Khóa luận tốt nghiệp - Đề tài: “Tìm hiểu về hệ thống ITS và áp dụng vào một lĩnh vực cụ thể” - Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP. Hồ Chí Minh - Năm 2005
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận tốt nghiệp - Đề tài: “Tìm hiểu về hệ thống ITS và áp dụng vào một lĩnh vực cụ thể” - Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP. Hồ Chí Minh - Năm 2005", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- khoa_luan_tot_nghiep_de_tai_tim_hieu_ve_he_thong_its_va_ap_d.pdf
Nội dung text: Khóa luận tốt nghiệp - Đề tài: “Tìm hiểu về hệ thống ITS và áp dụng vào một lĩnh vực cụ thể” - Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP. Hồ Chí Minh - Năm 2005
- Lời cảm ơn : Đầu tiên, chúng em xin cảm ơn Bộ môn Công Nghệ Phần Mềm - Khoa Công nghệ thông tin đã hỗ trợ về tài liệu, máy móc cho chúng em thực hiện khóa luận này. Chúng em cũng thực sự cảm ơn Thầy Lê Hoài Bắc đã hướng dẫn tận tình trong suốt quá trình thực hiện khoá luận. Và cuối cùng, chúng em cảm ơn các thầy cô và các bạn trong Khoa đã ủng hộ và nhiệt tình giúp đỡ cho chúng em hoàn thành khoá luận. Ngày 20 tháng 07 năm 2005 1
- Mục lục : Phần giới thiệu 7 Tóm tắt luận văn 9 Chương 1 Giới thiệu về ITS (Intelligent Tutoring Systems) 10 1.1/ Định nghĩa 10 1.2/ Mục đích 11 1.3/ Sơ lược về lịch sử hình thành 12 1.3.1/ Trí tuệ nhân tạo (AI- Artificial Intelligence) 12 1.3.2/ Những hệ thống hướng dẫn hỗ trợ dựa máy tính 12 1.3.3/ Sự rèn luyện và đào sâu thích hợp 13 1.3.4/ Sự khủng hoảng của Trí tuệ nhân tạo và Tâm lý học giáo dục 14 1.3.5/ Trí tuệ nhân tạo và Hệ thống dạy học thông minh (AI – ITS) 14 1.3.6/ Vai trò của khoa học nhận thức 16 1.4/ Những thách thức đối với các hệ thống ITS 18 1.5/ Sơ lược về kiến trúc của một hệ thống ITS 22 1.5.1/ Mô hình lĩnh vực (Tri thức về lĩnh vực ) 23 1.5.2/ Mô hình người học 27 1.5.3/ Mô hình dạy học 29 1.5.4/ Giao diện của hệ thống 30 1.6/ Kết luận 32 Chương 2 Những công cụ soạn thảo ITS 33 2.1/ Giới thiệu 33 2.2/ Công cụ soạn thảo ITS - Mục đích 34 2.2.1/ Công cụ soạn thảo ITS 34 2.2.2/ Mục đích 38 2.3/ So sánh giữa ESS (Expert System Shells) và ITSAT 39 2.4/ Những yêu cầu của một ITSAT 42 2.4.1/ Tái sử dụng 42 2.4.2/ Kiểm soát hệ thống 45 2
- 2.4.3/ Những chú thích bằng hình ảnh cho sự đạt được tri thức 47 2.4.4/ Phát triển những giao diện lĩnh vực 48 2.4.5/ Tính tổng quát và riêng biệt 50 2.5/ Dạy học những kĩ năng thủ tục 53 2.6/ Giới thiệu một vài công cụ soạn thảo 55 2.6.1/ Sự phân loại theo tác vụ và dạy học 56 2.6.1.1/ Sự sắp thứ tự và lên kế hoạch môn học 60 2.6.1.2/ Những chiến lược dạy học 61 2.6.1.3/ Giả lập thiết bị và huấn luyện thiết bị 62 2.6.1.4/ Hệ chuyên gia lĩnh vực 63 2.6.1.5/ Loại đa tri thức 64 2.6.1.6/ Mục đích đặc biệt 65 2.6.1.7/ Chương trình dạy học dựa trên media thích ứng / thông minh 66 2.6.2/ Soạn thảo nội dung của một ITS 66 2.6.2.1/ Soạn thảo giao diện 67 2.6.2.2/ Soạn thảo mô hình lĩnh vực 68 2.6.2.2.1/ Những mô hình của tri thức và cấu trúc lĩnh vực 68 2.6.2.2.2/ Sự giả lập và những mô hình 69 2.6.2.2.3/ Những mô hình của chuyên môn lĩnh vực 69 2.6.2.2.4/ Loại tri thức lĩnh vực 70 2.6.2.3/ Soạn thảo mô hình dạy học 70 2.6.2.3.1/ Những hệ thống dựa kế hoạch 71 2.6.2.3.2/ Đa chiến lược 71 2.6.2.3.3/ Từ vựng cho hoạt động dạy học 72 2.6.2.4/ Soạn thảo mô hình người học 72 2.6.3/ Những phương pháp soạn thảo và phương pháp đạt được tri thức 72 2.7/ Kết luận 73 Chương 3 Phát triển ITS sử dụng Cấu trúc tri thức 75 3.1/ Giới thiệu 75 3
- 3.2/ Phạm vi lĩnh vực 76 3.3/ Phương pháp luận khái niệm hoá 77 3.4/ Cấu trúc Tri thức 80 3.4.1/ Định nghĩa 80 3.4.2/ Tính chất 80 3.4.3/ Các Cấu trúc tri thức 81 3.4.3.1/ Cấu trúc Tri thức 1 81 3.4.3.2/ Cấu trúc Tri thức 2 82 3.4.3.3/ Cấu trúc Tri thức 3 84 3.4.3.4/ Cấu trúc Tri thức 4 85 3.4.3.5/ Cấu trúc Tri thức 5 86 3.4.3.6/ Cấu trúc Tri thức 6 87 3.5/ Các đối tượng chính được thực hiện trên Câu trúc tri thức 89 3.5.1/ Danh mục các đối tượng đơn giản 89 3.5.2/ Sự tuần tự của các đối tượng 89 3.5.3/ Cặp các đối tượng 89 3.6/ Những người sử dụng của hệ thống 89 3.7/ Kiến trúc của hệ thống 92 3.7.1/ Cấu trúc tri thức ( Tri thức lĩnh vực ) 93 3.7.2/ Bộ giả lập 94 3.7.3/ Bộ soạn thảo 97 3.7.4/ Bộ đánh giá 99 3.8/ Sự mô tả xử lý bên trong hệ thống 100 Kết luận và Hướng phát triển 102 Phụ lục 107 4
- Bảng các hình vẽ : Ký hiệu Tên hình vẽ H1.1 Các thành phần của hệ thống ITS H1.2 Những vấn đề trong việc phát triển hệ thống ITS H1.3 Mô hình ITS thông thường H1.4 Biểu diễn tri thức trên InfoMap H1.5 Một định nghĩa XML Schema cho một thực thể trong Mô hình lĩnh vực H1.6 Màn hình chính của hệ thống CIRCSIM-Tutor H2.1 Tổng quan về môi trường phát triển ITS H2.2 Sự phân chia kĩ thuật biểu diễn và tri thức lĩnh vực H2.3 Những thành phần với sự phụ thuộc và sự độc lập lĩnh vực H2.4 Chia sẻ tri thức lĩnh vực độc lập H2.5 Hai hướng tiếp cận đến phát triển giao diện H2.6 Sự phân chia giao diện ITS H2.7 Phân chia những thành phần ITS H3.1 Theo một tiêu chuẩn được chọn trước H3.2 Tổ chức các thành phần tạo thánh các danh mục H3.3 Hình thành sự tuần tự H3.4 Hoàn chỉnh sự tuần tự H3.5 Thiết lập các mối liên kết chính xác H3.6 Thiết lập đa liên kết H3.7 Giáo viên trong vai trò là “người xây dựng bài tập” H3.8 Giáo viên trong vai trò là “người sử dụng” H3.9 Kiến trúc hệ thống và Sự tương tác giữa người sử dụng và hệ thống H3.10 Cấu trúc tri thức gắn với giao diện soạn thảo H3.11 Giao diện giả lập bài tập sử dụng Cấu trúc tri thức về sự tuần tự 5
- H3.12 Giao diện giả lập bài tập sử dụng Cấu trúc tri thức về sự liên kết H3.13 Trình soạn thảo cho đối tượng với Cấu trúc tri thức tuần tự H3.14 Trình soạn thảo cho việc xác định các đối tượng âm thanh với Cấu trúc tri thức về sự liên kết H3.15 Quá trình xử lý và người dùng trong hệ thống H3.16 Màn hình giả lập bài tập Dạng đầu tiên mà Trẻ làm H3.17 Từ lĩnh vực đến bài tập Bảng các Bảng : Ký hiệu Tên bảng Bảng 1.1 Những giả định ACT* và những nguyên tắc liên quan cho việc dạy học được thực thi trên máy tính. Bảng 2.1 Danh mục phân loại những ITSAT Bảng 2.2 Sức mạnh và giới hạn của những ITSAT theo danh mục Bảng các ký hiệu và chữ viết tắt : Ký hiệu Tên ký hiệu hoặc chữ viết tắt ITS Intelligent Tutoring System ITSAT Intelligent Tutoring System Authoring Tool CAI Computer Aided Intruction CBT Computer-Based Training AI Artificial Intelligence ESS Expert System Shells Ius Instruction Units Phần giới thiệu : 6
- Giáo dục là một trong những lĩnh vực được áp dụng sớm nhất của máy tính. Nhiều hệ thống dạy học đã ra đời để đáp ứng nhu cầu học tập của con người. Tuy thật phát triển nhưng người ta thấy rằng những hệ thống này chỉ đơn thuần là “dạy” mà không có bất kỳ chiến lược dạy học và hướng dẫn nào cho từng loại người học khác nhau, cũng như không đánh giá được quá trình học của người học. Từ đó những hệ thống dạy học thông minh (ITS – Intelligent Tutoring System) đã ra đời dựa trên những hệ thống dạy học truyền thống mà được thêm vào các thành phần “thông minh” trên. Những hệ thống ITS là những hệ thống đang được nghiêu cứu nhiều trên thế giới. Người ta hi vọng rằng chúng có thể thay thế những hệ thống dạy học truyền thống. Tuy đây là một hướng tiếp cận đầy tiềm năng nhưng do gặp nhiều khó khăn không lường trước nên những hệ thống ITS đã phát triển không như mong đợi. Vì vậy chúng chỉ mới đang ở giai đoạn đầu phát triển. Mục tiêu : Nghiêu cứu những hệ thống này, khóa luận chỉ muốn đạt được những mục tiêu sau : • Trình bày thế nào là hệ thống dạy học thông minh (ITS)? • Kiến trúc và cách thức hoạt động của một hệ thống ITS? • Những hướng tiếp cận để xây dựng hệ thống ITS? • Cuối cùng sẽ áp dụng trong một lĩnh vực cụ thể. Nội dung trình bày : Như những mục tiêu đã đề ra ở trên, khóa luận sẽ nghiên cứu những vấn đề sau : • Trình bày khái niệm, kiến trúc và cách thức hoạt động cơ bản của hệ thống ITS. • Trình bày một hướng tiếp cận mới để xây dựng hệ thống ITS: đó là công cụ soạn thảo ITS (ITSAT – ITS Authoring Tool). 7
- • Trong phần áp dụng : khác với phần mục tiêu đã đề ra, mục đích chính trong phần này mà khóa luận muốn trình bày là : o Nghiêu cứu và xây dựng một phương pháp để biểu diễn tri thức lĩnh vực. o Xây dựng ITS thành một công cụ hỗ trợ giáo viên xây dựng bài tập dựa trên những tri thức trên. • Cùng với 2 mục đích chính trên, khóa luận cũng sẽ trình bày thêm những phần tạo thành một hệ thống ITS hoàn chỉnh. Kết quả : ¾ Về phần lý thuyết, khóa luận trình bày nghiên cứu đầy đủ về hệ thống ITS như trong phần nội dụng đã nêu. ¾ Về phần áp dụng : mục đích của khóa luận không phải là nghiên cứu và xây dựng một hệ thống ITS hoàn chỉnh mà mục đích chính của như trình bày trong phần nội dung là xây dựng ITS thành một công cụ giúp cho giáo viên – những người không cần biết lập trình – có thể soạn thảo bài tập bằng cách sử dụng những tri thức đã được lưu trữ trong hệ thống cùng với một số thành liên quan. Tóm tắt khóa luận : 8
- Khóa luận này nghiên cứu về những hệ thống hỗ trợ dạy học thông minh (Intelligent Tutoring Systems – ITS). Đây là những hệ thống dạy học hiện đại (so với các phần mềm dạy học truyền thống) đã và đang được nghiên cứu nhiều trong các trường đại học và phòng thí nghiệm trên thế giới. Và mục đích chính của khóa luận này là sẽ nghiên cứu và xây dựng một hệ thống ITS cho một lĩnh vực được chọn. Đây là một công cụ được xây dựng để hỗ trợ cho người dạy (giáo viên ) mà không cần phải biết lập trình có thể phác thảo ra các bài tập giảng dạy về một lĩnh vực nào đó dựa trên máy tính. Người dạy tạo ra những bài tập trên bằng cách sử dụng Tri thức được lưu trữ trong máy tính, chọn ra những nội dung phù hợp theo yêu cầu để hệ thống tự phát sinh. Ngoài ra hệ thống còn xây dựng một “bộ giả lập” để người học (trẻ ) có thể tự rèn luyện những bài tập đã soạn bởi người dạy. Quá trình này được kiểm soát và đánh giá bởi người dạy và hệ thống ( cụ thể là Module hướng dẫn và Module đánh giá). Khóa luận được nghiên cứu thành 3 phần chính. Phần đầu sẽ trình bày tổng quan về các hệ thống dạy học thông minh (ITS) (Chương 1). Phần thứ hai khoá luận muốn mô tả những công cụ soạn thảo ITS (ITSAT) (Chương 2). Phần cuối của khóa luận sẽ nghiên cứu và xây dựng hệ thống ITS sử dụng Cấu trúc tri thức (Chương 3). 9
- Giới thiệu về ITS (Intelligent Tutoring Systems) GVHD: TS. Lê Hoài Bắc Chương 1 : Giới thiệu về ITS (Intelligent Tutoring Systems) 1.1/ Định nghĩa : Song song với việc thiết kế hướng dẫn và phần mềm dạy học, hệ thống dạy học thông minh (ITS) đã được phát triển. ITS là hệ thống hướng dẫn dựa trên máy tính với những mô hình nội dung hướng dẫn xác định cái gì được dạy và những chiến lược dạy học xác định cách để dạy. ITS là một trong những đóng góp quan trọng của trí tuệ nhân tạo đối với giáo dục. Hầu hết ITS có lõi là một hệ chuyên gia. Mỗi ITS phải có 4 thành phần chính (Hình 1.1) : • Mô hình của tri thức lĩnh vực (Mô hình lĩnh vực). • Mô hình người học. • Những chiến lược dạy học được mô hình hoá (Mô hình dạy học). • Một thành phần giao tiếp giữa hệ thống và người học (Giao diện hệ thống) . Mô hình lĩnh vực Giao diện Mô hình dạy học Mô hình người học H1.1: Các thành phần của hệ thống ITS 10
- Giới thiệu về ITS (Intelligent Tutoring Systems) GVHD: TS. Lê Hoài Bắc 1.2/ Mục đích : Việc sử dụng máy tính như một công cụ giảng dạy sớm được xem xét trong sự phát triển của máy tính. Sự phát triển của “giáo viên nhân tạo” là lý tưởng của lĩnh vực này. Sự tự động của toàn bộ hệ thống giảng dạy sẽ cung cấp nhiều thuận lợi bao gồm lợi ích của việc dạy học 1-1, có hiệu quả về mặt chi phí, việc tái sử dụng và tiêu chuẩn hoá những nguồn tài nguyên và môi trường học mang tính cá nhân hơn. Thật không may, sự phức tạp của quá trình học và dạy đã làm cho ý tưởng này không thực hiện được. Việc sử dụng hệ thống hỗ trợ dạy học dùng máy tính cung cấp nhiều thuận lợi hơn so với việc tiếp cận phương pháp giảng dạy truyền thống. Người học sẽ nhận được thông tin phản hồi ngay lập tức khi mà việc chấm điểm được thực hiện một cách tự động. Thêm vào đó, với việc huấn luyện dựa trên máy tính thì thời gian hướng dẫn sẽ phụ thuộc vào khả năng của cá nhân người đó chứ không như trong lớp học truyền thống thời gian này phụ thuộc vào khả năng của người học kém nhất lớp. Đối với nhiều người học, môi trường học trên máy tính ít có tính nghiêm túc hơn là trong lớp học truyền thống. Môi trường máy tính cung cấp những sự hướng dẫn trực tiếp và trong nhiều trường hợp việc học qua máy tính sẽ tốn ít chi phí hơn những thiết bị đặc biệt mắc tiền và nguy hiểm. Việc đào tạo chất lượng cao trở thành có giá trị ở những vùng xa và sự hướng dẫn có thể gởi đến người học vì thế người hướng dẫn sẽ không cần phải đi xa và trang thiết bị không cần phải vận chuyển. Những nghiên cứu về hệ thống này đã chỉ ra rằng: người học được giảng dạy bởi ITS sẽ học nhanh hơn và tốt hơn những người học tham gia các lớp học chung. Ví dụ: Ở trường đại học Carnegie Mellon, các nhà nghiên cứu đã phát triển một hệ thống ITS gọi là LISP Tutor vào giữa những năm 1980 để dạy những kỹ năng lập trình máy tính cho sinh viên. Một cuộc khảo sát đã cho thấy, 43% sinh viên sử dụng hệ thống ITS có số điểm cao hơn những sinh viên học theo lối truyền thống. Khi đưa ra 11
