách chưa phù hợp thực tế: Đối tượng thụ hưởng ở các xã thuộc các khu vực I, II, III có điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và khả năng nguồn lực của từng địa phương khác nhau, nhưng mức hỗ trợ nhà ở, đất sản xuất theo kiểu bình quân là chưa phù hợp; Mức hỗ trợ khai hoang, đền bù thu hồi đất 6 triệu đồng/ha là quá thấp. Do đó, địa phương gặp nhiều lúng túng, chưa tạo được cơ hội cho đồng bào có đủ đất sản xuất. Về công tác tổ chức thực hiện còn hạn chế. Chưa ban hành các quy định về huy động, lồng ghép các nguồn vốn; hướng dẫn cơ chế lồng ghép các nguồn vốn và cân đối nguồn vốn lồng ghép trên địa bàn nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp để thực hiện Chương trình đạt hiệu quả cao. Việc phân công cán bộ cấp huyện, xã còn phải kiêm nhiệm nhiều chương trình, nhiệm vụ xoá đói giảm nghèo, khối lượng công việc nhiều, nên công tác chỉ đạo chưa được tập trung. Công tác khảo sát thiết kế công trình tồn tại nhiều yếu kém. Nhiều công trình nước sinh hoạt không phát huy hiệu quả do khảo sát nguồn nước; công suất thiết kế không phù hợp với nguồn nước và nhu cầu sử dụng. Nhiều công trình bảo quản kém nên chỉ cần hư hỏng nhỏ ở đầu nguồn là công trình không sử dụng được. Công tác sơ kết rút kinh nghiệm, phổ biến kinh nghiệm cho cộng đồng, nhân rộng điển hình chưa kịp thời. III. DỰ ÁN TRỒNG MỚI 5 TRIỆU HA RỪNG (DỰ ÁN 661)
  18. 3.1.Nội dung dự án, thời gian, phạm vi Dự án - Nội dung: Bảo vệ hiệu quả vốn rừng hiện có; Thực hiện ngay từ giai đoạn đầu việc giao đất, giao rừng cho các tổ chức, hộ gia đình cá nhân gắn với định canh, định cư, xóa đói giảm nghèo để bảo vệ, khoanh nuôi rừng kết hợp trồng bổ sung và trồng mới; Trồng 2 triệu ha rừng phòng hộ rừng đặc dụng và trồng 3 triệu ha rừng sản xuất. - Thời gian thực hiện: Từ năm 1998 - 2010. - Phạm vi thực hiện trên địa bàn tỉnh: Trên địa bàn 10 huyện, với quy hoạch tiềm năng đất trồng rừng đã phê duyệt đến năm 2010 là 46.000 ha (trong đó: 6 huyện miền núi là 35.100 ha, chiếm 76,30% diện tích). 3.2. Đánh giá tình hình thực hiện Những kết quả đạt được: Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách thực hiện Dự án: Được thực hiện từ Trung ương, đến địa phương kịp thời và rõ ràng, giúp các cấp chính quyền làm cơ sở triển khai thực hiện. Công tác chỉ đạo, điều hành: Việc tổ chức, hoạt động của Ban chỉ đạo, Ban quản lý Dự án 661 được sự chỉ đạo thống nhất và xuyên suốt từ Chính phủ đến các cấp chính quyền địa phương. Việc đầu tư NSNN, huy động vốn: Việc đầu tư NSNN và thu hút được nhiều nguồn vốn khác để thực hiện dự án là nỗ lực lớn nhằm phủ xanh đất trống đồi trọc, cải thiện môi trường, xóa đói giảm nghèo cho người dân tham gia nghề rừng. Việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể của Dự án: Đến nay, tỉnh cơ bản thực hiện bằng và vượt so với kế hoạch được giao: Trồng mới và chăm sóc rừng phòng hộ: 21.132 ha/19.550 ha, đạt 108%; Quản lý bảo vệ rừng: 554.265/382.100 ha, đạt 145,1%; Khoanh nuôi tái sinh rừng: 73.271/82.724 ha, đạt 88,6%. Diện tích thành rừng là 66.529 ha. Hiệu quả về kinh tế - xã hội, môi trường của Dự án: Từ năm 1998 - 2009, diện tích có rừng tăng từ 126.602 ha lên 234.799 ha, độ che phủ tăng từ 24,6% lên 41,68%. Kết quả Quy hoạch lại 3 loại rừng tạo điều kiện quản lý chặt chẽ rừng phòng hộ, giao cho các BQL rừng phòng hộ và chính quyền địa phương quản lý. Dự án đã đưa gần 80.000 ha đất trống đồi núi trọc để trồng rừng, giao khoán hàng trăm nghìn lượt ha bảo vệ và khoanh nuôi rừng, tạo việc làm cho gần 10.000 hộ, hình thành trong cộng đồng dân cư miền núi biết làm nghề rừng, giữ rừng và xóa bỏ dần tập quán du canh du cư phát rừng làm nương rẫy. Qua điều tra cho thấy người dân đánh giá cao việc thực hiện chương trình, với 86,1% ý kiến cho là có hiệu quả. Những tồn tại, hạn chế: Công tác chỉ đạo triển khai chưa kịp thời: Một số văn bản quan trọng để chỉ đạo thực hiện dự án chưa kịp thời. Trong đó, văn bản quan trọng nhất để làm căn cứ xây dựng Dự án 661 là Quyết định 154/2004/QĐ-UB của UBND tỉnh Về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển lâm nghiệp giai đoạn 2002-2010, đến năm 2004 mới ban hành. Công tác chỉ đạo giai đoạn 1998-2004 dựa vào Quyết định 2356/QĐ-UB ngày 27/8/1996 Về việc phê duyệt dự án tổng quan lâm nông công nghiệp giai đoạn 1993-2000. Vì vậy, việc rà soát, sắp xếp lại quỹ đất lâm nghiệp, chuyển mục đích sử dụng diện tích vùng phòng hộ không xung yếu sang đất sản xuất chưa kịp thời, làm nảy sinh tranh chấp và xâm hại rừng. Việc quản lý và sử dụng đất lâm nghiệp chưa thật chặt chẽ: Từ năm 2002 trở về trước, người dân địa phương không có nhu cầu sử dụng đất rừng. Để thực hiện Nghị định 02/CP ngày 15/01/1994,
  19. chính quyền một số xã và Lâm trường đã cho tổ chức, cá nhân mượn hoặc thuê đất để trồng cây nguyên liệu, nhưng chưa được sự cho phép của cấp có thẩm quyền và chưa được cấp GCNQSDĐ, trong đó có người không thuộc hộ khẩu địa phương và tổ chức không có chức năng trồng rừng. Đến nay, khi người dân địa phương có nhu cầu đất sản xuất và đòi phải trả lại đất để chia cho dân, thì chưa giải quyết được vì cây trồng chưa đến kỳ khai thác. Việc thực hiện các giải pháp lâm sinh chưa tạo điều kiện cho cây trồng chính phát triển. Suất đầu tư cho các công trình lâm sinh còn thấp, từ khoán quản lý bảo vệ rừng, khoanh nuôi tái sinh rừng, đến trồng rừng. Tình trạng xâm hại rừng và tranh chấp đất lâm nghiệp diễn ra khá phức tạp.Nạn khai thác và vận chuyển lâm sản trái phép diễn ra nhiều nơi. IV. ĐỀ ÁN PHÁT TRIỂN GIAO THÔNG NÔNG THÔN – MIỀN NÚI Đề án được thực hiện theo chủ trương của tỉnh, Đề án phát triển giao thông nông thôn - miền núi tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2006-2010. 4.1. Mục tiêu, thời gian, phạm vi Đề án - Mục tiêu: Thực hiện nhựa hóa, cứng hóa ít nhất 1.500 km tuyến đường huyện, xã, thôn, khối phố, trong đó: Đường huyện: 500 km, đạt tiêu chuẩn cấp IV, V. Phấn đấu đến năm 2010 nhựa hóa, cứng hóa bình quân ít nhất 70% tuyến; Đường xã, phường, thị trấn (đường xã): 750 km, đạt tiêu chuẩn đường GTNT loại A, B. Phấn đấu đến năm 2010 cứng hóa mặt đường BTXM bình quân ít nhất 60% tuyến; Đường thôn, khối phố (Đường thôn): 250 km, đạt tiệu chuẩn GTNT loại A, B. Từng bước cứng hóa mặt đường BTXM, gạch hoặc cấp phối các tuyến đường thôn, đường ra đồng ruộng. Riêng đường nội phố, bê tông hóa 100% các đường hẻm nội thành. - Thời gian thực hiện: Từ năm 2006 - 2010. - Phạm vi Đề án: 13/14 huyện, thành phố (ngoại trừ huyện Lý Sơn). 4.2. Đánh giá tình hình thực hiện Những kết quả đạt được: Đề án triển khai phù hợp với chủ trương và yêu cầu thực tiễn. Công tác chỉ đạo được tập trung thực hiệnChính quyền các cấp đã tích cực chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Các cơ chế, chính sách được quán triệt sâu rộng trong quần chúng nhân dân, nhất là chủ trương huy động, quản lý và sử dụng các khoản đóng góp tự nguyện của nhân dân để xây dựng kết cấu hạ tầng ở xã, phường, thị trấn. Những tồn tại, hạn chế: Nguồn vốn bố trí và huy động thấp so với nhu cầu nên khó hoàn thành kế hoạch: Nguồn vốn ngân sách bố trí đầu tư mặt đường nhựa, đường BTXM còn rất thấp so với kế hoạch. Do đó, đến năm 2009, tổng số Km trong toàn tỉnh được nhựa hoá, cứng hoá đạt thấp: Đường huyện đạt 41,14%; Đường xã đạt 35,11% so với kế hoạch. Từ năm 2008, tỉnh giao kế hoạch vốn vay tín dụng ưu đãi cho UBND các huyện và khấu trừ vào vốn XDCB hàng năm. Theo Đề án, đầu tư đường xã thì vốn Ngân sách tỉnh bố trí (50% ở xã đồng bằng; 80% ở xã miền núi), còn lại ngân sách cấp huyện, cấp xã và các nguồn huy động của xã. Tuy nhiên, nguồn lực đầu tư tại cấp huyện gặp khó khăn về vốn ngân sách của huyện, xã và huy động trong dân.
