Giáo trình Phát triển nông thôn

pdf 163 trang phuongnguyen 1760
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Phát triển nông thôn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_phat_trien_nong_thon.pdf

Nội dung text: Giáo trình Phát triển nông thôn

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI TS. MAI THANH CÚC - TS. QUYỀN ĐÌNH HÀ (đồng chủ biên) ThS. NGUYỄN THỊ TUYẾT LAN - ThS. NGUYỄN TRỌNG ĐẮC GIÁO TRÌNH PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HÀ NỘI - 2005 Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Phát triển Nông thôn . 1
  2. LỜI NÓI ĐẦU Nông thôn Việt Nam với 74,8 % dân số, 72 % lực lượng lao động xã hội, tạo ra 40% GDP của cả nước, là nơi phân bố hầu hết các nguồn tài nguyên thiên nhiên, nơi sinh sống của 54 dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Vì vậy, phát triển nông thôn có vai trò hết sức quan trọng và có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển kinh tế xã hội nói chung của đất nước. Phát triển nông thôn là phạm trù rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực nghiên cứu và chuyên ngành khoa học khác nhau. Trong giới hạn của khoa học kinh tế và quản lý, giáo trình “Phát triển Nông thôn” được tập thể tác giả Bộ môn Phát triển nông thôn, Trường Đại học nông nghiệp I biên soạn nhằm đáp ứng yêu cầu đào tạo cán bộ kinh tế và quản lý thuộc chuyên ngành Kinh tế nông nghiệp, Phát triển nông thôn, Khuyến nông và những chuyên ngành khác liên quan đến hoạt động phát triển nông thôn. Giáo trình được biên soạn trên cơ sở sử dụng và tham khảo thông tin của các bài soạn giảng, các cẩm nang, sách xuất bản, giáo trình liên quan và những kết quả nghiên cứu đã công bố về phát triển nông thôn của các tập thể, cá nhân các nhà khoa học trong và ngoài nước. Các chính sách phát triển nông nghiệp và nông thôn của Đảng và Nhà nước ta là cơ sở lý luận chủ yếu cho giáo trình này. Trách nhiệm biên soạn được phân công cụ thể cho các tác giả như sau: TS. Quyền Đình Hà biên soạn chính Chương 2, Chương 3 và Chương 4; TS. Mai Thanh Cúc biên soạn chính Chương 1, Chương 5, Phần 1 của Chương 2 và Phần phụ lục; ThS. Nguyễn Tuyết Lan cùng Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Phát triển Nông thôn . 2
  3. tham gia biên soạn Chương 1; ThS. Nguyễn Trọng Đắc cùng tham gia đóng góp ý kiến cho các chương và Phần phụ lục. Trong quá trình biên soạn, tập thể tác giả nhận được nhiều ý kiến đóng góp rất hữu ích cũng như sự khích lệ và ủng hộ của tập thể Bộ môn Phát triển Nông thôn, các đồng nghiệp trong Khoa Kinh tế và Phát triển Nông thôn. Đặc biệt là các ý kiến đóng góp quý báu của GS. TS. Phạm Vân Đình, PGS. TS. Đỗ Kim Chung, Thạc sỹ Nguyễn Xuân Tin đã giúp chúng tôi chỉnh sửa và bổ sung hoàn thiện bản thảo giáo trình. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ và giúp đỡ nhiệt thành đó. Giáo trình được biên soạn lần đầu, mặc dù tập thể tác giả đã cố gắng sử dụng có chọn lọc và cập nhật các thông tin nhưng chắc chắn không tránh khỏi những khiếm khuyết. Chúng tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các nhà khoa học, các cán bộ chuyên môn, các đồng nghiệp gần xa và toàn thể bạn đọc để cho giáo trình này hoàn thiện hơn. Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn. Tập thể tác giả Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Phát triển Nông thôn . 3
  4. Chương I NHẬP MÔN I. GIỚI THIỆU VỀ MÔN HỌC 1. Vai trò của phát triển nông thôn Phát triển nông thôn có vai trò và vị trí quan trọng trong sự phát triển chung của mỗi quốc gia. Đặc biệt với Việt Nam, một nước có nền sản xuất nông nghiệp làm nền tảng, sự đóng góp của nông thôn vào sự phát triển chung của quốc dân càng to lớn. Vai trò cơ bản của nông thôn và phát triển nông thôn được thể hiện dưới đây: - Nông thôn là địa bàn sản xuất và cung cấp lương thực thực phẩm cho tiêu dùng của cả xã hội. Người nông dân ở nông thôn sản xuất lương thực, thực phẩm để nuôi sống họ và cung cấp cho nhân dân cả nước. Sự gia tăng dân số là sức ép to lớn đối với sản xuất nông nghiệp trong việc cung ứng đủ lương thực, thực phẩm cho toàn xã hội. Vì vậy, sự phát triển bền vững nông thôn sẽ góp phần đáp ứng nhu cầu lương thực và thực phẩm tiêu dùng cho toàn xã hội và nâng cao năng lực xuất khẩu các mặt hàng này cho quốc gia. - Với 74,8% số dân sống bằng nông nghiệp, khu vực nông thôn thực sự là nguồn nhân lực dồi dào cho khu vực thành thị. Sự thâm nhập của lao động vào thành thị cũng như sự gia tăng dân số đều đặn ở các vùng thành thị là không đủ để đáp ứng nhu cầu lâu dài của phát triển kinh tế quốc gia. Nếu việc di chuyển nhân công ra khỏi nông nghiệp sang các ngành khác bị hạn chế thì sự tăng trưởng sẽ bị ảnh hưởng và việc phát triển kinh tế sẽ phiến diện. Vì vậy, phát triển bền vững nông thôn sẽ góp phần làm ổn định kinh tế của quốc gia. - Nông thôn là thị trường quan trọng để tiêu thụ sản phẩm của khu vực thành thị hiện đại. Trước hết nông thôn là địa bàn quan trọng tiêu thụ các sản phẩm của công nghiệp. Nếu thị trường rộng lớn ở nông thôn được khai thông, thu nhập người dân nông thôn được nâng cao, sức mua của người dân tăng lên, công nghiệp có điều kiện thuận lợi để tiêu thụ sản phẩm sản xuất của toàn ngành không chỉ hàng tiêu dùng mà cả các yếu tố đầu vào của nông nghiệp. Phát triển nông thôn sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển công nghiệp và những ngành sản xuất khác trên phạm vi toàn xã hội. - Nông thôn có rất nhiều dân tộc khác nhau sinh sống, bao gồm nhiều tầng lớp, nhiều thành phần khác nhau. Mỗi sự biến động dù tích cực hay tiêu cực đều sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh quốc phòng của cả nước. Do đó, sự phát triển và ổn định nông thôn sẽ góp phần quan trọng trong việc đảm bảo ổn định tình hình của cả nước. Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Phát triển Nông thôn . 4
  5. - Nông thôn chiếm đại đa số nguồn tài nguyên, đất đai, khoáng sản, động thực vật, rừng, biển, nên sự phát triển bền vững nông thôn có ảnh hưởng to lớn đến việc bảo vệ môi trường sinh thái; việc khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên khu vực nông thôn bảo đảm cho sự phát triển lâu dài và bền vững của đất nước. - Vai trò của phát triển nông thôn còn thể hiện trong việc gìn giữ và tô điểm cho môi trường sinh thái của con người, tạo sự gắn bó hài hoà giữa con người với thiên nhiên và hình thành những nơi nghỉ ngơi trong lành, giải trí phong phú, vùng du lịch sinh thái đa dạng và thanh bình, góp phần nâng cao cuộc sống tinh thần cho con người. Công cuộc phát triển nông thôn ngày càng được chính phủ các nước trên khắp thế giới, nhất là các nước đang phát triển đặc biệt quan tâm. Ở các quốc gia kém phát triển, vấn đề này càng được nhấn mạnh trong những năm gần đây. Quan điểm tập trung phát triển các vùng đô thị của nhiều quốc gia đã dẫn đến sự lạc hậu của các vùng nông thôn. Chính sự lạc hậu này là một trong những nguyên nhân tạo nên sự suy thoái kinh tế, đã và đang làm chậm lại tốc độ tăng trưởng của các khu vực đô thị và của cả nền kinh tế của quốc gia. Sự giàu có của các vùng nông thôn sẽ hỗ trợ và thúc đẩy mạnh quá trình tăng trưởng và phát triển của các thành phố và khu vực đô thị, thúc đẩy quá trình phát triển chung của đất nước. Với những vai trò quan trọng nêu trên, phát triển nông thôn là phần cơ bản và là đòi hỏi tất yếu trong quá trình phát triển quốc gia. 2. Giới thiệu về môn học Phát triển nông thôn Với vai trò của nông thôn như đã nói trên, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã đặt phát triển nông thôn trở thành vị trí trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia trong thập kỷ 2001-2010. Môn học Phát triển nông thôn nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo cán bộ quản lý phát triển nông thôn. Đối tượng sử dụng giáo trình "Phát triển nông thôn" chủ yếu là sinh viên chuyên ngành Kinh tế nông nghiệp, chuyên ngành Phát triển nông thôn và Khuyến nông. Ngoài ra, giáo trình còn là tài liệu nghiên cứu và tham khảo cho sinh viên đại học và sau đại học của các lĩnh vực liên quan đến hoạt động phát triển nông thôn. Phát triển nông thôn là một phạm trù rộng và đa dạng, liên quan đến nhiều lĩnh vực nghiên cứu và các chuyên ngành học khác nhau. Trong giới hạn giáo trình của một môn học, với góc độ chuyên môn về kinh tế và quản lý, nhóm biên soạn chỉ cố gắng hướng tới mục tiêu chủ yếu của giáo trình là cung cấp cho các đối tượng sử dụng: (i) Những lý luận và khái niệm cơ bản về nông thôn và phát triển nông thôn; (ii) Chiến lược và chính sách phát triển các lĩnh vực kinh tế, xã hội và tài nguyên, môi trường nông thôn; (iii) Vai trò của thể chế và các tổ chức trong phát triển nông thôn và (iv) Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu phát triển nông thôn. Để đáp ứng bốn mục tiêu nêu trên, trong phạm vi thời lượng 3 học trình, giáo trình được bố trí thành 5 chương như sau: Chương I- Nhập môn Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Phát triển Nông thôn . 5
  6. Ngoài phần giới thiệu môn học, nội dung cơ bản của chương I: Nêu và giải thích khái niệm “phát triển nông thôn”. Theo khái niệm này, phát triển nông thôn là: “một quá trình tất yếu cải thiện một cách bền vững về kinh tế, xã hội, văn hóa và môi trường, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn. Quá trình này, trước hết chính là do người dân nông thôn với sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước và các tổ chức khác”. Khái niệm này chỉ ra: (i) Đối tượng phát triển là cư dân nông thôn (các cá nhân; gia đình/dòng họ; cộng đồng, trong đó nông dân là chủ yếu); (ii) Yếu tố/lĩnh vực phát triển là kinh tế (nông nghiệp; công nghiệp; dịch vụ ), văn hóa - xã hội và môi trường; (iii) Vai trò của các bên tham gia đối với phát triển (chủ thể dân cư nông thôn là chính, Nhà nước và tổ chức khác đóng vai trò hỗ trợ tích cực). Một cách tổng quát, chương này đã chỉ ra “một khung lý luận về phát triển nông thôn” làm cơ sở nội dung cho các chương sau của giáo trình. Chương II- Phát triển kinh tế nông thôn Nội dung cơ bản của chương II đề cập đến các vấn đề về phát triển kinh tế nông thôn, cụ thể là: (i) Khái quát vai trò của phát triển kinh tế nông thôn đối với sự phát triển kinh tế quốc dân từ đó nhấn mạnh thách thức về tăng cường kinh tế nông thôn; (ii) Giới thiệu tóm tắt các nguyên tắc kinh tế trong phát triển kinh tế nông thôn; (iii) Mô tả tóm tắt tính chất và cơ cấu của nền kinh tế nói chung, của kinh tế nông thôn nói riêng; (iv) Khái quát 4 loại hình doanh nghiệp hình thành ở nước ta và sự đóng góp đối với phát triển nông thôn; (v) Vai trò và quan điểm, chiến lược phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và nuôi trồng thủy sản; (vi) Vai trò và chính sách, chiến lược phát triển sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp chế biến và dịch vụ trong kinh tế nông thôn. Phụ lục 1 bổ sung kiến thức về Chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến 2010 và những vấn đề liên quan đến hoạch định chiến lược giúp bạn đọc có sự nhìn nhận tốt hơn về phát triển nông thôn và kinh tế nông thôn trong bối cảnh phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Chương III- Phát triển cơ sở hạ tầng, dịch vụ xã hội và môi trường nông thôn Nhằm chi tiết thêm khái niệm “phát triển nông thôn”, chương này tiếp tục phân tích vai trò và chiến lược, chính sách phát triển các khía cạnh xã hội và môi trường trong nông thôn. Ngoài các nội dung chính được trình bày trong chương, phần Phụ lục 3 sẽ bổ sung thêm những nội dung chi tiết hơn về chiến lược bảo vệ môi trường của Chính phủ đến năm 2010. Người dân đóng vai trò trung tâm của công cuộc phát triển nông thôn. Người dân nông thôn phải là người hưởng lợi chính, là tác nhân chính của phát triển nông thôn. Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Phát triển Nông thôn . 6