- Giới thiệu về ITS (Intelligent Tutoring Systems) GVHD: TS. Lê Hoài Bắc những vấn đề lập trình phức tạp những sinh viên học theo lối truyền thống sẽ tốn nhiều hơn 30% thời gian so với những sinh viên được học từ ITS. Nhưng cũng tồn tại nhiều bất lợi trong môi trường huấn luyện được hỗ trợ của máy tính. Môi trường này không uyển chuyển bằng môi trường dạy học thông thường . Chế độ trao đổi thông tin giữa giáo viên và người học bị giới hạn. Những phản ứng của sinh viên phải nằm trong sự đoán trước của hệ thống. Những câu hỏi không mong đợi của người học chỉ nhận về những phản hồi không tương xứng. 1.3/ Sơ lược về lịch sử hình thành : 1.3.1/ Trí tuệ nhân tạo (AI- Artificial Intelligence) : Những hệ thống dạy học thông minh (ITS) có một lịch sử rất thú vị, bắt nguồn từ sự phát triển của Trí tuệ nhân tạo (AI) vào cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960. Sau đó, các nhà nghiên cứu Trí tuệ nhân tạo như Alan Turing, Marvin Minsky, John McCarthy, và Allen Newell nghĩ rằng máy tính có thể “suy nghĩ như con người”. Rất nhiều người nghĩ rằng sự ràng buộc chính cho mục đích này là sự tạo ra những máy tính to hơn và nhanh hơn. Người ta dường như có lý để giả định rằng một khi chúng ta đã tạo ra những máy móc có thể suy nghĩ chúng có thể thực hiện bất cứ tác vụ nào mà chúng ta liên kết với suy nghĩ của con người, chẳng hạn sự hướng dẫn. 1.3.2/ Những hệ thống hướng dẫn hỗ trợ dựa máy tính : Trong thập niên 1960, những nhà nghiên cứu đã tạo ra một khối lượng nhiều các hệ thống hướng dẫn hỗ trợ dựa máy tính mà có khả năng phát sinh. Những chương trình này phát sinh các tập các vấn đề được thiết kế để nâng cao hiệu suất người học trong những lĩnh vực dựa kĩ năng, đại số cơ bản, và khả năng nhớ lại từ vựng. Về cơ bản, đây là những hệ thống tự phát sinh, được thiết kế để trình bày cho người học một vấn đề, nhận và ghi lại những phản hồi của người học, và lập bảng kê tất cả khả năng của người học về tác vụ đó. Hầu hết những nổ lực của người thiết kế hệ thống được 12
- Giới thiệu về ITS (Intelligent Tutoring Systems) GVHD: TS. Lê Hoài Bắc dành cho sự móc hàm với những thách thức kĩ thuật của việc lập trình những hệ thống này trên các máy tính tương đối cồng kềnh và đắt đỏ về thời gian. Những hệ thống này không cho ra những phiên bản một cách tường minh của cách mà người ta học, với một mô hình chuyển đổi / hành vi cư xử không rõ ràng của việc dạy và việc học. Họ giả định rằng nếu những hệ thống trình bày thông tin cho người học, người học sẽ hấp thu nó. 1.3.3/ Sự rèn luyện và đào sâu thích hợp : Đến cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970, rất nhiều nhà nghiên cứu chỉ đơn thuần trình diễn những vấn đề cho người học trong khi thu thập và làm bảng kê những phản hồi (trả lời) của họ, mà không xem xét người học là một nhân tố trong toàn bộ hệ thống hướng dẫn. Nhiều nhà nghiên cứu đã phát triển những hệ thống làm thay đổi cách biểu diễn những “vật liệu” mới dựa trên thông tin của những phản hồi của người học. Trong khi nó không bao giờ đủ để biểu diễn thông tin trong một mẫu xác định trước cho tất cả người học nữa, những nhà thiết kế hệ thống còn phải lường trước tất cả những phản hồi có thể của người học. Những nhà lập trình phải biết cao hơn loại phản hồi nào của người học có thể xảy ra và quyết định nào mà hệ thống sẽ trình bày. Những hệ thống này là những hệ thống đầu tiên đã “mô hình hoá người học”, mặc dù chúng chỉ mô hình hoá hành vi của người học và không có bất kỳ cố gắng nào để mô hình hoá tình trạng tri thức của người học. Mặc dù những hệ thống tương đối đơn giản, bởi sự ràng buộc chính nó vào sự phát triển của những kĩ năng và khả năng nhớ lại mà chúng rất hiệu quả. Người học, những người sử dụng hệ thống này đã cải thiện những kĩ năng này và khả năng nhớ lại thực sự của mình. Lý thuyết về việc học cho rằng người học trước tiên cần phải học những kĩ năng và sự kiện cơ bản để chuẩn bị cho những kĩ năng tổng hợp cao hơn. 13
- Giới thiệu về ITS (Intelligent Tutoring Systems) GVHD: TS. Lê Hoài Bắc 1.3.4/ Sự khủng hoảng của Trí tuệ nhân tạo và Tâm lý học giáo dục : Trong suốt thời kỳ này, có một hy vọng lớn cho việc tiến triển nhanh trong trí tuệ nhân tạo nhờ sự tiến bộ cao trong sức mạnh tính toán ngày càng lớn của máy tính. Tuy nhiên nó sớm trở nên rõ ràng là những vấn đề trong trí tuệ nhân tạo khó hơn nhiều so với những thách thức tương đối dễ của việc xây dựng những máy tính nhanh hơn. Mặc dù vậy, những nhà nghiên cứu Trí tuệ nhân tạo vẫn còn lạc quan xuyên suốt thập niên 60, 70 và 80, ngay cả mục đích của những “máy tính biết suy nghĩ” luôn luôn dường như chỉ là “việc của 10 năm nữa”. Khoảng thời gian này, tâm lý học giáo dục đang thắc mắc về những giả định của chủ nghĩa hành vi. Lý thuyết của Piaget về việc học và xây dựng bắt đầu được nói tới. Chomsky, cùng với Novell và những người khác đã giới thiệu những ý tưởng của tiến trình xử lý thông tin có hình ảnh, những ý tưởng mà gắn bó chặt chẽ với sự hứng thú của cộng đồng Trí tuệ nhân tạo trong ngôn ngữ học và xử lý ngôn ngữ tự nhiên. Tiến trình xử lý thông tin nổi lên như một mô hình bao quát xuyên suốt cuối thập niên 70 và đầu thập niên 80. Công việc này quan niệm sự nhận thức của con người như tập tiến trình xử lý “hộp đen”, hơn là những phản hồi đơn thuần từ bên ngoài. Sự chính xác của những mô hình xử lý thông tin đầy hứa hẹn khi được mô tả bởi những chương trình máy tính. 1.3.5/ Trí tuệ nhân tạo và Hệ thống dạy học thông minh (AI – ITS) : Trong năm 1982, Sleeman và Brown đã xem xét lại thực trạng của những hệ thống hướng dẫn hỗ trợ dựa máy tính và lần đầu tiên tạo ra cụm từ “Intelligent Tutoring Systems (ITS) ”- Những hệ thống dạy học thông minh, để miêu tả những hệ thống suy luận này và phân biệt chúng với những hệ thống CAI trước đó. Giả định không tường minh cho rằng người học bây giờ đã tập trung vào việc “học bằng cách làm”. Họ phân biệt những ITS tồn tại thành các loại như : những hệ thống theo dõi giải quyết vấn đề (1), những hệ thống huấn luyện (2), những hệ thống hướng dẫn thí 14
- Giới thiệu về ITS (Intelligent Tutoring Systems) GVHD: TS. Lê Hoài Bắc nghiệm (3), những hệ thống tư vấn (4). Điểm quan trọng của những hệ thống này thì còn là những nền tảng nghiên cứu cho việc tinh chế lý thuyết Trí tuệ nhân tạo, nhưng bây giờ các nhà nghiên cứu đang suy nghĩ về việc biểu diễn tri thức người học trong những hệ thống này. Ở đây, người ta đã tìm thấy đầu tiên việc sử dụng cụm từ “Mô hình người học” để miêu tả một sự biểu diễn trừu tượng về người học trong chương trình máy tính. Họ phân loại những mô hình người học như sau : + Mô hình che phủ : một mô hình tri thức người học như một tập con của một tri thức chuyên gia. + Mô hình khác biệt : tương tự như mô hình che phủ, mô hình này tập trung vào sự khác nhau giữa tri thức người học và một phần tri thức chuyên gia. + Mô hình trạng thái bất ổn : biểu diễn những khái niệm khó hiểu của người học như là những biến đổi của cấu trúc thủ tục của kĩ năng sửa đúng của chuyên gia. Những cố gắng trước đây để mô hình hoá tri thức người học được dựa vào một mô hình “lỗi” (bugs). “Lỗi“ là những sai sót của người học trong những kĩ năng rời rạc, chẳng hạn việc nhớ không đúng trong phép trừ. Burton đã thảo tỉ mỉ mô hình này trong hệ thống DEBUGGY. DEBUGGY định danh 130 “lỗi” được thiết kế để khác phục những sai sót trong phép trừ. Thách thức là phải phân tích không gian vấn đề được trình bày bởi những câu trả lời của người học và xác định lỗi nào hay tập lỗi nào tốt nhất cho việc khắc phục những sai sót trong phép trừ. Sleeman và Brown đề cập đến một vài phiên bản học tập có quan hệ tới những vấn đề liên quan dến việc tạo ra ITS. Họ thừa nhận rằng nhiều sự giao tiếp dạy học của con người không rõ ràng và nhấn mạnh đến kỳ vọng rằng ITS sẽ cung cấp “nơi gặp gỡ” cho những nhà lý thuyết về giáo dục để phát triển những lý thuyết rõ ràng chính xác hơn cho việc dạy và việc học. Giả định của họ là sự chính xác rõ ràng là có thể, là cần thiết cho việc thực thi những lý thuyết này trong phần mềm máy tính. Họ cũng thảo luận về nhu cầu phải xây dựng những môi trường để khuyến khích việc học cộng tác, 15
- Giới thiệu về ITS (Intelligent Tutoring Systems) GVHD: TS. Lê Hoài Bắc trong khi thừa nhận rằng những nhà nghiên cứu (tại thời điểm đó) biết rất ít về việc làm cách nào để sự cộng tác có thể xảy ra trong viếc thiết lập việc học tự nhiên. 1.3.6/ Vai trò của khoa học nhận thức : Trong suốt thập niên 1980, những nhà khoa học máy tính đang chuyên biệt hoá trong Trí tuệ nhân tạo tiếp tục tập trung vào những vấn đề của ngôn ngữ tự nhiên, mô hình người học và sự suy diễn. Tuy nhiên, lĩnh vực này cũng thu hút những nhà nghiên cứu khác, mà nổi bật là John Anderson. Anderson làm việc trong lĩnh vực khoa học nhận thức, phát triển lý thuyết nhận thức “Sự kiểm soát thích nghi của suy nghĩ” (ACT* - Adaptive Control of Though). Bảng 1.1 tóm tắt những nguyên tắc ACT* và sự thực thi của chúng cho ITS. Bảng 1.1 : Những giả định ACT* và những nguyên tắc liên quan cho việc dạy được thực thi trên máy tính Những giả thuyết ACT* Những nguyên tắc dạy học tương ứng Hành vi giải quyết vấn đề là mục đích Giao tiếp với cấu trúc mục đích nằm hướng tới. bên dưới tác vụ giải quyết vấn đề. Tri thức thủ tục và khai báo được chia Biểu diễn tri thức người học như một ra. Những đơn vị tri thức thủ tục là tập của sự sản sinh. những quy tắc NẾU_THÌ (IF_THEN) được gọi cho sự sản sinh. Sự thực hiện khởi đầu của một tác vụ Cung cấp sự hướng dẫn trong ngữ cảnh được hoàn thành bởi việc áp dụng giải quyết vấn đề để tri thức người học những thủ tục tổng quát cho những cấu phát triển thông qua sự ước lượng thành trúc khai báo công cho kĩ năng hướng dẫn 16
- Giới thiệu về ITS (Intelligent Tutoring Systems) GVHD: TS. Lê Hoài Bắc Sự nảy sinh tác vụ đặc biệt phát sinh Cung cấp phản hồi tức thì dựa vào bởi việc áp dụng những sự nảy sinh yếu những kết quả của sự cố gắng hơn cho tri thức thủ tục. Những sự nảy sinh tác vụ đặc biệt này làm nền tảng cho sự thực hiện hiệu quả hơn. Là kết quả của sự rèn luyện thêm, sự Điều chỉnh kích thước từng bước hướng sản sinh có thể bị trói buộc với những dẫn trong tiến trình học tập sự sản sinh có tỉ lệ lớn hơn Người học duy trì tình trạng hiện tại của Tối thiểu hoá việc tải bộ nhớ làm việc vấn đề trong một bộ nhớ làm việc bị giới hạn Mặc dù Anderson và đồng nghiệp đã tạo ra ACT* như là một lý thuyết nhận thức, họ tin rằng nó đủ nghiêm ngặt để kiểm thử bởi sự thực thi những nguyên tắc trong phần mềm máy tính. Hai ví dụ phổ biến nhất là Geometry Tutor (Koedinger & Anderson,1993) và LISPITS (Hệ thống dạy học LISP thông minh). Hệ thống LISPITS, một chương trình để dạy việc học lập trình ngôn ngữ LISP, được thiết kế để thực thi những nguyên tắc này trong ngữ cảnh của “Mô hình truy vết”. Những cố gắng của LISPITS để mô hình những bước cần thiết để viết một chương trình LISP. Chương trình sau đó so sánh với những bước thực sự mà người học tạo ra với mô hình này. Corbett và Anderson gọi tiến trình theo dõi và sửa chữa là “Truy vết tri thức”. Mục đích của họ là một mô hình tinh thông, nơi mà mỗi người học thông thạo 95% những quy tắc cho một tập các bài tập được đưa ra trước khi di chuyển sang phần kế tiếp. Corbett và Anderson nhận thấy rằng người học sử sụng LISPITS hoàn thành những bài tập thông thạo nhanh hơn là làm việc một mình, nhưng tất nhiên là không nhanh bằng học với những giáo viên là con người. 17