  20. Đề án tập trung phần lớn dự án thực hiện trên địa bàn các huyện miền núi (chiếm 20/33 dự án giai đoạn 2009-2010) nhưng chủ yếu thực hiện từ các nguồn: ngân sách tỉnh, Chương trình 30a, Trái phiếu Chính phủ, Giao thông nông thôn 3, còn nguồn ngân sách huyện, xã và huy động trong dân với tỷ lệ rất thấp và hầu như không thực hiện được. Trên địa bàn miền núi, nhiều tuyến đường đạt chất lượng thấp do địa hình phức tạp, thiết kế và nguồn lực đầu tư thấp. Các tuyến đường ở khu vực miền núi những năm qua chủ yếu đầu tư nền đường và công trình thoát nước, còn mặt đường chưa được đầu tư nên thường bị hư hỏng sau mùa mưa lũ. Qua điều tra xã hội học, phần lớn người dân đều nhận thấy vai trò quan trọng của mạng lưới giao thông và đánh giá mức độ “hiệu quả tốt” chiếm 39,1%. Tuy nhiên, cũng có nhiều ý kiến cho thấy hiệu quả các Đề án giao thông nông thôn còn hạn chế, chiếm 33,9% “chưa hiệu quả lắm” và 20% “không hiệu quả”. V. ĐỀ ÁN KIÊN CỐ HÓA KÊNH MƯƠNG - THỦY LỢI Đề án được thực hiện theo chủ trương của tỉnh, Đề án Chương trình Kiên cố hóa kênh mương thủy lợi giai đoạn 2006-2010. 5.1. Mục tiêu, thời gian, phạm vi Đề án - Mục tiêu: Kiên cố hóa (KCH) 500 km kênh mương, trong đó: Kênh loại II: 53 km; Kênh loại III: 247 km. Kiên cố hóa được đầu tư từ chương trình, dự án lồng ghép khác: 200 km. - Thời gian thực hiện: Từ năm 2006 - 2010. - Phạm vi thực hiện: 13/14 huyện, thành phố (ngoại trừ huyện Lý Sơn). 5.2. Đánh giá tình hình thực hiện Những kết quả đạt được: Đề án góp phần nâng cao năng lực tưới tiêu, phục vụ phát triển sản xuất nông nghiệp. Đồng bào dân tộc miền núi đã bước đầu tiếp cận, tận nguồn thủy lợi để thâm canh lúa nước, trồng ngô, nuôi trồng thủy sản. Đề án được sự quan tâm chỉ đạo điều hành của các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị. Được sự đồng tình, hưởng ứng của nhân dân, người dân nhiều nơi tỏ ra tích cực trong việc tham gia phần vốn 30-40% đóng góp, nhiều HTX chủ động vận động thu trước khi có vốn hỗ trợ của tỉnh. Góp phần nâng cao nhận thức của người dân trong xây dựng, khái thác và bảo vệ công trình thủy lợi. Một số huyện miền núi như Sơn Hà, Minh Long nhờ thực hiện lồng ghép các nguồn vốn từ các chương trình khác triển khai trên địa bàn, nên đã huy động được nguồn vốn lớn để thực hiện đạt và vượt mục tiêu Đề án. Những tồn tại, hạn chế: Phương án cân đối nguồn vốn để thực hiện mục tiêu chưa khả thi. Việc huy động nguồn vốn đóng góp của nhân dân vùng hưởng lợi ở các huyện miền núi là rất khó, do đời sống nhân dân còn nghèo, nguồn vốn góp của các địa phương cũng hạn chế. Vì vậy, khả năng cân đối ngân sách chưa đáp ứng được yêu cầu để thực hiện theo chương trình. Bộ máy thực hiện chưa đảm bảo yêu cầu. Do thiếu cán bộ chuyên môn thủy lợi và không có bộ phận chuyên trách đầu tư XDCB nên các hồ sơ thủ tục, lập hồ sơ thiết kế chậm và cơ chế quản lý tài chính còn lúng túng. Sự phối hợp giữa các Sở, ngành chưa chặt chẽ. Cơ chế kiểm tra, giám sát chưa được thực hiện thường xuyên, nghiêm túc. VI. CHƯƠNG TRÌNH KHUYẾN NÔNG, KHUYẾN NGƯ
  21. Chương trình Khuyến nông, khuyến ngư được thực hiện theo Nghị định số 56/2005/NĐ-CP ngày 26/4/2005 của Chính phủ về Khuyến nông, khuyến ngư. 6.1. Nội dung, thời gian và phạm vi chương trình - Nội dung: Thông tin, tuyên truyền; Bồi dưỡng, tập huấn và đào tạo; Xây dựng mô hình và chuyển giao khoa học công nghệ; Tư vấn và dịch vụ; Hợp tác quốc tế về khuyến nông, khuyến ngư. - Thời gian thực hiện: Từ năm 2006 - 2010. - Phạm vi chương trình: Áp dụng trên toàn tỉnh. 6.2. Đánh giá tình hình thực hiện Những kết quả đạt được: Hệ thồng công tác KN - KN được phân cấp từ tỉnh đến cơ sở. Cấp cơ sở có hình thành mạng lưới Trạm khuyến nông và khuyến nông viên cơ sở. Thu hút được nhiều tổ chức nước ngoài tài trợ cho các chương trình, dự án KN - KN với nguồn kinh phí đầu tư đáng kể trong điều kiện nguồn ngân sách nhà nước còn hạn chế; góp phần giúp cho người dân tiếp cận được tiến bộ kỹ thuật công nghệ để triển khai sản xuất nhằm cải thiện đời sống. Việc triển khai các mô hình sản xuất góp phần tạo cho nông dân tiếp thu được khoa học kỹ thuật, áp dụng vào sản xuất. Nâng cao năng suất lao động, đẩy mạnh thâm canh nhằm tạo nguồn nguyên liệu phục vụ cho công nghiệp chế biến, xuất khẩu góp phần thúc đẩy kinh tế nông nghiệp ngày càng phát triển. Người dân tiếp cận được thông tin sản xuất và thị trường. Đặc biệt là việc thành lập và duy trì hoạt động của các Câu lạc bộ khuyến nông đã giúp nông dân có điều kiện trao đổi, học hỏi kinh nghiệm sản xuất. Một số mô hình được triển khai trên địa bàn miền núi tuy không nhiều nhưng bước đầu đã có những dấu hiệu tích cực, như: Mô hình chăn nuôi trâu, bò có chuồng nhốt và dự trữ rơm rạ làm thức ăn; Chăn nuôi heo Móng Cái có chuồng nhốt, nuôi heo ky; cá nước ngọt. Kỹ thuật trồng, chăm sóc cây keo trồng rừng sản xuất đã được bà con đồng bào áp dụng thực hiện tốt, đạt hiệu quả kinh tế cao. Những tồn tại, hạn chế: Việc ban hành các văn bản chỉ đạo, điều hành của tỉnh về công tác KN - KN chưa được thực hiện tốt hơn. Cơ chế thu hút và chế độ đối với độ ngũ khuyến nông viên cơ sở, cộng tác viên chưa thực hiện tốt. Tính liên kết giữa các tổ chức khuyến nông với chính quyền địa phương, các ngành liên quan chưa được phát huy tốt. Công tác chỉ đạo, điều hành của chính quyền cơ sở trong việc triển khai, hỗ trợ nông dân mở rộng mô hình sản xuất sau trình diễn chưa được chú trọng đúng mức. Nhiều mô hình trình diễn chưa được nhân rộng sản xuất. Việc trình diễn mô hình chưa gắn chặt với tư vấn các hình thức huy động nguồn vốn ưu đãi, thông tin thị trường, nên người dân không có nguồn vốn để đầu tư mở rộng, hay khi mở rộng sản xuất thì không có thị trường tiêu thụ hoặc giá cả quá thấp gây thua lỗ. Khả năng tiếp thu hướng dẫn kỹ thuật canh tác, thông tin thị trường và áp dụng các mô hình để triển khai thực hiện trên địa bàn miền núi còn rất hạn chế. Xuất phát từ trình độ dân trí thấp, kỹ thuật canh tác lạc hậu, tiềm lực hạn chế, lực lượng khuyến nông viên cơ sở mỏng, nên công tác khuyến nông - khuyến lâm chưa thực sự được triển khai sâu rộng trong cộng đồng dân cư miền núi.
