Luận văn Biên soạn bộ câu hỏi trắc nghiệm khách quan môn Công nghệ 8 theo chuẩn kiến thức cho các trường Trung học cơ sở trên địa bàn Thị xã Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương (Phần 1)
Bạn đang xem tài liệu "Luận văn Biên soạn bộ câu hỏi trắc nghiệm khách quan môn Công nghệ 8 theo chuẩn kiến thức cho các trường Trung học cơ sở trên địa bàn Thị xã Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương (Phần 1)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
luan_van_bien_soan_bo_cau_hoi_trac_nghiem_khach_quan_mon_con.pdf
Nội dung text: Luận văn Biên soạn bộ câu hỏi trắc nghiệm khách quan môn Công nghệ 8 theo chuẩn kiến thức cho các trường Trung học cơ sở trên địa bàn Thị xã Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương (Phần 1)
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐẶNG MINH HỒNG BIÊN SOẠN BỘ CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUANMÔN CÔNG NGHỆ 8 THEO TIÊU CHUẨN KIẾN THỨC CHO CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞS K C 0 0 TRÊN0 2 8 1 ĐỊA BÀN THỊ XÃ THỦ DẦU MỘT TỈNH BÌNH DƯƠNG NGÀNH: LL&PPGDMKT - 601410 S K C 0 0 3 7 7 5 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, 2012
- BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐẶNG MINH HỒNG BIÊN SOẠN BỘ CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN MÔN CÔNG NGHỆ 8 THEO TIÊU CHUẨN KIẾN THỨC CHO CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ THỦ DẦU MỘT TỈNH BÌNH DƯƠNG NGÀNH: LL&PPGDMKT - 601410 Hướng dẫn khoa học: TS. VÕ THỊ NGỌC LAN Tp.Hồ Chí Minh, 2012
- 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Hiện nay đất nước ta đang trên đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. Đảng và Nhà nước ta luôn coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Mục tiêu của giáo dục là hình thành và phát triển nhân cách con người, trên cơ sở đó, phát triển giáo dục nhằm thực hiện nhiệm vụ nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới, nước ta đã thực hiện nhiều lần cải cách giáo dục vào năm 1950, 1956, 1980 và lần cải cách giáo dục gần đây nhất là vào năm 2000. Nghị quyết số 40/2000/QH10 ngày 09 tháng 12 năm 2000 của Quốc hội khóa X đã khẳng định mục tiêu của đổi mới chương trình giáo dục phổ thông là: “ Xây dựng nội dung chương trình, phương pháp giáo dục, sách giáo khoa phổ thông mới nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phù hợp với thực tiễn và truyền thống Việt Nam, tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông ở các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới”. Điều 29, luật giáo dục 2005 xác định: “Chương trình giáo dục phổ thông thể hiện mục tiêu giáo dục phổ thông; quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng, phạm vi và cấu trúc nội dung giáo dục phổ thông, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động giáo dục, cách thức đánh giá kết quả giáo dục đối với các môn học ở mỗi lớp và mỗi cấp học của giáo dục phổ thông”. Như vậy, chuẩn KT, KN là một bộ phận của chương trình giáo dục phổ thông. Trong dạy học, việc kiểm tra theo chuẩn KT, KN sẽ góp phần thiết thực để thực hiện chương trình giáo dục phổ thông. Ngày 5/5/2006, Bộ GD-ĐT đã ký quyết định số 16/2006/QĐ – BGDĐT về việc ban hành chương trình giáo dục phổ thông. Chương trình giáo dục phổ thông là một kế hoạch sư phạm gồm: Mục tiêu giáo dục; phạm vi và cấu trúc nội dung giáo dục; chuẩn kiến thức, kỹ năng và yêu cầu về thái độ của từng môn học, cấp học; phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục; đánh giá kết quả giáo dục từng môn học ở mỗi lớp, cấp học. 1