  7. Những khía cạnh xã hội chủ yếu liên quan đến chủ thể nông thôn mà chương III đề cập đến bao gồm: tình trạng nhà ở thấp kém ở nhiều vùng, nghèo đói và suy dinh dưỡng, không đầy đủ dịch vụ chăm sóc sức khỏe và giáo dục và cơ sở hạ tầng: đường sá, hệ thống cung cấp nước tưới, tiêu và khống chế lũ lụt, năng lượng, vận tải và thông tin. Môi trường là cơ sở bền vững cho phát triển nông thôn ở Việt Nam. Đất là tài nguyên quan trọng nhất. Đời sống quốc gia phụ thuộc vào năng suất của tài nguyên thiên nhiên - đất, rừng, ruộng, biển, sông và ao hồ. Điều kiện môi trường có tầm quan trọng thiết yếu cho hiện nay và cho các thế hệ tương lai. Thách thức phát triển nông thôn là quản lý và sử dụng tài nguyên thiên nhiên theo cách phục vụ nhu cầu của con người đồng thời bảo vệ chất lượng lâu dài của những tài nguyên đó. Chương IV- Vai trò của Nhà nước và các tổ chức trong phát triển nông thôn Để thực hiện phát triển nông thôn phải có sự tham gia của rất nhiều thành phần liên quan. Có thể phân các thành phần này ra 3 nhóm: (i) Chủ thể dân cư nông thôn, (ii) Nhà nước và (iii) Các tổ chức. Nội dung cơ bản của chương IV là phân tích vai trò của thể chế được thể hiện qua nhiệm vụ, vai trò của Nhà nước và các tổ chức đối với phát triển nông thôn. Người dân đóng vai trò là trung tâm, chủ động trong phát triển nông thôn. Nhà nước có vai trò thiết yếu như một người hỗ trợ chính cho tiến trình này. Vai trò của Nhà nước là tổ chức, hướng dẫn và phối hợp tất cả các hoạt động, đồng thời công nhận và khuyến khích hoạt động của bản thân người dân và của chính quyền các cấp tỉnh, huyện, xã, thôn (bản), các tổ chức quần chúng, nhóm tự lực, hợp tác xã kiểu mới, khu vực tư nhân và doanh nghiệp nhà nước. Các tổ chức đóng vai trò hết sức quan trọng trong phát triển nông thôn, đó là: (i) Chính quyền cấp tỉnh, huyện, xã, thôn; (ii) Các tổ chức quần chúng, hội nông dân, hội phụ nữ, đoàn thanh niên, hội cựu chiến binh ; (iii) Hợp tác xã kiểu mới; (iv) Ngân hàng và các tổ chức tín dụng; (v) Khu vực tư nhân và (vi) Các doanh nghiệp nhà nước. Vai trò của các tổ chức này, với các khía cạnh đóng góp khác nhau được đề cập ở phần cuối của chương. Chương V- Nghiên cứu phát triển nông thôn Chương V cung cấp một cái nhìn tổng quát về nghiên cứu phát triển nông thôn qua hai phương pháp tiếp cận nghiên cứu, đó là: (i) Nghiên cứu truyền thống (thông thường) và (ii) Nghiên cứu tham dự (có tính tham gia). Chương này cũng cung cấp cho bạn đọc (những người trực tiếp, gián tiếp quản lý và nghiên cứu phát triển nông thôn) những chủ trương chính sách của Nhà nước đối với hoạt động khoa học và công nghệ nói chung cũng như hoạt động nghiên cứu phát triển nông thôn nói riêng ở Việt Nam. Phần quan trọng của chương V là một số phương pháp nghiên cứu phát triển nông thôn (Nghiên cứu thống kê, PRA, PLA). Phần này đề cập đến những lý luận cơ bản của Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Phát triển Nông thôn . 7
  8. từng phương pháp như: khái niệm, triết lý, nguyên tắc, đặc điểm và hệ thống công cụ, kỹ thuật, tổ chức thực hiện, viết báo cáo kết quả nghiên cứu. Phụ lục 2 trình bày chi tiết một số kỹ thuật, công cụ và phương pháp cụ thể của PRA và PLA nhằm giúp bạn đọc có khả năng vận dụng được các phương pháp này trong thực tiễn nghiên cứu phát triển nông thôn. Như đã trình bày, xây dựng và phát triển nông thôn là công việc rộng lớn và phức tạp, liên quan đến nhiều ngành khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và khoa học xã hội. Trong phạm vi chuyên ngành, môn học Phát triển nông thôn được nhìn nhận như một môn khoa học quản lý phát triển. Tuy vậy, phạm vi quản lý phát triển ở đây lại liên quan đến tất cả các khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường trong nông thôn. Do đó, Môn học có liên quan rất chặt chẽ với nhiều môn khoa học khác như Kinh tế nông nghiệp, Kinh tế công nghiệp, Kinh tế hộ, Kinh tế thương mại, Xã hội học nông thôn, Tài chính nông thôn, Kinh tế hợp tác, Kinh tế tài nguyên môi trường, Quy hoạch phát triển nông thôn. Ngoài ra, các môn khoa học kỹ thuật như Hệ thống canh tác, Thổ nhưỡng học, Trồng trọt, Chăn nuôi, Bảo vệ thực vật, Cơ điện khí hoá, v.v cũng là những môn học có liên quan nhằm hỗ trợ kiến thức kỹ thuật phục vụ cho quản lý phát triển nông thôn. II. LÝ LUẬN VỀ NÔNG THÔN 1. Khái niệm về nông thôn Các quốc gia trên thế giới trong quá trình phát triển đều phân các vùng lãnh thổ của mình thành hai khu vực là thành thị và nông thôn. Các nhà xã hội học đã đưa ra một số tiêu chí phân biệt khu vực nông thôn và khu vực thành thị như: thành phần xã hội của dân số, các di sản văn hoá, sự phồn thịnh, sự phân hoá xã hội của dân cư, mức độ phức tạp của cấu trúc và đời sống xã hội, cường độ và sự đa dạng của mối liên hệ xã hội, v.v. Sự khác nhau căn bản giữa nông thôn và đô thị được phản ánh rõ nét trong những nguyên lí của xã hội học nông thôn - đô thị. Trong đó, những tiêu chí quan trọng giúp việc phân biệt khu vực nông thôn và khu vực đô thị bao gồm: sự khác nhau về nghề nghiệp, về môi trường, quy mô cộng đồng, mật độ dân số, tính hỗn tạp và thuần nhất của dân số, hướng di cư, sự khác biệt xã hội và phân tầng xã hội, hệ thống tương tác trong từng vùng (bảng 1). Sự phân biệt nông thôn và thành thị có thể dựa vào các tiêu chí quy định cho từng vùng. Ðối với khu vực thành thị, nhiều nước đã thống nhất coi số lượng dân cư làm tiêu chí để quy định đô thị. Theo Từ điển Bách khoa của Liên Xô (cũ) năm 1986 thì đô thị là khu vực dân cư mà phần lớn dân cư ở đó làm ngoài nông nghiệp. Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học xuất bản năm 2002 đã định nghĩa đô thị là nơi dân cư đông đúc, là trung tâm thương nghiệp và có thể cả công nghiệp, thành phố hoặc thị trấn. Cho đến nay trên thế giới đều thống nhất coi đô thị là một điểm dân cư tập trung với số lượng lớn, mật độ cao và tỷ lệ người làm công nghiệp, dịch vụ nhiều hơn hẳn người làm nông Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Phát triển Nông thôn . 8
  9. nghiệp. Tuy nhiên, về tiêu chí cụ thể thì có sự khác nhau giữa các nước, xuất phát từ đặc điểm riêng của từng nước. Nếu xét về dân số tối thiểu của một đô thị thì Liên bang Nga quy định 12.000 người, Thụy Sĩ - 10.000 người, trong khi Cu Ba, Kênya - 2.000 người, Grênada - 200 người, Uganda - 100 người. Về mật độ dân cư ở đô thị, các nước cũng có quy định khác nhau, Phần Lan quy định ít nhất là 500 người trên một dặm vuông (xấp xỉ 2.600.000 m2), Ấn Ðộ - 1.000 người. Về tỉ lệ dân số không làm việc trong ngành nông nghiệp ở một đô thị, Nhật Bản và Hà Lan quy định là 60-65%, Liên bang Nga quy định là 85%. Bảng 1. Tiêu chí phân biệt khu vực nông thôn và khu vực thành thị Tiêu chí Khu vực nông thôn Khu vực đô thị Nghề nghiệp Những người sản xuất nông Những người sản xuất công nghiệp, nghiệp, một số ít phi nông nghiệp. dịch vụ. Môi trường Môi trường tự nhiên ưu trội, quan Môi trường nhân tạo ưu trội, ít dựa hệ trực tiếp với tự nhiên. vào tự nhiên. Kích cỡ cộng Cộng đồng làng bản nhỏ, văn minh Kích cỡ cộng đồng lớn hơn, văn minh đồng nông nghiệp. công nghiệp. Mật độ dân số Mật độ dân số thấp, tính nông thôn Mật độ dân số cao, tính đô thị và mật tương phản với mật độ dân số. độ dân số tương ứng với nhau. Đặc điểm cộng Cộng đồng thuần nhất hơn về các Không đồng nhất về chủng tộc và tâm đồng đặc điểm chủng tộc và tâm lý. lý. Phân tầng xã Sự khác biệt và phân tầng xã hội ít Sự khác biệt và phân tầng xã hội hội hơn so với đô thị. nhiều hơn nông thôn. Di động xã hội Di động xã hội theo lãnh thổ, theo Cường độ di động lớn hơn, có biến nghề nghiệp không lớn, di cư cá động xã hội mới có di cư từ thành thị nhân từ nông thôn ra thành thị. về nông thôn. Tác động xã Tác động xã hội tới từng cá nhân Tác động xã hội tới từng cá nhân lớn hội thấp hơn. Quan hệ xã hội sơ cấp, hơn. Quan hệ xã hội thứ cấp, phức láng giềng, huyết thống. tạp, hình thức hoá. Ở Việt Nam, do đặc thù đất chật, người đông nên những quy định về các tiêu chí của một đô thị khác nhiều so với các nước khác. Quyết định số 132-HÐBT ngày 5/5/1990 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) quy định nước ta có năm loại đô thị như sau: - Ðô thị loại 1: Dân số đạt từ 1 triệu người trở lên, mật độ dân cư từ 15.000 người/km2 trở lên, tỉ lệ lao động ngoài nông nghiệp từ 90 % trở lên. - Ðô thị loại 2: Dân số từ 350.000 đến 1 triệu người, mật độ dân cư 12.000 người/km2, tỉ lệ lao động phi nông nghiệp từ 80% trở lên. Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Phát triển Nông thôn . 9
  10. - Ðô thị loại 3: Dân số từ 100.000 đến 350.000 người, mật độ dân cư đạt từ 10.000 người/km2 trở lên, tỉ lệ lao động phi nông nghiệp từ 70% trở lên. - Ðô thị loại 4: Dân số từ 30.000 đến 100.000 người, mật độ dân cư đạt từ 8000 người/ km2 trở lên, tỉ lệ lao động phi nông nghiệp từ 70% trở lên. - Ðô thị loại 5: Dân số từ 4.000 đến 30.000 người, mật độ dân cư từ 6.000 người/km2 trở lên, tỉ lệ lao động phi nông nghiệp từ 60% trở lên. Như vậy, khu vực nông thôn được xác định là những khu vực nằm ngoài các tiêu chí quy định trên. Có thể coi nông thôn Việt Nam bao gồm các địa bàn dân cư có số lượng dân tập trung dưới 4.000 người, mật độ dân cư ít hơn 6.000 người/ km2 và tỉ lệ lao động phi nông nghiệp dưới 60%, tức là tỉ lệ lao động nông nghiệp đạt từ 40% trở lên. Việc phân biệt giữa nông thôn và đô thị chỉ có tính chất tương đối. Thực tế cho thấy, vẫn còn có sự xen lẫn về đất đai, địa bàn dân cư và các hoạt động kinh tế xã hội, đặc biệt ở các đô thị nhỏ, thị tứ, thị trấn. Ở các nước đang phát triển, những khu vực nông thôn đang diễn ra quá trình đô thị hoá nhanh chóng . Hiện nay trên thế giới vẫn chưa có định nghĩa chuẩn xác về nông thôn, còn nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng cần dựa vào chỉ tiêu trình độ phát triển của cơ sở hạ tầng, có nghĩa vùng nông thôn có cơ sở hạ tầng không phát triển bằng vùng đô thị. Quan điểm khác lại cho rằng nên dựa vào chỉ tiêu trình độ tiếp cận thị trường, phát triển hàng hoá để xác định vùng nông thôn vì cho rằng nông thôn có trình độ sản xuất hàng hoá và khả năng tiếp cận thị trường so với đô thị là thấp hơn. Cũng có ý kiến nên dùng chỉ tiêu mật độ dân cư và số lượng dân trong vùng để xác định. Theo quan điểm này, vùng nông thôn thường có số dân và mật độ dân thấp hơn vùng thành thị. Một quan điểm khác nêu ra, vùng nông thôn là vùng có dân cư làm nông nghiệp là chủ yếu, tức là nguồn sinh kế chính của cư dân trong vùng là từ sản xuất nông nghiệp. Những ý kiến này chỉ đúng khi đặt trong bối cảnh cụ thể của từng nước, phụ thuộc vào trình độ phát triển, cơ cấu kinh tế, cơ chế áp dụng cho từng nền kinh tế. Ðối với những nước đang thực hiện công nghiệp hoá, đô thị hoá, chuyển từ sản xuất thuần nông sang phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ, xây dựng các khu đô thị nhỏ, thị trấn, thị tứ rải rác ở các vùng nông thôn thì khái niệm về nông thôn có những đổi khác so với khái niệm trước đây. Có thể hiểu nông thôn hiện nay bao gồm cả những đô thị nhỏ, thị tứ, thị trấn, những trung tâm công nghiệp nhỏ có quan hệ gắn bó mật thiết với nông thôn, cùng tồn tại, hỗ trợ và thúc đẩy nhau phát triển. Hội nghị nhóm chuyên viên của Liên Hợp Quốc đã đề cập đến một khái niệm - CONTINIUM nông thôn-đô thị. Có thể hiểu nông thôn-đô thị là một khu vực kinh tế hỗn hợp gồm nông thôn, nông thị và đô thị kế tiếp, xen kẽ nhau. Trong đó, nông thôn được coi là các làng xã nông nghiệp cổ truyền, nông thị là các đô thị nhỏ, thị trấn, thị tứ, chợ có chức năng như cầu nối giữa nông thôn và thành thị, còn đô thị là các thành phố Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Phát triển Nông thôn . 10
  11. lớn, vừa, hoặc các khu công nghiệp tập trung. Trong CONTINIUM nông thôn-đô thị, các hoạt động nông nghiệp được gắn với công nghiệp và các ngành dịch vụ, có tác dụng chuyển dịch nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, và đô thị hoá. Như vậy, khái niệm về nông thôn chỉ có tính chất tương đối, thay đổi theo thời gian và theo tiến trình phát triển kinh tế, xã hội của các quốc gia trên thế giới. Trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, nhìn nhận dưới góc độ quản lý, có thể hiểu nông thôn là vùng sinh sống của tập hợp cư dân, trong đó có nhiều nông dân. Tập hợp cư dân này tham gia vào các hoạt động kinh tế, văn hóa-xã hội và môi trường trong một thể chế chính trị nhất định và chịu ảnh hưởng của các tổ chức khác. Một số đặc điểm riêng của nông thôn Việt Nam, đó là: - Ở vùng nông thôn, các cư dân chủ yếu là nông dân và làm nghề nông, đây là địa bàn hoạt động chủ yếu của các ngành sản xuất vật chất nông, lâm, ngư nghiệp và các ngành nghề sản xuất kinh doanh, dịch vụ phi nông nghiệp. Trong các làng xã truyền thống, sản xuất nông nghiệp chiếm vị trí chủ chốt và là nguồn sinh kế chính của đại bộ phận nông dân. Cùng với sự phát triển và tiến bộ của đất nước, đặc điểm này có sự thay đổi. Các vùng nông thôn trong tương lai sẽ không phải chủ yếu có các nông dân sinh sống và làm nông nghiệp, thay vào đó là các cư dân cư trú và tiến hành nhiều hoạt động kinh tế khác nhau, gồm cả sản xuất nông nghiệp, sản xuất công nghiệp và thương mại dịch vụ. Theo đó, tỷ trọng lao động và GDP của các ngành kinh tế ở nông thôn cũng thay đổi theo hướng gia tăng cho công nghiệp và dịch vụ. - Nông thôn thể hiện tính chất đa dạng về điều kiện tự nhiên, môi trường sinh thái, các vùng nông thôn quản lý một lượng tài nguyên thiên nhiên to lớn, phong phú và đa dạng, bao gồm các tài nguyên đất, nước, khí hậu, rừng, sông suối, ao hồ, khoáng sản, hệ động thực vật gồm cả tự nhiên và cả do con người tạo ra. - Cư dân nông thôn có mối quan hệ họ tộc và gia đình khá chặt chẽ với những quy định cụ thể của từng họ tộc và gia đình. Ở nông thôn, có nhiều gia đình trong một dòng họ cùng sinh sống và gắn bó với nhau gần gũi, khăng khít lâu đời. Những người ngoài dòng họ cùng chung sống, góp sức phòng tránh thiên tai, giúp đỡ nhau trong sản xuất và đời sống tạo nên tình làng nghĩa xóm lâu bền. - Nông thôn lưu giữ và bảo tồn nhiều di sản văn hoá của quốc gia như các phong tục, tập quán cổ truyền về đời sống, lễ hội, sản xuất nông nghiệp và ngành nghề truyền thống, các di tích lịch sử, văn hoá, các danh lam thắng cảnh, v.v Ðây chính là nơi chứa đựng kho tàng văn hoá dân tộc, đồng thời là khu vực giải trí và du lịch sinh thái phong phú và hấp dẫn đối với mọi người. 2. Những hợp phần cơ bản của nông thôn Từ khái niệm và những đặc điểm nêu trên, nhà quản lý cần xác định một số đặc trưng tạo nên các hợp phần cơ bản của nông thôn. Trước hết, người dân được xác định là chủ thể nông thôn. Người dân với đa dạng về thành phần nghề nghiệp và sinh kế cũng như sắc tộc, tôn giáo. Tuy nhiên, nét đặc trưng cơ bản có thể nhận thấy ở đây là chủ thể Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Phát triển Nông thôn . 11