- Giới thiệu về ITS (Intelligent Tutoring Systems) GVHD: TS. Lê Hoài Bắc 1.4/ Những thách thức đối với các hệ thống ITS: Sư phát triển hệ thống ITS được bắt đầu từ đầu mà không dựa trên một nền tảng nào sẽ dẫn đến vài kết quả không mong đợi trong việc xây dựng hệ thống như: giá cả phát triển cao, việc dùng lại những phần mềm đã tồn tại rất ít, những yêu cầu cơ sở bị hạn chế, ít có sự tiêu chuẩn hoá giữa những hệ thống đã phát triển, khó khăn trong việc đánh giá hệ thống và chi phí duy trì hệ thống cao. Việc tái sử dụng lại những phần mềm đã tồn tại là việc không phổ biến trong việc phát triển một hệ thống ITS. Những phần mềm phổ biến rất có giá trị, cả trong lĩnh vực thương mại (ví dụ: trình soạn thảo, những bảng tính, công cụ vẽ và cơ sở dữ liệu) và trong lĩnh vực nghiên cứu (lên kế hoạch, những công cụ xử lý ngôn ngữ tự nhiên). Nhưng thật không may, những công cụ và phần mềm phổ biến đã tồn tại không dễ dàng tích hợp trong hệ thống ITS. Điều này đã dẫn đến việc gia tăng thời gian phát triển của toàn bộ hệ thống. Tuy nhiên những phần mềm phổ biến sẽ giúp cho việc tạo những phiên bản đầu tiên nhanh hơn. Một số hệ thống đã được xây dựng bằng cách sử dụng phần mềm phổ biến như Microsoft Excel (Microsoft, 1997), SuperCalc (Hiệp hội máy tính, 1996) và HyperCard (Apple, 1997). Những yêu cầu cơ sở có thể bị ngăn cản khi hệ thống ITS được thực thi như một chương trình lớn yêu cầu những tài nguyên quan trọng. Và hệ thống ITS cũng có thể cần những phần cứng đặc biệt hoặc có thể được thực thi trong những ngôn ngữ mà có thể giới hạn việc phân phối những yêu cầu cơ sở. Việc tái sử dụng lại những công cụ cũng cho phép sự phát triển của những siêu văn bản, siêu phương tiện, đa phương tiện và những ứng dụng CD-ROM, và những cụm từ chuyên môn kỹ thuật hiện hành. Những ứng dụng này có thể đưa ra những yêu cầu cơ sở không mong đợi mà không thêm vào bất cứ lợi ích quan trọng nào. Những tiếp cận kỹ thuật để xây dựng hệ thống dẫn đến việc không thể đo lường những khả năng của kỹ thuật mới. Có rất ít những sự tiêu chuẩn hoá giữa những hệ thống đã tồn tại. Sự phát triển “Ad hoc” của hệ thống ITS khuyến khích sự tái sử dụng của những kỹ thuật tiêu biểu 18
- Giới thiệu về ITS (Intelligent Tutoring Systems) GVHD: TS. Lê Hoài Bắc cho tri thức mới, phương tiện thông tin mới, những thành tựu trong kiến trúc và những sơ đồ dòng điều khiển. Việc ít sử dụng những thành phần mềm trong hệ thống là phổ biến, đặc biệt việc chia sẻ giữa chiến lược giảng dạy và tài liệu giảng dạy vì không có tiêu chuẩn thống nhất chung. Những phương pháp thiết kế cho hệ thống ITS đã được định nghĩa trong nhiều năm qua. Tuy nhiên nhiều phương pháp chưa được ứng dụng dễ dàng khi xây dựng hệ thống. Một kết quả của việc thiếu sự tiêu chuẩn hoá là sự phức tạp của việc đánh giá hệ thống và sự khó khăn của việc so sánh những hệ thống đã phát triển. Vì vậy, tiến trình của việc quyết định sự mạnh yếu của việc thực thi hệ thống là không được tính đến. Điều này đã dẫn đến việc đánh giá những yếu tố bên trong và bên ngoài là rất khó. Chi phí duy trì hệ thống ITS có thế phát sinh khi càng nhiều hệ thống được phát triển, càng nhiều những phác thảo trong phòng thí nghiệm ít chú ý đến sự chu cấp. Vì vậy, sự bổ sung của hệ thống và những yêu cầu chức năng mới có thể buộc những phần lớn của hệ thống phải gỡ bỏ hoặc thực thi lại ngay từ đầu. Đối với mô hình về tri thức lĩnh vực, mô hình người học, chiến lược giảng dạy và sự phát triển giao diện không có bộ tiêu chuẩn nào cho việc xây dựng hệ thống ITS. Kết quả, chúng là những lĩnh vực phụ thuộc nhau. Điều này gây khó khăn cho hệ thống nếu không nói là không thể trong việc bổ sung những lĩnh vực mới hoặc thêm những tính năng mới cho những lĩnh vực đã tồn tại. Tất cả những nhân tố này đã góp phần làm cho việc xây dựng hệ thống ITS trở nên khó khăn hơn. Một vấn đề khác liên quan đến những kỹ năng cần thiết và những yêu cầu cá nhân để xây dựng những hệ thống tương tự như vậy. Đầu tiên, nếu đội ngũ phát triển đang xây dựng một hệ thống ITS, kể cả những chuyên gia trong lĩnh vực phải trở thành những thành viên không thể thiếu của đội ngũ phát triển hoặc người phát triển phải trở thành chuyên gia trong lĩnh vực. Thứ hai, người giáo viên phải xây dựng những thói quen của họ đối với nhiều lĩnh vực khác nhau của hệ thống giảng dạy. Một lần nữa, phần lớn những chuyên gia 19
- Giới thiệu về ITS (Intelligent Tutoring Systems) GVHD: TS. Lê Hoài Bắc trong lĩnh vực không cần phải có những kỹ năng yêu cầu cho quá trình phát triển này. Tạo ra việc giảng dạy dựa trên máy tính không chỉ yêu cầu về tri thức trong lĩnh vực đó mà còn tri thức khoa học và lập trình. Có 3 lĩnh vực tri thức chính cần thiết cho sự phát triển của hệ thống ITS: - Tri thức về lập trình : + Mã hoá những thể hiện của tri thức. + Thực thi hệ thống giảng dạy và những mô hình của nó. + Thực thi giao diện người dùng. - Tri thức về những nhận thức khoa học : + Định nghĩa những kỹ thuật biểu diễn những tri thức. + Định rõ những chiến lược giảng dạy. + Phát triển mô hình người học và cách sử dụng cho họ. - Tri thức về lĩnh vực : + Định nghĩa mô hình lĩnh vực và mô hình nhiệm vụ. Thật không may những chuyên gia lại không có nền tảng về lập trình và những nhận thức khoa học, người lập trình lại không có những nhận thức khoa học và những tri thức về lĩnh vực mình làm, còn những nhà khoa học không có những tri thức về lĩnh vực đó và kinh nghiệm lập trình. Một vấn đề khác liên quan đến chi phí cao của hệ thống ITS là việc tạo ra những sự phụ thuộc lĩnh vực. Hầu hết các hệ thống ITS có thể được nhóm thành 2 loại: sự độc lập các lĩnh vực và sự phụ thuộc các lĩnh vực. - Hệ thống các lĩnh vực phụ thuộc nối các tri thức lĩnh vực, chiến lược giảng dạy và giao diện. Điều này gây khó khăn cho việc tái sử dụng, bổ sung và duy trì hệ thống. Hệ thống các lĩnh vực phụ thuộc hữu hiệu cho các lĩnh vực nhỏ và đã được định nghĩa tốt. - Hệ thống các lĩnh vực độc lập giữ một vài thành phần của hệ thống độc lập khỏi tri thức lĩnh vực. Điều này cho phép hệ thống được sử dụng trong nhiều lĩnh vực 20
- Giới thiệu về ITS (Intelligent Tutoring Systems) GVHD: TS. Lê Hoài Bắc khác nhau. Tuy nhiên hệ thống các lĩnh vực độc lập vẫn còn giới hạn bởi một số môi trường nhất định, ví dụ: bộ mô phỏng, những lĩnh vực về toán học hoặc ngôn ngữ. Một giải pháp cho những vấn đề này là cung cấp những công cụ và giải pháp để làm giảm chi phí trong sự phát triển của hệ thống ITS. Những vấn đề trong sự phát triển của hệ thống ITS Chi phí duy Chi phí phát Khó khăn trong Việc phân trì hệ thống triển cao việc đánh giá hệ phối những cao thống yêu cầu nền Sự phụ Tri thức Thiếu việc dùng thuộc được yêu lại những phần Ít sự tiêu lĩnh vực cầu mềm đã tồn tại chuẩn hoá Kỹ thuật Không có sự thiết kế Tri thức chia xẻ của: không theo lập trình + Những thành module phần của hệ thống. + Cơ sở tri Tri thức thức. Tri thức về lĩnh vực + Chiến lược khoa học giảng dạy + Tài liệu thể hiện. H1.2: Những vấn đề trong việc phát triển hệ thống ITS 21
- Giới thiệu về ITS (Intelligent Tutoring Systems) GVHD: TS. Lê Hoài Bắc 1.5/ Sơ lược về kiến trúc của một hệ thống ITS : Những hệ thống dạy học hỗ trợ bởi máy tính thông thường thiếu chiều sâu về tri thức vì vậy hệ thống ITS đã nỗ lực để vượt qua những sự thiếu hụt này bằng cách sử dụng kỹ thuật trí tuệ nhân tạo. Việc sử dụng kỹ thuật trí tuệ nhân tạo trong việc phát triển hệ thống ITS đã được mở rộng. Tuy nhiên có 3 kỹ thuật Trí tuệ nhân tạo đáng chú ý trong hệ thống giáo dục là lên kế hoạch, xử lý ngôn ngữ tự nhiên và kỹ thuật biểu diễn tri thức. Những kỹ thuật Trí tuệ nhân tạo có thể được dùng để cải tiến việc chẩn đoán những lỗi của người học, nhận ra những quan niệm không đúng của người học, những kiến trúc và kế hoạch của chiến lược giảng dạy. Sự phát triển của những kỹ thuật biểu diễn tri thức trở nên quan trọng cho hệ thống ITS khi nhiều hệ thống yêu cầu việc sử dụng mô hình người học và mô hình lĩnh vực. Có nhiều kiến trúc khác nhau tuỳ thuộc vào các hệ thống ITS khác nhau. Nhưng theo một số chuyên gia thì có 4 thành phần phổ biến trong hầu hết các hệ thống ITS là: sự biểu diễn tri thức của lĩnh vực ( Mô hình lĩnh vực), chiến lược giảng dạy sử dụng để giải quyết những vấn đề đó (Mô hình dạy học), sự biểu diễn của tình trạng hiện hành của người học qua những vấn đề đó (mô hình người học) và giao diện cho sự tương tác giữa người sử dụng và hệ thống (giao diện hệ thống). Hình sau biểu diễn mô hình hệ thống ITS phổ biến: 22
- Giới thiệu về ITS (Intelligent Tutoring Systems) GVHD: TS. Lê Hoài Bắc Giao diện hệ thống Mô hình dạy học Mô hình lĩnh vực Mô hình người học H1.3 : Mô hình ITS thông thường Sự đa dạng trong mô hình này có thể được tìm thấy trong nhiều phiên bản. Tuy nhiên, cái lõi của từng cấp độ đều có kiến trúc chung cơ bản. 1.5.1/ Mô hình lĩnh vực (Tri thức về lĩnh vực ) : Tri thức về lĩnh vực là những thông tin phụ thuộc vào lĩnh vực mà nó được dùng trong suốt quá trình giảng dạy. Có nhiều nỗ lực để định nghĩa kỹ thuật biểu diễn tri thức đã được làm trong quá trình phát triển của hệ thống ITS trong nhiều năm qua. Những kỹ thuật đã được phát triển để cho phép những tri thức lĩnh vực được lưu trữ và truy cập có hiệu quả. Chẳng hạn trong hệ thống DIT do Chiu-Chen Hsied, Tzong-Han Tsai, David Wible, Wen- Lian Hsu đã biểu diễn tri thức bằng cách sử dụng InfoMap. Nó tương tự với cấu trúc cây được hiển thị trong Hình 1.4. Mỗi nút thuộc hai loại chính là : nút khái niệm hoặc nút chức năng. 23
- Giới thiệu về ITS (Intelligent Tutoring Systems) GVHD: TS. Lê Hoài Bắc H1.4 : Biểu diễn tri thức trên InfoMap Gần đây với sự phát triển nhanh của XML (Extensible Markup Language) cùng với nhiều lợi ích của nó, nhiều hệ thống ITS đã sử dụng XML để biểu diễn tri thức trong Mô hình lĩnh vực. Hình sau minh họa cho việc sử dụng này ( được sử dụng trong hệ thống của Steven Linton). 24
- Giới thiệu về ITS (Intelligent Tutoring Systems) GVHD: TS. Lê Hoài Bắc 25
- Giới thiệu về ITS (Intelligent Tutoring Systems) GVHD: TS. Lê Hoài Bắc H1.5 : Một định nghĩa XML Schema cho một thực thể trong Mô hình lĩnh vực Sự lựa chọn kỹ thuật biểu diễn tri thức cho một lĩnh vực nào đó là một quyết định quan trọng trong việc phát triển một hệ thống ITS. Một vài kỹ thuật biểu diễn tri thức đã “mượn” từ Trí tuệ nhân tạo, việc nghiên cứu hệ chuyên gia (mạng ngữ nghĩa, các bộ luật). Một trong những kỹ thuật được dùng nhiều nhất là mạng các công việc chuyển tiếp dựa trên trạng thái. Ví dụ: Camera có tác dụng Lấy camera Camera không Lấy film Film có có tác dụng tác dụng Bỏ camera Camera có Lấy film Film không tác dụng có tác dụng Lấy camera Bỏ film Film có tác dụng Trong ví dụ trên thì các tri thức lĩnh vực được lưu là các trạng thái (camera không có tác dụng, camera có tác dụng, film không có tác dụng, film có tác dụng) và 26
- Giới thiệu về ITS (Intelligent Tutoring Systems) GVHD: TS. Lê Hoài Bắc các hoạt động (lấy film, lấy camera, bỏ film, bỏ camera) và các tri thức đó được lưu dưới dạng sơ đồ trạng thái. 1.5.2/ Mô hình người học : Mô hình người học trong một hệ thống ITS lý tưởng là có cái nhìn chính xác về kiến thức của người đang sử dụng hệ thống. Mô hình người học bao gồm sự tin tưởng của hệ thống vào kiến thức của người học. Nó không tương tác với người học mà nó đại diện cho người học. Từ mô hình này, hệ thống có thể xác định những vùng tri thức chưa chính xác hoặc còn thiếu và nhắm những lĩnh vực này vào trong tài liệu giảng dạy. Mô hình người học phải kết hợp khả năng của người học cùng với yêu cầu về lĩnh vực mà người đó chọn. Ba vấn đề xác đáng để nghiên cứu trong mô hình người học và cái gì cần phải được xem xét: - Thông tin nào của người học cần phải được đưa ra? - Thông tin được biểu diễn như thế nào? - Mô hình người học được xây dựng như thế nào? Thông thường những thông tin chứa trong mô hình người học là kiến thức mà người học cần phải học về lĩnh vực hiện hành. Điều này sẽ bao gồm cả những cái gì mà người học đã học rồi và những cái gì mà người học chưa học. Những thông tin khác có thể có trong mô hình người học là : - Kiểu tương tác người học với hệ thống. - Mức độ khả năng của người học. - Xem xét khả năng nhớ của người học. - Mục đích muốn đạt được của người học cho vấn đề. 27