- Theo chỉ thị số 3398/CT – BGDĐT ngày 12/08/2011 của Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo về nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên và giáo dục chuyên nghiệp năm học 2011-2012, trong đó, giáo dục phổ thông: Điều chỉnh nội dung dạy học theo hướng giảm tải, tiếp tục đổi mới phương pháp giảng dạy, phương pháp giáo dục, phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá theo chuẩn kiến thức, kỹ năng của chương trình giáo dục phổ thông. Để làm rõ những yêu cầu về KT, KN trong chương trình giáo dục phổ thông, Bộ đã ban hành bộ tài liệu hướng dẫn thực hiện chuẩn KT, KN các môn học. Ta có thể thấy việc dạy học và kiểm tra đánh giá theo chuẩn KT, KN là một trong những điểm mới rõ rệt và có ý nghĩa nhất trong đổi mới chương trình giáo dục phổ thông lần này. Nó sẽ tạo nên sự thống nhất trong cả nước, góp phần khắc phục tình trạng quá tải trong giảng dạy. Như ta đã biết, kiểm tra và đánh giá kết quả học tập của HS là khâu rất quan trọng, là một bộ phận hữu cơ của QTDH. Đánh giá có 3 chức năng cơ bản là: dự đoán, điều chỉnh và xác nhận. Việc cải tiến và đa dạng hóa các hình thức kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS đang là vấn đề thời sự. Tuy nhiên, dạy học và kiểm tra đánh giá theo chuẩn KT, KN là một công việc hoàn toàn mới mẻ và khó khăn đối với giáo viên phổ thông. Yêu cầu đối với kết quả kiểm tra đánh giá - với tư cách là một phép đo lường trong giáo dục – là đo được cái cần đo, tức là phản ánh đúng giá trị của đối tượng được đo. Muốn vậy, phép đo phải được thực hiện một cách khách quan. Hay cụ thể là cần phải khách quan hóa về cho điểm. TNKQ là phương pháp khoa học nhất, đáp ứng được yêu cầu của phép đo. Đề trắc nghiệm khách quan thường phủ kín toàn bộ nội dung môn học qua từng bài, từng chương, tránh dạy tủ, học tủ. Đồng thời đối với bài kiểm tra trắc nghiệm khách quan, việc chấm và cho điểm tương đối khách quan, công bằng và chính xác. Ở Việt Nam thì hình thức này đã được áp dụng từ những năm 60 nhưng chỉ ở một số ít trường. Trong chương trình THCS thì việc sử dụng các hình thức TNKQ trong kiểm tra, đánh giá cũng rất cần thiết để kiểm tra đúng thực chất năng lực của từng HS. 2
- Môn Công Nghệ lớp 8 là môn học thể hiện rõ sự liên thông giữa giáo dục phổ thông và giáo dục nghề nghiệp. Vì đây là môn học cơ bản, làm nền tảng cho HS làm quen với kỹ thuật, làm quen với các thiết bị mà các em sẽ được học sau này cũng như là nền tảng để các em tiếp thu những kiến thức sâu hơn trong lĩnh vực kỹ thuật. Do tâm lý luôn xem đây là “môn phụ” và việc kiểm tra hiện nay chủ yếu là tự luận rất đơn điệu, vì tiêu chí đánh giá chủ yếu là dựa trên khả năng ghi nhớ. Việc kiểm tra đánh giá như vậy không