  22. VII. MỘT SỐ DỰ ÁN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN Y TẾ Trong những năm gần đây, đã có một số chương trình hỗ trợ đầu tư hệ thống cơ sở hạ tầng y tế để nâng cao năng lực khám, chữa bệnh cho nhân dân. 7.1. Nội dung một số dự án - Dự án Y tế nông thôn: thực hiện theo Quyết định số 644/QĐ-TTg ngày 30/5/2001 của Thủ tướng Chính phủ. + Mục tiêu: Dự án hỗ trợ nâng cao năng lực khám chữa bệnh ở nông thôn. + Thời gian thực hiện: Từ năm 2003- 2008. + Quy mô dự án thực hiện trên địa bàn 8 huyện, gồm 11 công trình. Nguồn vốn từ vốn vay của Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB). - Đề án xây dựng, cải tạo, nâng cấp bệnh viện đa khoa huyện và bệnh viện đa khoa khu vực liên huyện sử dụng trái phiếu Chính phủ và các nguồn vốn khác giai đoạn 2008 – 2010, theo Quyết định của thủ tướng và tỉnh Quảng Ngãi. + Mục tiêu của Đề án: Đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp về CSHT, mua sắm trang thiết bị và nâng cao năng lực chuyên môn cho độ ngũ cán bộ y tế của một số Bệnh viện đa khoa tuyến huyện nhằm đưa các dịch vụ kỹ thuật y tế gần dân. Tạo điều kiện thuận lợi cho người nghèo, người dân vùng núi, vùng sâu, vùng xa được tiếp cận các dịch vụ y tế có chất lượng ngày một tốt hơn, đồng thời giảm tình trạng quá tải cho các bệnh viện tuyến trên. + Thời gian thực hiện: Từ 2008 - 2010. + Quy mô dự án trên địa bàn tỉnh: Có các dự án, gồm: Bệnh viện ĐKKV Sơn Hà; Bệnh viện đa khoa (BVĐK) huyện Minh Long; BVĐK Sơn Tịnh; BVĐK Tư Nghĩa; BVĐK Mộ Đức; BVĐK Đặng Thùy Trâm. - Dự án Hỗ trợ y tế vùng duyên hải Nam Trung bộ: + Mục tiêu: Nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, cải thiện kỹ năng tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế của người dân, đặc biệt là người dân nghèo, người dân tộc thiểu số, phụ nữ và trẻ em. + Thời gian thực hiện: Từ 2009 - 2013. + Quy mô dự án trên địa bàn tỉnh: Tỉnh Quảng Ngãi có 4 Dự án Bệnh viện đa khoa. Dự án sử dụng vốn ODA (Ngân hàng phát triển Châu Á) là 51,106 triệu đồng; vốn đối ứng trong nước là 5,678 triệu đồng. 7.2. Đánh giá tình hình thực hiện Những kết quả đạt được: Trong thời gian qua, với sự đóng góp của nhiều dự án đầu tư phát triển y tế, ngành y tế nói chung và lĩnh vực khám chữa bệnh trong tỉnh nói chung và các bệnh viện khu vực, bệnh viện tuyến huyện (đặc biệt là khu vực miền núi) đã có những tiến bộ rõ nét, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, hệ thống cung cấp dịch vụ y tế được mở rộng, tỷ lệ người ốm được chăm sóc y tế tăng lên; người bệnh ngày càng dễ dàng hơn trong việc tiếp cận các dịch vụ y tế; nhiều dịch bệnh được khống chế cơ bản hoặc được loại trừ; sức khỏe và tuổi thọ của người dân được nâng lên. Những tồn tại, hạn chế: Tỉnh chưa thực hiện tốt chính sách ưu đãi phù hợp để thu hút các thành phần kinh tế tham gia công tác khám chữa bệnh cho nhân dân, tham gia đầu tư các cơ sở y tế trên địa bàn. Ngân sách đầu tư nâng cấp
  23. cơ sở vật chất và trang thiết bị còn hạn chế so với nhu cầu thực tế. Cơ sở vật chất, trang thiết bị các bệnh viện đa khoa, trung tâm y tế huyện chưa hoàn chỉnh và đồng bộ, còn lạc hậu, chưa đủ khả năng giải quyết hết các bệnh thông thường, các bệnh chuyên khoa đặc thù. Nguồn nhân lực đội ngũ y, bác sĩ còn thiếu về số lượng và chất lượng. Đặc biệt, tuyến huyện và xã khu vực miền núi còn gặp rất nhiều khó khăn. Chính sách thu hút cán bộ y, bác sĩ về đứng Trạm y tế xã miền núi chưa đảm bảo thu hút, động viên an tâm công tác.Hệ thống trạm y tế miền núi nhiều nơi xuống cấp, thiết bị lạc hậu hạn chế khả năng khám chữa bệnh ban đầu cho nhân dân. VIII. CHƯƠNG TRÌNH NƯỚC SẠCH, VỆ SINH MÔI TRƯỜNG NÔNG THÔN Chương trình được thực hiện theo Quyết định số 277/2006/QĐ-TTg ngày 11/12/2006 Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn giai đoạn 2006-2010. 8.1. Nội dung, thời gian, phạm vi chương trình - Nội dung: Cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn. - Thời gian thực hiện: Từ năm 2006 - 2010. - Phạm vi thực hiện trên địa bàn tỉnh: Toàn tỉnh. 8.3. Đánh giá tình hình thực hiện Những kết quả đạt được: Các dự án đã triển khai xây dựng hoàn thành giải quyết cơ bản một số vùng nông thôn thiếu nước sinh hoạt, cung cấp đảm bảo đủ nhu cầu về nước sinh hoạt cho nhân dân. Từng bước cải thiện đời sống, sức khoẻ cho nhân dân tại các vùng dự án, đặc biệt là giải phóng được một phần sức lao động cho phụ nữ và trẻ em tham gia công việc gia đình. Các dự án được đầu tư có quy mô lớn hơn so với các năm trước đây. Về vệ sinh môi trường đã đạt được mục tiêu của kế hoạch đề ra. Công tác vệ sinh môi trường nông thôn đã có nhiều chuyển biến tích cực về nhận thức và được cụ thể hóa bằng hành động trong sinh hoạt, sản xuất của nhân dân. Công tác truyền thông và tập huấn đào tạo cán bộ đạt được khá cao. Nhận thức về vệ sinh môi trường đã được nâng cao trong nhân dân, các hoạt động về môi trường đã được nhân dân hưởng ứng và thực hiện. Đối với vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, dự án có ý nghĩa rất quan trọng trong cải thiện chất lượng cuộc sống của đồng bào. Người dân được giải phóng sức lao động nhờ hệ thống cấp nước sinh hoạt tập trung và phân tán đến nơi ở. Những hạn chế, tồn tại: Công tác khảo sát và thiết kế chưa được thực hiện tốt làm ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư và việc sử dụng lâu bền công trình. Tuy nhiên, do chất lượng khảo sát, thiết kế, chất lượng hồ sơ chưa tốt nên còn một số công trình nước sạch không phát huy hiệu quả. Công tác chuẩn bị đầu tư còn kéo dài, việc khởi công chậm dẫn đến tiến độ giải ngân hàng năm không đạt kế hoạch. Chưa thực hiện tốt nội dung phân công phối hợp giữa ba ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Y tế, Giáo dục và Đào tạo. Chương trình vệ sinh môi trường và công tác truyền thông - giáo dục chưa được chú trọng. Hằng năm chưa bố trí vốn cho Sở Y tế để thực hiện nhiệm vụ quản lý chất lượng nước và thực hiện chương trình vệ sinh. Việc phối hợp, lồng ghép và quản lý các nguồn đầu tư xây dựng công