- Giới thiệu về ITS (Intelligent Tutoring Systems) GVHD: TS. Lê Hoài Bắc Có 3 kỹ thuật cho việc biểu diễn thông tin được chứng minh là có hiệu quả trong việc xây dựng mô hình người học. Đó là: mô hình che phủ, mô hình khác biệt và mô hình trạng thái bất ổn. Một trong những kĩ thuật mô hình hoá người học đơn giản nhất được sử dụng trong các hệ thống ITS là sự mô hình che phủ. Nó xem xét mô hình người học như là một tập con của mô hình tri thức. Mô hình người học có thể được sử dụng để định danh những phần thiếu sót khi so sánh với mô hình tri thức. Vì vậy, tiến trình dạy học có thể tập trung vào phần này cho đến khi mô hình người học và mô hình tri thức là tương đương. Tuy nhiên, sự mô hình hoá che phủ có một vài thiếu sót quan trọng. Mô hình bị giới hạn cho tri thức được biểu diễn trong mô hình lĩnh vực. Vì vậy nếu người học cố gắng thay đổi (chiến lược hợp lý tiềm năng) thì đầu tiên hệ thống có lẽ không nhận ra. Thứ hai là, nó có lẽ ở ngoài phạm vi của tri thức hệ thống. Do đó hệ thống không có khả năng giải thích tại sao câu trả lời là sai. Nếu mô hình lĩnh vực chỉ là một mô hình thì nó sẽ không hoàn chỉnh. Do đó, mô hình người học dựa trên tri thức không hoàn chỉnh có thể giới hạn khả năng giải thích của hệ thống ITS. Một sự biến đổi cho mô hình che phủ là mô hình khác biệt. Ở đây, mô hình người học được so sánh với mô hình mô tả những gì mà một chuyên gia sẽ làm trong tình huống giống nhau. Tri thức lĩnh vực được chia thành 2 phần : tri thức mà người học nên có và tri thức mà người học không mong muốn có. Mô hình khác biệt một lần nữa xem mô hình người học là một tập con của mô hình tri thức và vì vậy cũng bị ràng buộc bởi sự giới hạn không hoàn toàn tương tự nhau như mô hình che phủ. Một kĩ thuật mô hình hoá người học thứ ba là sự mô hình “trạng thái bất ổn”. Tương tự với những mô hình trước đó, một liên kết đóng được giữ giữa mô hình người học và mô hình chuyên gia trong tri thức lĩnh vực. Thêm vào đó, kĩ thuật này cho phép mô hình người học được mở rộng trên mô hình chuyên gia. Vì vậy, mô hình người học và mô hình chuyên gia cơ bản giống nhau với những sự khác biệt nhỏ trong một vài 28
- Giới thiệu về ITS (Intelligent Tutoring Systems) GVHD: TS. Lê Hoài Bắc phần của tri thức lĩnh vực. Việc sử dụng thư viện lỗi là một kĩ thuật phổ biến dùng trong mô hình này. Trong hệ thống CIRCSIM-Tutor, Yujian Zhou và Martha W.Evens (1999) xây dựng Mô hình người học thành 4 thành phần chính : (i) Mô hình hiệu suất thực hiện : đánh giá khả năng của người học theo các mức. (ii) Thông tin giải quyết vấn đề của người học : lưu lại những câu trả lời của người học để quyết định chiến lược phản hồi. (iii) Tài liệu giải quyết vấn đề của người học: mô hình này lưu lại số lỗi mà người học tạo ra khi giải quyết vấn đề. (iv) Mô hình thông tin dạy học : mô hình này bao gồm cả thông tin việc lên kế hoạch và thuyết trình. Mặc dù mô hình người học được sử dụng giống như nền tảng của việc dạy học trong nhiều hệ thống, một vài nhà nghiên cứu tin rằng việc hữu dụng của chúng bị giới hạn và mô hình người học phức tạp đó có thể không được xây dựng. Đối với những lĩnh vực giảng dạy mà phức tạp hơn những vấn đề bình thường trong số học đơn giản,việc định nghĩa mô hình người học và những lời giải thích cho những hành động của người học đã trở thành những vấn đề không hy vọng. 1.5.3/ Mô hình dạy học : Mô hình dạy học là nòng cốt của hệ thống ITS. Ở cấp độ nền tảng, nó có thể được dùng để tập hợp và định dạng thông tin từ thành phần tri thức lĩnh vực và hiển thị nó cho người học. Tuy nhiên mô hình dạy học có thể phức tạp hơn, cung cấp nhiều chiến lược dạy thích nghi với người học hiện hành, tổ chức việc cập nhật và duy trì mô hình người học. Mô hình dạy học thường có nỗ lực tự động hoá vai trò của người dạy. Phản hồi (feedback) là một trong những tính năng quan trọng của Mô hình dạy học, góp phần tạo nên sự thông minh của hệ thống. Hệ thống phải có khả năng đưa ra những hướng dẫn phản hồi đúng lúc trong quá trình học của người học để giúp chúng 29
- Giới thiệu về ITS (Intelligent Tutoring Systems) GVHD: TS. Lê Hoài Bắc có thể giải quyết vấn đề. Phản hồi có thể dùng văn bản hoặc hình ảnh, âm thanh để tăng tính hiệu quả và thu hút người học. Những hệ thống được đánh giá tốt khi sự phản hồi hướng dẫn của hệ thống hoạt động “linh hoạt và thông minh”. Việc sử dụng bộ mô phỏng trong hệ thống ITS là một hữu hiệu đặc biệt cho Mô hình dạy học khi một thiết bị được đưa ra Mô hình dạy học mô phỏng hoạt động của một vài thiết bị và xử lý tương tác của người học với những mô hình thiết bị đó. Người học sẽ có được những phản hồi ngay lập tức từ những hoạt động thực hiện trong môi trường mô phỏng. Tuy nhiên lợi ích mà hệ thống ITS có thể mang lại cho quá trình giảng dạy phụ thuộc vào mức độ mà người học tương tác với hệ thống, điều đó phụ thuộc vào giao diện của hệ thống. 1.5.4/ Giao diện của hệ thống : Giao diện của hệ thống có thể nói là thành phần chủ chốt trong việc thành công của một hệ thống ITS. Không có giao diện hợp lý người sử dụng không thể có được những lợi ích của hệ thống. Với một hệ thống máy tính nói chung giao diện người dùng đóng vai trò quan trọng trong sự thành công của hệ thống. Nếu người sử dụng không thoả mãn với giao diện, những hiệu quả của hệ thống sẽ giảm bớt và có thể bị huỷ bỏ. Giao diện người dùng cũng được xem quan trọng với những hệ thống hỗ trợ dạy học dựa máy tính bởi vì giao diện người dùng không nên làm cản trở quá trình học tập. Điều này có thể trong trường hợp hệ thống bị hỗn lộn bởi một loại giao diện bị tái sử dụng cho nhiều lĩnh vực khác nhau. Thông thường, các hệ thống trước đây đều dựa vào những kĩ thuật xử lý ngôn ngữ tự nhiên để tạo những giao diện văn bản thân thiện người dùng. Chẳng hạn, hệ thống CIRCSIM-Tutor (Yujian Zhou và Martha W.Evens,1999). Hình 1.6 là màn hình chính của hệ thống. Hệ thống sẽ trình bày cho người học bảng mô tả sự thay đổi sinh lý trong cửa sổ ở góc trên phải. Hệ thống sau đó sẽ hỏi người học dự đoán tác động của sự thay đổi này lên 7 thông số sinh lý quan trọng (màn hình bên phải). Hệ thống sẽ “đối thoại” với người học để sửa sai những lỗi trong các dự đoán của người học. 30
- Giới thiệu về ITS (Intelligent Tutoring Systems) GVHD: TS. Lê Hoài Bắc H1.6 : Màn hình chính của hệ thống CIRCSIM-Tutor Ngày nay, kỹ thuật đa phương tiện đã được dùng để nâng cao giao diện người dùng trong kỹ thuật ITS.Với ngày càng nhiều công cụ hình ảnh – âm thanh mới, nhiều tiên lợi, giao diện cũng ngày càng thân thiện, tinh vi, dễ sử dụng cũng như xây dựng. Những giao diện mới dạng này sẽ thu hút nhiều hơn người học, làm cho họ không bị nhàm chán với các hoạt động thay đổi khác nhau. Và cuối cùng, thành phần giao diện của hệ thống ITS phải cung cấp sự liên kết thích hợp giữa người sử dụng và Mô hình dạy học. 31
- Giới thiệu về ITS (Intelligent Tutoring Systems) GVHD: TS. Lê Hoài Bắc 1.6/ Kết luận : Trong thập niên vừa qua, hệ thống ITS đã “di chuyển” ra ngoài các phòng thí nghiệm và được sử dụng trong các lớp học hay “phòng huấn luyện” nơi mà một vài hệ thống đã tỏ ra có hiệu quả. Những hệ thống dạy học thông minh đang trở nên phổ biến và cho thấy một hiệu quả tăng cao, mặt khác chúng ta gặp nhiều khó nhăn và công sức cũng như tiền bạc để xây dựng những hệ thống như vậy. Những hệ thống soạn thảo có tính khả thi cao hơn cho sự hướng dẫn hỗ trợ bởi máy tính và huấn luyện dựa trên phương tiện đa truyền thông, nhưng hệ thống soạn thảo này thiếu sự tinh vi đòi hỏi để xây dựng những hệ thống dạy học thông minh (ITS). Những hệ thống soạn thảo đa truyền thông thương mại có những công cụ thiết kế hướng dẫn để tạo ra những giao diện tương tác hình ảnh “hấp dẫn và lôi cuốn”, nhưng khả năng sư phạm và sự biểu diễn nội dung khá hạn chế. Những nhà nghiên cứu đang đầu tư nhiều vào những công cụ soạn thảo ITS từ khi những hệ thống ITS bắt đầu được nghiên cứu, và rất nhiều công cụ soạn thảo đã được xây dựng. Nội dung này sẽ được thảo luận kĩ hơn trong chương 2 - Những công soạn thảo ITS (ITSAT). 32
- Những công cụ soạn thảo ITS GVHD: TS. Lê Hoài Bắc Chương 2 : Những công cụ soạn thảo ITS ( ITS Authoring Tools – ITSATs) 2.1/ Giới thiệu : Việc xây dựng một ITS là một nhiệm vụ không tầm thường. Một cách để làm đơn giản hoá công việc này là tạo ra các công cụ để hỗ trợ cho việc phát triển ITS. Việc sử dụng những công cụ như vậy có nghĩa là mỗi việc phát triển ITS không phải xây dựng ngay từ đầu. Điều này thường đạt được bằng cách tái sử dụng những thành phần chung giữa các dự án đó. Chương này nghiên cứu về bản chất của ITSAT và mối quan hệ của chúng với tiến trình soạn thảo ITS. Có một vài vấn đề về sự tồn tại của những công cụ soạn thảo ITS bao gồm sự lựa chọn những phương pháp cho việc biểu diễn tri thức và thiếu việc tái sử dụng các kiến trúc ITS. Những vấn đề này được mô tả trong chương này cũng như sự giống nhau giữa ITSAT và ESS ( Expert System Shells – Vỏ hệ chuyên gia). Những yêu cầu của một ITSAT là một công việc quan trọng, đặc biệt là một công cụ tổng quát hay một công cụ đặc biệt hoá thích hợp hơn. Những công cụ tổng quát hoá có thể cung cấp một môi trường cho việc định nghĩa nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng có lẽ chỉ cung cấp một cở sở dạy học bình thường. Những công cụ đặc biệt hoá có thể cho phép tri thức chuyên sâu cho việc dạy học nhưng lại đòi hỏi chi phí lớn. Trong phần sau chương này sẽ mô tả những mục đích chính của việc xây dựng ITSAT, cũng như những yêu cầu của một ITSAT. Sau đó sẽ phân loại những công cụ soạn thảo dựa trên những công cụ đã phát triển. Và cuối chương sẽ thảo luận những phần cần được soạn thảo của một ITS sử dụng ITSAT, và những phương pháp soạn thảo căn bản. 33
- Những công cụ soạn thảo ITS GVHD: TS. Lê Hoài Bắc 2.2/ Công cụ soạn thảo ITS - Mục đích : 2.2.1/ Công cụ soạn thảo ITS : Trong những năm gần đây, có sự quan tâm đáng kể đến việc sử dụng những công cụ phần mềm đặc biệt để hỗ trợ trong tiến trình phát triển ITS. Mối quan tâm này đã được khuyến khích bởi cả sự thật là việc xây dựng ITS là công việc tốn nhiều thời gian và tiền bạc, và có rất ít tiêu chuẩn giữa những hệ thống đã được phát triển hay ngay cả những thành phần của các hệ thống. Hai thành phần rõ ràng cho sự tự động của việc xây dựng giao diện người dùng và sự đạt được tri thức. ITS cũng có thể đã được xây dựng hiệu quả hơn nếu những thành phần được tái sử dụng giữa những lần phát triển, chẳng hạn, cơ sở tri thức và chiến lược dạy học. Một mục đích của những môi trường soạn thảo là để cung cấp một công cụ mà một chuyên gia biểu diễn tri thức không biết lập trình có thể dễ dàng sử dụng để tạo ra ITS theo yêu cầu. Cuối cùng, sự biểu diễn ở mức cao được sử dụng được che dấu những kĩ thuật bên dưới để người sử dụng không cần phải là một kĩ sư tri thức tài giỏi, một nhà phát triển giao diện, và cũng không cần phải là một chuyên gia về lĩnh vực ứng dụng cũng có thể tạo ra một ITS theo yêu cầu . Có 3 tác nhân khác biệt trong lĩnh vực của việc sử dụng những công cụ soạn thảo để hỗ trợ cho việc phát triển ITS: những nhà phát triển công cụ soạn thảo; những tác giả soạn thảo ITS và những người sử dụng ITS. Những nhà phát triển công cụ soạn thảo có liên quan đến việc xây dựng môi trường soạn thảo ITS. Những người sử dụng của môi trường này là những tác giả soạn thảo ITS mà họ đã sử dụng môi trường này để xây dựng hệ thống tuỳ biến của họ. Tiếp theo nó được sử dụng bởi người học bằng cách tương tác với ITS. H2.1 trình bày môi trường phát triển ITS và những tác nhân tương tác với nó. 34
- Những công cụ soạn thảo ITS GVHD: TS. Lê Hoài Bắc Người sử dụng ITS Tác giả soạn Người sử dụng Những thảo ITS nhà phát triển công Môi trường cụ soạn soạn thảo ITS ITS Người sử dụng thảo ITS Người sử dụng H2.1 Tổng quan về môi trường phát triển ITS Soạn thảo một ITS là một nhiệm vụ phức tạp. Sự phát triển của một công cụ soạn thảo thậm chí là khó khăn hơn khi nó ám chỉ đến những vấn đề ITS được định danh, cũng như những phiên bản riêng của nó. Vì vậy những vấn đề của việc phát triển một ITSAT thực sự là một siêu tập các phiên bản có liên quan khi xây dựng một ITS. Không chỉ chúng phải được xem xét mà những vấn đề này còn cần được hiển thị cho các tác giả soạn thảo ITS. Những phiên bản đặc thù là về những yêu cầu soạn thảo, mức kiểm soát hệ thống, việc sử dụng những mô hình nhận thức và làm cách nào để đạt được cơ sơ tri thức và việc tái sử dụng được khuyến khích và hiển thị cho các tác giả soạn thảo ITS. Có hai vấn đề chính cần được nêu trong việc soạn thảo ITS : đầu tiên là, ITS là một hệ thống phức tạp và đòi hỏi sự phát triển của sự biểu diễn tri thức đặc biệt cho lĩnh vực, sự hướng dẫn và tri thức người học và giao diện người dùng đặc biệt cho từng lĩnh vực. Thứ nhì là, có rất ít việc tái sử dụng những kiến trúc của ITS hiện tại thông qua những ứng dụng. Khả năng tái sử dụng được định nghĩa như là một tập của khả năng có thể phục hồi và khả năng thích ứng. Vì vậy, tái sử dụng có thể được xem một 35