phản ánh được thực chất năng lực học tập của HS và không tạo được hứng thú học tập cho HS. Ở môn Công nghệ 8, cách kiểm tra đánh giá hiện nay chủ yếu vẫn là GV đánh giá HS qua các bài kiểm tra, chủ yếu là kiểm tra các kiến thức đã được học (tái hiện). Hình thức kiểm tra đơn điệu: vấn đáp, viết. Các đề kiểm tra đều ở dạng tự luận. Với cách kiểm tra này chưa tạo điều kiện để thực hiện dạy học theo phương pháp tích cực và tương tác. Như vậy làm thế nào để kiểm tra đánh giá vừa khách quan, vừa đạt được những mục tiêu về KT, KN? Xuất phát từ yêu cầu trên, việc thực hiện đề tài : “Biên soạn bộ câu hỏi trắc nghiệm khách quan môn Công nghệ 8 theo chuẩn kiến thức cho các trường Trung học cơ sở trên địa bàn Thị xã Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương” là cần thiết. Bộ câu hỏi TNKQ môn Công nghệ 8 theo chuẩn kiến thức nhằm xác định chính xác trình độ kiến thức của HS. Từ đó HS học tập tích cực, tự lực, tự giác và đạt được kết quả học tập cao, góp phần nâng cao chất lượng việc dạy học môn học ngày càng tốt hơn. 2. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 2.1 Mục tiêu nghiên cứu: Biên soạn bộ câu hỏi trắc nghiệm khách quan môn Công Nghệ 8 theo chuẩn kiến thức. 2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục tiêu đề ra, người nghiên cứu tập trung vào các nhiệm vụ sau: - Nhiệm vụ 1: Xác định cơ sở lý luận về trắc nghiệm khách quan. 3
- - Nhiệm vụ 2: Khảo sát thực trạng kiểm tra, đánh giá môn Công Nghệ 8 tại các trường THCS trên địa bàn Thị xã Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương. - Nhiệm vụ 3: Biên soạn bộ câu hỏi trắc nghiệm khách quan môn Công nghệ 8 theo chuẩn kiến thức môn học. 3. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU Hiện nay việc kiểm tra môn Công nghệ 8 chỉ sử dụng phương pháp tự luận là chủ yếu, do đó không kích thích được sự tích cực học tập của học sinh. Nếu áp dụng các câu hỏi trong bộ câu hỏi trắc nghiệm khách quan môn Công nghệ 8 như người nghiên cứu biên soạn thì sẽ đánh giá đúng trình độ của học sinh và học sinh tích cực, tự lực, tự giác trong học tập. 4. ĐỐI TƢỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU 4.1 Đối tƣợng nghiên cứu: Bộ câu hỏi trắc nghiệm khách quan môn Công nghệ 8. 4.2 Khách thể nghiên cứu: - Sách giáo khoa môn Công nghệ 8. - Chuẩn KT, KN môn Công nghệ 8 ( Bộ GD & ĐT). - GV đang giảng dạy môn Công nghệ 8 và HS lớp 8 tại các trường THCS trên địa bàn Thị xã Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương. 5. GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU - Biên soạn bộ câu hỏi trắc nghiệm khách quan đánh giá kiến thức môn Công nghệ 8 dựa trên chuẩn kiến thức trong tài liệu hướng dẫn thực hiện chuẩn KT, KN môn Công nghệ THCS do Bộ giáo dục và đào tạo ban hành. - Quy trình biên soạn đề kiểm tra dựa theo tài liệu tập huấn cán bộ quản lí, giáo viên về biên soạn đề kiểm tra, đánh giá môn Công nghệ cấp Trung học cơ sở do Bộ giáo dục và đào tạo ban hành. 4
