Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân (1946 - 1954)
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân (1946 - 1954)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- duong_loi_khang_chien_chong_thuc_dan_phap_xam_luoc_va_xay_du.doc
Nội dung text: Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân (1946 - 1954)
- Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân (1946 - 1954) a. Hoàn cảnh lịch sử - Tháng 11/1946, quân Pháp mở cuộc tấn công chiếm đóng cả thành phố Hải Phòng và thị xã Lạng Sơn, đổ bộ lên Đà Nẵng và gây nhiều cuộc khiêu khích, tàn sát đồng bào ta ở phố Yên Ninh - Hàng Bún (Hà Nội). Đồng thời Pháp gửi tối hậu thư cho chính phủ ta, đòi phải tước hết vũ khí của tự vệ Hà Nội, đòi kiểm soát an ninh trật tự ở Thủ đô. - Trước tình hình đó, từ ngày 13 đến ngày 22/12/1946 Ban thường vụ trung ương Đảng ta đã họp tại Vạn Phúc, Hà Đông dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh để hoạch định chủ trương đối phó. Hội nghị đã cử phái viên đi gặp phía Pháp để đàm phán, song không có kết quả. Hội nghị cho rằng khả năng hoà hoãn không còn. Hoà hoãn nữa sẽ dẫn đến hoạ mất nước, nhân dân sẽ trở lại cuộc đời nô lệ. Do đó, hội nghị đã quyết định hạ quyết tâm phát động cuộc kháng chiến trong cả nước và chủ động tiến công trước khi thực dân Pháp thực hiện màn kịch đảo chính quân sự ở Hà Nội. Mệnh lệnh kháng chiến được phát đi. Vào lúc 20h ngày 19/12/1946, tất cả các chiến trường trong cả nước đã đồng loạt nổ súng. Rạng sáng ngày 20/12/1946, lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh được phát đi trên Đài tiếng nói Việt Nam. § Thuận lợi của nhân dân ta bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược là: cuộc chiến tranh của ta là cuộc chiến tranh chính nghĩa bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc, ta đã có sự chuẩn bị cần thiết về mọi mặt, nên về lâu dài, ta sẽ có khả năng đánh thắng quân xâm lược. § Khó khăn của ta là: Tương quan lực lượng quân sự yếu hơn địch. Ta bị bao vây bốn phía, chưa được nước nào công nhận, giúp đỡ. Còn quân Pháp lại có vũ khí tối tân, đã chiếm đóng được hai nước Lào, Campuchia và một số nơi ở Nam Bộ Việt Nam, có quân đội đứng chân trong các thành thị lớn ở Miền Bắc. b. Quá trình hình thành và nội dung đường lối kháng chiến - Ngay sau cách mạng tháng Tám, trong chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc" Đảng ta đã khẳng định kẻ thù chính của dân tộc ta là thực dân Pháp xâm lược. Trong quá trình chỉ đạo cuộc kháng chiến ở Nam Bộ, trung ương Đảng và Hồ Chí Minh đã chỉ đạo kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự với ngoại giao để làm thất bại âm mưu của Pháp định tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam. - Ngày 19/10/1946 thường vụ trung ương Đảng mở Hội nghị Quân sự toàn quốc lần thứ nhất, do Tổng Bí thư Trường Chinh chủ trì. Xuất phát từ nhận định "không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp". Hội Suu tam:
- nghị đã đề ra những chủ trương, biện pháp cụ thể cả về tư tưởng và tổ chức để quân dân cả nước sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu mới. Trong chỉ thị Công việc khẩn cấp bây giờ ra ngày 5/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên những việc có tầm chiến lược, toàn cục khi bước vào cuộc kháng chiến và khẳng định lòng tin vào thắng lợi cuối cùng. - Đường lối toàn quốc kháng chiến của Đảng được thể hiện qua 3 văn kiện chính là: Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh (20/12/1946), Chỉ thị "Toàn dân kháng chiến" của trung ương Đảng (22/12/1946) và tác phẩm "Kháng chiến nhất định thắng lợi" của đồng chí Trường Chinh (9/1947). § Nội dung đường lối: + Mục đích kháng chiến: là để tiếp tục sự nghiệp cách mạng tháng Tám, đánh thực dân Pháp xâm lược, hoàn thành giải phóng dân tộc, giành độc lập và thống nhất thật sự cho Tổ quốc. + Tính chất kháng chiến: Cuộc kháng chiến của ta là chiến tranh nhân dân, chiến tranh chính nghĩa. Vì vậy, cuộc kháng chiến của ta có tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới. + Chính sách kháng chiến: "Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp. Đoàn kết với Miên - Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hoà bình. Đoàn kết chặt chẽ toàn dân, thực hiện toàn dân kháng chiến phải tự cấp, tự túc về mọi mặt". + Nhiệm vụ kháng chiến: 1. Đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược để giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc. 2. Trong quá trình kháng chiến không thể không thực hiện những cải cách dân chủ, tiến hành từng bước chính sách ruộng đất của Đảng nhằm bồi dưỡng sức dân, củng cố khối liên minh công nông, phân hoá cô lập kẻ thù. 3. Không chỉ đấu tranh cho ta mà còn bảo vệ hoà bình thế giới. + Phương châm tiến hành kháng chiến: tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mạnh là chính. § Kháng chiến toàn dân: Là toàn dân đánh giặc, lấy lực lượng vũ trang, có ba thứ quân làm nòng cốt "Bất kỳ đàn ông, đàn bà không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, bất kỳ người già, người trẻ. Hễ là người Việt Nam đứng lên đánh thực dân Pháp", thực hiện mỗi người dân là một chiến sỹ, mỗi làng xóm là một pháo đài. Suu tam:
- § Kháng chiến toàn diện: Đánh địch về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, ngoại giao. Trong đó: Kháng chiến về chính trị: Thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hoà bình. Kháng chiến vê quân sự: Thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, tiêu diệt địch, giải phóng nhân dân và đất đai, thực hiện du kích chiến tiến lên vận động chiến, đánh chính quy, là "triệt để dùng du kích, vận động chiến. Bảo toàn thực lực, kháng chiến lâu dài vừa đánh vừa võ trang thêm, vừa đánh vừa đào tạo thêm cán bộ". Kháng chiến về kinh tế: Phá hoại kinh tế địch như đường giao thông, cầu, cống, xây dựng kinh tế tự cung tự cấp, tập trung phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp quốc phòng theo nguyên tắc: “Vừa kháng chiến vừa xây dựng đất nước”. Kháng chiến về văn hoá: Xoá bỏ văn hoá thực dân, phong kiến, xây dựng nền văn hoá dân chủ mới theo ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng. Kháng chiến về ngoại giao: Thực hiện thêm bạn bớt thù, biểu