- Những công cụ soạn thảo ITS GVHD: TS. Lê Hoài Bắc cách tổng quát như một cách dễ dàng mà những thành phần ITS có thể được khôi phục và định rõ cho những môi trường mới. Trong nhiều năm, có rất nhiều hệ thống thương mại đã có để hỗ trợ trong viêc soạn thảo phần mềm dạy học. Nó thực sự hữu ích nếu những sản phẩm như vậy có thể được sử dụng trong sự phát triển của ITS, cũng như chúng có rất nhiều tính năng có ích. Không may là nhiều những hệ thống thương mại này không có những thành phần thông minh và cần có những “hành vi thích nghi” để được lập trình vào trong chúng. Điều này đòi hỏi không chỉ tri thức lập trình đặc biệt mà còn có sự hiểu biết chi tiết về các kĩ thuật trí tuệ nhân tạo. Vì vậy, hầu hết những hệ thống cho kết quả như là những hệ thống huấn luyện dựa trên máy tính (Computer-Based Training - CBT) hay những hệ thống hướng dẫn hỗ trợ bởi máy tính (Computer-Aided Instruction – CAI) bị giới hạn. Cần hiểu rõ sự khác biệt giữa CBT và ITS ở đây là một yêu cầu cho một môi trường phát triển thông minh, bao gồm những phương pháp khởi đầu được hỗ trợ bởi công cụ phần mềm mà làm cho dễ dàng cả việc thiết kế của sự biểu diễn tri thức và sự phiên dịch những mô tả như vậy suốt các phiên dạy học. Điều này là một khó khăn chủ yếu của việc phát triển ITS. Tri thức cho một ứng dụng phải được đòi hỏi và lưu trữ trong một định dạng mà có thể sử dụng một cách có hiệu quả bởi những phương pháp dạy học. Vấn đề chính này là khởi đầu mà những tác giả soạn thảo có thể truy cập những phương pháp và chiến lược chính thức mà không cần phải trở thành những lập trình viên máy tính tài giỏi hay những kĩ sư về tri thức. Thực sự khó để định nghĩa rõ ràng của những thành phần nào nên có trong một ITSAT. Vấn đề cung cấp một định nghĩa tổng quát cho một ITSAT là tương tự với vấn đề cố gắng định nghĩa một ITS tổng quát. Lĩnh vực và dãy ứng dụng của ITS cần nhắm tới cần được xem xét trong định nghĩa ITSAT của nó. Ta không thể xác định tốt những thành phần nào của một hệ thống ITS nên có thể được soạn thảo. Do đó cơ sở tri thức 36
- Những công cụ soạn thảo ITS GVHD: TS. Lê Hoài Bắc lĩnh vực là bắt buộc cơ bản với những khả năng có thể của việc soạn thảo những chiến lược dạy học và những quy tắc đối thoại giữa người dạy và người học. Ngay cả nếu những thành phần xác định được xem xét như những “ứng viên” quan trọng cho việc hình thành các thành phần của một ITSAT thì có bao nhiêu trong số chúng sẽ là những thành phần mặc định và có bao nhiêu sẽ là tuỳ biến. Có nên cho Lĩnh vực độc lập với Engine dạy học hay không ? Và có nên cho những phương pháp dạy học có thể được định nghĩa lại hoàn toàn bởi tác giả soạn thảo hay không ? Cũng vậy, làm cách nào để những giao diện người dùng thân thiện có thể được định nghĩa cho những hệ thống tổng quát ? Đối với một ITS tổng quát, hướng tiếp cận có thể nhận biết nhất là một mô hình ITS chuẩn, bao gồm Tri thức lĩnh vực, một engine dạy học, những phương pháp dạy học và một giao diện người dùng, cũng như một nền tảng cho những thành phần được soạn thảo. Sau đó, trong phạm vi của môi trường lĩnh vực cần nhắm tới như mong muốn, nó có thể được xác định những thành phần nào nên tuỳ biến. Những loại của những hệ thống xây dựng hệ thống dạy học có sẵn là cực kỳ khác nhau. Trong những năm gần đây, có sự tăng dáng kể về số lượng các công cụ thương mại dùng cho việc xây dựng những hệ thống dạy học. Hệ thống này là những công cụ xây dựng CAI khởi đầu dùng để hỗ trợ tác giả soạn thảo trong các định nghĩa của phần mềm dạy học. Ta có thể xem hai lớp khác nhau của những hệ thống soạn thảo. Đầu tiên là, những hệ thống thương mại, Authorware, ToolBook và SmartText và thứ hai là, những công cụ nghiên cứu IDE, KAFiIS, COCA và GTE. Những hệ thống thương mại cho phép thiết kế hướng dẫn được khai báo. Những công cụ này cho phép một “lối vào” dễ dàng và hiển thị thông tin dưới dạng văn bản, đồ hoạ, phim và âm thanh. Sự giúp đỡ với bài học đã được lên kế hoạch và sự cung cấp những thành phần giao diện được định nghĩa trước làm dễ dàng nhiệm vụ hướng dẫn dạy học của máy tính. Những công cụ này cho phép một tác giả soạn thảo, 37
- Những công cụ soạn thảo ITS GVHD: TS. Lê Hoài Bắc chẳng hạn một nhà thiết kế hướng dẫn, để tạo ra phần mềm dạy học đơn giản một cách nhanh chóng. Hai thuận lợi chủ yếu của những công cụ này là chúng bao gồm số lượng lớn tài nguyên cho việc định nghĩa và điều khiển tác động trực tiếp những đối tượng giao diện và việc dễ dàng sử dụng. Tuy nhiên, những công cụ thương mại không cung cấp bất kỳ “Module thông minh” nào cho những hệ thống mà họ xây dựng. Tất cả những “hành vi thích nghi” được lập trình trước bởi người thiết kế hệ thống. Điều này dẫn đến những sự tương tác dạy học bị động phần lớn vào hệ thống, điều này bởi vì thiếu một ngôn ngữ kịch bản có ý nghĩa để mã hoá những hành vi thông minh bên trong những công cụ này. 2.2.2/ Mục đích : Xây dựng một hệ thống ITSAT hoàn chỉnh hay có thể chấp nhận được là vô cùng khó khăn và tốn kém, nhiều khi là không thể. Nhưng những nhà phát triển vẫn nghiên cứu và đi theo hướng này vì những lợi ích mà nó sẽ mang lại sau này. Sau đây là một vài mục đích của những công cụ soạn thảo : + Giảm nỗ lực (thời gian, chi phí, và/hay những tài nguyên khác) cho việc tạo ra những hệ thống dạy học thông minh. + Giảm ngưỡng kĩ năng cần cho việc xây dựng những hệ thống dạy học thông minh (chẳng hạn cho phép nhiều người tham gia vào tiến trình thiết kế). + Giúp cho người thiết kế / tác giả soạn thảo làm khớp hay tổ chức tri thức lĩnh vực . + Hỗ trợ (chẳng hạn cấu trúc, đề nghị , hay bắt buộc) những nguyên tắc thiết kế tốt (trong dạy học , giao diện người dùng ) + Cho phép tạo nhanh các mẫu đầu tiên của những thiết kế hệ thống dạy học thông minh (chẳng hạn cho phép chu kỳ thiết kế / đánh giá nhanh của bản mẫu phần mềm đầu tiên). 38
- Những công cụ soạn thảo ITS GVHD: TS. Lê Hoài Bắc 2.3/ So sánh giữa ESS (Expert System Shells) và ITSAT : Ở một vài khía cạnh, những công cụ soạn thảo ITS có thể được xem xét so sánh với ESSs được sử dụng để trợ giúp sự phát triển của các hệ chuyên gia. Tương tự với sự phát triển của ESS, sự phát triển của ITSAT được điều hướng theo nhu cầu của việc giảm chi phí phát triển hệ thống. ITSAT và ESS được dự định để cho phép những người không biết lập trình hưởng lợi từ nỗ lực của những người khác mà đã giải quyết vấn đề tương tự vấn đề của riêng họ. Một khung nền cơ bản được cung cấp trong cả 2 hệ thống, một engine tham chiếu cho một hệ chuyên gia và một liên kết giữa engine dạy học hay những chiến lược dạy học cho một ITS. Tri thức lĩnh vực liên quan cho lĩnh vực hiện tại, sau đó có thể được thêm vào bên trong hệ thống bởi tác giả soạn thảo. Không phải tất cả ESS đều phù hợp với tất cả các nhiệm vụ. Điều này cũng đúng cho ITSAT. Với cả những loại công cụ phát triển cho một thoả hiệp giữa tính tổng quát của công cụ và sức mạnh của hệ thống được xây dựng. Những nhà xây dựng công cụ một cách tự nhiên muốn phát triển những công cụ có mục đích tổng quát mà có thể ứng dụng rộng rãi cho nhiều vấn đề. Tương tự như ESS, một mức nào đó của tính độc lập lĩnh vực ITS có thể đạt được bằng cách giữ tất cả tri thức phụ thuộc lĩnh vực trong cơ sở tri thức và sử dụng những phương pháp độc lập lĩnh vực cho việc biểu diễn tri thức trong cơ sở tri thức (Hình 2.2). 39
- Những công cụ soạn thảo ITS GVHD: TS. Lê Hoài Bắc Phụ thuộc Độc lập Lĩnh vực Lĩnh vực Tri thức Kĩ thuật Lĩnh vực Biểu diễn Tri thức H2.2 Sự phân chia kĩ thuật biểu diễn và tri thức lĩnh vực Sự phân chia của cơ sở tri thức, hay tri thức lĩnh vực chỉ là một phần của vấn đề độc lập lĩnh vực. Có rất nhiều phiên bản của độc lập lĩnh vực cho engine dạy học và giao diện hệ thống. Trong ESS, một engine giao diện tổng quát được cung cấp các chức năng cùng với một cơ sở tri thức đã được định nghĩa trước. Một khái niệm tương tự có thể được áp dụng cho ITSAT. Nếu engine dạy học có thể dựa vào kĩ thuật biểu diễn tri thức có liên quan nó cũng có thể được giữ độc lập lĩnh vực. Một cách tương tự điều này có thể được áp dụng cho những chiến lược dạy học thông qua tri thức lĩnh vực (Hình 2.3). 40
- Những công cụ soạn thảo ITS GVHD: TS. Lê Hoài Bắc Phụ thuộc Độc lập Lĩnh vực Lĩnh vực Kĩ thuật Tri thức Biểu diễn Lĩnh vực Tri thức Engine Dạy học Giao diện Lĩnh vực Chiến lược Dạy học H2.3 Những thành phần với sự phụ thuộc và sự độc lập lĩnh vực Không may là, một công cụ phát triển ITS độc lập lĩnh vực đích thực có lẽ khó có thể đạt được bởi vì quá khó để thiết kế một công cụ có thể cung cấp cả tri thức từ nhiều lĩnh vực khác nhau và cũng phải cung cấp một tri thức sâu về bất kỳ lĩnh vực nào được đưa ra. Một sự thoả hiệp là để xây dựng một vỏ khung ITS với một lớp những lĩnh vực để một vài những hệ thống dạy học chuyên về lĩnh vực tương tự có thể được phát triển. Vì vậy, phạm vi của sự phát triển vỏ khung có thể bị giới hạn về quy mô và được tập trung nhiều hơn vào lĩnh vực liên quan. 41
- Những công cụ soạn thảo ITS GVHD: TS. Lê Hoài Bắc 2.4/ Những yêu cầu của một ITSAT : Việc xây dựng những công cụ soạn thảo ITS là một nhiệm vụ cực kỳ phức tạp. Để cố gắng xây dựng một công cụ mà có thể sử dụng trong bất kỳ lĩnh vực nào với nhiều chiến lược dạy học là điều không thể. Sự khác nhau của những ITS được yêu cầu là quá lớn. Để chống lại điều này, nhiều ITSAT tập trung vào một lĩnh vực đặc biệt, loại lĩnh vực hay loại dạy học. Ngay cả khi điều này được làm, có một vài phiên bản của sự phát triển ITSAT mà yêu cầu một sự xem xét chuyên biệt. Những điều này là việc tái sử dụng những thành phần hệ thống, mức độ kiểm soát hệ thống, việc dùng những chú thích bằng hình ảnh, việc xây dựng những giao diện lĩnh vực và tính tổng quát của những hệ thống đang được phát triển. Một ITSAT nên có những yêu cầu sau. 2.4.1/ Tái sử dụng : Một trong những vấn đề nền tảng trong việc phát triển một ITS là có rất ít hay không có việc tái sử dụng những thành phần giữa những sự phát triển ITS. Do đó không có sự giảm trong chi phí xây dựng ITS giữa những hệ thống khi mỗi cái chỉ xây dựng cho riêng nó trong quá trình phát triển. Nhiều thành phần của những ITS cho mượn chính chúng để tái sử dụng. Chẳng hạn, những thành phần cơ sở tri thức và những chiến lược dạy học. Một vài thuận lợi của việc phát triển phần mềm với vấn đề tái sử dụng, gồm : + Tăng khả năng tin cậy của hệ thống khi sử dụng lại những thành phần đã được kiểm chứng. + Tạo nên việc sử dụng hiệu quả các chuyên gia bởi vì họ có thể tổng hợp tri thức của họ trong những đơn vị tái sử dụng. + Giảm thời gian phát triển phần mềm cũng như cả thời gian phát triển và cập nhật cũng sẽ giảm. 42
- Những công cụ soạn thảo ITS GVHD: TS. Lê Hoài Bắc + Hỗ trợ những tiêu chuẩn có tổ chức bởi vì những thành phần sử dụng lại có thể được thực thi trong một tập những tiêu chuẩn. Việc tái sử dụng những thành phần ITS là một chức năng nền tảng của hầu hết những công cụ soạn thảo ITS. Bởi vì nhiều thành phần của những ITS là tốn nhiều thời gian và nhân lực để xây dựng theo nguyên gốc nên việc tái sử dụng càng nhiều càng tốt các thành phần là điều cần được ưu tiên. Sự sản xuất phần mềm dạy học có thể được cải thiện đáng kể bởi việc tái sử dụng những kết quả của các dự án trước. Những thành phần đặc trưng để được tái sử dụng là những cơ sở tri thức lĩnh vực, những chiến lược dạy học và sự hiển thị bằng các phương tiện đa truyền thông. Như đã chú thích ở mục 2.3, việc tái sử dụng các cở sở tri thức đã khuyến khích trong việc phát triển ESS. Và với cơ sở tri thức ITS, sự đạt được và sự phát triển cơ sở tri thức hệ chuyên gia là cực kỳ tốn kém, đặc biệt trong những phần sử dụng thời gian các chuyên gia lĩnh vực. Một bước quan trọng trong khả năng có thể tái sử dụng cở sở tri thức là tiến trình phân chia cở sở tri thức. Một cách mà điều này có thực hiện là bởi sự phân chia tri thức lĩnh vực từ sự biểu diễn của nó. Sự phân chia này hỗ trợ việc soạn thảo bởi việc tái sử dụng những “vật liệu” đã tồn tại. Nếu tri thức lĩnh vực có thể được giữ độc lập so với kĩ thuật biểu diễn, đối với một ITS, thì một loạt những phương pháp biểu diễn khác nhau có thể được xây dựng thông qua tri thức lĩnh vực, và đối với nhiều ITS, cơ sở tri thức có thể được sử dụng dễ dàng cho những hệ thống tương lai dựa vào lĩnh vực tương tự (Hình 2.4). Tính linh hoạt này có thể thêm vào sức mạnh của một ITSAT nếu nó được nối kết với việc tái sử dụng kĩ thuật biểu diễn. 43
- Những công cụ soạn thảo ITS GVHD: TS. Lê Hoài Bắc Giao diện Giao diện Giao diện Đồ hoạ Văn bản Đồ hoạ ITS1 ITS2 Tri thức Lĩnh vực H2.4 Chia sẻ tri thức lĩnh vực độc lập Gần đây, với việc gia tăng việc sử dụng các “vật liệu” dựa trên phương tiện đa truyền thông, để có thể làm được và mở rộng một cách kinh tế, những vỏ khung soạn thảo cho ITS phải có thể tái sử dụng phương tiện đa truyền thông để hướng dẫn. Để làm điều này có thể cần có sự phân chia giữa các phương tiện đa truyền thông, tính chất tương tác của “vật liệu” dạy học và mạng ngữ nghĩa hướng dẫn của nó. Nhiều sản phẩm phương tiện đa truyền thông đã có sẵn dưới những định dạng tiêu chuẩn hóa. Chẳng hạn, những đoạn phim trong QuickTime, định dạng phim MPEG và AVI, những định dạng hình ảnh GIF, JPEG, và PICT , và định dạng âm thanh WAVE, AV và MOD. Mối quan tâm hiện tại là trong việc xây dựng dựa vào tiêu chuẩn hiện tại được cung cấp trên World Wide Web (WWW) bởi HTML (HyperText Markup Language) và việc sử dụng những tính năng WWW. Hầu hết những ITS đòi hỏi những nền chuyển giao đặc biệt và rằng việc sử dụng WWW và HTML có thể cung cấp một nguồn chuyển giao độc lập nền. Một vài nhà nghiên cứu 44