- - Thực nghiệm được tiến hành tại trường THCS Phú Hòa (Tỉnh Bình Dương). 6. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 6.1 Phƣơng pháp nghiên cứu tài liệu: Đọc, nghiên cứu các văn bản, các tài liệu về trắc nghiệm khách quan. Từ đó, tổng hợp làm cơ sở lý luận cho đề tài. 6.2 Phƣơng pháp quan sát: Quan sát các buổi kiểm tra môn Công nghệ 8, nội dung quan sát tập trung vào hình thức đề thi, tổ chức kiểm tra, chấm bài, sử dụng công cụ, phương tiện trong kiểm tra. 6.3 Phƣơng pháp điều tra: Thu thập thông tin và đánh giá về Thực trạng của hoạt động kiểm tra đánh giá môn Công Nghệ 8 tại các trường THCS trên địa bàn Thị xã Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương và nhu cầu cần thiết phải có bộ câu hỏi trắc nghiệm khách quan môn Công nghệ 8 bằng cách phát phiếu thăm dò ý kiến cho các GV đang giảng dạy môn Công nghệ 8 trên địa bàn Thị xã Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương. 6.4 Phƣơng pháp thực nghiệm: Thực nghiệm các câu hỏi trắc nghiệm khách quan đã được biên soạn thông qua các bài kiểm tra 15 phút, 1 tiết. Từ đó, tiến hành đánh giá, phân tích tính khả thi của bộ CHTN. 6.5 Phƣơng pháp chuyên gia: Lấy ý kiến (thông tin phản hồi) của các giáo viên có kinh nghiệm giảng dạy môn Công nghệ 8 và các chuyên gia trong lĩnh vực trắc nghiệm về bộ câu hỏi trắc nghiệm. 6.6 Phƣơng pháp thống kê toán học: Xử lý số liệu thu thập được từ kết quả thực nghiệm để có những điều chỉnh hợp lý. Sử dụng phần mềm chuyên dụng Excel nhập dữ liệu. Sử dụng phần mềm SPSS phân tích số liệu thống kê. Sử dụng phần mềm trộn câu hỏi trắc nghiệm McMIX, Trngh5.4pr ( GV Phạm Văn Trung – THPT Bình Phú – Bình Dương) 5
- 7. Ý NGHĨA ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI Nếu bộ câu hỏi trắc nghiệm khách quan môn Công nghệ lớp 8 được đưa vào sử dụng tại các trường THCS trên địa bàn Thị xã Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương sẽ góp phần đáng kể vào việc nâng cao chất lượng của quá trình dạy học môn học nói chung và quá trình kiểm tra, đánh giá nói riêng, thể hiện ở các mặt sau: - Đánh giá kết quả môn học một cách chính xác, khách quan và khoa học. - HS có thể sử dụng bộ câu hỏi trắc nghiệm để tự học và tự kiểm tra, đánh giá kiến thức của mình. 6
- CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN 1.1 LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1.1 Trên thế giới Trắc nghiệm dịch từ chữ Test. Test có nguồn gốc Latinh với nghĩa là testtum. Năm 1890, nhà tâm lý học Hoa Kỳ Mac K.Cattell đưa ra khái niệm trắc nghiệm trí tuệ trong tác phẩm “Trắc nghiệm trí tuệ và đo lường” để chỉ một loại chứng tích tâm lý khác biệt giữa các cá nhân. Từ đó, trắc nghiệm được hiểu theo nghĩa mở rộng là dụng cụ, phương tiện, cách thức để khảo sát, đo lường kiến thức, sự hiểu biết nhân cách trí thông minh . Sang thế kỷ XX, trắc nghiệm phát triển mạnh mẽ với nhiều công trình nghiên cứu. Đặc biệt Binet và Simon ( Pháp) phát minh loại trắc nghiệm trí thông minh trẻ em. Năm 1904, một nhà tâm lý học người Pháp - Alfred Binet trong quá trình nghiên cứu trẻ em mắc bệnh tâm thần, đã xây dựng một số bài trắc nghiệm về trí thông minh. Năm 1910, Edward L.Thorndike là người phổ biến quan niệm trắc nghiệm thành tích học tập đã được tiêu chuẩn hóa và là người có công đưa ra những tiêu chuẩn khách quan để đánh giá thành tích, đặc biệt đã lập ra thang đo lường chữ viết tay của trẻ em. Năm 1910, loạt trắc nghiệm do G. Munsterberg xây dựng dùng cho công tác tuyển chọn nghề nghiệp cũng đã góp phần đáng kể vào việc sử dụng rộng rãi sử dụng trắc nghiệm. 7