  24. trình nước sạch còn bất cập. Chưa có sự phối hợp, lồng ghép các chương trình khác với chương trình do Sở NN&PTNT quản lý. Các chương trình 135, 134, Plan, RUDEP, Đông Tây hội ngộ triển khai tại các huyện được thực hiện theo sự quản lý riêng của từng chương trình. Vì vậy, việc tổng hợp tình hình cung cấp nước sạch trên địa bàn khó chính xác, ảnh hưởng đến kế hoạch, chỉ đạo chung. Chưa xây dựng được cơ chế quản lý, thực hiện chương trình có những đặc thù riêng, hệ thống dịch vụ trong lĩnh vực cấp nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường nông thôn và đào tạo nhân lực quản lý, vận hành các công trình cấp nước. Công tác quản lý, khai thác, duy tu còn nhiều hạn chế. Nhiều công trình sau khi chủ đầu tư bàn giao cho địa phương quản lý chỉ phát huy trong thời gian đầu. Việc duy tu, bảo dưỡng thiếu sự quan tâm nên để hư hỏng làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng công trình. Việc quản lý, vận hành, khai thác các công trình cấp nước nhiều nơi còn buông lỏng; công tác sửa chữa các công trình bị hư hỏng và xuống cấp ở một số công trình triển khai chưa kịp thời; không tổ chức bảo vệ, thậm chí để xảy ra trường hợp phá hoại làm hư hỏng công trình. Đối với địa bàn miền núi còn tồn tại nhiều khó khăn, hạn chế.Công tác khảo sát nguồn nước, thiết kế công trình còn gặp nhiều khó khăn, hệ thống cấp dẫn nước chỉ dùng được những thiết bị đơn giản, với quy mô nhỏ, lẻ nên thường hư hỏng. IX. CHƯƠNG TRÌNH KIÊN CỐ HÓA TRƯỜNG, LỚP HỌC VÀ NHÀ CÔNG VỤ CHO GIÁO VIÊN Chương trình kiên cố hóa trường lớp học được thực hiện theo chủ trương của Chính phủ và của tỉnh từ năm 2003-2012. 9.1. Nội dung, thời gian, phạm vi chương trình - Nội dung: Các trường, lớp học xây dựng kiên cố theo tiêu chuẩn, quy phạm xây dựng và tham khảo thiết kế điển hình do Bộ Xây dựng ban hành; Kết hợp việc thực hiện Đề án với việc điều chỉnh quy hoạch mạng lưới trường học và chuẩn hoá trường, lớp học. - Thời gian: Thực hiện trong 2 giai đoạn: năm 2003 - 2006 và năm 2008 - 2012. - Phạm vi thực hiện trên bàn tỉnh: Toàn tỉnh. Giai đoạn 2003 - 2006: Số phòng học cần được đầu tư xây dựng kiên cố là: 1.891 phòng. Trong đó: Xây dựng xoá phòng học 3 ca: 922 phòng; xoá phòng học tranh tre nứa lá: 969 phòng. Giai đoạn 1 (2003-2005): 861 phòng. Giai đoạn 2: 1.030 phòng. Tổng nguồn vốn: 101.481 triệu đồng. Giai đoạn 2008 - 2012: Số lượng phòng học: 2.224 phòng; Nhà công vụ cho giáo viên: 537 phòng, tổng diện tích 12.880m2. Tổng vốn: 471,650 tỷ đồng. 9.2. Đánh giá tình hình thực hiện Những kết quả đạt được: Chương trình đã khắc phục được tình trạng thiếu trường, lớp học và nhà công vụ cho giáo viên mà bản thân ngân sách địa phương và đóng góp nhân dân chưa thể thực hiện được. Tạo điều kiện xây dựng cơ sở vật chất mới để thành lập các trường THCS và trường Mầm non tại các xã miền núi. Xóa bỏ tình trạng lớp nhô ở cả 3 cấp trong một trường (Mầm non,
  25. Tiểu học, THCS) và nhà ở cho giáo viên, góp phần thu hút được học sinh đến lớp và giáo viên yên tâm giảng dạy. Chương trình đã làm cho môi trường giáo dục, hệ thống các trường học trở thành trung tâm văn hoá - xã hội của các địa phương, góp phần thực hiện chương trình phổ cập giáo dục tiểu học và phổ cập THCS ở các địa phương đạt kết quả. Những tồn tại, hạn chế: Quá trình triển khai chương trình đã bộc lộ những yếu kém, một số dự án có những thiếu sót trong trình tự thủ tục đầu tư, công tác quản lý, giám sát thi công, thiết kế, thẩm định thiết kế, chất lượng vật tư, vật liệu xây dựng không đúng theo thiết kế được duyệt. Nhiều nơi, chủ đầu tư chưa thực hiện đầy đủ thủ tục về đất đai, bỏ qua các bước đấu thầu và thực hiện quản lý chất lượng công trình lỏng lẻo nên chất lượng công trình thấp. Hầu hết các trường đều gặp khó khăn trong thực hiện mục tiêu “chỉnh trang, chuẩn hóa trường, lớp học”, đầu tư không được đồng bộ các hạng mục của trường học. Công tác quy hoạch và bố trí đất đai để xây dựng sân trường, khu sinh hoạt để đảm bảo chuẩn hóa và kinh phí thực hiện xây dựng các công trình phụ như: nhà vệ sinh, nhà thí nghiệm, thiết bị nhiều nơi không thực hiện được do không bố trí được quỹ đất và kinh phí hạn chế. Đối với khu vực miền núi, chưa huy động được các nguồn vốn khác để đầu tư đồng bộ về nhà bán trú cho học sinh. X. CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA VỀ VIỆC LÀM Chương trình thực hiện theo Quyết định số 101/2007/QĐ-TTg ngày 06/7/2007- Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm đến năm 2010. 10.1. Nội dung, thời gian, phạm vi chương trình - Nội dung: Chương trình với 3 dự án và 2 hoạt động sau: Dự án vay vốn tạo việc làm; Dự án hỗ trợ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài; Dự án hỗ trợ phát triển thị trường lao động; Hoạt động giám sát, đánh giá; Hoạt động nâng cao năng lực quản lý lao động - việc làm. - Thời gian thực hiện: giai đoạn 2006-2010. - Phạm vi thực hiện trên địa bàn tỉnh: Toàn tỉnh. 10.2. Đánh giá tình hình thực hiện Những kết quả đạt được: Hệ thống cơ sở đào tạo nghề nghề và công tác giới thiệu việc làm phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 27 cơ sở dạy nghề.Kết quả tạo việc làm đạt bằng và vượt kế hoạch hàng năm: Bình quân mỗi năm giải quyết việc làm cho khoảng 33.920 lao động, đạt 102,78% chỉ tiêu. Những tồn tại, hạn chế: Trong quá trình xây dựng Chương trình, kêu gọi thu hút đầu tư, nhiều cơ quan, ngành, địa phương chưa quan tâm đến việc thu hút lao động tại chỗ. Quỹ Quốc gia về việc làm do Trung ương bổ sung hàng năm cho tỉnh còn hạn chế (từ 4-4,5 tỷ đồng/năm) chưa đáp ứng được nhu cầu vay vốn của nhân dân. Việc đưa lao động trong tỉnh đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài còn quá ít. Đào tạo cho người lao động chưa theo quy hoạch, lao động có kỹ thuật và công nhân lành nghề rất hiếm.Tính tự chủ trong tự tạo việc làm, tự tìm kiếm việc làm của người lao động chưa được phát huy, trình độ tay