- Những công cụ soạn thảo ITS GVHD: TS. Lê Hoài Bắc đang nghiên cứu việc sử dụng www như là một trung gian cho sự biểu diễn ITS và nếu điều này khả thi việc tái sử dụng tài liệu HTML có thể làm giảm đáng kể việc phát triển “vật liệu” biểu diễn mà cần thiết cho những ITS mới. Và gần đây nhất là sự xuất hiện ngày càng nhiều ngôn ngữ XML (Extensible Markup Language) trong việc lưu trữ dữ liệu, xử lý Đặc biệt ngôn ngữ ở dạng văn bản nên có thể được sử dụng bất cứ ở đâu, không phụ thuộc nền. Một cách đặc trưng khác mà biểu diễn bằng phương tiện đa truyền thông có thể được tái sử dụng là trong những công cụ xây dựng giao diện mà có thể được sử dụng để xây dựng giao diện người dùng. Những thư viện của những thành phần có thể được biểu diễn như là một tài nguyên bộ công cụ cho những hệ thống dạy học để tập hợp. Cung cấp những công cụ để làm dễ dàng việc xây dựng thành phần giao diện của một ITS là hiệu quả, không có những giao diện thích hợp việc học tập có thể giảm xuống, đặc biệt nếu người dùng có thể sẽ dễ dàng đánh mất sự thích thú với việc học. Một mối quan tâm thứ ba là việc tái sử dụng chiến lược dạy học. Tri thức dạy học hay những chiến lược dạy học thường được mã hoá cứng trong những ứng dụng giáo dục. Điều này làm phức tạp việc tái sử dụng tri thức đó trong những hệ thống tiếp theo. Vấn đề này bị gây ra bởi việc thiếu những phương pháp luận được kiểm chứng cho việc xây dựng ITS. Nối kết những chiến lược dạy học và sự kiểm soát hệ thống nếu không dự tính trước làm cho khó khăn để phân chia những thành phần cho khả năng tái sử dụng. Bằng cách định danh và hệ thống hoá những chiến lược dạy học tổng quát chúng ta có thể tái sử dụng tri thức dạy học trong việc xây dựng phần mềm giáo dục. 2.4.2/ Kiểm soát hệ thống : Một vấn đề gặp phải trong việc phát triển một công cụ soạn thảo ITS là mức độ kiểm soát mà hệ thống nên có qua sự phát triển những thành phần ITS. Một sự xem xét 45
- Những công cụ soạn thảo ITS GVHD: TS. Lê Hoài Bắc quan trọng là với quyết định hướng dẫn then chốt nào dự định sẽ là những hành vi mặc định của ITSAT và bao nhiêu sự kiểm soát đối với tác giả soạn thảo. Bởi vì một trong những mục đích của việc phát triển ITSAT là để làm nhẹ bớt cho những tác giả soạn thảo với những tác vụ mà họ không tinh thông, vấn đề tổng quát nảy sinh một lần nữa. Nếu một công cụ có tính tổng quát thích hợp, làm cách nào để nó có thể đối phó với những nhu cầu cá nhân của những tác giả soạn thảo ITS khác nhau ? Cũng vậy, có vấn đề cho một ITS tổng quát phải có những tương tác thích hợp với nhiều người dùng khác nhau. Thành công của một công cụ hệ thống dạy học sẽ phụ thuộc vào khả năng ứng dụng tổng quát của nó, tính dễ dàng của việc xây dựng ứng dụng mới, cũng như khả năng để cung cấp cho người học một “nhiệm vụ” hấp dẫn và một ngữ cảnh thực tế mà họ có thể thực hiện những kĩ năng của mình. Một hướng tiếp cận để tăng tính tiện lợi cho những nhà phát triển hướng dẫn là đặt hướng dẫn, giao diện, thiết kế và lập trình dưới sự kiểm soát của công cụ phát triển. Trong hệ thống của Hsieh và Redfield, AIDA, nhà hướng dẫn xây dựng một cơ sở dữ liệu mô tả một nhóm thiết bị hay hệ thống và phát triển và chèn những hình ảnh để minh họa thiết bị; AIDA sau đó sử dụng tri thức thiết bị trong Cở sở dữ liệu để phát sinh lời hướng dẫn tựa dạy học với những câu hỏi thực hành và phản hồi gắn vào. Tiến trình này được làm dễ dàng bởi công cụ soạn thảo bằng cách chuyên biệt hoá thuật ngữ và những khái niệm được hiển thị bởi hệ thống đến những khái niệm từ lĩnh vực hiện tại. Một giải pháp cho tính phức tạp của việc xây dựng những ITS là phải giới hạn phạm vi soạn thảo. Trong hướng tiếp cận này, tri thức chung trong một danh mục được mã hoá như những mô tả độc lập lĩnh vực. Những sự mô tả này sau đó được sử dụng bởi một công cụ soạn thảo trong một dạng dễ hiểu cho tác giả soạn thảo ITS. Những ví dụ của tri thức chung từ những hệ thống ITS đã tồn tại có thể được tìm thấy trong lĩnh vực lập chương trình máy tính dạy học và lĩnh vực truy vấn thắc mắc . 46
- Những công cụ soạn thảo ITS GVHD: TS. Lê Hoài Bắc Một mức khác của sự kiểm soát mà một hệ thống soạn thảo có thể có qua quá trình xây dựng là theo dõi tiến trình soạn thảo. Nếu phạm vi của lĩnh vực được giới hạn, hệ thống soạn thảo có thể theo dõi và cung cấp phản hồi cho tác gia soạn thảo dưới dạng định danh những lỗi có thể và sự mâu thuẫn trong các mô tả hiện tại. Những công cụ này dò tìm và chuẩn đoán công việc của tác giả soạn thảo, theo vết những vấn đề xảy ra, chẳng hạn, sự hoàn thiện của phần mềm dạy học và phần ngữ pháp chứa đựng những mẫu có tính đàm thoại không liên kết. Hệ thống này chứa một thành phần “cố vấn” mà được sử dụng để giúp đỡ người thiết kế sử dụng một tập những công cụ phát triển hệ thống. Những quy tắc cho việc sử dụng hiệu quả những công cụ được sử dụng để trợ giúp tác giả soạn thảo. Chẳng hạn, nếu mức kĩ năng của ITS không thích hợp với những nhu cầu huấn luyện được định danh trong pha phân tích thì một quy tắc sẽ được “bắt” để hiển thị một thông điệp cảnh báo thích hợp. 2.4.3/ Những chú thích bằng hình ảnh cho sự đạt được tri thức : Thông tin bằng hình ảnh, đặc biệt là những thông tin có bản chất rắc rối và phức tạp, trong nhiều năm là chủ đề của công việc có thể xem xét bởi nhiều người. Việc sử dụng những chú thích bằng hình ảnh có thể đặc biệt có ích cho việc đạt được tri thức. Khi nhiều người sử dụng tiềm năng những ITSAT có rất ít hay không có sự hiểu biết về những kĩ thuật biểu diễn tri thức, việc sử dụng chú thích bằng đồ hoạ có thể làm dễ dàng những yêu cầu học tập của họ cho pha đạt được tri thức của sự phát triển một ITS. Từ quan điểm của một ITSAT, việc cung cấp một chú thích bằng hình ảnh phụ thuộc vào 2 thứ. Đầu tiên là, kĩ thuật biểu diễn tri thức là phải được sử dụng; và thứ hai là, loại giao diện được sử dụng bởi hệ thống ITSAT. Việc lựa chọn một loại giao diện phức tạp bởi các phiên bản của nền chuyển giao hệ thống và các tài nguyên hệ thống. 47
- Những công cụ soạn thảo ITS GVHD: TS. Lê Hoài Bắc 2.4.4/ Phát triển những giao diện lĩnh vực : Bởi việc giảm giá thành trong phần cứng về đồ hoạ (Màn hình, CDROM, đĩa laser, và các thiết bị nhập trực tiếp) và tính sẵn sàng của những công cụ này, không có một hạn chế về những giao diện người dùng mà có thể được tạo ra. Vì vậy, chỉ có một giới hạn thực sự về việc xây dựng giao diện là thời gian để xây dựng giao diện và mức độ chi tiết mà được yêu cầu cho dạy học được trình bày. Sự kết hợp hài hoà của các phương tiện đa truyền thông đối với ITS cung cấp tiềm năng để tạo ra những hệ thống thông minh mà có thể hướng dẫn và minh hoạ bằng cách sử dụng âm thanh, hoạt hình và đoạn phim. Không may là việc xây dựng giao diện người dùng thường nằm ngoài sự hiểu biết của nhiều tác giả soạn thảo ITS sau này. Cung cấp một bộ công cụ ở mức cao cho thiết kế giao diện và phát triển có thể làm giảm nhu cầu cho tri thức xây dựng giao diện lớn. Điều này hữu ích khi một tiến trình chính trong thiết kế và xây dựng một ITS đang xây dựng một giao diện cho người học sử dụng. Hai hướng tiếp cận cho viêc phát triển những giao diện có thể thấy ở Hình 3.5. Trong Hình 3.5(a), nội dung lĩnh vực được liên kết trực tiếp đến giao diện người dùng và trong Hình 3.5(b), nội dung lĩnh vực được giữ riêng với sự phát triển giao diện. 48
- Những công cụ soạn thảo ITS GVHD: TS. Lê Hoài Bắc Giao diện Giao diện Người học Người học Tri thức Chiến lược Lĩnh vực Dạy học Tri thức Chiến lược Lĩnh vực Dạy học Phát triển thành phần ITS (a) Phát triển thành phần ITS (b) H2.5 Hai hướng tiếp cận đến phát triển giao diện Trong nhiều trường hợp việc thiết kế giao diện người học được kết hợp với việc thiết kế môn học và bài học. Điều này có thể dẫn đến trong những công cụ phát triển khổng lồ mà thỉnh thoảng khó sử dụng và có thể không linh hoạt trong ứng dụng của chúng. Một trong những thuận lợi chính của việc giữ tách rời việc phát triển giao diện là để không có giới hạn nào về loại giao diện có thể được sử dụng. Nếu mục đích của ITSAT là càng tổng quát càng tốt, thì cung cấp khả năng linh hoạt trong việc lựa chọn giao diện là rất quan trọng. Một cách lý tưởng, sự cung cấp để bất lỳ công cụ phát triển giao diện nào có thể được sử dụng để xây dựng giao diện người dùng là điều được mong muốn. Tuy nhiên, hướng phân chia giao diện từ lĩnh vực không có thuận lợi riêng của nó. Một công cụ giao diện độc lập không có ngữ cảnh để dựa vào sự phát triển của nó trong đó. Mỗi một giao diện phải được hoàn chỉnh ngay từ đầu. Nếu một sự phát triển 49
- Những công cụ soạn thảo ITS GVHD: TS. Lê Hoài Bắc giao diện được liên kết với một lĩnh vực thì sau đó những thành phần biểu diễn lĩnh vực có thể được “thu thập” vào trong một thư viện tài nguyên để hỗ trợ việc phát triển giao diện. Điều này khuyến khích việc tái sử dụng những thành phần giao diện cho ITS trong những lĩnh vực tương tự. Trong khi việc tái sử dụng này là mong muốn, chi phí linh hoạt trong việc thiết kế giao diện. Lớp giao diện Chiến lược Dạy học Engine Giao diện Dạy học Người dùng Tri thức Lĩnh vực H2.6 Sự phân chia giao diện ITS Trong công việc hiện tại, hướng thứ hai đã được thực hiện. Lợi ích tiềm năng trong khả năng linh hoạt và tự do trong việc lựa chọn giao diện và những thuận lợi của việc giữ những thành phần của một ITS độc lập dường như được thanh minh. Để cho phép một giao diện độc lập lĩnh vực để được thêm một ITS ở đây là cần một vài tầng tiêu chuẩn hóa giữa giao diện và hệ thống ITS (Hình 2.6). 2.4.5/ Tính tổng quát và riêng biệt : + Khả năng ứng dụng tổng quát của một ITSAT có thể trở thành mối quan tâm lớn trong việc phát triển của nó. Đây là điều được mong muốn nếu một ITSAT hoàn 50
- Những công cụ soạn thảo ITS GVHD: TS. Lê Hoài Bắc toàn có thể được phát triển. Không may là, có nhiều mức tổng quát khác nhau khi xây dựng ITS mà cần xem xét. Đầu tiên, có tính tổng quát của ITS hoàn chỉnh. Độc lập lĩnh vực được mong muốn cho một ITS nhưng thật khó để đạt được mà không giới hạn sức mạnh dạy học của hệ thống. Thứ hai là, kiểu của những chiến lược dạy học mà có thể được hỗ trợ và định nghĩa sẽ mất đi chất lượng nếu một hướng tiếp cận tổng quát được thực hiện. Thứ ba là, một công cụ tổng quát phải cung cấp một giao diện tổng quát để áp dụng cho một loạt nhiều tác vụ. Bởi tính tổng quát của nó, giao diện phải độc lập lĩnh vực và vì vậy được giới hạn. Những công cụ mà nhằm vào tính tổng quát có tiềm năng để hỗ trợ việc thiết kế một loạt nhiều ứng dụng nhưng thường áp đặt những sự giới hạn vào kiểu tương tác trong ứng dụng nhắm tới, cung cấp ít sự hỗ trợ thiết kế và dựa vào những mô hình hướng dẫn tổng quát. Mặc dù một mức độ cao của tính tổng quát có thể dường như được mong muốn, một sự thực thi tốt của những công cụ soạn thảo như vậy sẽ cực kỳ khó khăn để đạt được. Cố gắng cung cấp một công cụ với mức độ của tính tổng quát dẫn đến cho ITS hoặc là yếu về mặt dạy học hoặc là đòi hỏi những nỗ lực phát triển cao. + Có lẽ không có lời khuyên nào để xây dựng những ITSAT có mục đích tổng quát, nhưng tập trung vào những công cụ với những chức năng tổng quát cho một lĩnh vực riêng biệt hay loại tác vụ là một hướng tiếp cận tốt. Hướng tiếp cận này có thể cung cấp những công cụ với mục đích đặc biệt hơn là những mô hình chung và được xây dựng dựa vào một mô hình rõ ràng của việc xây dựng. Khi môi trường được tập trung vào một lĩnh vực, những công cụ này nhiều khả năng hơn để có thể cung cấp một môi trường phát triển tương tác giàu tiềm năng, và sẽ tốt hơn để có thể cung cấp sự hướng dẫn thiết kế. Những bất lợi chính cho hướng tiếp cận này là có một dãy các thiết kế hẹp mà có thể được phát triển và có sự phụ thuộc vào mô hình mà được “xúc tiến” bởi công cụ. 51