dương thực lực. "Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân pháp", sẵn sàng đàm phán nếu Pháp công nhận Việt Nam độc lập. § Kháng chiến lâu dài: Là để chống âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của Pháp, để có thời gian để củng cố, xây dựng lực lượng, nhằm chuyển hoá tương quan lực lượng từ chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ ta mạnh hơn địch, đánh thắng địch. § Kháng chiến dựa sức mình là chính, trước hết phải độc lập về đường lối chính trị, chủ động xây dựng và phát triển thực lực của cuộc kháng chiến, đồng thời coi trọng viện trợ quốc tế. § Triển vọng kháng chiến: Mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn, song nhất định thắng lợi. Đường lối kháng chiến của Đảng với những nội dung cơ bản như trên là đúng đắn và sáng tạo, vừa kế thừa được kinh nghiệm của tổ tiên, đúng với các nguyên lý về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa phù hợp với hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ. Đường lối kháng chiến của Đảng được công bố sớm đã có tác dụng đưa cuộc kháng chiến từng bước đi tới thắng lợi vẻ vang. Thực hiện đường lối kháng chiến của Đảng, từ năm 1947 đến năm 1950, Đảng ta chỉ đạo cuộc chiến đấu giam chân địch trong các đô thị, củng cố các vùng tự do lớn, đánh bại cuộc hành quân lớn của địch lên Việt Bắc; lãnh đạo đẩy mạnh xây dựng hậu phương, tìm cách chống phá thủ đoạn "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt" của thực dân Pháp. Thắng lợi của chiến dịch Suu tam:
- Biên giới cuối năm 1950 đã giáng một đòn nặng nề vào ý chí xâm lược của địch, quân ta giành được quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ. - Đầu năm 1951, trước tình hình thế giới và cách mạng Đông Dương có nhiều chuyển biến mới. Nước ta đã được các nước xã hội chủ nghĩa công nhận và đặt quan hệ ngoại giao. Cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước Đông Dương đã giành được những thắng lợi quan trọng. Song lợi dụng tình thế khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã can thiệp trực tiếp vào cuộc chiến tranh Đông Dương. Điều kiện lịch sử đó đã đặt ra yêu cầu bổ sung và hoàn chỉnh đường lối cách mạng, đưa cuộc chiến tranh đến thắng lợi. - Tháng 2/1951, Đảng cộng sản Đông Dương đã họp đại hội đại biểu lần thứ II tại Chiêm Hoá - Tuyên Quang. Đại hội đã nhất trí tán thành Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày và ra Nghị quyết tách Đảng cộng sản Đông Dương thành ba đảng cách mạng để lãnh đạo cuộc kháng chiến của ba dân tộc đi đến thắng lợi. ở Việt Nam, Đảng ra hoạt động công khai lấy tên là Đảng lao động Việt Nam. Báo cáo hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội do Tổng Bí thư Trường Chinh trình bày tại Đại hội của Đảng lao động Việt Nam đã kế thừa và phát triển đường lối cách mạng trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng thành đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đường lối đó được phản ánh trong chính cương của Đảng lao động Việt Nam. § Nội dung của Chính cương Đảng lao động Việt Nam. + Tính chất xã hội Việt Nam có ba tính chất: Dân chủ nhân dân một phần thuộc địa nửa phong kiến. Ba tính chất đó đang đấu tranh lẫn nhau, nhưng mâu thuẫn chủ yếu lúc này là mâu thuẫn giữa tính chất dân chủ nhân dân và tính chất thuộc địa. Mâu thuẫn đó đang được giải quyết trong quá trình kháng chiến của dân tộc Việt Nam chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. + Đối tượng cách mạng Việt Nam có hai đối tượng: •Đối tượng chính là chủ nghĩa đế quốc xâm lược cụ thể lúc này là đế quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ. •Đối tượng phụ hiện nay là phong kiến, cụ thể là phong kiến phản động. + Nhiệm vụ cách mạng: •Đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc. •Xoá bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng. Suu tam:
- •Phát triển chế độ dân chủ nhân dân gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội. Ba nhiệm vụ đó khăng khít với nhau. Song nhiệm vụ chính trước mắt là hoàn thành giải phóng dân tộc. + Động lực của cách mạng gồm: Công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc. Ngoài ra còn có những thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Những giai cấp, tầng lớp và phần tử đó họp lại thành nhân dân, mà nền tảng là công nông, lao động trí óc. Giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng. + Sắp xếp loại hình cách mạng: Đảng ta căn cứ vào 3 loại hình cách mạng của Lênin (cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng tư sản kiểu mới và cách mạng vô sản) gọi cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân. Đồng chí Trường Chinh giải thích: Gọi là cách mạng dân tộc vì nó đánh đổ đế quốc giành độc lập cho dân tộc. Gọi là cách mạng dân chủ vì nó đánh đổ giai cấp phong kiến giành lại ruộng đất cho nông dân. Gọi là cách mạng nhân dân vì nó do nhân dân tiến hành cuộc cách mạng ấy. Đây là sự bổ sung và phát triển lý luận cách mạng của Đảng ta vào học thuyết Mác- Lênin mà công lao to lớn thuộc về đồng chí Trường Chinh. + Phương hướng tiến lên của cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một quá trình lâu dài và đại thể trải qua ba giai đoạn: •Giai đoạn thứ nhất, nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thành giải phóng dân tộc. •Giai đoạn thứ hai, nhiệm vụ chủ yếu là xoá bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, thực hiện triệt để người cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân. •Giai đoạn thứ ba, nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội Ba giai đoạn ấy không tách rời nhau, mà mật thiết liên hệ, xen kẽ với nhau. + Giai cấp lãnh đạo và mục tiêu của Đảng: "Người lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân. Đảng lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và của nhân Suu tam:
- dân lao động Việt Nam. Mục đích của Đảng là phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để thực hiện tự do, hạnh phúc cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và tất cả các dân tộc đa số, thiểu số ở Việt Nam. + Chính sách của Đảng: có 15 chính sách lớn nhằm phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây mầm mống cho chủ nghĩa xã hội và đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi. + Quan hệ quốc tế: Việt Nam đứng về phe hoà bình và dân chủ, phải tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân thế giới, của Trung Quốc, Liên Xô, thực hiện đoàn kết Việt - Trung - Xô và đoàn kết Việt - Miên - Lào. - Đường lối, chính sách của Đảng ta đã được bổ sung, phát triển qua các hội nghị trung ương tiếp theo. + Tại HN trung ương lần thứ nhất (3 - 1951), Đảng ta đã nhấn mạnh chủ trương phải tăng cường hơn nữa công tác chỉ đạo chiến tranh, củng cố và gia cường quân đội chủ lực, củng cố bộ đội địa phương và dân quân du kích; gia cường việc lãnh đạo kinh tế tài chính, thực hiện việc khuyến khích, giúp đỡ tư sản dân tộc kinh doanh và gọi vốn của tư nhân để phát triển công thương nghiệp, tích cực tham gia phong trào bảo vệ hoà bình thế giới, củng cố Đảng về tư tưởng, chính trị, tổ chức. + Nghị quyết HNTƯ lần thứ hai (họp từ 27/9/1951 đến ngày 5/10/1951), đã nêu lên chủ trương đẩy mạnh cuộc kháng chiến trên cơ sở thực hiện tốt ba nhiệm vụ lớn là: • Ra sức tiêu diệt sinh lực địch, tiến tới giành ưu thế quân sự. • Ra sức phá âm mưu thâm độc của địch là lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt. • Đẩy mạnh kháng chiến ở vùng tạm bị chiếm, củng cố và phát triển sức kháng chiến đoàn kết. + Tại HNTƯ lần thứ tư (tháng 1 - 1953) vấn đề cách mạng ruộng đất được Đảng tập trung nghiên cứu, kiểm điểm và đề ra chủ trương thực hiện triệt để giảm tô, chuẩn bị tiến tới cải cách ruộng đất. Hội nghị cho rằng, muốn kháng chiến hoàn toàn thắng lợi, dân chủ nhân dân thật thà thực hiện, thì phải thiết thực nâng cao quyền lợi kinh tế và chính trị của nông dân, phải chia ruộng đất cho nông dân. + HNTƯ lần thứ năm (11 - 1953), Đảng quyết định phát động quần chúng triệt để giảm tô và tiến hành cải cách ruộng đất trong kháng chiến. Giai đoạn 1945 - 1954 Suu tam:
- Công nghiệp và Thương mại Việt Nam trong sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc A. Giai đoạn từ 19/8/1945 đến 19/12/1946 I. Tình hình đất nước sau Cách mạng Tháng 8/1945 Cách mạng Tháng 8 năm 1945 đã lật đổ ách thống trị của chế độ thực dân phong kiến, thiết lập nên Nhà nước dân chủ đầu tiên ở Đông Nam Á, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử của dân tộc Việt Nam: kỷ nguyên Độc lập - Tự do. Nhưng sau khi vừa mới ra đời, chính quyền cách mạng non trẻ đã phải đối phó với một tình thế hết sức hiểm nghèo, hàng loạt nguy cơ, thách thức tưởng chừng khó có thể vượt qua. Đó là nguy cơ của “giặc đói”, “giặc dốt”, và đặc biệt là “giặc ngoại xâm”. Chính sách áp bức bóc lột của thực dân Pháp và phát xít Nhật những năm trước đó đã để lại những hậu quả rất nặng nề. Mọi ngành sản xuất đều bị sa sút ngưng trệ, hàng hóa khan hiếm, thị trường đình đốn tiêu điều. Cuộc sống của nhân dân đã rớt xuống mức cùng cực khôn tả. Như vậy là chỉ 3 tuần sau Cách mạng Tháng 8, chính quyền cách mạng non trẻ của chúng ta đã phải lâm vào cuộc kháng chiến chống thực dân xâm lược với tương quan lực lượng còn quá chênh lệch so với kẻ địch. Trong tình hình đó, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những quyết sách đúng đắn, sáng suốt trong việc phát huy các yếu tố thuận lợi, hạn chế và vượt qua khó khăn, kịp thời có đối sách thích hợp để ứng phó với những thách thức đe dọa sự tồn vong của chính quyền Cách mạng non trẻ, xây dựng chế độ mới, đưa cách mạng đi lên. II. Những chủ trương và biện pháp lớn của Đảng Trên cơ sở đánh giá tình hình quốc tế và trong nước, ngày 25/11/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “kháng chiến kiến quốc”, vạch rõ chiến lược và nhiệm vụ cần kíp của cách mạng nước ta. Chỉ thị xác định “cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng”, khẩu hiệu đấu tranh vẫn là “Dân tộc trên hết”, “Tổ quốc trên hết”. Kẻ thù chính của cách mạng lúc này là thực dân Pháp xâm lược. Nhiệm vụ cơ bản, trước mắt của cách mạng nước ta là củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân. Nhiệm vụ bao trùm là bảo vệ, củng cố chính quyền cách mạng. Chỉ thị này cũng đã đề ra những biện pháp cụ thể thực hiện các nhiệm vụ nêu trên. - Về nội chính: Xúc tiến việc bầu cử quốc hội, thành lập chính phủ chính thức, lập hiến pháp, đấu tranh chống bọn phản động. - Về quân sự: Động viên lực lượng toàn dân trường kỳ kháng chiến. - Về ngoại giao: Kiên trì nguyên tắc “bình đẳng, tương trợ”, thêm bạn bớt thù, làm cho cách mạng không phải trực tiếp đối đầu với nhiều kẻ thù trong cùng một lúc. Đối với quân Tưởng thì thực hiện khẩu hiệu “Hoa Việt thân thiện”. Trung ương Đảng chỉ đạo: khó khăn đối nội là chủ yếu bức thiết trước mắt cần giải quyết ngay. Khó khăn đối ngoại là cơ bản phải giải quyết lâu dài. Suu tam:
- 2.1. Củng cố và tăng cường chính quyền cách mạng Cuộc Tổng tuyển cử ngày 06/01/1946 hoàn toàn thắng lợi. Chính phủ chính thức được thành lập, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đặc biệt tại kỳ họp thứ 2 (tháng 11/1946), Quốc hội đã thông qua bản hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên ở Việt Nam đã đánh dấu bước trưởng thành của Nhà nước cách mạng Việt Nam, mở ra một thời kỳ mới: thời kỳ đất nước ta có một Quốc hội, một Chính phủ thống nhất, một bản hiến pháp tiến bộ, một hệ thống chính quyền hoàn toàn đầy đủ danh nghĩa về mặt pháp lý để đại diện cho nhân dân Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Đồng thời với việc khai thác sức mạnh của dân phục vụ cho nhiệm vụ “kháng chiến, kiến quốc”, Đảng và chính quyền cách mạng rất quan tâm chăm lo bồi dưỡng sức dân, chú trọng phát triển kinh tế, tăng cường năng lực nội sinh cách mạng của quần chúng. Chính sách kinh tế - tài chính lúc đó được xác định như sau: “Kiến thiết nền kinh tế quốc dân làm cho dân giầu, nước mạnh theo những nguyên tắc: tự do kinh doanh, tăng gia sản xuất, bảo vệ quyền lợi quốc gia, điều hòa quyền lợi giữa tư sản và lao động, giữa địa chủ và nông dân, giữ vững chủ quyền về quan thuế và ngoại thương; khuyến khích và giúp đỡ công nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và nông nghiệp, củng cố tài chính quốc gia”. 