  26. nghề của người lao động nhìn chung còn thấp, tác phong làm việc chưa phù hợp với quy trình sản xuất công nghiệp. Đối với khu vực miền núi còn tồn tại nhiều hạn chế trong vấn đề việc làm. Với trình độ dân trí còn hạn chế, khả năng tiếp cận đào tạo nghề hạn chế, tác phong làm việc chưa phù hợp với môi trường công nghiệp, thụ động trong vay vốn tạo việc làm, tâm lý chưa được yên tâm khi xa làng, bản làm ăn Các yếu tố trên ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng có việc làm và nâng cao thu nhập. XI. CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA VỀ VĂN HÓA Chương trình được thực hiện theo Quyết định Quyết định 125/2007/QĐ- TTg ngày 31/7/2007 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về Văn hóa giai đoạn 2006-2010. 11.1. Nội dung, thời gian, phạm vi chương trình - Nội dung: Chương trình bảo tồn di sản văn hoá; Chương trình phát triển văn hoá thông tin cơ sở; Chương trình phát triển điện ảnh. - Thời gian thực hiện: năm 2006-2010. - Phạm vi thực hiện trên địa bàn tỉnh: Toàn tỉnh. 11.2. Đánh giá tình hình thực hiện Những kết quả đạt được: Các di tích lịch sử văn hoá, trong đó có 26 di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia (kể cả Công trình kiến trúc Trường Luỹ mới được công nhận là Di tích cấp Quốc gia) và 161 di tích lịch sử văn hoá cấp tỉnh sau khi được tu bổ, tôn tạo không những đã giữ gìn được một lượng vật chất to lớn chứa đựng trong mỗi di tích để giáo dục truyền thống và nâng cao mức hưởng thụ của nhân dân mà còn tham gia vào việc phát triển kinh tế, góp phần thu hút nhiều khách trong và ngoài nước đến tham quan, tăng nguồn thu bán vé và các nguồn thu dịch vụ khác đối với các ngành du lich, dịch vụ, giao thông - vận tải. Các Nhà văn hoá huyện được cấp trang thiết bị từ Chương trình cũng hoạt động có hiệu quả và tăng nguồn thu; Thư viện tỉnh có số đầu sách trang bị ngày càng phong phú thu hút được nhiều bạn đọc. Các di sản văn hoá phi vật thể sau khi nghiên cứu giới thiệu đã thu hút được khách các nơi về tham quan, xem biểu diễn. Những tồn tại, hạn chế: Việc triển khai thực hiện Dự án chống xuống cấp và tôn tạo các di tích lịch sử cách mạng và kháng chiến, dự án Di tích Sa Huỳnh gặp nhiều khó khăn do công tác lập và phê duyệt dự án đầu tư còn chậm do cơ chế quản lý làm ảnh hưởng đến tiến độ triển khai thực hiện, nguồn kinh phí để thực hiện còn thiếu so với nhu cầu. Các dự án thuộc mục tiêu bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị di sản văn hoá tiêu biểu, bao gồm cả sưu tầm, bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá phi vật thể tại địa phương chưa được triển khai thực hiện mạnh mẽ. Việc triển khai thực hiện các mục tiêu có những hạn chế nhất định. Hiện nay, còn có nhiều di tích lịch sử văn hoá xuống cấp nặng nhưng chưa được trùng tu sửa chữa kịp thời. Trong mục tiêu đưa văn hoá thông tin về cơ sở thì dự án xây dựng hệ thống thiết chế văn hoá ở làng, bản, xã, phường, việc tập trung xây dựng hệ thống thiết chế văn hoá thôn là hiệu quả nhất nhưng mức đầu tư hạn chế nên hiệu quả chưa cao. XII. CÁC CHƯƠNG TRÌNH, DỰ ÁN CỦA CÁC TỔ CHỨC NƯỚC NGOÀI
  27. Nguồn vốn ODA và vốn của các tổ chức phi Chính phủ (NGO) đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nói chung và khu vực miền núi nói riêng. 12.1. Nội dung các chương trình, dự án Đối với các dự án sử dụng vốn ODA: Trong thời gian qua, toàn tỉnh có 24 dự án ODA, đầu tư trên các lĩnh vực như: Xây dựng CSHT nông thôn; các tuyến giao thông; Cải thiện Môi trường đô thị; Thủy lợi; hỗ trợ Giáo dục; Năng lượng nông thôn, Phòng chống thiên tai. Đối với các dự án NGO: Trên địa bàn tỉnh có 19 Tổ chức phi Chính phủ hoạt động với 45 chương trình, dự án. Các chương trình, dự án chủ yếu tập trung vào một số lĩnh vực như: Phát triển nông nghiệp, nông thôn, xoá đói giảm nghèo, y tế, chăm sóc sức khỏe cộng đồng, giáo dục đào tạo, nâng cao năng lực và viện trợ khẩn cấp. Chương trình, dự án đều phát huy hiệu quả, phù hợp các định hướng ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, nhiều mô hình được thử nghiệm thành công, có tác dụng tích cực trong giảm nghèo và phát triển kinh tế như các mô hình về phòng tránh thiên tai, phát triển kinh tế hộ gia đình. 12.2. Đánh giá tình hình thực hiện Những kết quả đạt được: Công tác công tác xúc tiến, kêu gọi, tiếp nhận viện trợ từ nguồn vốn ODA và vốn từ các Tổ chức Phi Chính phủ được thực hiện tốt nên việc thu hút các nguồn vốn này đạt được những kết quả tốt. Bên cạnh các dự án với quy mô vốn lớn được triển khai lâu dài như các Dự án: Nước sạch và Vệ sinh môi trường; Hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội (Plan); Giảm nhẹ tính dễ tổn thương do bão lũ gây ra (Tổ chức Tầm nhìn Thế giới); tỉnh đã kêu gọi một số tổ chức Phi Chính phủ tiếp tục tài trợ nhiều dự án có quy mô nhỏ như các dự án: Hỗ trợ chăm sóc mắt trẻ em (Tổ chức Fred Hollows Foundation); Xây dựng nhà hiệu bộ (Tổ chức Madison); Hỗ trợ xây dựng nhà tình thương cho nạn nhân chất độc da cam, cựu chiến binh nghèo, phụ nữ nghèo. Việc có định hướng đầu tư theo ngành và khu vực tốt cùng với những chính sách xúc tiến hợp lý và phù hợp với điều kiện, định hướng phát triển kinh tế - xã hội đã góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thu hút. Các chương trình, dự án ODA và các tổ chức Phi Chính phủ đã đóng góp kinh phí, tình cảm, trách nhiệm của các tổ chức dành cho tỉnh là rất lớn; góp phần nâng cao số lượng chương trình, dự án, nguồn vốn cho đầu tư phát triển và tích lũy, học tập kinh nghiệm quản lý tiến bộ. Những tồn tại, hạn chế: Tốc độ giải ngân và tiến độ thực hiện của đa số các dự án đều bị chậm (đặc biệt là trong năm 2007-2008) do những biến động về giá vật liệu, điều chỉnh dự toán đầu tư, các thủ tục đấu thầu theo yêu cầu của nhà tài trợ và năng lực vốn đối ứng hạn chế đã ảnh hưởng rất lớn đến tiến độ thực hiện. Tồn tại nhiều khó khăn, vướng mắc chậm được tháo gỡ, như: Công tác đền bù giải phóng mặt bằng, đặc biệt là Dự án RE II, Dự án Cải thiện môi trường; Một số định mức chi phí thấp so với thực tế nhưng chậm được điều chỉnh làm ảnh hưởng đến triển khai và tiến độ thực hiện; Một số quy định có sự khác biệt giữa Nhà tài trợ và Nhà nước Việt Nam, như quy định về đấu thầu, về đền bù giải phóng mặt bằng, về biểu mẫu báo cáo; một số công việc phải chờ ý kiến của Nhà tài trợ, mất nhiều thời gian cũng làm chậm tiến độ thực hiện.