- Những công cụ soạn thảo ITS GVHD: TS. Lê Hoài Bắc Cũng vậy bằng cách chuyên biệt hoá những công cụ, mỗi cái hỗ trợ việc thiết kế của một loại phần mềm giáo dục riêng biệt. Điều này có thuận lợi là tri thức thiết kế dễ dàng mã hoá, bởi vì phạm vi hẹp hơn và những người dùng và giao diện tiềm năng được đảm bảo bây giờ có lẽ đặc biệt hoá hơn cho những tác vụ liên quan. Không may là, những công cụ như vậy đánh mất tính tiện ích của chúng. Một cách mà sự chuyên biệt hoá có thể đạt được là bằng cách giới hạn môi trường học tập, chẳng hạn những kiểu của các chiến lược dạy học được tận dụng, hay những kĩ thuật biểu diễn có thể được định nghĩa dựa vào một vài tập mô hình nhận thức. + Hướng tiếp cận thứ ba là sự kết hợp của hướng tiếp cận chuyên biệt và hướng tiếp cận tổng quát. Để làm điều này, một định danh của những thành phần của một ITS mà sẽ hưởng lợi hầu như từ việc chuyên biệt hay tổng quát được cần thiết. Một lần nữa những phiên bản của thông tin nào thì độc lập lĩnh vực và cái gì thì phụ thuộc phải được đưa vào bảng kê khai. Như đã nói ở những phần trước, hai thành phần phụ thuộc lĩnh vực chính của một ITS là tri thức lĩnh vực và giao diện lĩnh vực. Điều này để cho thành phần kiểm soát/dạy học và những chiến lược dạy học mà phải được sử dụng. Nếu những điều này có thể được giữ độc lập lĩnh vực thì sau đó một nửa mô hình ITS chuẩn có thể hoàn thành yêu cầu độc lập lĩnh vực mà thúc đẩy việc tái sử dụng của những thành phần và tính tổng quát của hệ thống cuối cùng (Hình 2.7). Hướng tiếp cận này được khuyến khích nếu những công cụ phân chia được sử dụng cho việc đạt được tri thức và sự phát triển giao diện người dùng. Vì vậy làm đơn giản sự phát triển của những ITS tương lai dựa vào môi trường giống nhau bởi việc tái sử dụng những thành phần độc lập lĩnh vực. 52
- Những công cụ soạn thảo ITS GVHD: TS. Lê Hoài Bắc Lớp biểu diễn tri thức Lớp giao diện Engine Dạy học Tri thức Giao diện Lĩnh vực Người dùng Chiến lược Dạy học Những thành phần độc lập lĩnh vực H2.7 Phân chia những thành phần ITS Để giới hạn phạm vi của công việc hiện tại với những gì đã được thảo luận ở hướng tiếp cận thứ ba, 3 thành phần của ITSAT được chuyên biệt hoá: kĩ thuật biểu diễn tri thức, môi trường dạy học và loại vấn đề mà có thể được dạy, cụ thể là việc dạy những kĩ năng thủ tục. 2.5/ Dạy học những kĩ năng thủ tục : Dạy người sử dụng để điều hành các thiết bị hay để học những thủ tục phức tạp có thể tốn nhiều thời gian và chi phí. Đây là trường hợp đặc biệt khi thiết bị thực hành thì tốn kém và dễ hỏng. Cũng vậy, nếu thiết bị phải hoạt động trong môi trường nguy hiểm, việc huấn luyện dựa trên công việc có lẽ là không thể. Một giải pháp cho những vấn đề này là sử dụng những môi trường giả lập dựa vào máy tính. 53
- Những công cụ soạn thảo ITS GVHD: TS. Lê Hoài Bắc Có một vài thuận lợi khi sử dụng những giả lập trên máy tính như nền tảng của một môi trường học tập. Đầu tiên là, “ứng xử dụng cụ” có thể được định nghĩa một cách chính xác. Thế giới thực thường cung cấp nhiều ảnh hưởng không thể dự đoán và những yếu tố ngẫu nhiên mà có thể có hại nếu việc học trong một tình huống tập trung được yêu cầu. Thứ hai là, nhiều môi trường hoặc là quá nguy hiểm hoặc là có thể dẫn tới những kết quả tai hại không lường trước. Chẳng hạn, khi huấn luyện một kỹ sư trong hoạt động phản ứng hạt nhân, huấn luyện thực hành có lẽ không thể chấp nhận. Cũng vậy, nếu “dụng cụ” hay “vật liệu” được sử dụng là rất đắt, huấn luyện dựa trên công việc có thể là rất tốn kém . Cũng như với các huấn luyện dựa trên máy tính khác, việc sử dụng những giả lập trên máy tính có thuận lợi trong việc cung cấp việc dạy cho nhiều người dùng vào cùng một thời điểm và một khi những gói được phát triển chúng có thể được tái sử dụng khi cần thiết. Vì vậy huấn luyện đòi hỏi việc dạy “một kèm một” có thể là sẵn sàng hơn. Không may là, việc xây dựng một môi trường giả lập thích hợp không phải là một công việc dễ dàng. Huấn luyện trong các ngành công nghiệp dựa trên máy tính có hai hướng tiếp cận. Đầu tiên là phát triển sự giả lập bản sao đúng như thật sử dụng sự huấn luyện dựa trên thí nghiệm thực tế với người quản trị là người thật. Loại giả lập này là rất đắt, cả trong quá trình phát triển và sự quản trị, nhưng có thuận lợi trong việc cung cấp những môi trường huấn luyện hiện thực và cho phép sự thử nghiệm bởi nó khó thực hiện do những lý do an toàn. Hướng tiếp cận khác là hiển thị một tác vụ trên máy tính và kiểm tra người được huấn luyện tính thực thi đúng của tác vụ. Mặc dù môi trường này hạn chế hơn hướng tiếp cận đầu tiên, nhưng nó có thể rất hiệu quả cho các mục đích huấn luyện dựa trên thủ tục đã được định nghĩa tốt. Phương pháp thứ hai của việc dạy này được tìm thấy tính hiệu quả một cách đặc biệt khi một tiến trình được giả lập và người học hoặc là tương tác với hệ thống mô 54
- Những công cụ soạn thảo ITS GVHD: TS. Lê Hoài Bắc hình hoá hoặc là phải cố gắng để sửa sai các vấn đề khi một tiến trình không hoạt động chính xác. Khi dạy những kĩ năng thủ tục trong một ngữ cảnh giải quyết vấn đề, người học xuất hiện để học những thông tin một cách có hiệu quả hơn nếu họ được hiện diện với những thông tin đó xuyên suốt quá trình giải quyết vấn đề hơn là được dạy những nguyên tắc chung chung. Dạy học những kĩ năng thủ tục là một khía cạnh quan trọng của việc nghiên cứu về những hệ thống dạy học thông minh. Những phương pháp như vậy đã được sử dụng để tạo ra những loại môi trường học tập khám phá trong một loạt những lĩnh vực khác nhau. Công việc hiện tại đang tập trung vào sử dụng những kĩ thuật để dạy những kĩ năng thủ tục trong một môi trường giả lập dựa vào máy tính. Điểm nhấn mạnh chính là về những tác vụ mà có các bước tuần tự với một vài thứ tự có thể, đặc biệt trong lĩnh vực bảo trì và thao tác dụng cụ thiết bị. Tuy nhiên, khi cung cấp một môi trường giả lập cho một lĩnh vực thì cần có một vài giới hạn về sự giả lập để cho phép phạm vi của mô hình dễ định nghĩa. Không có bất kỳ giới hạn về những mô hình giả lập, chúng sẽ trở nên lớn, và sự sản xuất và điều khiển của chúng sẽ không thể quản lý. Giới hạn chính đối với công việc hiện tại là việc sử dụng một giả định thế giới tĩnh để giữ cho nó ở kích thước và chức năng có thể quản lý được. 2.6/ Giới thiệu một vài công cụ soạn thảo : Phần trên ta đã trình bày khái niệm cũng như một vài yêu cầu mà một ITSAT cần có. Trong phần này, ta sẽ trình bày tiếp một vài công cụ soạn thảo đã hoàn chỉnh. Đầu tiên, đó là sự phân loại công cụ soạn thảo. Sự phân loại này chỉ nhằm phân biệt những ITSAT đã phát triển, không nhằm đưa ra một sự phân loại tổng quát cho tất cả các công cụ soạn thảo. Vì vậy đây chỉ là một căn cứ để các nhà phát triển có thể dựa 55
- Những công cụ soạn thảo ITS GVHD: TS. Lê Hoài Bắc vào để phát triển những hệ thống của mình. Cuối phần này ta sẽ mô tả nội dung của một ITS cần soạn thảo, cũng như các phương pháp soạn thảo. 2.6.1/ Sự phân loại theo tác vụ và dạy học : Bất kỳ sự thảo luận nào về công cụ sẽ là quá trừu tượng mà không có một vài ngữ cảnh miêu tả những hệ thống dạy học mà chúng được sử dụng để xây dựng. ITSAT được sử dụng để xây dựng những hệ thống dạy học trong nhiều lĩnh vực, bao gồm dịch vụ khách hàng, toán học, bảo trì thiết bị Những hệ thống dạy học này hướng đến mục đích là nhiều đối tượng người học. Tuy nhiên, sự khác nhau quan trọng giữa các ITSAT không liên quan đến lĩnh vực chuyên biệt hay số lượng người học, nhưng đến những khả năng độc lập lĩnh vực mà những ITS đã soạn thảo có. Trong phần này, ta trình bày một sự phân loại những công cụ soạn thảo dựa trên khả năng của chúng. Bảng 1.1 liệt kê 7 danh mục ITSAT, được nhóm theo loại ITS mà chúng tạo ra. Bảng 2.2 tóm tắt những phần bên dưới, mà miêu tả sức mạnh và giới hạn của mỗi loại công cụ soạn thảo, và sự khác nhau giữa những công cụ soạn thảo trong các nhóm. Bảng 2.2 mô tả sức mạnh và sự giới hạn của mỗi danh mục, cùng với sự tóm tắt về những hệ thống trong danh mục khác nhau như thế nào. Bảng 1.1 Danh mục phân loại những ITSAT Danh mục Hệ thống ví dụ 1 Sự sắp thứ tự và lên kế hoạch môn DOCENT, IDE, ISD Expert, Expert học CML 2 Những chiến lược dạy học Eon, GTE,REDEEM 3 Giả lập thiết bị và huấn luyện thiết DIAG, RIDES, SIMQUEST, XAIDA 56
- Những công cụ soạn thảo ITS GVHD: TS. Lê Hoài Bắc bị 4 Hệ chuyên gia lĩnh vực Demonstr8, D3 Trainer, Training Express 5 Loại đa tri thức CREAM-Tools, DNA, ID-Expert, IRIS, XAIDA 6 Mục đích đặc biệt IDLE-Tool/Imap, LAT 7 Chương trình được dạy học dựa CALAT, GETMAS, InterBook, trên media thích ứng / thông minh MetaLinks Bảng 2.2 : Sức mạnh và giới hạn của những ITSAT theo danh mục Danh mục Sức mạnh Giới hạn Sự khác nhau Sự sắp thứ tự và Những quy tắc, sự Tính đúng đắn Hoặc là những lên kế hoạch môn ràng buộc hay chiến thấp, sự biểu diễn quy tắc sắp thứ tự học lược cho việc sắp thự kĩ năng “cạn” được sửa hoặc là tự các khoá học, được soạn; “vật modul, sự trình bày liệu” làm nền của quá trình soạn thảo Những chiến Những chiến lược (nt) Phương pháp biểu lược dạy học dạy học ở mức rất diễn chiến lược; nhỏ; tập các hướng nguồn của chuyên dẫn cơ bản rất tinh môn hướng dẫn 57
- Những công cụ soạn thảo ITS GVHD: TS. Lê Hoài Bắc vi; đa chiến lược dạy học Giả lập thiết bị và Sự soạn thảo và dạy Những chiến lược Tính đúng đắn huấn luyện thiết học phù hợp với sự hướng dẫn giới của sự giả lập; dễ bị định danh, hoạt động hạn; mô hình soạn thảo và truy vấn thắc mắc người học giới thành phần thiết bị hạn;hầu hết là những kĩ năng thủ tục Hệ chuyên gia Mô hình chuyên môn Xây dựng hệ Những mô hình lĩnh vực lĩnh vực có thể chạy; chuyên gia khó; nhận thức hay mô hình và sự chuẩn giới hạn đối với thực thi chuyên đoán người học tốt; chuyên môn giải môn bao gồm những quy quyết vấn đề và tắc cho người mới thủ tục; giới hạn học và những quy tắc những chiến lược bắt lỗi hướng dẫn Loại đa tri thức Sự biểu diễn rõ ràng Giới hạn đến Bao gồm sự sắp và những phương những sự kiện, thứ tự môn học pháp hướng dẫn khái niệm, thủ tục thông minh; loại được định nghĩa đơn giản có liên tri thức /tác vụ trước cho các sự quan; những chiến được hỗ trợ kiện, khái niệm và lược dạy học đã thủ tục được định nghĩa trước 58
- Những công cụ soạn thảo ITS GVHD: TS. Lê Hoài Bắc Mục đích đặc biệt Những hệ thống Mỗi công cụ giới Mức độ của tính được dựa trên mẫu hạn cho một loại cứng cung cấp hướng dẫn hệ thống dạy học soạn thảo mạnh, thiết riêng biệt; tính kế từng phần hay cứng của sự biểu những nguyên tắc có diễn và dạy học . liên quan đến dạy học có thể được tuân theo. Chương trình dạy WWW có khả năng Giới hạn ở tính Sự tập trung ở học dựa trên truy cập và giao diện tương tác; Giới mức độ vĩ mô và media thích ứng / người dùng đồng hạn độ rộng của vi mô; mức độ thông minh nhất; sự lựa chọn mô hình người của sự tương tác thích ứng và lời chú học thích của những siêu liên kết Lúc đầu những ITSAT rơi vào 2 loại chính : những cái nghiêng về sự giả lập thiết bị và bao gồm một môi trường học tập các hướng dẫn; và những cái dựa trên các phần mềm truyền thống. Ngay cả mặc dù những hệ thống gần đây nối kết những khía cạnh của cả hai, nhưng đa số những công cụ soạn thảo rơi tương tự vào 2 danh mục : Hướng về giáo dục và Hướng về thực hành. Những hệ thống hướng giáo dục (danh mục 1,2,5,7 trong Bảng 1.1) tập trung vào cách sắp thứ tự và dạy những nội dung được đúng hộp có liên quan. Những hệ thống thực hành (danh mục 3,4, và 6 trong Bảng 1.1) 59
- Những công cụ soạn thảo ITS GVHD: TS. Lê Hoài Bắc tập trung vào việc cung cấp một môi trường học tập “giàu chức năng”, ở đó người học có thể học tập những kĩ năng bằng cách rèn luyện và nhận những phản hồi. Bên dưới là mô tả những danh mục được liệt kê trong Bảng 1.1 và 1.2 2.6.1.1/ Sự sắp thứ tự và lên kế hoạch môn học : Những hệ thống soạn thảo trong danh mục sắp thứ tự khoá học và môn học tổ chức những đơn vị hướng dẫn (IUs – Intruction Units) vào trong cấu trúc cây các khoá học, các modul, các bài học, các sự biểu diễn mà liên quan bởi các điều kiện tiên quyết, và những mối liên hệ khác. Những đơn vị hướng dẫn bình thường có những mục đích hướng dẫn. Một vài hệ thống bao gồm những đơn vị hướng dẫn mà giảng giải các khái niệm khó hiểu hay “vật liệu” dành cho người học yếu kém. Nội dung được lưu trữ trong văn bản và đồ hoạ được đóng gói. Những hệ thống này được xem như những công cụ để giúp những nhà thiết kế hướng dẫn và giáo viên thiết kế những khoá học và quản lý việc học dựa trên máy tính. Sự sắp xếp thông tin của những đơn vị hướng dẫn (hay nội dung, hay những chủ đề) là lõi của những hệ thống này. Đối với người học, những hệ thống dạy học được xây dựng với những công cụ này có lẽ dường như giống hệt đối với sự hướng dẫn dựa trên máy tính truyền thống. Những màn hình của văn bản và hình ảnh đã đóng gói được hiển thị, và những sự tương tác có khả năng giới hạn ở dạng trắc nghiệm, điền chố trống, Dĩ nhiên, sự khác nhau là sự sắp xếp nội dung được xác định một cách động dựa vào năng lực của người học, mục đích bài học, và những mối quan hệ giữa những module khoá học. Bởi vì tri thức lĩnh vực không được biểu diễn ở chiều sâu nên lĩnh vực nào cũng có thể được dạy. Nhưng chiều của sự chuẩn đoán và phản hồi trong những hệ thống dạy học được xây dựng với những công cụ soạn thảo này được giới hạn bởi độ “nông” của sự biểu diễn tri thức lĩnh vực. Điều này làm cho chúng thích hợp hơn cho việc xây dựng những hệ thống dạy học về khái niệm, khai báo và từng đoạn của tri thức, và ít mạnh để xây dựng những hệ thống dạy học mà dạy những kĩ 60