  12. (người dân) nông thôn có lực lượng lao động nông nghiệp chiếm một tỷ lệ lớn và được coi là lực lượng nòng cốt của chủ thể nông thôn Việt Nam. Tuy đa dạng về thành phần, nhưng xét ở góc độ quan hệ gắn kết ảnh hưởng lẫn nhau, cũng như quyền quyết định về sinh kế và các hoạt động kinh tế-xã hội khác có thể thấy rằng chủ thể nông thôn tồn tại (cả về nghĩa đen và nghĩa bóng) ở nhiều hình thể, cấp độ và vai trò khác nhau như: cá nhân, gia đình, dòng họ, cộng đồng. Các cá nhân hay thành viên của chủ thể nông thôn với những nhu cầu, nguyện vọng, năng lực và ứng xử khác nhau, tuỳ thuộc vào đặc tính riêng của từng người. Vai trò của cá nhân hay thành viên có ý nghĩa lớn trong quyết định và tham gia các hoạt động kinh tế, văn hóa xã hội ở nông thôn. Huy động và phát huy tiềm năng của các cá nhân trong phát triển nông thôn là một hướng tiếp cận của nhà quản lý phát triển. Ở cấp độ gia đình với những quan hệ phụ thuộc, gắn kết, với nề nếp, quan niệm và ứng xử cũng rất khác nhau. Trong nông thôn, các gia đình nông dân (gọi là nông hộ) đóng vai trò hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế, được coi là một đơn vị sản xuất tự chủ, có quyền quyết định trong sản xuất kinh doanh. Một nét đặc trưng ở nông thôn Việt Nam là giữa các gia đình nông thôn có mối quan hệ họ tộc rất gắn kết. Mỗi dòng họ có những truyền thống, di sản và những ước định của riêng mình. Sức mạnh tinh thần và vật chất của mỗi dòng họ nếu được khích lệ và huy động sẽ tạo nên động lực phát triển trong nông thôn. Bao trùm lên tất cả là sự tồn tại của chủ thể nông thôn ở cấp độ cộng đồng. Các cộng đồng có thể hiểu như là tập hợp của những người dân có cùng nền văn hoá, cùng phong tục, cùng sinh sống ở một nơi nhất định, hoặc có cùng sở thích trong sản xuất, kinh doanh, mối quan tâm, hoặc nghề nghiệp. Theo nghĩa hẹp của quản lý, có thể coi các đơn vị làng, bản, xóm, thôn, xã, huyện, là các cộng đồng nông thôn ở Việt Nam. Như vậy, có thể nhấn mạnh rằng: chủ thể nông thôn là các cá nhân, gia đình, dòng họ, cộng đồng của cư dân trong đó nông dân chiếm một tỷ lệ đáng kể và đóng vai trò chủ đạo. Ở khái niệm nông thôn nêu trên, chủ thể nông thôn là yếu tố con người. Tạo nên một chỉnh thể nông thôn chính là hoạt động của chủ thể (người dân nông thôn) trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội, môi trường và mối quan hệ của họ với thể chế chính trị (Nhà nước) cũng như các tổ chức khác trong nông thôn. Với ý nghĩa tương đối trong cách phân loại, những hoạt động kinh tế, văn hóa - xã hội, môi trường và các mối quan hệ bao gồm: - Các hoạt động kinh tế: Bao gồm các hoạt động sản xuất nông nghiệp, sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, các hoạt động thương mại dịch vụ. Tham gia vào các hoạt động đó gồm đầy đủ các thành phần kinh tế với các hình thức tổ chức đa dạng. Tỷ trọng các ngành kinh tế trong tổng GDP của vùng nông thôn phụ thuộc vào mức độ Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Phát triển Nông thôn . 12
  13. phát triển của từng vùng, nhưng theo xu hướng tỷ trọng sản xuất nông nghiệp sẽ ngày càng giảm và tỷ trọng các ngành công nghiệp và thương mại dịch vụ ngày càng tăng. - Các tổ chức: Bao gồm nhiều loại hình cả chính thống và phi chính thống như các tổ chức chính quyền ở địa phương, các tổ chức kinh tế, các đoàn thể quần chúng, v.v. Những tổ chức này được hình thành, hoạt động trong khuôn khổ các thể chế, chính sách, ảnh hưởng và có tác động trực tiếp, gián tiếp đến các hoạt động chung của cộng đồng hoặc những nhóm dân cư nhất định trong quá trình phát triển nông thôn. - Cơ sở hạ tầng nông thôn: Bao gồm đường giao thông, hệ thống thuỷ lợi, hệ thống thông tin liên lạc, trường học v.v Những cơ sở này phục vụ đắc lực đời sống sinh hoạt và sản xuất kinh doanh của các cư dân nông thôn. - Khoa học và công nghệ áp dụng: Đây là một hợp phần quan trọng ở nông thôn. Khía cạnh khoa học và những kỹ thuật - công nghệ đó bao gồm cả các kiến thức bản địa và kinh nghiệm truyền thống của người dân nông thôn về tất cả các lĩnh vực tác động đến đời sống của họ. Khía cạnh khoa học - công nghệ ở nông thôn còn là sự nhận thức, tiếp nhận và chuyển giao khoa học và công nghệ hiện đại, tiên tiến từ bên ngoài của chủ thể nông thôn để thúc đẩy quá trình phát triển của chính họ. - Y tế, sức khoẻ cộng đồng: Đây là một yếu tố chi phối và ảnh hưởng quan trọng tới các hoạt động ở nông thôn. Vấn đề sức khoẻ của người dân trong cộng đồng luôn được coi trọng trong mọi chương trình phát triển. Hệ thống y tế, các hoạt động chăm sóc sức khoẻ thường xuyên được duy trì nhằm đảm bảo các hoạt động sống và sản xuất của mọi thành viên trong cộng đồng. - Văn hoá - giáo dục: Đây là yếu tố luôn được coi trọng trong phát triển nông thôn. Khía cạnh văn hóa trong nông thôn về nghĩa rộng là tổng hòa các mối quan hệ ứng xử giữa con người với nhau và với thiên nhiên, có thể hiện sự đan xen giữa các yếu tố truyền thống và hiện đại. Việc lưu giữ, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc và của từng vùng là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, cũng cần mở cửa du nhập những loại hình văn hoá hiện đại, lành mạnh có ảnh hưởng tích cực đến đời sống tinh thần của người dân nông thôn. - Môi trường và tài nguyên thiên nhiên: Vùng nông thôn gắn liền với các điều kiện môi trường tài nguyên thiên nhiên, đó là điều kiện quan trọng, là cơ sở cho việc phát triển kinh tế của từng vùng. - Các chính sách kinh tế và xã hội: Những chính sách này nhằm phát huy lợi thế và tạo điều kiện phát triển bình đẳng, đồng đều giữa các thành viên trong vùng cũng như giữa các vùng, miền. Các hợp phần kinh tế xã hội nông thôn được trình bày tóm tắt trong bảng 2. Trong phát triển nông thôn, mọi sự tác động hoặc hoạt động phát triển nếu chỉ đề cập đến một hơp phần riêng rẽ mà không tính đến ảnh hưởng tới các hợp phần khác thì khó mang lại kết quả tốt, bởi vì các hợp phần ở đây tạo nên sự thống nhất và tác động qua lại lẫn nhau hình thành một chỉnh thể kinh tế xã hội nông thôn. Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Phát triển Nông thôn . 13
  14. Bảng 2. Các hợp phần kinh tế xã hội của nông thôn Khoa học Kinh tế - Công nghệ Y tế - sức khoẻ Các tổ chức CHỦ THỂ NÔNG THÔN - Cá nhân - Gia đình/ Thể chế và chính dòng họ Tài nguyên sách Nhà nước - Cộng đồng - Môi trường Văn hoá - Cơ sở giáo dục hạ tầng Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Phát triển Nông thôn . 14
  15. III. LÝ LUẬN VỀ TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN 1. Tăng trưởng Tăng trưởng và phát triển là những vấn đề quan tâm hàng đầu đối với xã hội loài người trên thế giới và trong từng quốc gia. Mục đích cuối cùng cần đạt được của mọi hoạt động của con người là nhằm có được cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc. Trong lĩnh vực này, thế giới đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Trong những thập kỷ gần đây, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều rất quan tâm về phát triển. Hàng loạt các chương trình, dự án được xây dựng nhằm giải quyết các vấn đề về khoa học và công nghệ, về phát triển kinh tế, phát triển nông nghiệp và nông thôn, phát triển văn hoá xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển bền vững các khía cạnh của nền kinh tế và xã hội, v.v đã thu được những kết quả tốt đẹp. Tuy nhiên, trong thực tế, có những quan niệm chưa đúng đắn về tăng trưởng và phát triển. Tăng trưởng được hiểu là sự gia tăng về mặt số lượng của một sự vật nhất định. Trong kinh tế, tăng trưởng thể hiện sự gia tăng hơn trước về sản phẩm hay lượng đầu ra của một quá trình sản xuất hay hoạt động. Tăng trưởng kinh tế là phạm trù cơ bản nhất của lý luận kinh tế, là tiền đề vật chất và cơ sở kinh tế của sự tồn tại và phát triển của mọi hình thái xã hội. Ðã có rất nhiều nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế của các nhà kinh tế học cổ điển và hiện đại. Trong tác phẩm "Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" của Viện Chiến lược phát triển, tăng trưởng kinh tế được định nghĩa là mức tăng lượng của cải (tài sản) trong một thời kỳ nhất định. Khái niệm tăng trưởng kinh tế này có thể được áp dụng cho mọi quy mô cấp độ, cho toàn nền kinh tế, cho từng ngành, cho các doanh nghiệp, cho cấp độ gia đình và cấp độ cá nhân. Tăng trưởng kinh tế có thể hiểu như là kết quả của mọi hoạt động kinh tế trong các lĩnh vực sản xuất cũng như trong lĩnh vực dịch vụ được tạo ra trong một thời kỳ nhất định. Lượng của cải có thể được tính bằng hiện vật hay bằng tiền. Ðể phản ánh mức độ tăng trưởng kinh tế của một thời kỳ, người ta thường dùng giá trị tuyệt đối của các đại lượng để so sánh chúng với nhau. Chênh lệch giữa các thời điểm chính là mức tăng trưởng kinh tế của một thời kỳ cụ thể. Ngoài ra, tăng trưởng kinh tế còn được phản ánh bằng tốc độ gia tăng của các đại lượng trong các giai đoạn với nhau và được đo bằng phần trăm thay đổi, giá trị phần trăm cao hay thấp thể hiện tốc độ tăng trưởng nhanh hay chậm. Hiện nay, có nhiều quan điểm nhấn mạnh vào tăng trưởng, coi tăng trưởng như là giải pháp chính để tăng thu nhập, nâng cao mức sống, từ đó giúp giải quyết các vấn đề về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội và môi trường. Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào tăng trưởng, đáp ứng những lợi ích trước mắt, cục bộ, sẽ dẫn đến việc khai thác, sử dụng bừa bãi các nguồn lực của quốc gia và địa phương, làm cho những nguồn lực này nhanh chóng cạn kiệt, môi trường bị suy giảm nhanh chóng, ảnh hưởng nặng nề tới sự phát triển chung của quốc gia và của các thế hệ tương lai. Không những vậy, tăng trưởng cục bộ còn tác động mạnh mẽ đến các vấn đề về an ninh xã hội, bất bình đẳng về kinh tế và chính trị, v.v Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Phát triển Nông thôn . 15
  16. 2. Phát triển Phát triển được coi như tiến trình biến chuyển của xã hội, là chuỗi những biến chuyển có mối quan hệ qua lại với nhau. Sự tồn tại và phát triển của một xã hội hôm nay là sự kế thừa những di sản đã diễn ra trong quá khứ. Phát triển theo khái niệm chung nhất là việc nâng cao hạnh phúc của người dân, bao hàm nâng cao các chuẩn mực sống, cải thiện các điều kiện giáo dục, sức khoẻ, sự bình đẳng về các cơ hội Ngoài ra việc bảo đảm các quyền về chính trị và công dân là những mục tiêu rộng hơn của phát triển. Tăng trưởng kinh tế mới chỉ thể hiện một phần, một yếu tố chưa đầy đủ của sự phát triển. Có thể hiểu, phát triển là việc tạo điều kiện cho con người sinh sống ở bất cứ nơi nào đều được thoả mãn các nhu cầu sống của mình, có mức tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ tốt, đảm bảo chất lượng cuộc sống, có trình độ học vấn cao, được hưởng những thành tựu về văn hoá và tinh thần, có đủ điều kiện cho một môi trường sống lành mạnh, được hưởng các quyền cơ bản của con người và được đảm bảo an ninh, an toàn, không có bạo lực. Trong kinh tế, phát triển là quá trình chuyển biến về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định, trong đó bao gồm cả sự tăng thêm về quy mô sản lượng sản phẩm, sự hoàn thiện về cơ cấu nền kinh tế và việc nâng cao chất lượng mọi mặt của cuộc sống. Như vậy, có thể hiểu phát triển kinh tế trước hết là sự gia tăng nhiều hơn về số lượng và chất lượng sản phẩm, sự đa dạng về chủng loại sản phẩm của nền kinh tế. Ðồng thời, phát triển còn là sự thay đổi theo chiều hướng tích cực trên tất cả các khía cạnh của nền kinh tế, xã hội. Ðó là sự thay đổi về cơ cấu kinh tế theo hướng tỷ trọng ngành nông nghiệp ngày càng giảm, tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng. Môi trường kinh tế và xã hội, các khía cạnh tổ chức và kỹ thuật ngày càng thuận lợi cho các tác nhân tham gia. Không những vậy, phát triển còn đảm bảo tăng khả năng thích ứng với hoàn cảnh mới của quốc gia, các ngành, các doanh nghiệp và của mọi người dân. Sự phát triển sẽ đảm bảo nâng cao phúc lợi của người dân về kinh tế, văn hoá, giáo dục, xã hội và sự tự do bình đẳng, sự phát triển đồng đều giữa các vùng, giữa các dân tộc, các tầng lớp cư dân và sự bình đẳng trong phát triển giữa nam và nữ. Trong tình hình hiện nay, do có quan niệm sai lầm về vai trò của tăng trưởng mà ở nhiều quốc gia đang phải đối mặt với những mô hình phát triển theo chiều hướng không tốt. Ðáng chú ý là năm loại mô hình đã được tổng kết sau đây: - Mô hình phát triển trong đó đạt được sự tăng trưởng kinh tế nhưng không có tiến bộ và công bằng xã hội. Theo mô hình này, tổng sản phẩm quốc nội của toàn thế giới gia tăng nhanh chóng, nhưng không được phân phối công bằng, vì sự tăng trưởng đó chỉ làm cho giới chủ của các công ty đa quốc gia giàu lên rất nhanh chóng, trong khi rất Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Phát triển Nông thôn . 16