  28. XIII. ĐÁNH GIÁ TỔNG HỢP Qua phân tích tình hình thực hiện mỗi chính sách, chương trình, dự án đều cho thấy có những kết quả đạt được và tồn tại, hạn chế riêng. Phân nhóm theo từng vấn đề để có thể đánh giá tổng quát về những ưu điểm, tồn tại hạn chế trong việc ban hành và thực hiện như sau: 13.1. Về chính sách, kế hoạch đầu tư - Ưu điểm: Đảng và Nhà nước đã có sự quan tâm, đầu tư đặc biệt để phát triển kinh tế - xã hội miền núi. Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã có rất nhiều chủ trương, chính sách đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội miền núi. Hiện nay, có khoảng 200 văn bản chính sách dân tộc từ quy phạm pháp luật đến công tác hướng dẫn được ban hành. Nhiều chính sách, chương trình lớn như: Chương trình 135, 134, 661 đã huy động hàng nghìn tỷ đồng đầu tư cho các xã ĐBKK, vùng đồng bào Dân tộc thiểu số nghèo miền núi, đã góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn miền núi của tỉnh. Đời sống vật chất, văn hóa - tinh thần của đồng bào miền núi từng bước được cải thiện. Khởi đầu trong chuỗi đầu tư của giai đoạn 2000-2010 là Chương trình 135-I, Chương trình có vai trò tạo nền tảng cho sự phát triển, đã góp phần quan trọng làm thay đổi rất cơ bản bộ mặt nông thôn miền núi. Các chính sách, chương trình, dự án đã góp phần giảm tỷ lệ đói nghèo của khu vực miền núi của tỉnh từ 65,88% năm 2006 xuống còn 35,23% vào năm 2010 (theo chuẩn mới). - Tồn tại, hạn chế: Có quá nhiều chính sách riêng lẻ trong cùng một thời gian diễn ra trên cùng địa bàn đầu tư. Một số chính sách với nhiều quy định chưa phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội miền núi, tập tục sinh hoạt, sản xuất của đồng bào và năng lực quản lý ở cấp cơ sở. Việc hoạch định chiến lược, lộ trình đầu tư còn hạn chế; thời gian triển khai các chính sách, chương trình, dự án và bố trí vốn còn chậm. Theo thường lệ, thời gian chu kỳ đầu tư của chính sách, chương trình, dự án thường là 5 năm. Tuy nhiên, có rất nhiều chính sách, chương trình, dự án được ban hành từ năm thứ 2, thứ 3 trong chu kỳ và việc triển khai thực hiện đến cơ sở thường phải mất một thời gian dài; cộng với việc phân bổ ngân sách hàng năm chậm đã ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện, hạn chế thực hiện đầu tư đồng bộ nên khó có thể hoàn thành các mục tiêu. 13.2. Về công tác tổ chức thực hiện - Ưu điểm: Từ Trung ương đến tỉnh, huyện và cơ sở đã xác định việc triển khai thực hiện các chính sách, chương trình, dự án là nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị. - Tồn tại, hạn chế: Công tác điều tra, khảo sát còn nhiều thiếu sót, dẫn đến chất lượng dự án đầu tư còn hạn chế. Công tác xác định đối tượng đầu tư còn nhiều bất cập. Việc khảo sát nhu cầu đầu tư theo nguyên tắc công khai dân chủ, tuân thủ quy trình trong phân định khu vực ở một số địa phương chưa được thực hiện. Thực hiện chưa đồng bộ các nhiệm vụ của Chương trình. Một số địa phương nặng về đầu
  29. tư xây dựng CSHT, chưa gắn việc đầu tư xây dựng công trình với quy hoạch, bố trí dân cư, nhiệm vụ phát triển sản xuất; các nhiệm vụ khác chưa được quan tâm đúng mức, thể hiện trong tổng số vốn Chương trình đã đầu tư cho các xã ĐBKK của tỉnh. Dự án Phát triển sản xuất thực hiện còn dàn trãi, nội dung chưa phù hợp với điều kiện của từng vùng đầu tư. Cơ chế, giải pháp lồng ghép các nguồn vốn chưa được thực hiện tốt. Hiện tại, sự lồng ghép các nguồn vốn trên từng địa bàn tuy được vận dụng nhưng chỉ mang tính nhỏ lẻ, còn vướng khá nhiều về cơ chế, chính sách và thiếu một hành lang pháp lý thống nhất trong quản lý các chương trình, dự án. Việc triển khai thực hiện chính sách có lúc, có nơi thực hiện chưa kịp thời. Khoảng thời gian từ ngày chính sách, chương trình, dự án ban hành ở Trung ương đến địa phương triển khai và chờ vốn bố trí là một quá trình dài về thủ tục hành chính và bố trí ngân sách. Vì vậy, việc triển khai ở nhiều nơi còn chậm. Nguồn nhân lực và năng lực thực hiện chưa được củng cố trước một bước để đảm bảo việc thực hiện một cách hiệu quả. Chủ trương đẩy mạnh việc phân cấp là đúng đắng, nhưng với nguồn nhân lực hạn chế ở cơ sở, đặc biệt là nguồn nhân lực quản lý nhà nước tại miền núi nên đã ảnh hưởng nhiều đến tổ chức thực hiện. 13.3. Về công tác quản lý, kiểm tra, giám sát - Ưu điểm: Ban chỉ đạo các chương trình thực hiện thường xuyên các nhiệm vụ trong quy chế hoạt động. Ban chỉ đạo Chương trình các cấp trong tỉnh và các Sở, ngành liên quan đã chú trọng dành nhiều thời gian cho công tác quản lý, đôn đốc, kiểm tra việc triển khai thực hiện ở các cấp. Việc phân cấp quản lý bước đầu có hiệu quả. Từng bước phân cấp cho cấp xã làm chủ đầu tư các dự án hỗ trợ phát triển sản xuất và các công trình CSHT có quy mô nhỏ, kết cấu kỹ thuật đơn giản đã nâng cao kiến thức quản lý đầu tư và kỹ năng điều hành cho cán bộ, công chức cấp xã và thôn; đồng thời đã gắn trách nhiệm của UBND cấp xã trong việc quản lý, khai thác và sử dụng có hiệu quả những công trình CSHT đã được đầu tư. Quy chế dân chủ triển khai ngày càng tốt. Công tác kiểm tra, giám sát, hướng dẫn và đánh giá tình hình triển khai thực hiện chương trình được chú trọng. - Tồn tại, hạn chế: Công tác quản lý các chương trình, dự án chưa được tập trung. Một cơ quan là thành viên của quá nhiều chương trình, nên việc theo dõi, tham gia góp ý cho các kế hoạch đầu tư và quản lý, giám sát, kiểm tra rất hạn chế; sự phối hợp giữa Ban chỉ đạo chương trình của tỉnh và các Sở, ngành liên quan chưa được chặt chẽ, chưa đồng bộ. Công tác tuyên truyền phổ biến mục tiêu, ý nghĩa, nguyên tắc của chương trình chưa được các địa phương quan tâm đúng mức. Nhiệm vụ giám sát quá trình tổ chức thực hiện công trình của các địa phương thiếu chặt chẽ, kém hiệu lực. Công tác đánh giá kết quả còn nặng về số lượng, chưa xem xét cụ thể yếu tố tác động và hiệu quả sử dụng. Về năng lực quản lý đầu tư ở cấp huyện, xã còn hạn chế. Việc lựa chọn nhà thầu ở nhiều địa phương chưa được chú trọng. Chưa
  30. chọn được nhà thầu có đủ năng lực. Về công tác quản lý vận hành, duy tu bảo dưỡng công trình còn nhiều bất câp. Ngân sách bố trí cho duy tu, bảo dưỡng rất hạn chế; cơ chế quản lý, khai thác công trình chưa được thực hiện tốt. 13.4. Về sự tham gia của cộng đồng dân cư - Ưu điểm: Tạo được cơ hội cho người dân tiếp cận được với nhiều công việc khác nhau, lao động có tổ chức, quan hệ lao động làm công ăn lương được hình thành. Bên cạnh công việc sản xuất, canh tác truyền thống, nay người dân miền núi đã có nhiều công việc mới như: Phụ hồ, mộc, khai thác nguyên vật liệu, biết tiếp cận với các hình thức giao thương mới, đặc biệt đã thực sự sống và gắng bó với rừng qua việc tham gia quản lý và trồng rừng, phát triển sản xuất, góp phần xoá đói giảm nghèo, ổn định đời sống, bảo đảm quốc phòng, an ninh. - Tồn tại, hạn chế: Chưa thực hiện đầy đủ các nguyên tắc quản lý của Chương trình. Nguyên tắc “xã có công trình, dân có việc làm, tăng thêm thu nhập từ việc tham gia lao động công trình tại xã” kết quả còn rất hạn chế. Tỷ lệ người dân tham gia khai thác vật liệu xây dựng tại chỗ, trực tiếp xây dựng công trình để tăng thêm thu nhập là rất thấp. Cơ hội tiếp cận và thực hiện công việc của người dân địa phương là rất hạn chế. Cơ chế dân chủ nhiều nơi còn hạn chế trong triển khai thực hiện. Tiêu chí: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” chưa được thực hiện tốt. 13.5. Về tính bền vững của chương trình, dự án - Ưu điểm: Nhìn chung, các chính sách, chương trình, dự án đã được triển khai đạt những kết quả đáng ghi nhận trong việc nâng cao chất lượng các lĩnh vực, vấn đề đầu tư, góp phần nâng cao chất lượng hệ thống CSHT miền núi, tạo đòn bẩy cho phát triển; đã góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn miền núi của tỉnh. - Tồn tại, hạn chế: Tính bền vững của nhiều chương trình chưa cao. Nhiều chương trình chỉ phát huy hiệu quả trong khoảng thời gian thực hiện chương trình. Sau khi kết thúc chương trình, tính ổn định, phát huy không được giữ vững, khả năng tái tạo lại trạng thái ban đầu như trước khi triển khai chương trình là cao. Tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện miền núi của tỉnh còn cao (mức 35,23% năm 2010) và khả năng thoát nghèo bền vững là rất thấp. Qua đánh giá về tình hình thực hiện một số chính sách, chương trình, dự án nêu trên, chúng ta có thể thấy được những vấn đề liên quan đến các lĩnh vực từ hoạch định chính sách; xác định chương trình, dự án đến tổ chức quản lý, thực hiện, sự tham gia của cộng đồng ; thấy được những ưu điểm, tồn tại, hạn chế. Từ đó có cơ sở để xây dựng các giải pháp thích hợp, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội khu vực miền núi của tỉnh trong thời gian đến. Chương 3. CÁC GIẢI PHÁP GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