2.2. Đẩy mạnh phát triển sản xuất, trọng tâm là sản xuất nông nghiệp. Diệt giặc đói, ổn định đời sống nhân dân Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 03/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu 6 nhiệm vụ cấp bách, trong đó “chống giặc đói” được Hồ Chủ tịch đặt lên hàng đầu, là nhiệm vụ cấp bách, đột xuất số 1. Người nói: “Nhân dân đang đói , những người thoát chết đói nay cũng bị đói. Chúng ta phải làm thế nào cho họ sống!”. Để giải quyết nạn đói, Chính phủ đã có nhiều chủ trương, biện pháp thực hiện sát sao: 2.2.1. Tổ chức lạc quyên, cứu tế Để tiêu diệt tận gốc “giặc đói”, biện pháp cơ bản lâu dài là phát triển sản xuất, tiết kiệm tiêu dùng lương thực. Nhưng trong khi chờ đợi kết quả của sản xuất, để khẩn cấp cứu đói cho dân, trên cơ sở phát huy truyền thống “nhiễu điều phủ lấy giá gương” của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi nhân dân với tinh thần “nhường cơm, sẻ áo”, “lá lành đùm lá rách” tự nguyện thực hành tiết kiệm, xây dựng các “hũ gạo cứu đói” giúp đỡ các gia đình thiếu ăn trầm trọng. Người đã phát động phong trào “10 ngày nhịn 1 bữa ăn, mỗi tháng 3 bữa, mỗi bữa 1 bơ, đem gạo đó để cứu dân nghèo” và Người đã tiên phong thực hiện trước. 2.2.2. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động phong trào “tăng gia sản xuất” Nghị định số 41 BKT ngày 15/11/1945 của Bộ Kinh tế Quốc dân quy định một số biện pháp để khuyến khích tận dụng đất đai trồng màu cứu đói: Suu tam:
- - Tất cả những người có ruộng đất phải khai báo với chính quyền địa phương về diện tích canh tác. Ngoài số diện tích đó, phần nào chưa canh tác thì buộc phải cho người thiếu ruộng mượn tạm trong một vụ để trồng màu. - Người mướn ruộng phải đảm bảo canh tác hết diện tích đó trước tết âm lịch, tức ngày 2 tháng 2 năm 1946 và đến tháng 4/1946, thu hoạch xong thì phải trả lại ngay cho chủ cũ. - Vì trâu bò bị chết nhiều qua nạn đói và nạn lụt (chỉ riêng trong nạn đói đầu năm 1945, 30 vạn con trâu bò đã bị chết, bằng 2/3 tổng số trâu bò cày kéo thời gian đó) nên sức kéo khan hiếm nghiêm trọng. Để khắc phục khó khăn này, các địa phương phải tổ chức sản xuất các loại nông cụ nhỏ và nhẹ để có thể sử dụng sức người thay cho sức trâu bò. Bộ Kinh tế cũng trực tiếp động viên các nhà kỹ nghệ cấp tốc sản xuất thêm nông cụ và bán ủng hộ cho nông dân (bán không lấy lãi, có trường hợp không tính công sản xuất, chỉ tính chi phí nguyên liệu). Hủy bỏ những quy định cũ của Pháp, Nhật cấm buôn bán trâu, bò trong nội địa. Cho tự do buôn bán, vận chuyển trâu, bò trong cả nước. - Chính phủ tập trung củng cố hệ thống đê điều, hàn khẩu lại các quãng đê đã bị vỡ. Đây là một thành tích có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc tăng gia sản xuất cứu đói - Chính phủ còn ban hành các chính sách khuyến nông; tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp và Việt gian chia cho nông dân thiếu ruộng; chia lại ruộng đất công một cách công bằng, hợp lý hơn; quy định giảm tô, giảm tức. Giặc đói đã bị đánh lui. Đây thực sự là một kỳ công của chính quyền cách mạng. Để giải quyết khó khăn về tài chính, Đảng, Chính phủ cũng đã dựa vào dân, phát huy lòng yêu Tổ quốc, yêu Độc lập - Tự do, trên tinh thần tự nguyện và theo khả năng của mình đóng góp theo nhiều hình thức như “quĩ Độc lập”, “quĩ Kháng chiến”, “đảm phụ quốc phòng” 2.2.3. Đồng thời với việc đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, Chính phủ đã khẩn trương phục hồi hoạt động của các ngành kinh tế khác Tình hình kinh tế nói chung lúc này đứng trước những khó khăn rất lớn: - Năm 1945, tình hình công thương nghiệp cũng bị sa sút, ngưng trệ tương tự tình hình nông nghiệp. Công nghiệp khai thác mỏ chỉ còn hoạt động bằng khoảng 1 phần 10 so với trước; còn công nghiệp chế biến hầu như tê liệt hoàn toàn. Sản xuất tiểu, thủ công nghiệp cũng bị đình đốn, giảm sút mạnh. Nên nguồn hàng hóa cung ứng cho thị trường rất khan hiếm. Về thương nghiệp: cả nội, ngoại thương đều bị tê liệt, xuất nhập khẩu sa sút. - Tiếp theo là khó khăn về giao thông vận tải. Tuy các tuyến đường sắt, đường biển, đường sông còn tiếp tục hoạt động nhưng các phương tiện vận tải phần lớn vẫn nằm trong tay chủ người Pháp, nên cũng gặp trở ngại; vận tải đường bộ thì rất khó khăn vì thiếu xăng dầu (nhiều ô tô khách và ô tô tải phải chạy bằng khí than củi (gazogene), thiếu săm lốp và phụ tùng thay thế, cầu đường ở nhiều nơi bị đánh phá trong chiến tranh thế giới thứ hai chưa được khôi phục xong, một số đoạn còn Suu tam:
- phải tăng - bo. Việc giao lưu buôn bán giữa 2 miền Nam, Bắc cũng bị ách tắc. Than ở miền Bắc không chuyên chở vào Nam được, gạo trong Nam cũng không ra Bắc được. Giá cả hàng hóa tăng vùn vụt. Chính phủ chủ trương, một mặt phát huy lòng yêu nước của giới công thương, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho họ đem tài lực, vật lực ra làm những công việc ích nước lợi nhà. Mặt khác, vẫn để cho các công ty tư bản Pháp và tư bản nước ngoài tiếp tục công việc kinh doanh như cũ, cố tránh những xáo trộn không cần thiết. a. Đối với sản xuất công nghiệp a.1. Bước đầu hình thành khu vực quốc doanh Nhà nước Việt Nam đã ban hành sắc lệnh hủy bỏ những đạo luật và nghị định của Toàn quyền Pháp giữ độc quyền tìm kiếm và khai thác mỏ ở các khu vực trên đất Việt Nam; và sắc lệnh giành lại quyền tìm mỏ cho Chính phủ Việt nam (Sắc lệnh số 89 ngày 30/5/1946). Sắc lệnh số 90 ngày 30/5/1946 quy định những khu vực kể trên được thành lập khu mỏ của Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Chính phủ cũng chủ trương mở lại các mỏ than ở Hòn Gai, Tân Trào (Tuyên Quang), Làng Cẩm, Phấn Mễ (Thái Nguyên), Quyết Thắng (Ninh Bình), tiếp tục khai thác mỏ thiếc Tĩnh Túc (Cao Bằng) bị Nhật chiếm đóng từ tháng 3/1945 và bị phá hoại trước khi chúng rút. Gấp rút hồi phục Nhà máy Cơ khí Trường Thi. Nhà máy Giấy Đáp Cầu. Ngày 15/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 5, lấy lại đường xe lửa Hải Phòng - Vân Nam và giao cho Bộ Giao thông công chính quản lý. Như vậy là thời gian này đã bắt đầu hình thành khu vực quốc doanh. a.2. Về công nghiệp tư doanh Trong thời gian này, đã ra đời một số doanh nghiệp công nghiệp quy mô vừa của người Việt sản xuất một số loại hàng trước đây chỉ do các nhà máy của người Pháp sản xuất hoặc phải nhập khẩu, như xà phòng giặt, sơn Gecko ở Hà Nội, sơn Resistanco ở Hải Phòng Nhà nước cũng