  17. nhiều người lao động lại rơi vào cảnh thất nghiệp, nghèo đói, bệnh tật, vô học và bị gạt ra ngoài lề của sự phát triển. - Mô hình phát triển chú ý đến tăng trưởng kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, đô thị hoá. Theo mô hình này, các ngành công nghiệp và khu vực đô thị được chú ý đầu tư và chú trọng phát triển. Trong khi đó, lĩnh vực nông nghiệp và các vùng nông thôn bị bỏ rơi, phải tự mình thực hiện các hoạt động cho sự tồn tại và phát triển. Chính vì vậy, nông nghiệp và nông thôn không đủ sức tạo ra tiền đề về điều kiện nội sinh cần thiết về lương thực, thực phẩm, nguyên liệu, lao động và thị trường cho phát triển công nghiệp và đô thị. Trong khi đó những dòng người vô tận từ các vùng quê lại đổ xô về các thành phố được mở rộng một cách tự phát, buộc phải sống chen chúc tại những khu nhà ổ chuột và để lại sau lưng họ những vùng nông thôn xơ xác, tiêu điều. - Mô hình phát triển tạo ra sự tăng trưởng kinh tế nhưng những người lao động không được trao quyền làm chủ. Theo mô hình này, yếu tố kỹ thuật có vai trò thống soái, điều khiển mọi hoạt động của con người. Có nghĩa, các cộng đồng người không thể có tự trị được, không thể tự mình quyết định cuộc sống của chính mình được, mà phải phục tùng bộ máy kỹ thuật, bộ máy đem lại nhiều tiện nghi hơn cho cuộc sống và tăng thêm năng suất lao động. Ðây chính là chiêu bài của một số giới cầm quyền phương Tây sử dụng nhằm dễ dàng điều khiển người lao động phục vụ cho lợi ích của chính họ. - Mô hình phát triển tạo ra tăng trưởng kinh tế nhưng văn hoá, đạo đức xuống cấp. Theo mô hình này, nhiều nước chỉ quan tâm đơn thuần đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà quên đi mục tiêu phát triển xã hội, phát triển con người. Chính vì vậy, văn hoá, đạo đức và lối sống ở những nước này bị tha hoá nghiêm trọng. Chủ nghĩa cá nhân ích kỷ được tôn thờ, chủ nghĩa tiêu dùng đến mức phi lý được khuyến khích. - Mô hình phát triển tạo ra tăng trưởng kinh tế nhưng môi trường bị suy thoái. Ðể đạt được tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao trong qúa trình công nghiệp hoá, ở nhiều nước đã diễn ra những cuộc chạy đua khai thác đến cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên không có khả năng tự tái tạo. Kết quả là môi trường sinh thái toàn cầu bị phá vỡ, có nguy cơ rơi vào một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng. Như vậy, những mô hình phát triển mà chỉ chú trọng đến tăng trưởng kinh tế đơn thuần, phục vụ quyền lợi của một số ít người có thế lực và giàu có, thực chất là những mô hình phản phát triển và có hại đối với tiến trình phát triển của một quốc gia và của toàn cầu. Ngày nay con người nhận thức về sự phát triển toàn diện hơn, đầy đủ hơn, phát triển không chỉ quan tâm đến sự tăng trưởng kinh tế mà còn đảm bảo nâng cao mức sống, hạnh phúc của nhân dân, tiến bộ về xã hội, cải thiện cơ cấu nền kinh tế, an toàn về môi trường. 3. Phát triển bền vững Trong những năm gần đây, do dân số gia tăng mạnh mẽ, do nhu cầu nâng cao mức sống, hoạt động của con người nhằm khai thác các nguồn lực, tài nguyên thiên nhiên đã Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Phát triển Nông thôn . 17
  18. làm cho môi trường bị cạn kiệt. Sự can thiệp quá sâu của con người vào thiên nhiên đã dẫn đến cân bằng sinh thái bị phá vỡ. Nhiều nơi trên trái đất, con người đang phải đối mặt với những thảm hoạ thiên nhiên to lớn. Với những mô hình phát triển không cân bằng, nhiều quốc gia đã và đang phải trả giá cho những sai lầm về quan điểm phát triển của mình. Trước những vấn đề của phát triển, vào nửa cuối của thế kỷ 20, Liên Hợp Quốc đã đưa ra ý tưởng về phát triển bền vững. Khái niệm về phát triển bền vững xuất hiện trên cơ sở đúc rút kinh nghiệm của các quốc gia trên hành tinh, phản ánh xu thế thời đại và định hướng cho tương lai của con người. Theo quan điểm của Liên Hợp Quốc thì một thế giới phát triển bền vững là thế giới không sử dụng các nguồn tài nguyên có thể tái tạo (nước, đất đai, sinh vật) nhanh hơn khả năng tự tái tạo của chúng. Một xã hội bền vững sẽ không sử dụng các nguồn tài nguyên không thể tái tạo (khoáng sản, nhiên liệu, v.v.) nhanh hơn quá trình tìm ra những loại thay thế chúng và không thải ra môi trường các chất độc hại nhanh hơn quá trình trái đất hấp thụ và đồng hoá chúng. Như vậy, phát triển bền vững là sự phát triển lành mạnh, tồn tại lâu dài, vừa đáp ứng được nhu cầu hiện tại, vừa không xâm phạm đến lợi ích của các thế hệ tương lai. Một vấn đề đặt ra là những người đang hưởng thụ những thành quả của sự phát triển kinh tế ngày nay có thể sẽ làm cho các thế hệ tương lai phải chịu đựng tình cảnh tồi tệ do môi trường trái đất bị suy thoái quá mức. Các thế hệ tương lai không chỉ kế thừa tình trạng ô nhiễm và cạn kiệt tài nguyên của hiện tại, mà còn thừa hưởng các thành quả của lao động hiện tại dưới dạng chất lượng giáo dục, kỹ thuật và kiến thức (vốn con người) cũng như vốn vật chất. Nhưng cũng có thể con người tương lai được hưởng lợi từ những sự đầu tư vào tài nguyên thiên nhiên, như canh tác hợp lý làm tăng độ màu mỡ của đất trồng trọt, trồng rừng và bảo vệ rừng làm tăng độ che phủ trên toàn cầu và trong từng quốc gia. Như vậy, khi xem xét những thứ mà thế hệ hiện tại chuyển cho các thế hệ tương lai, chúng ta cần phải cân nhắc toàn bộ các nguồn vốn vật chất, vốn con người và vốn thiên nhiên. Những loại vốn này sẽ quyết định phúc lợi của các thế hệ tương lai và những gì mà họ sẽ để lại cho những người kế tục họ. Phát triển ý tưởng của Liên Hợp Quốc, Uỷ ban quốc tế về phát triển và môi trường (1987) đã định nghĩa: Phát triển bền vững là một quá trình của sự thay đổi, trong đó, việc khai thác và sử dụng tài nguyên, hướng đầu tư, hướng phát triển của công nghệ và kỹ thuật và sự thay đổi về tổ chức là thống nhất, làm tăng khả năng đáp ứng nhu cầu hiện tại và tương lai cuả con người. Hội nghị thượng đỉnh về trái đất năm 1992 tổ chức tại Rio de Janeiro năm 1992 đưa ra định nghĩa vắn tắt về phát triển bền vững là: Phát triển nhằm thoả mãn nhu cầu của thế hệ ngày nay mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai. Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Phát triển Nông thôn . 18
  19. IV. LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN 1. Khái niệm phát triển nông thôn Phát triển nông thôn là một phạm trù rộng được nhận thức với rất nhiều quan điểm khác nhau. Đã có nhiều nghiên cứu và triển khai ứng dụng thuật ngữ này ở các quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, thuật ngữ phát triển nông thôn được đề cập đến từ lâu và có sự thay đổi về nhận thức qua các thời kỳ khác nhau. Tuy nhiên, nhìn dưới góc độ lý luận quản lý, chúng ta vẫn chưa có sự tổng hợp lý luận hệ thống về thuật ngữ này. Nhiều tổ chức phát triển quốc tế đã nghiên cứu và vận dụng thuật ngữ này ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Ngân hàng Thế giới (1975) đã đưa ra định nghĩa: “Phát triển nông thôn là một chiến lược nhằm cải thiện các điều kiện sống về kinh tế và xã hội của một nhóm người cụ thể - người nghèo ở vùng nông thôn. Nó giúp những người nghèo nhất trong những người dân sống ở các vùng nông thôn được hưởng lợi ích từ sự phát triển”. Chiến lược này cũng nhằm mở rộng phúc lợi của quá trình phát triển cho những cư dân nông thôn, những người đang tìm kiếm sinh kế ở nông thôn. Một số quan điểm khác cho rằng, phát triển nông thôn là hoạt động nhằm nâng cao vị thế về kinh tế và xã hội cho người dân nông thôn thông qua việc sử dụng có hiệu quả cao các nguồn lực của địa phương bao gồm nhân lực, vật lực và tài lực. Phát triển nông thôn sẽ thành công khi chính người dân nông thôn tham gia tích cực vào quá trình phát triển. Ðiều đó đòi hỏi chiến lược phát triển nông thôn phải được xây dựng trên nền tảng tính tự tin của chính người dân nông thôn. Họ phải biết cách tự duy trì bền vững cuộc sống của họ về tài chính, sự độc lập về kinh tế, có khả năng tiếp cận các hàng hoá, dịch vụ vật chất và tinh thần ngày càng nhiều hơn. Qua đó, tự người dân nông thôn sẽ nâng cao vị trí của bản thân họ trong xã hội và trong quá trình phát triển của đất nước. Phát triển nông thôn có tác động theo nhiều chiều cạnh khác nhau. Ðây là một quá trình thu hút mọi người dân tham gia vào các chương trình phát triển, nhằm mục tiêu cải thiện chất lượng cuộc sống của các cư dân nông thôn. Ðồng thời, phát triển nông thôn là quá trình thực hiện hiện đại hoá nền văn hoá nông thôn, nhưng vẫn bảo tồn được những giá trị truyền thống thông qua việc ứng dụng khoa học và công nghệ. Khái niệm phát triển nông thôn mang tính toàn diện và đa phương, bao gồm phát triển các hoạt động nông nghiệp và các hoạt động có tính chất liên kết phục vụ nông nghiệp, công nghiệp quy mô vừa và nhỏ, các ngành nghề truyền thống, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, nguồn nhân lực nông thôn và xây dựng, tăng cường các dịch vụ và phương tiện phục vụ cộng đồng nông thôn. Phát triển vùng nông thôn phải đảm bảo sự bền vững về môi trường, ngày nay vấn đề phát triển nông thôn bền vững được đặt ra nhằm tạo sự phát triển lâu dài, ổn định không những cho các vùng nông thôn mà còn đối với cả quốc gia. Có thể hiểu phát triển nông thôn bền vững một cách ngắn gọn là sự phát triển tập trung vào người dân (tiếp Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Phát triển Nông thôn . 19
  20. cận từ dưới lên), đồng thời phải phát triển đa ngành và giải quyết thích đáng mối quan hệ liên ngành (tiếp cận tổng hợp) và phát triển đảm bảo sự cân xứng với việc quản lý môi trường (tiếp cận quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên). Phát triển nông thôn là sự phát triển tổng hợp của tất cả các hoạt động có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa các yếu tố vật chất, kinh tế, công nghệ, văn hoá, xã hội, thể chế và môi trường. Nó không thể tiến hành một cách độc lập mà phải được đặt trong khuôn khổ của một chiến lược, chương trình phát triển của quốc gia. Sự phát triển của các vùng nông thôn sẽ đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế nói riêng và sự phát triển chung của cả đất nước. Như vậy, có rất nhiều quan điểm về khái niệm phát triển nông thôn. Trong điều kiện của Việt Nam, tổng hợp quan điểm từ các chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Chính phủ, thuật ngữ này có thể hiểu như sau: Phát triển nông thôn là một quá trình cải thiện có chủ ý một cách bền vững về kinh tế, xã hội, văn hóa và môi trường, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân nông thôn. Quá trình này, trước hết là do chính người dân nông thôn và có sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước và các tổ chức khác. 2. Lý luận về phát triển nông thôn Từ khái niệm nêu trên, một số đặc điểm cần nhấn mạnh, cũng như một số lý luận liên quan đến phát triển nông thôn này cần được đề cập đến, đó là: a) Phát triển nông thôn là một quá trình Đặc điểm này nhấn mạnh hoạt động phát triển nông thôn không phải là việc làm có tính nhất thời, trong thời gian ngắn, mà đó là công việc có chủ định và phải phấn đấu trong cả quá trình, thời gian dài. Vì vậy, sự nóng vội trong các quyết định chính sách và hoạt động phát triển nhiều khi mang lại những kết quả không mong muốn. b) Phát triển nông thôn phải có tính bền vững Chính phủ Việt Nam đã cam kết theo đuổi những nguyên tắc của phát triển bền vững, đã được thông qua tại “Hội nghị thượng đỉnh về Trái đất” tổ chức tại Rio de Janeiro năm 1992. Những nguyên tắc này nhấn mạnh vào cách nhìn lâu dài về xã hội con người và việc con người sử dụng tài nguyên thiên nhiên của thế giới. Phát triển bền vững được định nghĩa là: “Sự phát triển nhằm thỏa mãn nhu cầu của thế hệ ngày nay mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai” (Báo cáo Brunđtland 1987). Một định nghĩa khác về phát triển bền vững là: “Phát triển tạo ra dòng chảy liên tục các lợi ích về xã hội, kinh tế và môi trường”. Những khái niệm bền vững trên là cơ sở cho một khái niệm bền vững trong phát triển nông thôn. Trong bối cảnh phát triển nông thôn, bền vững không chỉ là vấn đề tôn Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Phát triển Nông thôn . 20