- Năm 1910, G.I. Rôtxôlimô đã đưa ra phương pháp “trắc nghiệm tâm lý”, liền sau đó đã được dịch ra tiếng Đức và được chú ý nhiều ở Tây Âu, Mỹ. Năm 1912, nhà tâm lý học người Đức V. Stern đã đưa ra khái niệm “hệ số thông minh- Intelligence Quotient” (viết tắt là IQ) và xem nó như là chỉ số của nhịp độ phát triển trí tuệ, đặc trưng cho một đứa trẻ nào đó. Hệ số này chỉ ra sự vượt lên trước hay chậm lại của tuổi trí khôn so với thời gian. Năm 1916, L. Terman, giáo sư tâm lý trường Đại học Stanford ở Mỹ, đã cùng với cộng sự của mình hai lần cải tổ bản trắc nghiệm thông minh của Binet để dùng cho trẻ em ở Mỹ. Bản cải tiến đó được gọi là trắc nghiệm Stanford – Binet. Bài trắc nghiệm được sửa lại một lần nữa vào năm 1960. Trắc nghiệm Binet đã được dùng một cách rộng rãi và đã có tác động lớn đến việc triển khai các phép đo lường tiếp theo. Sau các loại trắc nghiệm trí thông minh, kỹ xảo, các trắc nghiệm về khả năng, sở thích, nhân cách đã không ngừng được phát triển và áp dụng một cách rộng rãi trong nhiều năm qua. Ở Mỹ, từ đầu thế kỷ XIX, người ta đã dùng phương pháp trắc nghiệm chủ yếu để phát hiện năng khiếu, xu hướng nghề nghiệp ở học sinh. Sang đầu thế kỷ XX, E.Thorm Dike là người đầu tiên đã dùng trắc nghiệm như một phương pháp “khách quan và nhanh chóng” để đo trình độ kiến thức học sinh, bắt đầu dùng với môn số học và sau đó là đối với một số loại kiến thức khác. Đến năm 1940, ở Hoa Kỳ đã xuất hiện nhiều hệ thống trắc nghiệm dùng để đánh giá thành tích học tập của học sinh. Năm 1961, Hoa Kỳ đã có hơn 2000 trắc nghiệm chuẩn. Năm 1963 đã xuất hiện công trình của Ghecberich dùng máy tính điện tử xử lý các kết quả trắc nghiệm trên diện rộng. Vào thời điểm đó, ở Anh đã có hội đồng quốc gia hàng năm quyết định các trắc nghiệm chuẩn cho trường trung học. 8
- Trong thời kì đầu, việc sử dụng phương pháp trắc nghiệm ở các nước phương Tây đã có một số sai lầm như đã sa vào quan điểm hình thức, máy móc trong việc đánh giá năng lực trí tuệ, chất lượng kiến thức của học sinh, hoặc quan điểm giai cấp, phủ nhận năng lực học tập của con em nhân dân lao động. Ở Liên Xô, từ năm 1926 đến năm 1931 đã có một số nhà sư phạm tại Matxcova thí nghiệm dùng trắc nghiệm để chuẩn hóa đặc điểm tâm lý cá nhân và kiểm tra kiến thức học sinh. Nhưng do ảnh hưởng của những sai lầm nói trên, sử dụng mà chưa thấy hết ưu điểm của trắc nghiệm nên ở thời kì này ở Liên Xô có nhiều người phản đối dùng trắc nghiệm. Chỉ từ năm 1963, tại Liên Xô mới phục hồi việc sử dụng trắc nghiệm để kiểm tra kiến thức học sinh. 1.1.2 Ở Việt Nam Trắc nghiệm khách quan được sử dụng từ rất sớm trên thế giới song ở Việt Nam thì trắc nghiệm khách quan xuất hiện muộn hơn, cụ thể: Ở miền nam Việt Nam, từ những năm 1960 đã có nhiều tác giả sử dụng trắc nghiệm khách quan một số ngành khoa học (chủ yếu là tâm lí học). Ở miền Nam Việt Nam, năm 1964 đã có thành lập một cơ quan đặc trách về trắc nghiệm lấy