  31. CÁC HUYỆN MIỀN NÚI TỈNH QUẢNG NGÃI I. PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CÁC HUYỆN MIỀN NÚI TỈNH QUẢNG NGÃI ĐẾN NĂM 2015 Nghị quyết Đại hội XVIII tỉnh Đảng bộ đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn từ nay đến năm 2015 đối với vùng miền núi: “Tiếp tục chỉ đạo thực hiện chặt chẽ, có hiệu quả Nghị quyết 30a của Chính phủ gắn với Chương trình nông thôn mới và các chương trình mục tiêu khác nhằm đạt mục tiêu giảm nghèo nhanh và bền vững, từng bước thu hẹp sự chếnh lệch về sản xuất và đời sống giữa các vùng. Hình thành cơ cấu kinh tế phù hợp; chú trọng phát triển lâm nghiệp, kết hợp kinh tế vườn rừng gắn với chăn nuôi; thực hiện tốt việc giao đất, giao rừng cho các tổ chức, cá nhân để trồng rừng và bảo vệ rừng, chú trọng rừng đầu nguồn. Khai thác hợp lý có hiệu quả tiềm năng thủy điện, khoáng sản; đồng thời khuyến khích phát triển các loại hình dịch vụ. Tiếp tục đầu tư xây dựng các thị trấn, củng cố các trung tâm cụm xã. Tăng cường xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; phát triển giáo dục, đào tạo đáp ứng yêu cầu nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực; phát triển văn hóa, thực hiện tốt các chính sách xã hội, bảo đảm an sinh xã hội đối với đồng bào miền núi; giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo đảm quốc phòng – an ninh”. Xuất phát từ những nhiệm vụ chung và căn cứ tình hình thực tế tại địa phương, có thể xác định một số nhiệm vụ chủ yếu để phát triển kinh tế - xã hội miền núi như sau: - Phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo vệ môi trường sinh thái + Phát triển Nông – Lâm - Ngư nghiệp: Phát triển Nông - Lâm - Ngư nghiệp giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với các huyện miền núi. Nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn mới là thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh giá trị sản xuất lâm nghiệp và chăn nuôi trên cơ sở phát huy các lợi thế về đất đai, tài nguyên rừng. Đẩy mạnh công tác khuyến lâm, khuyến nông, phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại. + Phát triển Công nghiệp và Tiểu thủ công nghiệp: Ưu tiên phát triển các ngành nghề sử dụng nguồn nguyên vật liệu sẵn có tại chỗ và thu hút nhiều lao động tại địa phương; từng bước thí điểm hình thành và phát triển các Cụm công nghiệp gắn với Làng nghề ở các huyện có điều kiện nhằm thu hút các nhà đầu tư vào các Cụm công nghiệp. Chú trọng phát triển các cơ sở sản xuất các mặt hàng cơ khí thủ công tại các trung tâm xã và trung tâm cụm xã đáp ứng nhu cầu tại chỗ cho người dân trong vùng. + Phát triển Thương mại - Dịch vụ - Du lịch: Khuyến khích việc xã hội hoá thực hiện các chính sách thương mại ưu đãi như tiêu thụ hàng hoá nông, lâm sản và cung ứng các hàng hoá thiết yếu cho nhân dân. Đồng thời duy trì, củng cố một số doanh nghiệp hoạt động công ích thiết thực và hiệu quả. Phát triển các dịch vụ tài chính, tín dụng, bưu điện, vận tải, sửa chữa ô tô, xe máy, điện - điện tử, chợ, dịch vụ ăn uống giải khát. Bước đầu hình thành và phát triển các loại hình du lịch như du lịch sinh thái, tham
  32. quan di tích lịch sử + Phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội: Tiếp tục đầu tư từ nhiều nguồn vốn, ưu tiên nguồn vốn ngân sách Nhà nước để hoàn thiện, xây dựng mới các công trình lớn, công trình quan trọng; đồng thời huy động các nguồn vốn từ doanh nghiệp, các thành phần kinh tế khác để xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, đảm bảo sự liên kết với hạ tầng kinh tế - xã hội toàn tỉnh. Chú ý đầu tư các công trình giao thông, thuỷ lợi, thuỷ điện, nước sinh hoạt, điện, trường học, trạm y tế, bưu điện nhằm phục vụ đời sống và sản xuất cho nhân dân. + Bảo vệ môi trường sinh thái: Phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo vệ môi trường và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên. Tăng cường các biện pháp cấp bách và lâu dài nhằm thực hiện tốt công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng; chủ động phòng chống thiên tai bão, lụt, sạt lở đất. - Phát triển văn hoá-xã hội, thực hiện tốt các chính sách đối với miền núi Phát triển trường lớp, nhất là hệ thống trường mẫu giáo, trung học cơ sở và bán trú dân nuôi, nhằm bảo đảm cho học sinh theo học các cấp học phổ thông ngay tại địa phương. Thực hiện tốt công tác huy động trẻ em đến trường. Tập trung đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ, công chức các huyện, xã, thị trấn miền núi. Ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ giáo viên, bác sĩ Thực hiện tốt chính sách ưu tiên, cử tuyển dành cho con em người dân tộc vào học các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Nâng cao cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân trong vùng. Sưu tầm, bảo tồn và phát triển văn hóa của các dân tộc trong vùng. Đẩy mạnh và củng cố các hoạt động thể dục - thể thao, văn hóa, văn nghệ truyền thống; đầu tư xây dựng và nâng cấp các công trình văn hóa, di tích lịch sử. Quy hoạch dân cư gắn với điều kiện sản xuất và phát triển văn hoá - xã hội, phù hợp với phong tục tập quán của địa phương. Đẩy mạnh chương trình giảm nghèo gắn với việc thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, các chương trình mục tiêu quốc gia của Chính phủ. - Bảo đảm quốc phòng – an ninh: Xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nâng cao chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu của lực lượng vũ trang. Tiếp tục triển khai nhiệm vụ xây dựng cơ sở xã, thị trấn vững mạnh toàn diện và vững mạnh về quốc phòng - an ninh II. CÁC GIẢI PHÁP GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CÁC HUYỆN MIỀN NÚI TỈNH QUẢNG NGÃI Kết quả nghiên cứu về các vấn đề nêu trên là cơ sở chủ yếu cho việc đề xuất các giải pháp góp phần phát triển kinh tế - xã hội miền núi. Dưới đây, xin trình bày các nhóm giải pháp chủ yếu đó. 2.1. NHÓM GIẢI PHÁP HOẠCH ĐỊNH ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN ĐỒNG BỘ VÙNG MIỀN NÚI Hoạch định ở đây được hiểu là việc tổ chức quy hoạch và xác định
  33. phương án đầu tư để đạt được mục tiêu trong tương lai. Kết quả của hoạch định là kế hoạch, một văn bản được ghi chép rõ ràng và xác định những hành động cụ thể mà một tổ chức phải thực hiện. 2.1.1. Căn cứ thực hiện Giải pháp hoạch định đầu tư phát triển đồng bộ mà đề tài đề xuất dựa trên cơ sở phương hướng , nhiệm vụ phát triển của khu vực miền núi trong giai đoạn 2011-2015; căn cứ vào các nguồn lực của tỉnh và môi trường tác động bên ngoài, các yếu tố nội lực bên trong để tổ chức thực hiện tốt hơn việc quy hoạch và xác định phương án đầu tư phát triển đồng bộ kinh tế - xã hội các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi. Trên cơ sở Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh giai đoạn 2011-2020, tầm nhìn đến 2025; Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ XVIII; Tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 07/12/2006 của Tỉnh ủy về Phát triển kinh tế - xã hội các huyện miền núi của tỉnh giai đoạn 2006- 2010, xây dựng Nghị quyết chuyên đề về phát triển kinh tế - xã hội miền núi giai đoạn 2011-2015 và định hướng đến 2020. Nghiên cứu đánh giá thực trạng điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội các huyện miền núi; đánh giá kết quả thực hiện các chương trình, dự án, chính sách đầu tư phát triển miền núi. 2.1.2. Tổ chức quy hoạch đồng bộ, có chất lượng Giải pháp quy hoạch đồng bộ nhằm xác định một lộ trình đầu tư để phát huy các chính sách, chương trình, dự án tại các huyện miền núi. Tiếp tục hoàn thiện, đổi mới, nâng cao chất lượng quy hoạch, đảm bảo sự phù hợp và tính liên kết giữa quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và các quy hoạch phát triển ngành, vùng, lĩnh vực. Trên cơ sở Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đến năm 2020, tiến hành Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội các huyện đến năm 2020. Các ngành, các huyện, thành phố tiếp tục rà soát lại quy hoạch của ngành, huyện, thành phố để điều chỉnh cho phù hợp, nâng cao chất lượng quy hoạch, tạo niềm tin có cơ sở khoa học về chất lượng quy hoạch để quản lý nghiêm túc trong việc thực hiện quy hoạch. Trên cơ sở quy hoạch của từng huyện miền núi, quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, tỉnh tổng hợp tất cả các nhu cầu cần đầu tư của các huyện miền núi, ngành để xây dựng kế hoạch về phát triển kinh tế - xã hội cho các huyện miền núi, xây dựng một lộ trình cần đầu tư theo từng chương trình, dự án cho từng năm và cả giai đoạn, tránh tình trạng đầu tư dàn trải và trùng lắp, thiếu tập trung. Trong quá trình tổng hợp phải có sự chọn lọc, phù hợp với nhu cầu của mỗi địa phương, phù hợp với từng giai đoạn phát triển. Tạo ra sự minh bạch trong quá trình đầu tư của các chương trình, dự án. Trong xây dựng quy hoạch kinh tế - xã hội, quy hoạch cấu hạ tầng, quy hoạch phát triển ngành, vùng, lĩnh vực, cần phải có sự kết hợp khoa học, đồng bộ từ cấp xã đến cấp huyện, tỉnh. Tạo sự thống nhất chung và sự hỗ trợ cho từng lĩnh vực. Để đạt hiệu quả cao, tỉnh cần phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành liên quan trong việc triển khai lập, thẩm định quy hoạch, đảm bảo sự phù hợp và tính liên kết với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng, quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực. Cần có sự tham gia của các chuyên gia, tư vấn, phản biện của các nhà khoa học, Hội đoàn thể và tranh thủ ý kiến đóng góp của người dân, tạo sự đồng thuận cao trong cộng đồng, trong quá trình xây dựng và thực hiện quy hoạch.