  21. trọng môi trường, nó liên quan đến bốn “chân” hoặc trụ cột của phát triển nông thôn, đó là con người, kinh tế, môi trường và tổ chức. Khía cạnh bền vững đối với phát triển con người, trong phát triển nông thôn phải tuân thủ các nguyên tắc như: (i) Dân chủ và an toàn; (ii) Bình đẳng và công bằng xã hội; (iii) Bền vững chất lượng cuộc sống cho người dân; (iv) Sự tham gia của người dân trong hợp tác với chính phủ và (v) Tôn trọng quá khứ của tổ tiên và quyền lợi của các thế hệ mai sau vv Khía cạnh bền vững đối với phát triển kinh tế, trong phát triển nông thôn cần: (i) Tăng cường và đa dạng hóa nền kinh tế nông thôn; (ii) Đảm bảo cho người dân có lợi ích từ các hoạt động của địa phương họ; (iii) Thúc đẩy phồn vinh lâu dài ở nông thôn, hơn là chỉ chú ý đến lợi ích trước mắt và (iv) Tránh gây ảnh hưởng và tác động xấu đến khu vực khác trong nền kinh tế quốc dân và đến các khu vực và địa phương khác trên lãnh thổ địa lý. Khía cạnh bền vững đối với phát triển môi trường, phát triển nông thôn phải: (i) Tôn trọng nguồn tài nguyên và tính toàn vẹn của môi trường; (ii) Giảm thiểu sử dụng tài nguyên không có khả năng tái tạo; (iii) Sử dụng tài nguyên thiên nhiên với tốc độ không nhanh hơn tốc độ thiên nhiên có thể tái tạo; và (iv) Sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên và không gây ô nhiễm và ảnh hưởng xấu đến môi trường. Khía cạnh bền vững đối với sự phát triển các tổ chức, phát triển nông thôn phải đảm bảo: (i) Nâng cao năng lực của các tổ chức phù hợp với mức độ phát triển, nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý tất cả các hoạt động phát triển con người, kinh tế và môi trường như đã nói trên và (ii) Không gây ra loại chi phí không được hỗ trợ trong tương lai. c) Thuật ngữ “cải thiện” trong khái niệm phát triển nông thôn Thuật ngữ này được hiểu theo nghĩa là: làm cho tốt hơn lên hoặc tăng lên theo chiều hướng có lợi (cả về khía cạnh chất và lượng của sự vật, hiện tượng). d) Phương pháp tiếp cận toàn diện trong phát triển nông thôn Theo khái niệm trên, sự phát triển nông thôn không phải chỉ ưu tiên hoặc chú trọng vào một khía cạnh, lĩnh vực nhất định mà là sự tiếp cận toàn diện. Sự toàn diện đó, xét về lĩnh vực liên quan đến chủ thể nông thôn, phát triển nông thôn nhấn mạnh tất cả các khía cạnh: kinh tế, văn hóa-xã hội và môi trường. Xét dưới góc độ sự liên quan của chủ thể đối với chính phủ và các tổ chức, phát triển nông thôn chú trọng cả “từ trên xuống” và “từ dưới lên” và có sự tham gia của mọi khu vực (chủ thể nông thôn, Nhà nước và các tổ chức) và phải dựa trên tinh thần hợp tác và cộng tác. Một cách tổng quát, tiếp cận toàn diện trong phát triển nông thôn từ khái niệm trên, có thể sử dụng thuật ngữ “bốn chân” hoặc trụ cột của phát triển nông thôn, đó là: (i) Con người, cùng với kỹ năng của họ. Điều này liên quan đến khía cạnh xã hội: sự công bằng, dịch vụ xã hội, cơ sở hạ tầng, vv (ii) Kinh tế, liên quan đến nông nghiệp, công Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Phát triển Nông thôn . 21
  22. nghiệp, dịch vụ, v.v (iii) Môi trường, liên quan đến môi trường, tài nguyên thiên nhiên, di sản văn hóa, v.v và (iv) Ý tưởng và tổ chức, liên quan đến khía cạnh thể chế nhà nước, các tổ chức quốc gia và quốc tế, các tổ chức khu vực và địa phương. “Khung sườn” của tiếp cận toàn diện này sẽ là cơ sở cho toàn bộ nội dung mà chúng ta đề cập đến ở các chương sau. e) Phương pháp tiếp cận phát triển nông thôn có sự tham gia của cộng đồng Khái niệm phát triển nông thôn ở trên chỉ ra mục tiêu của phát triển nông thôn là cải thiện cuộc sống cho người dân (cộng đồng) nông thôn và nhấn mạnh quá trình này trước hết là do chính họ (cộng đồng). Điều này thể hiện một phương pháp tiếp cận dựa vào cộng đồng, nghĩa là sự phát triển nông thôn phải dựa trên lợi ích và sự tham gia của cộng đồng sống trong khu vực đó. Tiếp cận có sự tham gia của cộng đồng dựa vào những triết lý sau: (i) Chính người dân biết rõ nhất những khó khăn và nhu cầu của mình; (ii) Cộng đồng là người quản lý các nguồn tài nguyên như đất đai, nhà xưởng, sản phẩm địa phương là những cơ sở cho phát triển nông thôn; (iii) Kỹ năng, truyền thống và năng lực của cộng đồng là tiềm năng chính để phát triển và (iv) Sự cam kết, đồng thuận và cộng tác của cộng đồng là sức mạnh sống còn cho quá trình phát triển. Bất kỳ một hoạt động nào không nhận được sự ủng hộ của cộng đồng sẽ dễ thất bại. Một cộng đồng càng phát triển và càng năng động thì càng có khả năng thu hút người dân ở lại xây dựng cộng đồng của mình. g) Sự hợp tác trong phát triển nông thôn Khái niệm nói trên còn chỉ ra một khía cạnh quan trọng khác, đó là sự tham gia hay hợp tác giữa Chính phủ, người dân và các tổ chức khác trong phát triển nông thôn. “Phát triển nông thôn là một công việc phức tạp. Nó đòi hỏi sự đóng góp của tất cả mọi người, mọi tổ chức cũng như hỗ trợ của Nhà nước”. Sự hợp tác và cộng tác giữa nhiều lợi ích khác nhau trong phát triển nông thôn ở Việt Nam cũng như một số nước khác gặp phải những khó khăn, vì những lý do sau: (i) Chính phủ thường được chia thành các bộ và ngành khác nhau. Mỗi bộ hoặc ngành ảnh hưởng đến nông thôn thông qua những chương trình, hệ thống và những đặc trưng riêng của mình. Vì vậy, không dễ dàng kết hợp những quan điểm khác nhau để giải quyết một mục tiêu chung. (ii) Có rất nhiều tổ chức khác nhau: tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ và các tổ chức khác cùng giúp đỡ, tác động đến quá trình phát triển nông thôn, nhưng họ có các ưu tiên và quan điểm khác nhau đối với phát triển nông thôn; (iii) Các công ty tư nhân, kể cả công ty liên doanh và nhà đầu tư nước ngoài có động cơ và tiêu chí riêng của mình khi đầu tư vào khu vực nông thôn: những tiêu chí này có thể khác với tiêu chí của tổ chức nhà nước; (iv) Người dân là nhân tố tham gia chính trong quá trình phát triển nông thôn, nhưng họ có những hạn chế về kiến thức hoặc thông tin hoặc cơ hội tham gia. Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Phát triển Nông thôn . 22
  23. Có những giải pháp để khắc phục những khó khăn nói trên trong vấn đề hợp tác. Một trong những chương trình phát triển nông thôn mang lại lý luận và bài học kinh nghiệm tốt cho việc hợp tác đó là Chương trình LEADER của châu Âu. Quá trình này có thể tóm tắt như sau: - Vào những năm 50 của thế kỷ XX, Liên hiệp châu Âu (EU) đã cấp vốn cho các nước thành viên để khuyến khích phát triển khu vực. Vốn này tập trung cho các nước hoặc vùng có nền kinh tế yếu kém nhất. Trọng tâm của Chương trình là những kế hoạch phát triển cơ sở hạ tầng và những công trình công nghiệp lớn nhằm tạo công ăn việc làm. Đến thập kỷ 80, người ta nhận thấy rằng, các chương trình này đã không giải quyết được các vấn đề của nông thôn. Thực tế cho thấy, một số lượng lớn dân nông thôn đã dời đến các thành phố tìm việc làm càng làm cộng đồng nông thôn thêm yếu kém. Do đó, vào năm 1991, EU đã đưa ra chương trình giúp đỡ các vùng nông thôn yếu kém hơn, trong đó gồm một sáng kiến cơ bản, gọi là Chương trình LEADER. Chương trình này nhằm khuyến khích sự hợp tác giữa các lợi ích khác nhau ở nông thôn nói chung và ở từng địa phương nói riêng. Các nhóm hành động địa phương được thành lập và tiền của EU được chuyển tới các nhóm để phục vụ cho mục đích này. Các nhóm này hoạt động dưới hình thức hợp tác chính thức giữa các lợi ích của các tổ chức công cộng, tư nhân và tình nguyện trong khu vực. Điều rất đặc trưng là các tổ chức tham gia trong quan hệ hợp tác này là chính quyền địa phương, hội nông nghiệp, liên hiệp du lịch và các công ty địa phương. Sự hợp tác này thường được đăng ký hợp pháp như là một hiệp hội dân sự. Mỗi nhóm hành động địa phương phụ trách mỗi khu vực có khoảng 100.000 dân. Nhóm phải làm một bản phân tích khó khăn và nhu cầu của vùng mình, cùng với một kế hoạch hành động và ngân sách để giải quyết nhu cầu đó. Giai đoạn I của Chương trình LEADER (1991-1994) đã có 213 nhóm và giai đoạn II (1995-1999) có hơn 900 nhóm được thành lập và cấp vốn hoạt động. Các nhóm đã thành công lớn trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội tại các vùng và trong việc sử dụng tiềm năng của các tổ chức thành viên, cùng với vốn hỗ trợ của chính phủ và EU. Hiện nay, EU đang tiếp tục với các giai đoạn sau của Chương trình LEADER với trọng tâm vào cải tiến và chuyển giao công tác phát triển cho các cộng đồng. Chương trình LEADER đã gợi những ý tưởng có thể áp dụng trong phát triển nông thôn Việt Nam, thể hiện trong các nguyên tắc sau: (i) Chọn một vùng nông thôn, hoạt động trên cơ sở hợp tác giữa Chính phủ, chính quyền địa phương, người dân và các tổ chức có lợi ích khác; (ii) Tham gia hoàn toàn với cộng đồng địa phương, huy động sự tham gia và nâng cao năng lực người dân địa phương để sau này họ có thể tự lực theo đuổi và duy trì chương trình phát triển của họ; (iii) Phân tích thận trọng tiềm năng và nhu cầu của địa phương để hiểu được các điểm mạnh, yếu, cơ hội và mối đe dọa ảnh hưởng đến vùng đó, làm cơ sở cho việc xây dựng chiến lược phát triển của vùng; (iv) Duy trì và đẩy mạnh nông nghiệp, cho phép nông dân đa dạng hóa nguồn thu nhập một cách thích hợp; (v) Phát triển lâm nghiệp như một hoạt động đa mục đích, mang lại các Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Phát triển Nông thôn . 23
  24. lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường; (vi) Gia tăng giá trị tại địa phương của các nông, lâm sản (thông qua chế biến); (vii) Thúc đẩy sản xuất, ngành nghề thủ công và dịch vụ, trên cơ sở hợp đồng địa phương; (viii) Thúc đẩy du lịch nông thôn bền vững ở những nơi thích hợp; (ix) Đẩy mạnh dịch vụ xã hội và cơ sở hạ tầng ở các địa phương và (x) Bảo vệ và kế thừa hợp lý các di sản văn hóa, động vật hoang dã, các nguồn đa dạng sinh học và phong cảnh. V. HỆ THỐNG CHỈ TIÊU PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN Khi nghiên cứu phát triển nông thôn, một vấn đề đặt ra là cần có biện pháp đo lường sự phát triển cho mỗi quốc gia, mỗi vùng và địa phương. Phương pháp đánh giá thích hợp là sử dụng các tiêu chí phản ánh sự phồn thịnh của quốc gia, vùng hoặc địa phương đó. Trong đánh giá phát triển ngoài tiêu chí tăng trưởng kinh tế, còn các tiêu chí phản ánh tiến bộ xã hội như giáo dục, đào tạo, dân trí, sức khoẻ, tuổi thọ, giá trị cuộc sống, công bằng xã hội, cải thiện môi trường. Có thể phân thành 3 nhóm chỉ tiêu phản ánh: - Nhóm chỉ tiêu thể hiện sự tăng trưởng kinh tế. - Nhóm chỉ tiêu thể hiện sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế. - Nhóm chỉ tiêu thể hiện sự tiến bộ xã hội. 1. Nhóm chỉ tiêu về tăng trưởng kinh tế Các chỉ tiêu thông dụng để đánh giá tăng trưởng kinh tế được sử dụng gồm: - Tổng sản phẩm quốc nội: GDP. - Tổng thu nhập quốc dân: GNP, GNI. - Thu nhập quốc dân thuần: NNP hay NI. Các chỉ tiêu trên dùng để tính tốc độ (%) tăng trưởng kinh tế hàng năm hay tăng trưởng bình quân từng thời kỳ của một quốc gia, một vùng, một địa phương, ví dụ cho ở bảng 3. Bảng 3. Tăng trưởng GDP của Việt Nam từ 1990 đến 2004 (%) Năm 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 00 01 02 03 04 Tăng 5,2 6,1 8,6 8,0 8,9 9,5 9,3 8,3 5,8 4,8 6,8 6,9 7,1 7,2 7,7 trưởng Nguồn: Niên giám Thống kê 2003 - Tổng cục Thống kê, Hà Nội - 2004 Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Phát triển Nông thôn . 24
  25. Bảng 4. Tăng trưởng của các ngành kinh tế Việt Nam một số năm (%) Ngành sản xuất 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Nông nghiệp 4,8 5,3 7,8 4,8 7,0 6,4 3,9 5,0 4,1 Công nghiệp 14,5 14,2 13,2 12,5 11,6 17,5 14,2 14,0 16,0 Dịch vụ 10,3 11,7 9,5 8,7 7,2 7,9 8,0 8,1 8,0 Nguồn: Niên giám thống kê 2003 - Tổng cục Thống kê, Hà Nội 2004 Bảng 5. Tăng trưởng GNP của một số nước châu Á (%) Năm 1983 1984 1985 1986 1987 1988 Nước Ấn Ðộ 8,6 4,2 3,7 4,7 3,9 3,8 Bangladesh 3,5 4,2 3,7 4,7 3,9 3,8 Nepan -3,0 9,7 6,1 4,3 2,7 9,7 Pakistan 6,8 5,1 7,5 5,5 6,5 7,1 Srilanca 3,9 1,7 7,4 1,4 1,2 2,7 Trung Quốc 9,8 13,5 13,0 8,0 10,5 11,2 Inđônêsia 3,3 6,1 2,5 4,0 3,4 5,5 Hàn Quốc 12,1 9,6 6,9 12,6 11,9 11,3 Malaysia 6,4 6,9 -1,1 1,3 5,3 8,9 Philipin 1,1 -6,3 -4,5 1,4 4,9 6,5 Thái Lan 7,2 7,1 3,6 4,4 8,1 10,9 Nhật Bản 3,2 5,0 4,7 2,5 4,2 5,7 Nguồn: World Bank, World Tables 1989 - 1990 2. Nhóm chỉ tiêu về cơ cấu nền kinh tế xã hội a) Cơ cấu kinh tế phân theo ngành, theo thành phần kinh tế: Cơ cấu kinh tế phân theo ngành, theo thành phần kinh tế là chỉ tiêu phản ánh cơ cấu GDP hay GNP của các nhóm ngành sản xuất chính nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ trong nền kinh tế, hay cơ cấu phân theo thành phần kinh tế là nhà nuớc, tập thể, tư nhân, cá thể, đầu tư nước ngoài. Sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế là một tiêu chí quan trọng đánh giá mức độ phát triển. Cơ cấu kinh tế tiến bộ có xu hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong khi tổng sản phẩm và tổng thu nhập quốc dân không ngừng tăng lên. Các nước phát triển có tỷ trọng các ngành dịch vụ và công nghiệp cao, cơ cấu nông nghiệp chỉ chiếm 2 - 3 % trong GDP cả nước. Nhiều nước đang phát triển đang hướng tới cơ cấu kinh tế ngày càng tiến bộ (ở Thái Lan cơ cấu nông nghiệp chỉ còn 8%, ở Trung Quốc - trên 10%). Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Phát triển Nông thôn . 25