tên: “ Trung tâm trắc nghiệm và hướng dẫn”, cơ quan này phổ biến nhiều tài liệu hướng dẫn trắc nghiệm. Năm 1969, tác giả Dương Thiệu Tống đã đưa một số môn trắc nghiệm khách quan và thống kê giáo dục vào giảng dạy tại lớp cao học và tiến sĩ giáo dục học tại trường Đại học Sài Gòn. Năm 1974, ở miền Nam đã tổ chức thi tú tài bằng phương pháp trắc nghiệm khách quan. Tác giả Nguyễn Như An dùng phương pháp trắc nghiệm khách quan trong việc thực hiện đề tài “Bước đầu nghiên cứu nhận thức tâm lí của sinh viên đại học sư phạm” năm 1976 và đề tài “Vận dụng phương pháp test và phương pháp kiểm 9
- tra truyền thống trong dạy học tâm lí học” năm 1978. Tác giả Nguyễn Hữu Long, cán bộ giảng dạy khoa tâm lí, với đề tài: “Test trong dạy học”. Những năm gần đây, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo ở các trường đại học, Bộ giáo dục và Đào tạo và các trường đại học đã tổ chức các cuộc hội thảo trao đổi về việc cải tiến hệ thống các phương pháp kiểm tra, đánh giá của sinh viên trong nước và trên thế giới, các khoá huấn luyện và cung cấp những hiểu biết cơ bản về lượng giá giáo dục và các phương pháp trắc nghiệm khách quan. Theo xu hướng đổi mới của việc kiểm tra đánh giá, Bộ giáo dục và đào tạo đã giới thiệu phương pháp trắc nghiệm khách quan trong các trường đại học và bắt đầu những công trình nghiên cứu thử nghiệm. Các cuộc hội thảo, các lớp huấn luyện đã được tổ chức ở các trường như: Đại học sư phạm Hà Nội, Đại học Bách khoa Hà Nội, Cao đẳng sư phạm Hà Nội Tháng 4 năm 1998, trường Đại học sư phạm Hà Nội - Đại học quốc gia Hà Nội có tổ chức cuộc hội thảo khoa học về việc sử dụng trắc nghiệm khách quan trong dạy học và tiến hành xây dựng ngân hàng trắc nghiệm khách quan để kiểm tra, đánh giá một số học phần của các khoa trong trường. Hiện nay, một số khoa trong trường đã bắt đầu sử dụng trắc nghiệm khách quan trong quá trình dạy học như: toán, lí và một số bộ môn đã có học phần thi bằng phương pháp trắc nghiệm như môn tiếng Anh. Ngoài ra, một số nơi khác cũng đã bắt đầu nghiên cứu việc sử dụng phương pháp trắc nghiệm khách quan trong quá trình kiểm tra, đánh giá nhận thức của học sinh. Một số môn đã có sách trắc nghiệm khách quan như: Toán, Văn, Lí, Hoá, Sinh Ở nước ta, thí điểm thi tuyển sinh đại học bằng phương pháp trắc nghiệm khách quan đã được tổ chức đầu tiên tại trường đại học Đà Lạt tháng 7 năm 1996 và đã thành công. Như vậy, phương pháp trắc nghiệm khách quan đã rất phổ biến ở các nước phát triển, trong nhiều lĩnh vực, nhiều môn học với kết quả tốt và được đánh giá 10
- cao. Tuy nhiên, ở Việt Nam việc sử dụng phương pháp trắc nghiệm khách quan còn rất mới mẻ và hạn chế nhất là trong các trường phổ thông. Để học sinh phổ thông có thể làm quen dần với phương pháp trắc nghiệm khách quan, hiện nay, Bộ giáo dục và Đào tạo đã đưa một số câu hỏi trắc nghiệm khách quan lồng ghép với câu hỏi tự luận trong các sách giáo khoa một số môn học ở trường phổ thông trong những năm tới sẽ hoàn thành công việc này ở bậc THPT. Khi công việc đó thành công sẽ hứa hẹn một sự phát triển mạnh mẽ của phương pháp trắc nghiệm khách quan ở Việt Nam. Sử dụng phương pháp trắc