  34. 2.1.3. Xác định phương án đầu tư + Phát triển kết cấu hạ tầng Về Giao thông: Đồng thời với việc củng cố xây dựng trục Chân Mây - Đà Nẵng - Dung Quất liên kết Quảng Ngãi với các tỉnh ven biển Trung bộ tạo đột phá chính theo hướng phát triển kinh tế biển cần đẩy nhanh tốc độ phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hệ thống đường trục nối miền núi của tỉnh với các trung tâm đô thị thuộc vùng đồng bằng và ven biển. Xây dựng tuyến Đông Trường Sơn đi phía Tây các huyện miền núi, tuyến Trà Phong - Trà Ka - Bắc Trà My. Đầu tư xây dựng tuyến đường Sơn Hà - Minh Long sau 2015. Về đường ngang: Xây dựng tuyến Dung Quất - Trà Bồng - Trà My nối với đường Hồ Chí Minh; nâng cấp giai đoạn II các tuyến đường Quảng Ngãi - Trà Bồng - Tây Trà, Quảng Ngãi - Sơn Hà - Sơn Tây. Bảo đảm giao thông thông suốt bốn mùa tới hầu hết các xã và cơ bản có đường ô tô tới các thôn, bản. Về Thủy lợi: Phát triển hệ thống thủy lợi đảm bảo tưới tiêu chủ động cho toàn bộ diện tích đất lúa hai vụ, mở rộng diện tích tưới cho rau, màu, cây công nghiệp. Hoàn thành việc xây dựng hồ chứa nước Nước Trong, hồ Làng Re, đập Nước Râng, Nước Lùng, hồ Sơn Hải, hồ Tui Dum, hồ chứa nước Vực Thành, hồ chứa nước Suối Loa, hồ chứa nước Xô Lô. Xây dựng một số công trình quy mô vừa và nhỏ phục vụ định canh định cư và xây dựng các vùng kinh tế mới như Nước Nhiên, Hồ Kép, Long Mai ở Minh Long; đập Đồng Rồng, Nước Ren, Trà Nô, hồ Nề Hà, hồ Ba Chất, hồ Suối Loa ở Ba Tơ. Về Cấp nước: Cung cấp nước sạch cho miền núi, trước hết là giải quyết nước sạch cho các trung tâm huyện miền núi, các Trung tâm cụm xã và tới năm 2015 khoảng 60 - 65% số dân được dùng nước sinh hoạt từ các công trình xây dựng kiên cố. Về Cấp điện: Nâng cấp thuỷ điện Cà Đú; xây dựng các thủy điện: DakRinh, Dakre, sông Liên, Pà Ê - Nước Long, Tam Rao - Tầm Linh, sông Tang, Hà Nang, Nước Trong vừa cung cấp điện cho các huyện miền núi vừa bổ sung nguồn cấp nước cho sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, cắt lũ vùng hạ lưu của tỉnh. + Hình thành các đô thị và hành lang kinh tế - kỹ thuật miền núi Quy hoạch nâng cấp các thị trấn Ba Tơ, Trà Bồng, Di Lăng cơ bản đạt các tiêu chí đô thị loại IV trước năm 2020; hình thành các trung tâm thị trấn mới tại các huyện lỵ Minh Long, Sơn Tây, Tây Trà (đô thị loại V) và các thị tứ ở Ba Động, Ba Vì gắn với việc hình thành các cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp. Trên địa bàn miền núi tập trung đầu tư phát triển đô thị Sơn Hà theo hướng hiện đại hoá kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hệ thống hạ tầng xã hội như giáo dục - đào tạo, y tế, nghiên cứu khoa học mang ý nghĩa vùng để đảm nhận chức năng đô thị đầu mối giao lưu giữa các huyện miền núi của tỉnh Quảng Ngãi. Quy hoạch phát triển hệ thống hành lang kinh tế - kỹ thuật miền núi liên kết với các tuyến hành lang kinh tế Quốc lộ 1A, hành lang kinh tế ven biển Dung Quất - Sa Huỳnh tạo hệ thống hành lang liên kết chặt chẽ, tương hỗ tạo
  35. nên sức mạnh tổng hợp và phát triển bền vững kinh tế toàn tỉnh bao gồm: + Các tuyến Đông - Tây: Tuyến hành lang kinh tế dọc Quốc lộ 24 từ Phổ An đi Thạch Trụ - Phổ Phong đến Ba Tơ - Kon Tum - Bờ Y - Ngọc Hồi chiều dài qua Quảng Ngãi 72 km. Tuyến hành lang kinh tế Trà My - Trà Bồng - Dung Quất (đoạn qua Quảng Ngãi dài 77 km, từ Bình Long đến Dung Quất nối KKT Dung Quất với các huyện phía tây Quảng Nam, Quảng Ngãi và Nam Lào, Đông bắc Campuchia, Thái Lan. Hành lang kinh tế dọc tuyến Sa Kỳ - TP. Quảng Ngãi - Sơn Hà - Sơn Tây - Đắc Tô. + Các tuyến Bắc - Nam: Hành lang kinh tế dọc tuyến Trà Thanh - Trà Phong - Di Lăng - Ba Ngạc - Ba Tiêu - Quốc lộ 24. Hành lang kinh tế dọc tuyến Trà Bình - Ba Gia - Tư Nghĩa - Nghĩa Hành - Minh Long - Ba Điền - Quốc lộ 24. + Phát triển các ngành và lĩnh vực - Nông, lâm, ngư nghiệp Đẩy mạnh công tác khuyến nông, khuyến lâm, khẩn trương giao đất, giao rừng phát triển kinh tế hộ, kinh tế trang trại để bảo vệ rừng và phát triển rừng kinh tế, nhất là rừng nguyên liệu. Thâm canh tăng năng suất cây lúa nước, đồng thời khai hoang, mở rộng diện tích lúa ở những nơi có điều kiện, phát triển cây ngô, phát triển mạnh chăn nuôi, đặc biệt là chăn nuôi đại gia súc. - Công nghiệp và Tiểu thủ công nghiệp Đầu tư phát triển các ngành nghề có nguồn nguyên vật liệu sẵn có tại chỗ và thu hút nhiều lao động như chế biến nông sản, nguyên vật liệu xây dựng, ngành nghề tiểu thủ công nghiệp như mây tre đan, dệt thổ cẩm. Xây dựng và phát triển các cụm, điểm công nghiệp, làng nghề ở các huyện. - Thương mại dịch vụ Nâng cấp các cửa hàng thương mại miền núi để cung ứng các mặt hàng thiết yếu và dự trữ hàng hoá. Phát triển các dịch vụ công cộng và dịch vụ sản xuất như: tín dụng; bưu chính; vận tải; sửa chữa ô tô, xe máy, điện - điện tử và dịch vụ ăn uống giải khát. Phát triển hệ thống chợ, đặc biệt là chợ ở trung tâm các huyện làm hạt nhân phát triển các chợ ở trung tâm xã, cụm xã. - Phát triển nguồn nhân lực Ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho các huyện, xã, thị trấn miền núi. Tập trung đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ nhận thức, năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức ở các huyện, xã, thị trấn miền núi. Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ, đặc biệt là người thiểu số. - Phát triển văn hóa - xã hội: Sưu tầm, bảo tồn và phát triển đa dạng hóa nền văn hóa của các dân tộc trong vùng, hướng các lễ hội truyền thống của các dân tộc vào các hoạt động lành mạnh, phong phú đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân. Đầu tư xây dựng hệ thống phát thanh truyền hình trên địa bàn 63 xã thuộc 6 huyện miền núi, hệ thống thu phát hình ở 14 trung tâm cụm xã. - Định canh định cư và xóa đói giảm nghèo Đầu tư phát triển sản xuất và nâng cao mức sống cho trên 7.700 hộ định canh định cư còn yếu. Tiếp tục hỗ trợ đầu tư định canh định cư cho trên 3.600 hộ chưa thực hiện công tác định canh định cư và những hộ tái định canh định cư