  26. Bảng 6. Cơ cấu kinh tế của Việt Nam năm 2003 Cơ cấu GDP theo khu vực kinh tế Cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế Ngành sản xuất % Thành phần kinh tế % Nông nghiệp 21,83 Nhà nước 39,08 Công nghiệp 39,95 Cá thể 30,73 Dịch vụ 38,22 Tập thể 7,49 Tư nhân 8,23 Ðầu tư nước ngoài 14,47 Nguồn: Niên giám thống kê 2003 - Tổng cục Thống kê - Hà Nội 2004 b) Chỉ tiêu phản ánh thu nhập và mức sống dân cư: Thu nhập bình quân trên đầu người dân: GDP/người; GNP/người; GNI/người là chỉ tiêu quan trọng phản ánh thu nhập và mức sống dân cư, thu nhập trên đầu người cao là điều kiện nâng cao mức tiêu dùng cá nhân cả về vật chất và tinh thần. Chỉ tiêu này được sử dụng ở trên thế giới và các quốc gia để phân định nước giàu, nước nghèo, người giàu, người nghèo, được tính bằng tổng sản phẩm quốc gia hay tổng thu nhập quốc dân chia cho tổng dân số, trong so sánh thế giới thường tính bằng đơn vị USD/người, tính theo phương pháp Atlas hay phương pháp PPP (bảng 7). c) Chỉ tiêu về cán cân thương mại (Export Import hay X-M): Cán cân giữa xuất khẩu và nhập khẩu phản ánh sự mở cửa và hội nhập của nền kinh tế. Nền kinh tế càng phát triển mức xuất khẩu ngày càng tăng, tạo ra thu nhập ròng X-M > 0 tăng thể hiện mức xuất siêu ngày càng cao và ngược lại X- M < 0 là nhập siêu, phản ánh một nền kinh tế yếu và phụ thuộc vào nhập khẩu từ nước ngoài. Xu hướng toàn cầu hoá ngày nay khối lượng xuất nhập khẩu giữa các quốc gia ngày càng tăng, phản ánh sự phát triển và sự hội nhập của nền kinh tế. Tuy nhiên, xuất nhập khẩu của các nước phát triển thường lớn hơn các nước đang phát triển (bảng 8). Bảng 7. Thu nhập quốc dân bình quân đầu người của một số nước châu Á và khu vực Ðông Nam Á (tính theo phương pháp Atlas) Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Phát triển Nông thôn . 26
  27. ÐVT: USD/người Năm Nước và vùng lãnh thổ 1997 1998 1999 Campuchia 300 260 280 Trung Quốc 860 750 780 Hồng Kông 25.200 23.660 24.570 Ấn Ðộ 370 440 440 Indonesia 1110 640 600 Hàn Quốc 10.550 8.600 8.490 Lào 400 320 290 Malaysia 4.530 3.670 3.390 Philipin 930 890 810 Xingapo 32.810 30.170 24.150 Ðài Loan 13.560 12.330 13.250 Thái Lan 2.740 2.160 2.010 Nguồn: World Bank, World Tables 1997 - 1999 Bảng 8. Xuất khẩu và nhập khẩu trên thế giới Ðơn vị tính: Tỷ USD 1997 1998 1999 2000 Nhóm nước XK NK XK NK XK NK XK NK Các nước 3.600 3.600 3.700 3.700 3.700 3.900 4.000 4.300 phát triển Các nước 1.800 1.900 1.700 1.800 1.900 1.800 2.300 2.200 đang phát triển Nguồn: World Bank, World Tables 1997- 2000 d) Tỷ lệ về mức tiết kiệm đầu tư: Tỷ lệ về mức tiết kiệm - đầu tư phản ảnh khả năng tăng trưởng kinh tế trong tương lai. Tỷ lệ đầu tư cao phản ánh khả năng của nền kinh tế có cơ hội dành vốn lớn cho đầu tư tạo nguồn thu nhập cao trong tương lai, tích luỹ lớn hơn tiêu dùng nhằm tích luỹ vốn để tăng cường đầu tư tạo đà cho nền kinh tế phát triển. Tỷ lệ về mức tiết kiêm đầu tư phụ thuộc vào 2 yếu tố: (i) Quy mô của GDP và (ii) Lượng vốn đầu tư của nền kinh tế. Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Phát triển Nông thôn . 27
  28. Lượng vốn đầu tư của nền kinh tế được tính theo công thức: I = GDP - C + ( X – M ) Trong đó: I = Lượng vốn đầu tư của nền kinh tế C = Thu nhập dành tiêu dùng xã hội (X – M) = Chênh lệch xuất khẩu và nhập khẩu e) Tăng trưởng tiêu dùng cá nhân theo đầu người: Phản ánh tốc độ tăng mức tiêu dùng hay sự tăng lên của mức sống dân cư hàng năm và bình quân qua từng thời kỳ, nếu nền kinh tế phát triển ổn định thì mức tiêu dùng cá nhân tăng ổn định và ngược lại. 3. Nhóm chỉ tiêu về phát triển xã hội a) Tuổi thọ trung bình quân dân cư: Chỉ tiêu này phản ánh sự gia tăng mức sống, điều kiện chăm sóc sức khoẻ, vệ sinh, môi trường sống, nền kinh tế xã hội càng phát triển thì điều kiện môi trường sống càng cao dẫn tới tuổi thọ bình quân cao. Việt Nam tuy là nước đang phát triển nhưng có điều kiện bảo đảm cuộc sống và chăm sóc y tế khá tốt dẫn đến tuổi thọ bình quân dân cư đạt 68 tuổi. Ở các nước công nghiệp phát triển, tuổi thọ bình quân dân cư đạt 80 tuổi. b) Tỷ lệ sinh, tỷ lệ chết, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên: (bảng 9) Các tỷ lệ này phản ánh điều kiện sống, điều kiện chăm sóc sức khoẻ, vệ sinh, môi trường, trình độ dân trí, sự đáp ứng kế hoạch hoá gia đình. Khi nền kinh tế phát triển, tỷ lệ chết của trẻ sơ sinh thấp, tỷ lệ chết vì bệnh tật thấp, tỷ lệ gia tăng dân số thấp và đạt tới mức độ ổn định dân số. Việt Nam có nhiều tiến bộ về kế hoạch hoá gia đình, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên đạt mức bình quân 1,3 đến 1,4%. Tuy vậy mức đó còn khá cao so với các nước phát triển. Khu vực nông thôn có tốc độ tăng dân số cao hơn so với bình quân chung cả nước. b) Tỷ lệ số người biết chữ ở tuổi trưởng thành, tỷ lệ trẻ em thất học: Chỉ tiêu này phản ánh trình độ dân trí của dân cư, phụ thuộc vào thu nhập và mức sống. Nền kinh tế càng lạc hậu, nghèo nàn thì tỷ lệ thất học càng cao. Nền kinh tế xã hội càng phát triển, con người càng có cơ hội học hành và phát huy năng lực bản thân. Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Phát triển Nông thôn . 28
  29. c) Tỷ lệ lao động được đào tạo: Tỷ lệ lao động được đào tạo phản ánh trình độ chuyên môn và kỹ năng của người lao động đáp ứng yêu cầu của nền sản xuất hiện đại với yêu cầu công nghệ và tri thức con người ngày càng cao. Bảng 9. Tỷ lệ sinh, tỷ lệ chết, tỷ lệ tăng tự nhiên và tuổi thọ trung bình của các châu lục và một số quốc gia năm 2001 Tỷ lệ tăng Tuổi thọ Tuổi thọ Tuổi thọ Châu lục Tỷ lệ sinh Tỷ lệ chết tự nhiên TB TB nam TB nữ và quốc gia (%o) (%o) (%) (tuổi) (T) (T) Toàn thế giới 22 9 1,3 67 65 69 Châu Phi 38 14 2,4 54 52 55 - Angiêri 25 6 1,9 69 68 70 - Kênia 34 14 2,6 48 48 49 -Ruanda 39 21 1,8 39 39 40 Bắc Mỹ 14 9 0,5 77 74 80 - Mỹ 15 9 0,6 77 74 80 Nam Mỹ 23 7 1,6 70 67 73 Châu Á 22 8 1,4 67 65 68 - Trung Quốc 15 6 0,9 71 69 73 Châu Ðại Duơng 18 7 1,1 74 72 76 Châu Âu 10 11 -0,1 74 70 78 Nguồn: World Bank, World Tables 2001 d) Tỷ lệ số người có trình độ đại học trở lên trong dân cư: Tỷ lệ này phản ánh trình độ phát triển khoa học kỹ thuật và mức độ đáp ứng của xã hội cho phát triển một nền kinh tế tri thức với công nghệ ngày càng cao. e) Tỷ lệ số dân đô thị: Phản ánh mức độ công nghiệp hoá, đô thị hoá nền kinh tế xã hội, nền kinh tế phát triển cao có mức độ đô thị hoá cao, số dân đô thị chiếm tỷ lệ cao trong dân cư. Hiện nay ở Việt Nam tỷ lệ cư dân đô thị mới đạt 25,8%, trong khi đó ở các nước phát triển tỷ lệ này thường là 70 đến 80%. Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Phát triển Nông thôn . 29
  30. g) Số giường bệnh, số bác sĩ tính trên nghìn dân: Phản ánh điều kiện bảo đảm và chăm sóc sức khoẻ cho dân cư, xã hội càng phát triển càng có điều kiện đầu tư xây dựng các cơ sở y tế để chăm sóc sức khoẻ và điều trị bệnh cho nhân dân và số bác sĩ trên một nghìn dân ngày càng cao. h) Chỉ số phát triển nhân văn (Human Development Index- HDI): Đây là chỉ số phản ánh tổng hợp sự phát triển con người, phụ thuộc mức thu nhập bình quân đầu người dân, tuổi thọ trung bình, trình độ dân trí Việt Nam xếp thứ 112/176 nước về chỉ số HDI mặc dù thu nhập bình quân đầu người thấp nhưng có tuổi thọ trung bình khá (68 tuổi) và trình độ dân trí được đánh giá khá cao. i) Những chỉ tiêu khác: (i) Tỷ lệ số dân đô thị, nông thôn tiếp nhận các điều kiện vệ sinh (nước sạch, nhà vệ sinh). (ii) Tỷ lệ thất nghiệp của người trong độ tuổi lao động. (iii) Mức tiêu dùng năng lượng bình quân trên đầu người dân (điện, xăng dầu). (iv) Tỷ lệ lạm phát. (v) Nợ nước ngoài. (vi) Những tiêu chí phản ánh sự công bằng xã hội, bất bình đẳng: Hệ số Ghini, đường cong Loren. (vii) Những chỉ tiêu phản ánh các quyền tự do, quyền dân chủ công dân các chỉ tiêu này mang tính định tính. Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Phát triển Nông thôn . 30
  31. CÂU HỎI HƯỚNG DẪN THẢO LUẬN CHƯƠNG I 1. Đối tượng, nhiệm vụ và mục tiêu của môn học? 2. Trình bày và phân tích khái niệm nông thôn? 3. Phân tích những đặc điểm cơ bản của nông thôn? 4. Phân tích khái niệm tăng trưởng? 5. Phân tích khái niệm phát triển? 6. Phân tích khái niệm phát triển bền vững? 7. Trình bày các khái niệm phát triển nông thôn? 8. Vì sao phải phát triển nông thôn? 9. Trình bày và giải thích đặc điểm của phát triển nông thôn? 10. Giải thích một số phương pháp tiếp cận phát triển nông thôn? 11. Trình bày và giải thích các chỉ tiêu đánh giá phát triển nông thôn? Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Phát triển Nông thôn . 31
  32. Chương II PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG THÔN I. TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ NÔNG THÔN 1. Vai trò của phát triển kinh tế nông thôn Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội đến 2010 nhấn mạnh mục tiêu phát triển nhanh kinh tế, tạo việc làm và giảm nghèo. Để thực hiện mục tiêu này, cần có sự thay đổi lớn trong cơ cấu kinh tế quốc dân. Chiến lược của Chính phủ trong 20 năm tới dựa trên sự chuyển dịch từ nền kinh tế coi nông nghiệp là chủ yếu sang nền kinh tế công nghiệp hóa với sự phát triển mạnh của các ngành công nghiệp chế biến, sản xuất và dịch vụ. Sự chuyển dịch này liên quan đến việc tăng tỷ lệ dân sống ở vùng thành thị. Rút kinh nghiệm của các nước đang phát triển ở Đông Nam Á và Nam Mỹ, Chính phủ đã có những cố gắng hạn chế tối đa sự di dân từ nông thôn vào thành phố, bằng tạo việc làm và đẩy nhanh sự phát triển kinh tế ở nông thôn. Phát triển kinh tế nông thôn sẽ tiếp tục đóng vai trò chủ chốt vào sự phát triển kinh tế quốc dân. Vai trò đó thể hiện qua các nhiệm vụ và những đóng góp sau: - Đảm bảo an ninh lương thực cho nhân dân cả nước; - Cung cấp nguyên liệu và sức lao động cho các ngành công nghiệp và dịch vụ; - Tạo việc làm và tăng thu nhập cho cư dân nông thôn, hạn chế việc di dân tự phát từ nông thôn ra thành thị; - Tạo nguồn thu nhập ngoại tệ thông qua xuất khẩu các sản phẩm từ nông, lâm, ngư nghiệp và ngành nghề thủ công; - Bảo vệ và làm giàu môi trường sinh thái và cảnh quan, duy trì và bảo tồn nền văn hóa bản sắc dân tộc. 2. Các hoạt động kinh tế trong nông thôn Kinh tế của một nước nói chung, của nông thôn nói riêng bao gồm các hoạt động kinh tế thuộc ba loại lớn sau: - Những hoạt động sản xuất chính. - Những hoạt động sản xuất thứ sinh (hoặc chế biến). - Những hoạt động thứ ba (hoặc dịch vụ). Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Phát triển Nông thôn . 32
  33. Các hoạt động sản xuất chính là những hoạt động liên quan đến việc trồng trọt, thu hoạch hoặc khai thác nguyên liệu, như hoạt động của các ngành: - Nông nghiệp; - Lâm nghiệp; - Thủy sản hoặc nuôi trồng thủy sản; - Khai thác mỏ và đá. Các hoạt động sản xuất thứ sinh (hoặc chế biến) là những hoạt động liên quan đến việc chế biến những nguyên liệu từ hoạt động sản xuất chính và sản xuất các mặt hàng có thể sử dụng hoặc tiêu thụ, thí dụ: - Sản xuất phomát từ sữa, quần áo từ len; - Xây dựng nhà cửa, đường sá; - Làm đồ gốm hoặc các hàng hóa gia công khác và v.v Các hoạt động thứ ba (hoặc dịch vụ) là những hoạt động liên quan đến việc cung cấp dịch vụ như: - Bán hàng hóa ở các cử hàng, các chợ; - Bảo dưỡng hoặc sửa chữa công cụ, máy móc; - Dịch vụ khách sạn, du lịch; - Xuất nhập khẩu, vận chuyển hàng hóa, và v.v Ba khu vực kinh tế: chính, thứ sinh, thứ ba được liên kết chặt chẽ với nhau thành “chuỗi xích” hoạt động kinh tế. Thí dụ, một nông dân sản xuất gạo có thể mua chiếc cày ở một cửa hàng nông cụ. Anh ta có thể bán gạo của mình cho một thương nhân, rồi người này lại bán lại cho một công ty xuất khẩu, công ty này thuê công ty vận chuyển để chuyển gạo tới cảng, tại đây gạo có thể được bán cho người mua nước ngoài, một công ty vận tải biển lại được thuê để chuyển gạo về nước mình và sau đó thông qua chợ bán buôn hoặc cửa hàng bán lẻ để bán cho những người tiêu dùng. Ở mỗi khâu trong “chuỗi xích” này, việc kinh doanh hoặc doanh nghiệp liên quan phải trang trải các chi phí (tiền lương, thiết bị ) và phải có lãi để duy trì công việc kinh doanh. Những chi phí này được phản ánh ở giá bán gạo, do đó giá này sẽ phải cao hơn giá mà họ mua. Vì vậy, giá (một kg) gạo khi đến tay khách hàng nước ngoài có thể cao gấp nhiều lần mà người nông dân bán ra. Nhưng giá bán cuối cùng không thể cao hơn giá bán gạo có chất lượng tương tự, thí dụ từ Thái Lan chẳng hạn. Bất kỳ sự giảm giá bán cuối cùng nào cũng đều được phản ánh (thông qua “chuỗi xích” kinh tế) ở giá mà người nông dân nhận được cho sản phẩm cơ bản của mình. Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Phát triển Nông thôn . 33