nghiệm khách quan để làm đề thi tốt nghiệp THPT và làm đề thi tuyển sinh đại học sẽ đảm bảo được tính công bằng và độ chính xác trong thi cử. Vì vậy, bắt đầu từ năm học 2006 - 2007 Bộ giáo dục và Đào tạo có chủ trương tổ chức thi tốt nghiệp THPT và thi tuyển sinh đại học bằng phương pháp trắc nghiệm khách quan đối với các môn: Lí, Hoá, Sinh, tiếng Anh. 1.2 KHÁI QUÁT VỀ TRẮC NGHIỆM (TEST) 1.2.1 Các khái niệm Trắc nghiệm ( Test): Có rất nhiều khái niệm về trắc nghiệm của các nhà tâm lý học và giáo dục học, dưới đây là trích dẫn một số khái niệm về trắc nghiệm: - Trắc nghiệm (Test) là bất kỳ kỹ thuật nào cho phép mô tả định lượng kiểm soát được về một ứng xử của một cá nhân được đặt trong một tình huống nhất định, quy chiếu với ứng xử của các cá nhân trong một nhóm nhất định rộng hơn và đặt trong cùng tình huống (Theo như M.Reuchlin) [9, tr.17] - Trắc nghiệm là một dụng cụ hay phương thức hệ thống nhằm đo lường một mẫu các động thái (behavior) để trả lời cho câu hỏi “Thành tích của cá nhân như thế nào, so sánh với những người khác hay so sánh với một lĩnh vực các nhiệm vụ học tập dự kiến” (Theo Dương Thiệu Tống ) [27, tr.13]. - Trắc nghiệm trong giáo dục là một phương pháp đo để thăm dò một số đặc điểm năng lực trí tuệ của học sinh (chú ý, tưởng tượng, ghi nhớ, thông minh, năng khiếu ) hoặc để kiểm tra đánh giá một số kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, thái độ của học sinh (Theo Trần Bá Hoành) [11, tr.36] 11
- - Trắc nghiệm là một kiểu đánh giá hay đo lường có sử dụng những thủ pháp, những kĩ thuật cụ thể, có tính hệ thống nhằm thu thập thông tin và chuyển những tin này thành các con số hoặc điểm để lượng hóa cái cần đo (Theo Nguyễn Công Khanh ) [14, tr.35] - Trắc nghiệm hay là phép thử nghiệm tiêu chuẩn hóa để đo và đánh giá kiến thức riêng hoặc tầm vóc nhân cách (trí tuệ, động cơ, xúc cảm với một chủ đề nhất định, tính hướng nội, hướng ngoại .). Sự đánh giá tiến hành qua so sánh kết quả thu được của một cá nhân hoặc một nhóm với một nhóm đối chứng (Theo tài liệu “Giải thích thuật ngữ Tâm lí – Giáo dục” của Dự án Việt Bỉ 2001) Tóm lại, trắc nghiệm là một công cụ hay một quy trình có hệ thống nhằm đo lường mức độ một cá nhân đạt được trong một lĩnh vực cụ thể nào đó. (Gronlund, 1981). Từ các định nghĩa trên, có thể hiểu “trắc nghiệm” là một công cụ được sử dụng để đo lường thành tích đạt được của cá nhân trong một lĩnh vực học tập cụ thể nào đó. Trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo, trắc nghiệm được sử dụng để đánh giá kết quả học tập hay năng lực của học sinh sau một khóa học, môn học hoặc một thời gian học, Trắc nghiệm khách quan (Objective test): Trắc nghiệm khách quan được biểu đạt bằng hệ thống các câu hỏi. Loại câu hỏi này cung cấp cho HS một phần hay tất cả các thông tin cần thiết và người trả lời phải chọn câu trả lời đúng nhất trong số các câu trả lời cho một câu hỏi hoặc chỉ điền thêm vài từ. Người chấm căn cứ vào hệ thống cho điểm khách quan để đánh giá, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của người chấm. Ở nước ta, khi gọi trắc nghiệm thường hiểu đó chính là trắc nghiệm khách quan. 12