- Những công cụ soạn thảo ITS GVHD: TS. Lê Hoài Bắc năng giải quyết vấn đề và thủ tục. Nói một cách tổng quát, những hệ thống soạn thảo trong danh mục sắp thứ tự môn học là cơ bản nhất, hay có chức năng một cách tối thiểu (mặc dù mỗi hệ thống trong danh mục có những tính năng hay khả năng quan trọng nhất định). Một vài danh mục khác được mô tả bên dưới chứa đựng những khả năng tối thiểu (chẳng hạn sự sắp thứ tự môn học hay lên kế hoạch) và thêm vào tính năng bổ sung. 2.6.1.2/ Những chiến lược dạy học : Những hệ thống trong danh mục này làm tốt về việc biểu diễn những chiến lược dạy học khác nhau. Chúng có khả năng tương tự với những hệ thống sắp thứ tự môn học được mô tả ở trên, trong đó nội dung được lưu trữ trong văn bản và đồ họa được “đóng hộp” và sự biểu diễn tri thức lĩnh vực thì “nông cạn”. Tuy nhiên, những hệ thống này cũng mã hoá những chiến lược tốt bởi giáo viên và chuyên gia hướng dẫn. Những hệ thống trong danh mục 1 có khả năng tập trung vào mức hướng dẫn “vĩ mô”, chẳng hạn sự sắp thứ tự của những chủ đề hay module, trong khi những hệ thống trong danh mục này tập trung vào mức hướng dẫn “vi mô”. Những quyết định hướng dẫn ở mức “vi mô” bao gồm khi nào và như thế nào để đưa những lời giải thích, tóm tắt, ví dụ và sự tương tự; loại gợi ý và phản hồi nào được cho; và loại câu hỏi và bài tập nào để đưa cho người học. Những hệ thống trong danh mục 1 có tập tinh vi các chiến lược dạy học cơ bản, được so sánh với những hệ thống trong danh mục khác. Cũng vậy tính chất đối với những hệ thống trong danh mục này là khả năng biểu diễn đa chiến lược dạy học và “siêu chiến lược” mà lựa chọn chiến lược dạy học thích hợp cho tình huống đưa ra. Cũng như trong những hệ thống trong danh mục 1, người học sử dụng những hệ thống dạy học được xây dựng với những công cụ soạn thảo này sẽ nhìn thấy những màn hình của sự tương tác bị giới hạn — chúng sẽ học bằng cách học và suy nghĩ hơn là học bằng cách làm. Tuy nhiên, tính sẵn sàng và sự xen vào thông minh của những lời giải thích, gợi ý ở các mức khác nhau, và sự tương tự có thể làm cho hệ thống dạy 61
- Những công cụ soạn thảo ITS GVHD: TS. Lê Hoài Bắc học dường như sẵn sàng hồi đáp, được so sánh với sự dạy được xây dựng vởi hệ thống trong danh mục 1. 2.6.1.3/ Giả lập thiết bị và huấn luyện thiết bị : Đối với những hệ thống dạy học được xây dựng bởi những công cụ soạn thảo trong danh mục này, người học được trình bày một mẫu thiết bị và được yêu cầu để định danh những thành phần của nó, thực hiện những bước vận hành, thực hiện những bước bảo trì, hay chuẩn đoán hành vi lỗi thiết bị và sửa hay thay thế những phần liên quan. Những loại kĩ năng này tương đối rộng và tổng quát, vì vậy những công cụ soạn thảo được chuyên biệt hoá trong lĩnh vực này nên có thể sử dụng rộng rãi. Tri thức chuyên môn cho sự định vị thành phần và những kịch bản vận hành thì dễ dàng để mô hình hoá. Việc theo dõi thực hiện và phản hồi hướng dẫn thì cũng dễ. Vì vậy những công cụ soạn thảo có thể được xây dựng phù hợp với những nhu cầu của tác giả soạn thảo (và người học). Nhiệm vụ soạn thảo khó khăn nhất với những hệ thống này là xây dựng sự giả lập thiết bị. Nhưng một khi sự giả lập được soạn thảo, nhiều đặc điểm kĩ thuật hướng dẫn sẽ tự có. Sự định vị thành phần hay hành vi thiết bị có thể được tổng quát hoá một cách tự động. Tuy nhiên, những thủ tục vận hành thiết bị phải được soạn thảo. Trái ngược với những công cụ soạn thảo trong 2 danh mục trước, người học sử dụng những hệ thống dạy học được xây dựng với những công cụ soạn thảo trong danh mục này sẽ được “học bằng cách làm”. Sự hướng dẫn có tính chất giới thiệu hay thuộc khái niệm sẽ vắng mặt hay bị giới hạn, và chúng thừa nhận là người học có sự thân thiện cơ bản với những khái niệm và thủ tục quan trọng trong lĩnh vực trước khi sử dụng hệ thống dạy học. Những hệ thống dạy học này là những môi trường học tập để rèn luyện những kĩ năng. Những phản hồi riêng biệt được cho đối với mỗi bước kĩ năng, và độ khó của tác vụ được tăng lên cùng với tiến trình của người học. 62
- Những công cụ soạn thảo ITS GVHD: TS. Lê Hoài Bắc Nhân tố khác biệt chính giữa những hệ thống trong danh mục này là chiều sâu và sự chính xác của bộ giả lập thiết bị. Những công cụ soạn thảo “lên xuống” từ những cái hỗ trợ những nối quan hệ dựa trên sự diễn đạt tĩnh giữa những thành phần thiết bị đến những cái hỗ trợ khả năng chạy nhưng những mô hình giả lập nông cạn; đến những cái hỗ trợ độ sâu hơn, những mô hình nhận thức hay nguyên nhân của cách mà thiết bị làm việc. Những công cụ cũng thay đổi rộng trong các loại thiết bị và những tiến trình vật lý mà chúng có thể mô hình hoá. 2.6.1.4/ Hệ chuyên gia lĩnh vực : Một lớp quan trọng của những hệ thống dạy học thông minh là những công cụ mà bao gồm những mô hình nhận thức dựa quy tắc của chuyên môn lĩnh vực. Những hệ thống dạy học như vậy, thường gọi là những hệ thống dạy học theo vết, quan sát hành vi người học và xây dựng một mô hình nhận thức tốt của tri thức người học mà có thể được so sánh với những mô hình chuyên gia. Những công cụ soạn thảo được làm nguyên mẫu cho những hệ thống dạy học như vậy. Trong danh mục này, những công cụ soạn thảo sử dụng hệ chuyên gia truyền thống ( được xây dựng để giải quyết vấn đề, không phải để dạy) và sản xuất ra sự hướng dẫn “thêm giá trị” cho chuyên môn được mã hoá. Những hệ thống này tương tự với những hệ thống truy vết theo mẫu, ngoại trừ hệ chuyên gia dựa trên khả năng thực hiện, hơn là những tiến trình nhận thức. Một vài hệ thống bao gồm những quy tắc ở mức mới học hay những quy tắc bắt lỗi mà bắt những lỗi chung, cho phép đưa ra những phản hồi đặc biệt cho những lỗi này trong quá trình dạy học. Người học sử dụng những hệ thống này thường giải quyết những vấn đề và những vấn đề phụ liên kết trong cùng mục đích và nhận phản hồi khi những phân kỳ hành vi của họ từ mô hình chuyên gia. Không giống hầu hết những hệ thống được miêu tả ở trên, những hệ thống này có một mô hình về chuyên môn tương đối “sâu”, và vì vậy người học, khi bị cản trở, có thể yêu cầu hệ thống dạy học thực hiện bước kế tiếp, 63
- Những công cụ soạn thảo ITS GVHD: TS. Lê Hoài Bắc hay để hoàn thành giải pháp cho toàn bộ vấn đề. Soạn thảo một hệ chuyên gia là một nhiệm vụ cần nhiều thời gian và khó khăn, và chỉ những tác vụ nhất định có thể được mô hình theo kiểu này. 2.6.1.5/ Loại đa tri thức : Những lý thuyết thiết kế hướng dẫn phân loại tri thức và tác vụ vào trong những danh mục riêng biệt, và quy định những phương pháp hướng dẫn cho mỗi danh mục. Chúng có khả năng được giới hạn vào loại tri thức mà có thể dễ dàng được định nghĩa, chẳng hạn những sự kiện, những khái niệm và những thủ tục. Mặc dù những loại tri thức và những phương pháp hướng dẫn thay đổi cho những lý thuyết khác nhau, chúng quy định một cách đặc thù sự hướng dẫn tương tự những cái sau. Những sự kiện được dạy với những bài thực hành lặp lại và những thiết bị giúp trí nhớ; những khái niệm được dạy sử dụng sự tương tự và những ví dụ khẳng định và phủ định tiến triển từ nguyên mẫu; những thủ tục được dạy từng bước tại một thời điểm. Sự hướng dẫn cho những loại tri thức bao gồm cả sự biểu diễn có tính mô tả của tri thức, và những bài tập có tính dò hỏi mà cho phép sự thực hành và phản hồi. Những chiến lược hướng dẫn sẽ dễ cho việc làm thế nào để sắp thứ tự nội dung và những bài tập, và làm thế nào để cung cấp phản hồi, được định nghĩa một cách riêng lẻ cho từng loại tri thức. Bản chất của tri thức được định nghĩa trước và những chiến lược hướng dẫn là cả về sức mạnh và độ yếu của những hệ thống này. Tri thức lĩnh vực cho từng loại tri thức có thể được biểu diễn dễ dàng cho những tác giả soạn thảo, người điền chỗ trống theo mẫu cho những ví dụ, những bước, những định nghĩa, (phụ thuộc vào loại tri thức). Những công cụ này hỗ trợ sự phân tích của những kĩ năng phức tạp trong những thành phần tri thức cơ sở, và liên kết giữa những thành phần tri thức có thể được soạn thảo và sử dụng trong sự hướng dẫn (chẳng hạn những khái niệm và sự kiện mà hỗ trợ một thủ tục và một khái niệm mà giúp giải thích một khái niệm khác). Bởi vì những chiến lược hướng dẫn được sửa và dựa vào những loại tri thức nên chúng không phải được soạn 64
- Những công cụ soạn thảo ITS GVHD: TS. Lê Hoài Bắc thảo. Dĩ nhiên, không phải tất cả sự hướng dẫn đều phù hợp với nền tảng này, nhưng nó có tính ứng dụng thật sự rộng. Những công cụ soạn thảo trong danh mục này thay đổi theo nhiều khía cạnh, nhưng tất cả chúng sử dụng sơ đồ phân loại kĩ năng/tri thức hiển thị và hướng dẫn một cách khác nhau dựa vào loại tri thức. Cũng vậy, chúng có thể trích dẫn những tài liệu thiết kế hướng dẫn cổ điển như phần của nền tảng cho hướng tiếp cận giáo dục của chúng. Đối với người học, những hệ thống dạy học được xây dựng với những hệ thống này tương tự vì bản chất của những cái trong danh mục 2. Sự khác nhau chính là đối với người soạn thảo, nhiệm vụ của họ là phụ thuộc hơn, và vì vậy cả dễ dàng hơn và ít linh động hơn. 2.6.1.6/ Mục đích đặc biệt : Trong danh mục này thì những công cụ soạn thảo được chuyên biệt hoá trong những tác vụ hay lĩnh vực đặc biệt. Những hệ thống trong danh mục 3 cũng cho những loại tác vụ đặc biệt, nhưng những hệ thống trong danh mục này tập trung vào những tác vụ riêng biệt hơn, ít tổng quát. Có một nguyên tắc thô mà những công cụ soạn thảo biến đổi để đáp ứng cho những tác vụ đặc biệt hay những tình huống hướng dẫn có thể hỗ trợ tốt hơn cho những nhu cầu của người học và tác giả soạn thảo cho những tình huống này. Những hệ thống trong danh mục này được thiết kế bằng cách bắt đầu bằng một thiết kế hệ thống dạy học thông minh đặc biệt và tổng quát để tạo ra khung nền cho việc xây dựng những hệ thống dạy học tương tự. Việc soạn thảo tựa mẫu nhiều hơn trong những danh mục của những công cụ soạn thảo khác. Những tác giả soạn thảo thường được cho những ví dụ nguyên mẫu để giúp họ điền đầy vào khoảng trống. Một vấn đề tiềm năng với việc soạn thảo với mục đích đặc biệt là một khi một tác vụ và hướng tiếp cận hưóng dẫn của nó được hệ thống hoá đủ để trở thành một mẫu, sau đó suy ra hệ thống phản ánh một hướng tiếp cận rất chuyên biệt cho việc biểu diễn và dạy học tác vụ đó. 65
- Những công cụ soạn thảo ITS GVHD: TS. Lê Hoài Bắc Bởi vì chỉ những thứ mà hệ thống trong danh mục này có theo cách chung cho rằng chúng hỗ trợ những loại đặc biệt những tác vụ trong lĩnh vực, ta không nói bất kỳ thứ gì mà tổng quát về những loại hệ thống dạy học được xây dựng hay về sự thử nghiệm người học sử dụng hệ thống dạy học. 2.6.1.7/ Chương trình dạy học dựa trên media thích ứng / thông minh : Bởi vì những hệ thống dựa trên phương tiện đa truyền thông và những công cụ soạn thảo dựa trên Web trở nên tinh vi hơn, chúng tăng việc hợp tác những phương thức và những mô hình từ lĩnh vực dạy học thông minh. Từ khi những hệ thống này và những công cụ soạn thảo của chúng trở nên nổi bật hơn, ta tạo ra một danh mục phân chia chúng. Chức năng của những hệ thống này chồng lên những chức năng từ danh mục 1 và 2 (phụ thuộc vào sự tập trung hướng dẫn ở mức hoặc là vĩ mô hoặc là vi mô). Đây là trường hợp với hầu hết những hệ thống dựa Web ngày nay. Mức tương tác và tính đúng đắn cho người học là thấp cho những hệ thống dạy học được xây dựng với những công cụ soạn thảo này. Không giống như những hệ thống trong danh mục khác, những hệ thống này phải quản lý những siêu liên kết giữa những đơn vị của nội dung (cũng như sự hình thành và sắp thứ tự nội dung). Những sự liên kết cho người học có thể được lọc, sắp xếp và chú giải một cách thông minh dựa vào mô hình người học hay tập hồ sơ. Việc lọc liên kết có thể được căn cứ vào những điều kiên tiên quyết, việc tải nhận thức, sự tương thích chủ đề, độ khó , 2.6.2/ Soạn thảo nội dung của một ITS : Nếu như mô tả những ITSAT trong những mục nền tảng của những loại hệ thống dạy học mà chúng ta có thể xây dựng ta sẽ đi vào mô tả những tính năng của chính những công cụ soạn thảo. ITS thường được mô tả gồm có 4 thành phần chính : giao diện người học, mô hình lĩnh vực, mô hình dạy học, mô hình người học. Mặc dù những phần này không luôn luôn đủ để mô tả một ITS, nhưng tính năng của những 66