  34. Trong điều kiện nông thôn Việt Nam, hầu hết các hoạt động kinh tế có xu hướng tập trung ở các giai đoạn đầu của các “chuỗi xích” kinh tế này, nhất là các hoạt động sản xuất chính như nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp. Hoạt động kinh tế ở các giai đoạn sau của chuỗi kinh tế (như chế biến lương thực, xuất khẩu, vận chuyển ) thường được tiến hành ở các thị xã, thành phố lớn hoặc ở các cảng. Vì vậy nhiều doanh nghiệp ở các vùng nông thôn, đặc biệt là người nông dân có thể chỉ nhận được giá cơ bản cho các sản phẩm ban đầu trong khi tiền nhận thêm liên quan đến sản phẩm này có thể chủ yếu ở các thành phố. Nếu muốn làm cho nền kinh tế nông thôn vững mạnh, thì phải giữ lại thêm “các mắt xích” trong các “chuỗi xích” kinh tế cho các vùng nông thôn, hoặc thậm chí phải đẩy một số mắt xích ra khỏi chuỗi để sao cho người sản xuất càng liên quan trực tiếp đến người tiêu dùng bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Thí dụ, người nông dân bán rau trực tiếp cho người tiêu dùng sẽ nhận được nhiều tiền hơn là bán cho người bán buôn. Người làm đồ gốm trong làng bán trực tiếp các sản phẩm của mình cho khách sẽ nhận được nhiều tiền hơn là nếu bán cho một công ty xuất khẩu. 3. Các thành phần kinh tế trong nông thôn Giai đoạn quá độ chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang làm thay đổi vai trò của các thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế chính được Chính phủ công nhận, bao gồm: - Hộ gia đình; - Hợp tác xã; - Doanh nghiệp nhà nước; - Doanh nghiệp tư nhân tồn tại dưới các hình thức pháp lý: Doanh nghiệp cá nhân, công ty hợp doanh, công ty hùn vốn trách nhiệm hữu hạn (TNHH), công ty cổ phần TNHH, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. a) Hộ gia đình: Ở nông thôn, hầu hết các hoạt động kinh tế trong nông, lâm, ngư nghiệp, dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp đều do các hộ gia đình điều hành. Luật Đất đai năm 1993 công nhận các nông hộ là những đơn vị kinh tế tự chủ và đã cấp cho họ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Việc này đã làm cho hang triệu hộ nông dân an tâm lao động trên đất đai của mình và khuyến khích họ đẩy mạnh sản xuất. Kết quả là nhiều nông hộ đã thoát cảnh nghèo và trở nên khá giả hơn, sản xuất gạo và các sản phẩm nông nghiệp khác tăng mạnh, góp phần an ninh luơng thực và xuất khẩu. Chính phủ khuyến khích và tạo điều kiện cho các “doanh nghiệp gia đình” phát triển và đa dạng hóa hoạt động kinh Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Phát triển Nông thôn . 34
  35. tế. Các nông hộ sẽ được khuyến khích chuyển sang sản xuất hàng hóa. Những hộ nghèo được cấp vốn tín dụng ưu đãi, được tư vấn và tập huấn các kiến thức cần thiết. b) Hợp tác xã: Luật Hợp tác xã quy định việc thành lập các hợp tác xã kiểu mới dựa trên cơ sở tham gia tự nguyện của nông dân hoặc những người khác. Các hợp tác xã này không quản lý việc canh tác chính mà cung cấp các dịch vụ cho nông dân như dịch vụ giống, phân bón, vốn vay để mua máy móc, quản lý các hệ thống, công trình thủy lợi, cung cấp điện, tín dụng, v.v Các hợp tác xã này cũng hoạt động để khắc phục những ảnh hưởng xấu của kinh tế thị trường, thí dụ như việc mua và cất giữ các nông sản trong thời kỳ giá hạ. Một số hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới còn tham gia vào nhiều loại hình hoạt động đa dạng, như điều hành các nhà máy thủy điện, nhà máy sản xuất thức ăn gia súc hoặc các xí nghiệp sản xuất giày dép, hàng dệt và các hàng hóa khác. c) Doanh nghiệp Nhà nước Các công ty do Nhà nước sở hữu gọi là doanh nghiệp Nhà nước. Trong thời kỳ bao cấp, các doanh nghiệp đã đóng góp sản lượng công nghiệp chủ yếu. Vị trí doanh nghiệp Nhà nước có sự thay đổi sau khi có chính sách “đổi mới” từ 1989. Nhà nước đưa ra một chương trình cải cách các doanh nghiệp này để đưa vai trò của các doanh nghiệp Nhà nước như là một phần của động lực quốc gia nhằm hiện đại hóa Việt Nam. Chính phủ chủ trương đa dạng hóa quyền sở hữu các doanh nghiệp Nhà nước thông qua cổ phần hóa (bán các cổ phần của Nhà nước), bán toàn bộ hoặc chuyển nhượng tự do cho khu vực tư nhân, giải thể các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn không hiệu quả và sắp xếp lại những doanh nghiệp Nhà nước còn lại. Trong phát triển nông thôn, các doanh nghiệp Nhà nước vẫn là lực lượng lãnh đạo trong một số khu vực quan trọng, nhất là các khâu tiêu thụ và chế biến nông sản. Các công ty chế biến sẽ được cổ phần hóa và từng bước bán cổ phần cho nông dân xuất khẩu nguyên liệu, điều này sẽ gắn quyền lợi của nông dân với quyền lợi của doanh nghiệp. d) Khu vực tư nhân: Chủ trương của Chính phủ là khuyến khích khu vực tư nhân ngày càng phát triển góp phần đẩy nhanh sự phát triển kinh tế nông thôn. Chính phủ cũng khuyến khích hoạt động thương mại trên quy mô lớn, đặc biệt ở các ngành công nghiệp chế biến, chăn nuôi quy mô lớn và các ngành công nghiệp khác không sử dụng nhiều đất nông nghiệp và khuyến khích sự đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) vào các lĩnh vực này. Quá trình cổ phần hóa hoặc đa dạng hóa chủ sở hữu các doanh nghiệp Nhà nước sẽ tạo cơ hội để khu vực tư nhân tăng cường đầu tư vào kinh tế nông thôn. 4. Mục tiêu phát triển kinh tế nông thôn Mục tiêu chung và lâu dài của phát triển kinh tế nông thôn là công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, tức là xây dựng một nền nông nghiệp và kinh tế Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Phát triển Nông thôn . 35
  36. nông thôn có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, kỹ thuật sản xuất tiến tiến và phù hợp, nhằm nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, tăng nhanh thu nhập và mức sống của dân cư nông thôn, đưa nước ta tiến đến văn minh hiện đại và nâng cao vị thế của các nông sản nước ta trên thị trường thế giới. Những chỉ tiêu cơ bản thể hiện mục tiêu trên, đó là: - Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế ở các vùng nông thôn đạt khoảng 7% đến 8% trong thời kỳ 2000 đến 2005 và 10% đến 11% trong 5 năm tiếp theo. - Tiếp tục phát triển các khu vực công nghiệp và dịch vụ với tốc độ nhanh hơn khu vực nông nghiệp để tạo việc làm, tạo sự cân đối về GDP giữa ba khu vực và việc làm sẽ chuyển dần từ nông nghiệp sang hai khu vực kia. - Mỗi năm tạo 800.000 việc làm mới trong kinh tế nông thôn. - Nâng mức thu nhập bình quân đầu người hàng năm của các vùng nông thôn từ 230$ năm 2000 lên tới 550$ vào năm 2010, duy trì tỷ lệ giữa thu nhập bình quân ở nông thôn và thu nhập bình quân trong toàn quốc. - Tiếp tục cải thiện hạ tầng cơ sở nông thôn và dịch vụ. - Bằng các biện pháp duy trì mức dân số nông thôn tuyệt đối, đồng thời chấp nhận sự giảm tỷ lệ này ở mức tương đối (so với tỷ lệ dân số trong cả nước). 5. Những bài học phát triển kinh tế nông thôn từ các nước châu Á Kinh nghiệm về sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn từ các nước và lãnh thổ ở châu Á như Hàn Quốc, Đài Loan, Inđônêsia, Malaisia, Thái Lan và Trung Quốc là những bài học đáng chú ý. Những nước này đã đạt được tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm theo đầu người khá cao trong vòng 20 năm qua. Kinh nghiệm cho thấy, đạt được sự thay đổi này là do việc kết hợp các chính sách sau: - Kiểm soát lạm phát và duy trì tỷ giá hối đoái cạnh tranh; - Đầu tư cho nguồn nhân lực thông qua giáo dục bằng kinh phí từ các nguồn công cộng; - Khuyến khích cá nhân gửi tiền tiết kiệm; - Tự do hóa khu vực tư nhân và hạn chế những xáo trộn về giá; - Cho tiếp cận, khuyến khích xuất khẩu và tiếp nhận công nghệ nước ngoài; - Cải thiện cơ sở hạ tầng mà các doanh nghiệp cần như giao thông, cung cấp nước và thông tin liên lạc; Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Phát triển Nông thôn . 36
  37. - Tránh phân biệt đối xử với nông nghiệp trong việc đánh thuế và trong các chính sách khác. Đặc biệt, những bài học của Trung Quốc những năm gần đây rất có ý nghĩa đối với phát triển nông thôn Việt Nam. Chương trình cải cách của Trung quốc cũng được bắt đầu từ nông nghiệp, nhờ sáng kiến chuyển từ sản xuất tập thể sang các nông hộ và cá nhân. Các cá nhân không được tự do mua bán đất nhưng họ được quyền sử dụng đất và nhờ vậy họ được khuyến khích quản lý tốt đất đai. Sự thay đổi này được sự ủng hộ rộng rãi, được thử nghiệm thành công ở một tỉnh và phát triển thành chính sách áp dụng rộng rãi trên toàn quốc. Kết quả của chính sách này đã đẩy mạnh sức sản xuất. Sau đó, Chính phủ đã giải quyết vấn đề giá cả theo một giải pháp khôn khéo - một hệ thống hai giá đã được áp dụng, trong đó lương thực dùng để đáp ứng các chỉ tiêu của nền kinh tế bao cấp cũ được bán theo giá được kiểm soát theo cách cũ, phần còn lại được bán theo giá thị trường. Kết quả đã làm cho giá thị trường thay đổi và không gây ra lạm phát tràn lan. Sau một thời gian, việc kiểm soát gía được bãi bỏ và thị trường tự do hiện đang hoạt động. Tác dụng của việc làm này đã làm tăng đáng kể thu nhập của nông dân và do đó nhu cầu của họ về các hàng tiêu dùng tăng lên, tạo ra ‘thị trường trong nước’ về các hàng hóa công nghiệp và dịch vụ. Chính phủ đã hỗ trợ việc thiết lập hàng triệu các doanh nghiệp mới ở các thị trấn và làng quê để phục vụ thị trường gia tăng này. Chính phủ khuyến khích các công ty nước ngoài đến tham gia liên doanh và đã trở thành quốc gia nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài nhiều nhất trong số các nước đang phát triển. Chính phủ Trung quốc cũng đã cải tổ lại cơ cấu và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Kết quả sự thay đổi này đã làm tăng số việc làm trong khu vực phi nông nghiệp. Thu nhập từ phi nông nghiệp là một yếu tố chủ yếu góp phần thoát khỏi đói nghèo và làm tăng mức sống của nông thôn Trung quốc. II. PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP 1. Vai trò của nông nghiệp trong kinh tế nông thôn Hiện nay và trong tương lai, nông nghiệp vẫn đóng vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống quốc gia và trong kinh tế nông thôn. Bất kỳ một quốc gia nào xuất phát điểm của nền kinh tế ban đầu cũng là nông nghiệp, sau quá trình công nghiệp hoá mới trở thành các nước công nghiệp phát triển. Nền kinh tế nông thôn coi nông nghiệp là nền tảng, nói đến nông thôn phải đề cập đến nông nghiệp, coi phát triển nông nghiệp là điều kiện tiên quyết cho phát triển nông thôn. Trong giai đoạn đầu phát triển nông thôn, giá trị nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng sản phẩm trong nước (GDP) của khu vực nông thôn, sau đó trong quá trình công nghiệp hoá nông nghiệp giảm dần tỷ trọng của nó nhường vị trí cho công nghiệp và dịch vụ. Có thể nói, nền kinh tế nông thôn đi lên từ nông nghiệp, phát triển nông thôn phải coi trọng phát triển nông nghiệp; nông nghiệp giúp cho đất nước ổn định kinh tế xã hội, tạo đà cho phát triển nông thôn. Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Phát triển Nông thôn . 37
  38. Ðến năm 2004 ở nước ta nông nghiệp chiếm 21,8% GDP cuả cả nước, sử dụng 66% lực lượng lao động xã hội. Nông nghiệp bảo đảm an ninh lương thực, là nguồn sinh sống chính của hàng triệu gia đình nông dân, là nơi cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp, là nguồn xuất khẩu ngày càng quan trọng hoặc sản xuất các mặt hàng thay thế nhập khẩu và là phương tiện bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái và các hình thức sinh hoạt văn hoá truyền thống cộng đồng. Nông nghiệp vẫn là ngành cốt lõi của nền kinh tế của Việt Nam trong vài thập kỷ tới. Trong xã hội hiện đại, vai trò của nông nghiệp không bị coi nhẹ mà có nhiều nét mới, đặc sắc hơn dưới dạng sản xuất công nghiệp với công nghệ cao, tạo ra thu nhập và hiệu quả cao. Nông nghiệp phát triển, tạo yếu tố vật chất cho công nghiệp và dịch vụ nông thôn phát triển, từng bước cải thiện cơ cấu kinh tế, nâng cao đời sống mọi mặt của người dân nông thôn. 2. Phát triển nông nghiệp bền vững Ngày nay phát triển nông nghiệp bền vững là vấn đề được tất cả các quốc gia quan tâm, phát triển nông thôn không thể đạt kết quả mong muốn nếu không chú trọng bảo đảm phát triển nông nghiệp bền vững. Nông nghiệp bền vững là một bộ phận hợp thành của một nền kinh tế phát triển bền vững. Phát triển nông nghiệp bền vững được định nghĩa bởi Tổ chức Lương thực Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO) năm 1992: "Phát triển nông nghiệp bền vững là sự quản lý và bảo tồn sự thay đổi về tổ chức và kỹ thuật nhằm bảo đảm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người cả cho hiện tại và mai sau. Sự phát triển như vậy của nền nông nghiệp sẽ không làm tổn hại đến môi trường, không giảm cấp tài nguyên, phù hợp về kỹ thuật và công nghệ, có hiệu quả kinh tế và được xã hội chấp nhận". Nông nghiệp bền vững phải đạt 3 mục đích: - Ðạt hiệu quả kinh tế cao. - Bảo đảm công bằng kinh tế và công bằng xã hội. - Gìn giữ và làm phong phú môi trường. Uỷ ban Phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc đã đưa ra 4 đặc trưng của phát triển bền vững (tháng 5 năm 2002): - Nuôi dưỡng các nguồn tài nguyên toàn thế giới cho thế hệ ngày nay và mai sau. - Áp dụng mỗi nơi cách làm nông nghiệp địa phương. - Bảo đảm vai trò của nông dân trong mọi khâu của quá trình ra quyết định. Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Phát triển Nông thôn . 38
  39. - Phân phối một cách công bằng quyền tiếp cận các nguồn tài nguyên và sản phẩm sản xuất ra. Ðồng thời 4 nhân tố đảm bảo cho phát triển nông nghiệp bền vững trong khu vực nông thôn cần được nhận thức một cách đầy đủ: - Sự tham gia chủ động, tích cực của các cộng đồng nông thôn, hội nông dân, các tổ chức phi chính phủ, khu vực tư nhân và các cơ quan nhà nước. - Môi trường chính sách quốc gia thuận lợi, giàu tính khuyến khích và hỗ trợ. - Thông tin minh bạch, thông suốt và có hiệu quả giữa các tác nhân liên quan. - Tập trung hoạt động nghiên cứu ứng dụng những cách làm, những kỹ thuật phù hợp của địa phương. Trong thời đại phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ và xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế, 4 đặc trưng và 4 nhân tố cốt yếu của phát triển nông nghiệp bền vững được nêu và nhấn mạnh vào 2 điểm cần được lưu tâm: - Mở rộng dân chủ, phát huy vai trò chủ động, tích cực của đông đảo nông dân và cộng đồng nông thôn. - Coi trọng vận dụng, đề cao cách làm và kỹ thuật nông nghiệp của địa phương. Trên thực tế, trong các cộng đồng nông thôn người dân sẵn sàng tham gia vào các hoạt động phát triển nếu vai trò của họ được đề cao, nếu họ được bàn bạc và thảo luận. Những kinh nghiệm và cách làm được những người nông dân đúc kết từ bao đời, trong đó có không ít những thất bại đã được rút ra và tìm cách phòng tránh, bởi vậy đề cao và vận dụng những kinh nghiệm bản địa trong sản xuất nông nghiệp là một yếu tố bảo đảm sự thành công. 3. Những thành tựu phát triển nông nghiệp Việt Nam thời kỳ đổi mới Trong 16 năm đổi mới từ 1988 đến 2004, ngành nông nghiệp đã có tiến bộ mạnh mẽ với chế độ khoán trong nông nghiệp (1988), giao đất cho nông dân (1993), lấy hộ nông dân làm đơn vị kinh tế. Kết quả là nếu năm 1988 phải nhập 450 nghìn tấn lương thực thì từ năm 1999 bắt đầu xuất khẩu gần 1 triệu tấn gạo, an ninh lương thực trên bình diện quốc gia được bảo đảm. - Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp bình quân đạt 4,3% năm, thu nhập từ nông nghiệp chiếm 21,8% GDP của nền kinh tế. Nông nghiệp phát triển đa dạng và nổi bật là sản xuất lương thực. Cây công nghiệp, cây ăn quả, rau, chăn nuôi phát triển nhanh, phần lớn các mặt hàng đáp ứng yêu cầu tiêu dùng trong nước. - Xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản liên tục tăng bình quân 13% năm, năm 2003 giá trị xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản đạt 5,89 tỷ USD chiếm 29,2% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn quốc. Xuất khẩu gạo từ 1988 tới nay hàng năm đều đạt 3,5 đến 4 triệu tấn đứng thứ 2 thế giới, xuất khẩu cà phê và hạt điều đứng thứ 3 thế giới Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Phát triển Nông thôn . 39
  40. - Từ nền nông nghiệp tự cung tự cấp đã từng bước chuyển sang nông nghiệp hàng hoá, hình thành các vùng sản xuất nông sản hàng hoá tập trung: Lúa gạo ở Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng bằng sông Hồng; cà phê ở Tây Nguyên và Ðông Nam Bộ; chè ở miền núi và trung du phía Bắc; cao su ở Ðông Nam Bộ; cây ăn quả ở Ðông Nam Bộ và Tây Nam Bộ. - Lâm nghiệp đã có những chuyển biến sâu sắc, từ lâm nghiệp Nhà nước chủ yếu do quốc doanh quản lý, lấy khai thác gỗ rừng tự nhiên làm mục tiêu sang lâm nghiệp xã hội, giao khoán rừng và đất rừng cho hộ quản lý, gắn trách nhiệm và lợi ích cho nông dân. Các chương trình 327 về phủ xanh đất trống đồi núi trọc, chương trình 661 về trồng mới 5 triệu ha rừng đã đạt kết quả tốt góp phần nâng tỷ lệ che phủ rừng từ 27% năm 1988 lên 35% năm 2003. - Trong ngành thuỷ sản, chuyển từ đánh bắt tự nhiên là chính sang nuôi trồng tập trung, phát triển nuôi trồng thuỷ sản theo hướng thâm canh, thu từ nuôi trồng chiếm 53,2% giá trị toàn ngành thuỷ sản, phát triển mạnh các cơ sở chế biến phục vụ xuất khẩu. - Gần 40% số hợp tác xã nông nghiệp ở nông thôn đã đăng ký lại hoặc xây dựng mới theo Luật hợp tác xã, hướng hoạt động chủ yếu là làm dịch vụ hỗ trợ kinh tế hộ nông dân. Các doanh nghiệp Nhà nước trong nông nghiệp đang được cổ phần hoá hoặc sắp xếp lại để làm ăn có hiệu quả hơn. Ðến năm 2003 có hơn 110.000 trang trại, hơn 2 triệu hộ nông dân sản xuất giỏi. Mặc dù đã đạt nhiều tiến bộ và thành tựu, nhưng nông nghiệp Việt Nam vẫn còn những tồn tại và yếu kém cần được khắc phục: - Thu nhập từ nông nghiệp còn rất thấp, 90% số nguời nghèo sống ở nông thôn, chỉ mới có việc làm trung bình 72% thời gian lao động của nông dân, một số nơi nhất là miền núi, vùng sâu, vùng xa chưa đảm bảo an ninh lương thực. - Ðất nông nghiệp ít, bình quân mỗi hộ nông dân chỉ có hơn nửa hecta, đất đai các hộ bị chia thành nhiều mảnh nhỏ manh mún không thuận lợi cho thâm canh, sức ép phá rừng làm nương rẫy vẫn rất lớn ở miền núi. Còn nhiều diện tích đất trống đồi núi trọc cần được đưa vào sản xuất nông, lâm nghiệp. - Cơ cấu sản xuất nông nghiệp được cải thiện chậm, mất cân đối giữa chăn nuôi và trồng trọt, đến năm 2003 thu từ trồng trọt chiếm 75,4%, từ chăn nuôi 22,4%, từ dịch vụ nông nghiệp 2,2%. Còn nhiều hạn chế về cải thiện giống cây trồng, vật nuôi và áp dụng kỹ thuật canh tác mới. - Trong lâm nghiệp khâu đầu tư trồng rừng còn yếu, giao rừng, quản lý rừng chưa đạt mong muốn. Thu lâm nghiệp từ khai thác chiếm 75,4%, thu nhặt lâm sản chiếm 13,7%, thu từ lâm sinh chỉ chiếm 7,8%. Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Phát triển Nông thôn . 40
  41. - Trong thuỷ sản thâm canh nuôi trồng chưa cao, công nghệ chế biến chưa đạt mong muốn dẫn đến sức cạnh tranh hàng thuỷ sản còn yếu. - Cơ khí hoá nông nghiệp tuy có tiến bộ nhưng còn chậm, cơ bản vẫn là sản xuất thủ công, năng suất thấp. Hạ tầng cơ sở về đường sá, điện, thuỷ lợi nhiều nơi chưa đáp ứng yêu cầu cho sản xuất nông nghiệp. - Khâu chế biến và bảo quản nông sản không đồng bộ và công nghệ lạc hậu, chỉ có 60% chè, 50% mía, 10% rau quả được chế biến Nhiều sản phẩm xuất khẩu ở dạng thô, tiêu thụ giá thấp so với các nuớc khu vực (thí dụ gao, rau quả, thịt) hoặc chi phí cao (thí dụ đường) hoặc sản lượng không đáp ứng yêu cầu sử dụng trong nước (thí dụ cây có sợi, sữa, dầu thực vật) hoặc sản xuất quá mức so với yêu cầu thị trường thế giới (thí dụ cà phê). - Các hệ thống hỗ trợ của Chính phủ cho nông nghiệp còn nhiều hạn chế về khuyến nông, tư vấn, các dịch vụ thú y, bảo vệ thực vật Người nông dân thiếu thông tin đầy đủ về thị trường. Những năm qua, nông nghiệp Việt Nam đạt được những thành tựu về phát triển do những nhân tố sau đây: - Ðường lối đổi mới đúng đắn của Ðảng và Chính phủ tạo sinh khí cho phát triển kinh tế xã hội đất nước trong đó có nông nghiệp. - Cải cách chính sách ruộng đất, trao quyền sử dụng đất nông, lâm nghiệp lâu dài cho các hộ nông dân, đã tạo động lực sử dụng có hiệu quả hơn quỹ đất hiện có. - Tăng cường đầu tư của Nhà nước cho nông nghiệp và cơ sở hạ tầng nông thôn, đặc biệt về thuỷ lợi, điện, giao thông nông thôn. - Trình độ thâm canh của nông dân được nâng cao, năng suất cây trồng, vật nuôi tăng lên nhờ việc áp dụng giống mới, các phương thức canh tác mới và công nghệ cao. - Tăng diện tích đất nông nghiệp, tăng lực lượng lao động và huy động nhiều nguồn vốn vào phát triển sản xuất nông nghiệp. - Phát triển mạnh mẽ các trang trại nông nghiệp, các cơ sở chế biến và xuất khẩu nông sản, từng bước phát triển nền nông nghiệp hàng hoá. 4. Mục tiêu và những biện pháp chủ yếu phát triển nông nghiệp Từ một nước nông nghiệp đi lên, vai trò chủ chốt của nông nghiệp của nước ta trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế là không thể phủ nhận. Cần thiết phải phát triển một nền nông nghiệp hiện đại hoá không chỉ để đảm bảo an ninh lương thực, xoá đói giảm nghèo mà còn để làm động lực cho phát triển kinh tế xã hội nông thôn. Chiến lược đến năm 2010 của Việt Nam nhấn mạnh vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Bởi vì, Việt Nam chấp nhận đối mặt với môi trường cạnh tranh cao của thị trường thế giới. Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Phát triển Nông thôn . 41
  42. a) Chiến lược phát triển nông nghiệp Việt Nam: Mục tiêu chung và lâu dài của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn là: Xây dựng một nền nông nghiệp và kinh tế nông thôn có cơ sở vật chất và kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, sản xuất tiến bộ và phù hợp, nhằm nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, tăng nhanh thu nhập và đời sống người dân nông thôn, đưa nước ta trở thành một nước văn minh hiện đại và nâng cao vị thế của hàng nông sản và nông thôn nước ta trên thị trường thế giới. b) Mục tiêu phát triển nông nghiệp đến năm 2010: Chiến lược của Việt Nam nêu lên tầm nhìn và mục tiêu sau đây cho phát triển nông nghiệp: - Phát triển một nền nông nghiệp bền vững, có hiệu quả cao, đa dạng và hội nhập. - Hướng tới một nền nông nghiệp hàng hoá. - Sản xuất nông nghiệp dựa trên các cơ sở hạ tầng vật chất và kỹ thuật hiện đại. - Tăng cường cơ khí hoá nhằm giảm nhẹ sức lao động ở các khâu công việc nặng nhọc và đạt năng suất lao động cao. - Có khả năng sản xuất các sản phẩm nông nghiệp có năng suất và chất lượng cao, đa dạng theo vùng và phù hợp với công nghiệp chế biến để tăng cường xuất khẩu. - Có đủ sức cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trong khu vực và thế giới, đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu. Các mục tiêu trên được cụ thể hoá thành các chỉ tiêu phấn đấu của toàn ngành nông nghiệp theo từng giai đoạn (bảng 10). Bảng 10. Các chỉ tiêu phát triển nông nghiệp Việt Nam dến 2010 và 2020 Chỉ tiêu 2005 2010 2020 - Giá trị sản phẩm nông nghiệp (tỷ USD) 12,8 15,0 22,4 - Giá trị xuất khẩu (tỷ USD) 5-6 9 -10 13-15 - Sản lượng lương thực quy thóc (triệu tấn) 36 > 40 - GDP nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế nông thôn 45 - 50 - Tỷ trọng giá trị sản phẩm chăn nuôi (%) 23 25 - Tỷ lệ che phủ rừng (%) 35 43 Các chỉ tiêu trên dựa trên cơ sở tốc độ tăng trưởng hàng năm trong sản xuất nông nghiệp là 4 đến 4,5% tương tự với tốc độ bình quân 4,3% trong những năm vừa qua. Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Phát triển Nông thôn . 42
  43. Mục tiêu còn đề ra là tăng gấp đôi giá trị sản phẩm nông nghiệp trên 1 ha đất nông nghiệp từ mức 1.000 USD/ha hiện tại lên 2.000 USD/ha vào năm 2010 và đạt mức cao hơn nữa về giá trị sản phẩm bình quân trên một lao động nông nghiệp từ 310 USD/ người lên 1.500 USD/ người. Yêu cầu tăng trưởng đạt các chỉ tiêu trên trong một thời gian dài là một thách thức lớn. Trong số các nước ở châu Á, chỉ riêng có Việt Nam và Trung Quốc là hai nước đạt tốc độ tăng trưởng trên 4% năm về sản xuất nông nghiệp trong 2 thập kỷ qua. Ấn Ðộ, Indonexia và Thái Lan đều đạt tốc độ từ 2,6 đến 3,9%, Philippin đạt 1 đến 1,5%. Tăng trưởng cao về nông nghiệp trong các nước đang phát triển góp phần đáng kể đạt tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế, Trung Quốc và Việt Nam là những minh chứng thực tế cho điều đó. c) Những biện pháp chủ yếu phát triển nông nghiệp Việt Nam: Ðể đạt được những mục tiêu phát triển nông nghiệp, các biện pháp đã được thảo luận và nêu lên nhằm đáp ứng yêu cầu chính sách, nguồn lực và tổ chức thực hiện: - Tiếp tục đổi mới giao quyền sử dụng đất, cho thuê đất và sử dụng đất một cách hợp lý, có hiệu quả cao Thách thức đặt ra là khai thác hợp lý để tăng quỹ đất nông nghiệp có thể, bù đắp quỹ đất nông nghiệp giảm hàng năm do nhu cầu công nghiệp hoá, đô thị hoá và phát triển hạ tầng. Những kết quả về đổi mới chính sách đất đai đã tác động làm cho các hộ nông dân sử dụng đất có hiệu quả hơn, tăng cao sản lượng nông nghiệp. Tuy nhiên đến năm 1999 vẫn còn 12% số hộ nông dân và 18% quỹ đất nông nghiệp, 40% số nông trường quốc doanh chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Chiến lược đến năm 2010 đặt ra nhiệm vụ hoàn thành việc giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tiếp tục chỉ đạo “dồn điền, đổi thửa” để khắc phục tình trạng manh mún ruộng đất và tạo điều kiện thuận lợi cho cơ khí hoá và công tác quản lý đất đai. Khuyến khích phát triển trang trại có quy mô đủ lớn để phát triển sản xuất theo hướng hàng hoá và đa dạng hoá. - Tăng vốn đầu tư cho nghiên cứu khoa học và công nghệ, trong đó tập trung vào cải tiến các giống cây trồng, vật nuôi, kỹ thuật canh tác, chăn nuôi súc vật, bảo quản và chế biến nông sản Chiến lược đến năm 2010 nhấn mạnh nỗ lực đầu tư cả chiều rộng và chiều sâu cho nghiên cứu khoa học và công nghệ trong nông nghiệp gồm: Công nghệ sinh học: Ðưa nhanh tiến bộ trong công nghệ sinh học vào sản xuất nhằm tạo ra bước đột phá mới về năng suất và chất lượng cây trồng, vật nuôi. Công nghệ tự động hoá: Áp dụng những thành tựu trong nước và nước ngoài trong tự động hoá vào các lĩnh vực: Chế biến nông sản nhất là nông sản xuất khẩu; chăn nuôi gia súc, chế biến thức ăn, giết mổ và chế biến thịt, sữa; thuỷ lợi áp dụng tự động hoá trong điều khiển tưới, tiêu, phòng chống lũ lụt. Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội – Giáo trình Phát triển Nông thôn . 43