chủ trương cho phép tư nhân được tham gia kinh doanh khai thác mỏ. Ngày 30 tháng 5 năm 1946, Hồ Chủ tịch đã ký sắc lệnh cho phép ông Đỗ Long Giang, chủ mỏ ở Hà Nội được phép tìm mỏ và khai thác than trong khu đất Giáp Khẩu, Hòn Gai, diện tích 900 ha. a.3. Về tiểu, thủ công nghiệp Nhà nước hết sức khuyến khích và giúp đỡ cả về vốn và việc mua bán nguyên vật liệu phát triển sản xuất. Do hàng hóa được lưu thông tự do nên nguyên, nhiên liệu cần thiết cho sản xuất dồi dào, thị trường tiêu thụ sản phẩm được mở rộng, đã tạo điều kiện cho sản xuất tiểu, thủ công nghiệp phục hồi và phát triển, cung ứng được nhiều hàng hóa cho thị trường và tăng thu nhập cho người sản xuất. a.4. Đối với tư bản Pháp và nước ngoài Trừ một số xí nghiệp của tư bản Pháp có liên quan, ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế, quốc phòng, đến sự hoạt động bình thường của các cơ quan nhà nước, Chính phủ đã trưng thu một số cơ sở, như các nhà máy điện, nước ở Hà Nội, nhà Suu tam:
- máy luyện kim Hà Nội, cơ sở và vô tuyến điện của hãng Air France v.v số còn lại vẫn để cho tiếp tục kinh doanh như cũ, nhưng có sự kiểm soát của Nhà nước. Sắc lệnh ngày 09/10/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh ký đã nêu rõ 2 điều: - Các hãng kỹ nghệ hoặc thương mại ngoại quốc hiện có ở Việt Nam vẫn được phép tiếp tục công việc kinh doanh như cũ. - Vì nền trật tự công cộng, Chính phủ Việt Nam có quyền kiểm soát và nếu cần, có quyền đặt những ban chuyên môn để giữ nhiệm vụ đó. Nhờ chủ trương đó, nhiều xí nghiệp của Pháp khác vẫn hoạt động bình thường như các xí nghiệp thuộc ngành điện, nước ở một số thành phố (ngoài Hà Nội), vải sợi (Nam Định), dệt len, xi măng (Hải Phòng), gạch ngói (Đáp Cầu), đã cung ứng cho thị trường được một số hàng hóa cần thiết như than mỏ, xi măng, gạch ngói, vải, giấy đảm bảo duy trì được công ăn việc làm cho công nhân, lao động, góp phần đảm bảo sinh hoạt bình thường trong nhân dân. b. Đối với thương nghiệp b.1. Về nội thương Trên nguyên tắc tự do nội thương, Chính phủ khuyến khích mở rộng việc buôn bán, làm cho hàng hóa được lưu thông tự do trong toàn quốc. Nghị định của Chính phủ ngày 02/10/1945, bãi bỏ các luật lệ hạn chế kinh doanh dưới thời Pháp, Nhật; sắc lệnh của Chủ tịch nước ngày 22/9/1945 xóa bỏ các tổ chức độc quyền kinh doanh của người Pháp, Nghị định ngày 19/9/1945 của Bộ Quốc dân Kinh tế xóa bỏ tất cả mọi hạn chế về lưu thông các hàng hóa thông thường cho kinh tế và đời sống, như gỗ, giấy, lương thực, thực phẩm (công báo 1945, tr.21). Ngày 05/9/1945, Hồ Chủ tịch ký sắc lệnh số 7 - SL đảm bảo sự buôn bán và chuyên chở thóc gạo được tự do trong toàn hạt Bắc bộ, sau đó thì áp dụng cho cả Trung bộ (công báo 1945-tr.6). Nghiêm cấm đầu cơ tích trữ thóc gạo. Liền sau đó là một loạt nghị định về việc sản xuất, vận chuyển và buôn bán hoàn toàn tự do vỏ gió và các nguyên liệu làm giấy; nhựa thông, các hạt có dầu, da trâu bò và nguyên liệu nhuộm da v.v (Nghị định ngày 26/09/1945). Những biện pháp này đã đem lại kết quả tốt đẹp. Thóc gạo và các loại hàng hóa thông thường khác được điều hòa dễ dàng từ nơi thừa đến nơi thiếu, kích thích sản xuất phát triển. Cùng thời gian này, Hội thương gia Việt Nam được thành lập. Phòng Thương mại Việt Nam ra đời. Ngày 07/02/1946, thành lập Tiểu ban nghiên cứu về luật thương mại áp dụng ở Việt nam do Đinh Gia Trinh, đổng lý văn phòng Bộ Tư pháp đứng đầu. Tháng 8/1946, Chính phủ đề ra chủ trương mở Ngân hàng Thương mại có chi nhánh ở các tỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng hoạt động thương nghiệp. b.2. Về ngoại thương Chính phủ hủy bỏ sắc lệnh ngày 13/8/1941 của Tổng thống Pháp ban hành dành đặc quyền cho hàng hóa Pháp và các công ty ngoại thương của Pháp. Sắc lệnh ngày 10/10/1945 duy trì luật hải quan và biểu thuế quan cũ có một ít điều chỉnh để kịp thời thu thuế xuất nhập khẩu. Suu tam:
- Nghị định 48/CT ngày 09/11/1945 của Bộ trưởng Bộ Tài chính ấn định thể lệ mới về xuất cảng và nhập cảng các hàng hóa, quy đinh mọi nhà kinh doanh Việt Nam đều có quyền kinh doanh xuất, nhập khẩu theo luật pháp của Nhà nước. Tiếp đó, ngày 15/11/1945, Chính phủ ra sắc lệnh quy định thuế xuất, nhập cảng mới của một số mặt hàng. Đối với xuất khẩu, Nhà nước khuyến khích các mặt hàng ta có khả năng, nhất là than đá. Cấm xuất cảng thóc, gạo, ngô, đỗ và các chế phẩm từ ngũ cốc, máy móc và đồ vật bằng kim khí. Đối với nhập khẩu, Nhà nước khuyến khích nhập những mặt hàng nguyên, nhiên liệu, những thứ thuộc nhu cầu thiết yếu trong nước, ta chưa sản xuất được. b.3. Phục hồi giao thông - liên lạc Việc cấp bách là phải sửa chữa cầu đường bị bom đạn phá hoại trong chiến tranh. Trong điều kiện vô cùng khó khăn về tài chính và trình độ kỹ thuật, chưa đầy một tháng sau Cách mạng, đường xe lửa đã được tổ chức lại. Xe đã đi lại được nối hai miền Bắc, Nam (tuy còn một số đoạn phải tăng - bo). Về bưu điện: Phần lớn đường dây trước đây do quân Nhật quản lý. Khi Nhật đầu hàng, rất nhiều đoạn đã bị phá hủy, nhiều cơ sở ngừng hoạt động. Nhưng chỉ 1 tuần sau cách mạng, hệ thống điện tín, điện thoại giữa Hà Nội - Huế - Sài Gòn đã được phục hồi và hoạt động bình thường. Đến cuối tháng 8/1945, phần lớn các tỉnh đã liên hệ được với Hà Nội và với nhau bằng điện tín và điện thoại. Và người Việt Nam đã thay thế hoàn toàn nhân viên người Pháp trong toàn ngành đảm đương mọi công việc. Những kết quả trong giao thông liên lạc trên đã phục vụ tốt cho quân sự - quốc phòng, cho công tác chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng, Chính phủ và tác động tích cực đến sản xuất, lưu thông hàng hóa, phục vụ dân sinh. c. Xóa bỏ các công cụ bóc lột: Các độc quyền nhà nước Ngay sau Cách mạng Tháng 8, chính quyền cách mạng đã ban hành lệnh cấm buôn bán thuốc phiện, xóa bỏ công ty độc quyền rượu đi đôi với vận động nhân dân giảm uống rượu và cai thuốc phiện. Đối với muối: Xóa bỏ chế độ độc quyền nhà nước về muối, diêm dân được tự do bán muối ra thị trường sau khi nộp thuế theo quy định. Nhờ đó, giá bán muối của diêm dân tăng nhanh, thu nhập và đời sống của diêm dân được cải thiện rõ rệt, không những đủ ăn, đủ mặc mà còn mua sắm được nhiều đồ dùng gia đình có giá trị. Mặt khác, do được lưu thông tự do trên thị trường, nên giá bán muối ở các vùng giảm so với trước, việc mua bán thuận tiện, đặc biệt là ở các tỉnh miền núi, nhà nào cũng có đủ muối ăn và muối dự trữ. Có thể nói, việc chính quyền Cách mạng xóa bỏ các độc quyền nhà nước của chế độ thực dân Pháp đã gây được ảnh hưởng rất tốt cả về kinh tế, chính trị, xã hội. Có thể nói, mười sáu tháng kháng chiến kiến quốc, trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, “ngàn cân treo sợi tóc”, đạt được những thành tựu trên đây là do chính quyền cách mạng đã quán triệt quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Suu tam:
- Đó là biết dựa vào nhân dân, phát động đông đảo nhân dân cùng chung tay ra sức khắc phục khó khăn diệt giặc đói, giải quyết khó khăn về tài chính, tiền tệ trong công cuộc chống giặc Pháp xâm lược, làm thất bại âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của chúng. Đó là nhanh chóng xóa bỏ các công cụ bóc lột của thực dân Pháp, đem lại lợi ích cho quần chúng nhân dân lao động. Đó là chính sách đại đoàn kết rộng rãi mọi thành phần, tầng lớp trong xã hội: nông dân, công nhân, công thương gia v.v góp sức xây dựng nền kinh tế dân chủ nhân dân, độc lập tự chủ, duy trì hoạt động kinh tế bình thường, đảm bảo an sinh xã hội. Những thành tựu trên mặt trận kinh tế nói trên đã có tác dụng to lớn tăng cường năng lực nội sinh cách mạng của quần chúng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng chế độ dân chủ cộng hòa, bảo vệ nền độc lập, giữ vững chính quyền cách mạng non trẻ, đã góp phần tích cực vào việc tăng cường thực lực, đảm bảo đủ sức tiến hành cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp xâm lược. B. Giai đoạn 19/12/1946 đến 1954 Trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp, thực dân Pháp kiểm soát các thành phố lớn, nhiều thị xã, miền biển và biên giới, những đường giao thông chính ở nội địa và với nước ngoài, một số vùng ở đồng bằng. Chúng lại hay nống ra vùng tự do để thu hẹp dần địa bàn của ta. Khi chưa giải phóng biên giới, vùng tự do hầu như nằm trong vòng vây của địch. Đất nước tạm thời chia làm 2 vùng: vùng tự do kháng chiến và vùng tạm bị chiếm (ở Nam Bộ từ 23/9/1945). Tình hình kinh tế lâm vào hoàn cảnh khó khăn, sức sản xuất và điều hòa cung cầu giữa các địa phương bị ảnh hưởng. Năm 1949, có thể nói là năm gay go nhất về giá cả. Từ tháng giêng đến tháng 12, giá cả ở hầu hết các địa phương, nhất là giá gạo, đều tăng từ 3 đến hơn 5 lần. Đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Trước tình hình đó, Đảng và Chính phủ đã kịp thời đề ra chính sách: Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp và công nghiệp quốc phòng, vận tải, thương mại và nhiều chính sách kinh tế, tài chính khác, thực hiện phương châm tự lực cánh sinh, tự cấp, tự túc, tiết kiệm. Nền kinh tế đất nước chuyển sang nền kinh tế vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. I. Hoạt động của Bộ Kinh tế, Bộ Công Thương trong kháng chiến chống Pháp (19/12/1946 – 10/10/1954) Sau khi toàn quốc kháng chiến bùng nổ, đất nước tạm thời chia làm hai vùng (vùng tự do và vùng tạm chiến). Đầu năm 1947, Bộ Kinh tế chuyển lên chiến khu Việt Bắc, Bộ trưởng Phan Anh vào An toàn khu Tân Trào (Yên Sơn, Tuyên Quang). Thứ trưởng Bùi Công Trừng đóng ở vùng Lập Thạch (Vĩnh Yên), Văn phòng Bộ tại Tam Dương (Vĩnh Yên), Nha Khoáng chất và kỹ nghệ và Cục Ngoại thương đóng tại Bắc Kạn. Đi đôi với việc tổ chức sắp xếp các cơ quan trực thuộc Bộ, mở lớp hướng dẫn kinh tế đào tạo cán bộ (đầu 1948), Bộ tiến hành chỉ đạo ba lĩnh vực công tác Suu tam:
- chính: phát triển sản xuất công nghiệp và tiểu, thủ công nghiệp; phát triển thương mại nội địa; quản lý việc buôn bán giữa vùng tự do và vùng tạm chiếm. 1.1. Phát triển sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp Cuối năm 1946, toàn dân ta bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp. Được sự chỉ đạo và vận động của Chính phủ và Bộ Kinh tế, nhân dân và anh chị em công nhân các xí nghiệp, nhà máy tháo gỡ các máy móc, thu gom vật tư sản xuất và xây dựng chuyển lên chiến khu cả công nghiệp nhà nước và thủ công nghiệp của dân: dệt, giấy, in, ấn chuẩn bị cho một cuộc kháng chiến lâu dài. Sau việc di chuyển hào hùng này, Bộ Kinh tế đã chỉ đạo các Nha công nghệ, tiểu công nghệ và các địa phương xúc tiến tổ chức hoạt động các cơ sở cũ, xây dựng thêm các cơ sở mới, phát triển tiểu, thủ công nghiệp, giúp đỡ cung ứng nhiên liệu, nguyên vật liệu, vốn để sản xuất phục vụ cho kháng chiến và kiến quốc. Từ 1948, Bộ Kinh tế có thành lập tổ chức doanh nghiệp quốc gia sản xuất bên cạnh văn phòng Bộ do ông Vũ Anh, nguyên Cục trưởng Cục Quân nhu (Bộ Quốc phòng) làm giám đốc. Một số thành tựu đã đạt được qua chín năm kháng chiến. 1.1.1. Về công nghiệp dân dụng a. Ngành Khai thác Ngay từ đầu kháng chiến, một số mỏ ở vùng chiến khu mà Pháp khai thác trước đây, đã tiếp tục hoạt động trở lại. Bốn mỏ than đầu tiên được coi là doanh nghiệp quốc gia là các mỏ than Phấn Mễ, Minh Khai, Đầm Đùn và Khe Bố (biên bản Hội đồng Chính phủ 6 tháng đầu năm 1949). Sau đó, Bộ Kinh tế giao cho Nha Công kỹ nghệ tiếp tục tổ chức khai thác các mỏ Làng Cẩm, Tân Thành, Khánh Hòa ở Thái Nguyên, mỏ Tân Trào ở Tuyên Quang, mỏ Quyết Thắng ở Ninh Bình, mỏ Bố Hạ ở Bắc Giang, mỏ Khe Bố ở Nghệ An, mỏ Nông Sơn ở Quảng Nam v.v các mỏ than trên đều khai thác theo phương pháp thủ công. Số lượng khai thác không được nhiều lắm, nhưng đã đóng vai trò rất quan trọng đối với các xí nghiệp quân giới, các xí nghiệp cơ khí, các lò rèn, lò vôi thời kỳ đó. b. Ngành Cơ khí Đã được xây dựng ở tất cả các chiến khu, đặc biệt là Việt Bắc. Nó đảm đương nhiệm vụ rất quan trọng là sửa chữa máy móc. Đứa con đầu lòng của ngành Cơ khí Việt Nam chính là Nhà máy Cơ khí Trần Hưng Đạo được thành lập ở Tuyên Quang. Những máy móc của nhà máy này được chuyển từ Hà Nội lên từ trước kháng chiến toàn quốc. Trong thời kỳ kháng chiến, Nhà máy tiếp tục được hoàn thiện và mở rộng sản xuất. c. Ngành Luyện kim Từ 1947 đã thành lập Sở Khoáng chất công nghệ Trung bộ lo trực tiếp sản xuất gang bằng lò cao nhỏ. Việc sản xuất gang thép lúc này thật như một “bản anh hùng ca”. Ở Thái Nguyên có một lò thí nghiệm xây khá cao, loay hoay mãi không ra được gang, sau phải nấu những gang vụn, thép vụn thu nhặt được để nấu thành những thỏi gang giúp cho bộ đội làm lựu đạn. Ở khu 4 cũng xây dựng lò đúc gang, sản xuất thép khá đồ sộ. Cán bộ cũng “đổ mồ hôi, sôi nước mắt” nhưng không ra được thép. Tuy vậy, cũng giúp ích được nhiều trong việc tái sản xuất gang. Đến Suu tam:
- năm 1950, công việc sản xuất gang đã thành công tại huyện Như Xuân (Thanh Hóa), mẻ gang đầu tiên ra đời vào tháng 7/1951. d. Ngành Hóa chất Hóa chất là một sản phẩm thiết yếu cho đời sống dân sự cũng như quân sự. Với 3 mục tiêu quan trọng: phục vụ quốc phòng, nông nghiệp và dân sinh, hóa chất là lĩnh vực được phát triển mạnh. e. Ngành Dệt Ngành dệt phát triển ở tất cả các tỉnh, các khu, vừa để cung cấp cho quân đội, vừa cung cấp cho nhân dân. Có những xưởng dệt lớn vài trăm công nhân chủ yếu sản xuất quần áo cho quốc phòng. Có những xưởng nhỏ hơn 50 đến 100 công nhân, sản xuất các loại vải khác nhau để phục vụ đời sống dân cư. Phương pháp sản xuất là nửa cơ khí, nửa thủ công. Có những xưởng chỉ dùng khung cửi dệt tay, có một ít xưởng cơ giới. Sợi phần lớn làm từ bông sản xuất ở các địa phương. Thời kỳ kháng chiến hầu hết là vải nội địa. g. Ngành Giấy Là ngành rất quan trọng trong thời kỳ kháng chiến: giấy cho học sinh, cho cơ quan, giấy để in tiền Tất cả các địa phương đều có những cơ sở giấy phần lớn là sản xuất bằng phương pháp thủ công. h. Ngành Dược phẩm Ở tất cả các khu, thậm chí các tỉnh đều có các cơ sở sản xuất dược phẩm từ đơn giản đến phức tạp, từ những viên thuốc cảm thông thường đến thuốc ký ninh là thứ tối quan trọng để chống sốt rét rừng, ngành dược còn sản xuất được nhiều loại thuốc tiêm và cả pénicyline nước dùng để sát trùng khi mổ (chưa sản xuất được pénicyline để tiêm và uống). Từ 1949-1950, ngành dược đã phát triển để có thể sản xuất được những loại thuốc đạt chất lượng cao hơn. Nói đến ngành dược, cũng phải nói đến ngành chế tạo thủy tinh, sản xuất được cả ống tiêm bằng phương pháp thủ công. Còn một loạt ngành công nghiệp khác nữa cũng đã góp phần đảm bảo đời sống kháng chiến như xưởng sản xuất diêm Hưng Việt tại Hậu Hiền (Thanh Hóa), xưởng sản xuất xà phòng, thuốc lá, thuốc đánh răng, sản xuất đường, dầu, nung vôi, đóng gạch ngói, chế biến gỗ, chế biến thực phẩm Trong lĩnh vực này thì vai trò của công nghiệp chưa lớn, phần nhiều do tiểu công nghiệp sản xuất. 1.1.2. Về tiểu, thủ công nghiệp Các cơ sở sản xuất tiểu, thủ công nghiệp phần lớn là của tư nhân. Một số nhà tư sản dân tộc từ thành thị tản cư ra được khuyến khích, giúp đỡ để tổ chức sản xuất phục vụ kháng chiến. Họ đã mở các xưởng dệt, giấy, diêm, nước mắm, ép dầu, xà phòng Ngoài những nhà kinh doanh tư nhân, những làng thủ công nghiệp cổ truyền cũng được khuyến khích tiếp tục phát triển: những làng làm nón, dệt vải, ươm tơ, dệt lụa, đan lát, đóng thuyền, làm đồ gỗ, ép dầu Những nghề này đã góp phần cải thiện đời sống của mọi tầng lớp dân cư trong thời kỳ kháng chiến. Nói chung, đối với tất cả các ngành tiểu, thủ công nghiệp (trừ một số nghề làm đồ vàng mã, làm hương, làm đồ thờ) đều được Chính phủ khuyến khích bằng Suu tam:
- nhiều hình thức khác nhau, như có chính sách cho vay đối với một số cơ sở quan trọng cho quốc kế dân sinh (dệt, làm áo mưa, làm mực viết ). Chính phủ ban hành chính sách thuế công thương nghiệp mới thay thế cho nhiều loại thuế được áp dụng trong thời gian trước (như thuế lãi doanh nghiệp, thuế lợi tức tổng hợp, các loại thuế gián thu khác) nhằm thực hiện công bằng đóng góp cho kháng chiến; có mức thuế cho từng ngành sản xuất, miễn thuế cho những nghề lặt vặt của dân nghèo, nghề phụ gia đình, những xí nghiệp sản xuất hàng hóa cho quân đội, những xí nghiệp hoạt động trong những điều kiện đặc biệt khó khăn. Năm 1952, Đảng và Chính phủ chủ trương phát động phong trào sản xuất, tiết kiệm, phát triển nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, tích cực giúp đỡ kinh doanh công nghiệp kể cả nhà tư sản. Đi đôi với việc xây dựng các cơ sở công nghiệp quốc doanh, Bộ Kinh tế, sau đó là Bộ Công thương khuyến khích khôi phục hoạt động các làng nghề, tận dụng tiềm năng sẵn có của các cơ sở sản xuất tiểu, thủ công nghiệp và thủ công nghiệp nên hàng hóa phục vụ cho quốc phòng và dân sinh không quá thiếu thốn. Tình hình sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp ở giai đoạn sau có phát triển hơn thời kỳ đầu kháng chiến, nhưng thực chất nền công nghiệp trong kháng chiến chống Pháp vẫn là một nền sản xuất nhỏ còn thô sơ, tuy vậy nó mang trong mình bản chất dân tộc, dân chủ phục vụ kháng chiến và dân sinh, khác với nền công nghiệp ở vùng tạm chiếm, tuy có tương đối phát triển hơn nhưng cũng què quặt, lại mang bản chất thực dân, phục vụ chiến tranh xâm lược. 1.2. Quản lý thương nghiệp ở vùng tự do 1.2.1. Các hình thức hoạt động Chủ trương của Bộ thời gian đầu kháng chiến là khuyến khích giao lưu hàng hóa giữa các địa phương trong vùng tự do theo chính sách tự do nội thương để đáp ứng các nhu cầu của kháng chiến và dân sinh. Giúp Bộ chỉ đạo lĩnh vực này là Nha Thương vụ. Trên thị trường dần dần hình thành 3 hình thức buôn bán: - Các chợ ở nông thôn: Cung ứng hàng hóa cho nhân dân trong một vài làng xã. Hàng hóa ở chợ chủ yếu là sản phẩm của địa phương: rau, quả, gia cầm, gia súc, thực phẩm tươi sống, mắm muối, đường mật và một số mặt hàng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp cần thiết cho sản xuất và đời sống của nông dân như nông cụ cầm tay, vải thông dụng, khăn mặt, dầu thắp sáng, giấy bút mực cho học sinh, đồ dùng gia đình (nồi, chảo, ấm chén, bát đĩa, chum vại, đồ đan lát ) - Hoạt động thương mại, dịch vụ ở những chợ, khu vực có phạm vi huyện hoặc liên huyện, những trị trấn mới hình thành thay thế cho các thị xã phải sơ tán để tránh sự đánh phá của địch. Những chợ, thị trấn này thường nằm ở những đầu mối giao thông, đầu mối các luồng giao lưu hàng hóa giữa các khu, các tỉnh hoặc nơi giáp ranh giữa vùng tự do và vùng tạm chiếm, nơi có đông nhân dân các nơi, cán bộ, bộ đội qua lại, do đó đã trở thành những trung tâm thương mại tác động đến tình hình giá cả toàn vùng lân cận. Suu tam:
- Tham gia các thị trường này là các thương nhân chuyên nghiệp, trong đó số lớn là dân thành thị sơ tán, gia đình cán bộ, bộ đội. Mặc dù có những nơi bị địch ném bom bắn phá, nhưng các chợ, thị trấn này vẫn tồn tại cho đến khi kháng chiến chấm dứt. - Một đặc điểm trong hoạt động thương mại thời gian này là sự hình thành những luồng giao lưu hàng hóa đường dài giữa các khu, liên khu, kinh doanh một số hoại hàng thiết yếu cho đời sống nhân dân như muối, gạo, thường gọi là buôn chuyến. Nguồn gốc phát sinh những luồng hàng này là chênh lệch giá rất rộng giữa nơi sản xuất và nơi tiêu thụ, đem lại lợi nhuận cao cho người buôn bán. Vì vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, số người tham gia loại hình buôn bán này đã rất đông, mặc dù việc vận chuyển hàng hóa rất khó khăn vất vả, thậm chí nguy hiểm. Điển hình là luồng muối từ khu 3 lên Việt Bắc, Tây Bắc.Nhận thấy tác dụng rất tích cực của luồng muối này, Bộ Kinh tế hết sức khuyến khích; các địa phương cũng tạo điều kiện thuận lợi cho tư thương và nông nhàn hoạt động như cấp dễ dàng giấy thông hành, có ưu đãi về thuế buôn chuyến 1.2.2. Thương mại ở các vùng Nhìn chung, trong những năm 1947-1948, tình hình kinh tế vùng tự do tương đối ổn định: sản xuất và thương mại dần dần thích ứng với hoàn cảnh mới, đáp ứng nhu cầu của kháng chiến và dân sinh. Hàng hóa tuy có khan hiếm, nhưng nhân dân vẫn có thể mua được tương đối dễ dàng những loại hàng thiết yếu cho đời sống, giá cả không có biến động lớn. Đạt được kết quả như trên là do vùng tự do còn tương đối rộng với những vùng sản xuất nông nghiệp và tiểu, thủ công nghiệp tập trung, chiến sự chưa mở rộng, nhu cầu của nhân dân, của cơ quan nhà nước và của quân đội chưa nhiều. Trong hoàn cảnh đó, Chính phủ và Bộ Kinh tế đã biết vận dụng đúng đắn quan điểm tư tưởng của Hồ Chủ tịch, dựa vào dân, đoàn kết và sử dụng mọi lực lượng bằng những chính sách, chủ trương, biện pháp thích hợp để khuyến khích và giúp đỡ phát triển sản xuất và thương mại. Từ 1949 trở đi, do chiến sự mở rộng, tình hình kinh tế ở vùng tự do ngày càng khó khăn. Việc xử lý của ta lại nặng về dùng các biện pháp hành chính nên không hiệu quả. Ngày 17 tháng 11 năm 1950, Chính phủ thành lập Sở Nội thương (thuộc Bộ Kinh tế) thay thế Cục Tiếp tế - Vận tải, làm nhiệm vụ kinh doanh mua vào bán ra tất cả các loại hàng, kể cả lương thực, thực phẩm nông sản và công nghệ phẩm, mở rộng đối tượng phục vụ, vừa cung cấp cho bộ đội, cơ quan, cán bộ, công nhân, vừa bán một số mặt hàng phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân, lãnh đạo, và hướng dẫn hoạt động của thương nghiệp tư nhân, điều hòa thị trường, bình ổn vật giá. Tuy nhiên, hoạt động của Sở Nội thương còn hạn chế về khối lượng kinh doanh, về tổ chức mạng lưới cũng như về địa bàn hoạt động (chủ yếu là ở các tỉnh Liên khu Việt Bắc). Và chỉ 6 tháng sau khi thành lập Sở Mậu dịch quốc doanh thì Sở Nội thương giải thể. Có thể nói: 1949-1950 là thời kỳ khó khăn nhất từ khi nổ ra kháng chiến. 1.2.3. Những thuận lợi và khó khăn Suu tam:
- Sau đại chiến thắng biên giới (10/1950) cuộc kháng chiến chống Pháp chuyển sang một giai đoạn mới. Cục diện cuộc kháng chiến cũng như tình hình chính trị, kinh tế của vùng tự do có những chuyển biến rất cơ bản: - Biên giới Việt - Trung từ Lào Cai đến Lạng Sơn được giải phóng. Ta có điều kiện tiếp xúc với Trung Quốc và các nước trong phe XHCN, thiết lập quan hệ giao lưu hàng hóa và tiếp nhận sự chi viện của các nước anh em. - Ta đánh bật địch khỏi Hòa Bình, phá vỡ hành lang Đông Tây của địch chia cắt Việt Bắc - Tây Bắc với Liên khu III, Liên khu IV cùng với âm mưu thành lập khu Tự trị Thái Mèo. - Chiến tranh du kích ở vùng địch hậu ngày càng phát triển, khu du kích trong vùng tạm chiếm ngày càng mở rộng, nhân dân hướng về kháng chiến, ta có điều kiện huy động sự đóng góp cho kháng chiến của đồng bào và khơi luồng hàng hóa giao lưu giữa hai vùng. - Vùng tự do được mở rộng. Nhiều tỉnh ở Đông Bắc, Tây Bắc được giải phóng. Giao thông liên lạc, giao lưu hàng hóa giữa các liên khu, các tỉnh dễ dàng hơn. Thị trường được mở rộng. Tình hình kinh tế ngày càng ổn định hơn. - Bộ máy quản lý nhà nước từ trung ương đến các địa phương được củng cố. Sự chỉ đạo của Chính phủ và của các Bộ đối với các địa phương từ Liên khu IV trở ra được chặt chẽ hơn, và ngày càng phát huy vai trò quản lý thống nhất trên phạm vi cả nước về chính trị và kinh tế. - Nhà nước có thêm kinh nghiệm về quản lý kinh tế. Tuy nhiên cũng có những thách thức mới: - Cuộc kháng chiến chuyển sang giai đoạn mới. Việc xây dựng lực lượng vũ trang lớn mạnh đòi hỏi khối lượng lớn quân trang, quân dụng, lương thực, thực phẩm, theo đó là các khoản chi ngân sách ngày càng lớn. Việc mở các chiến dịch lớn dẫn tới tình trạng nhu cầu tập trung trên một số địa bàn trong một thời gian, khiến cung cầu, tiền, hàng trên những địa bàn đó mất cân đối, đẩy giá tăng cao. - Phải đối phó với thiên tai (lũ lụt, hạn hán), địch họa (địch càn quét, đánh phá bằng không quân) ngày càng ác liệt. Ngoài ra, còn phải đối phó với những hiện tượng tiêu cực trên thị trường xảy ra ngày càng nhiều, như đầu cơ lũng đoạn thị trường, giá cả, có những lúc, những nơi xảy ra mất cân đối cung cầu hàng hóa, mất cân đối tiền hàng. - Trước mắt, cần phải khắc phục tình trạng thiếu lương thực, giá thóc gạo trên thị trường tăng nhanh, nguồn thóc gạo Nhà nước thu được bằng các loại thuế và đảm phụ ngày càng giảm, không đủ cung ứng cho bộ đội, cán bộ, công nhân theo tiêu chuẩn định mức. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần II của Đảng họp tháng 2/1951 đã đề ra đường lối toàn diện về quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế, tài chính nhằm đưa cuộc kháng chiến tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Trên mặt trận kinh tế - tài chính, nhiều chủ trương chính sách mới được đề ra: - Tiếp tục đẩy mạnh tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm. - Ban hành thuế nông nghiệp, thuế công thương nghiệp. - Thống nhất quản lý tài chính. Suu tam:
- - Tinh giản bộ máy Nhà nước. - Ban hành chính sách “Tự do nội thương, quản lý ngoại thương”, chính sách “Đấu tranh kinh tế với địch, xây dựng ngành thương nghiệp quốc doanh”. - Thành lập Ngân hàng Quốc gia - Phát hành đồng tiền Ngân hàng thay thế đồng tiền Tài chính. Ngày 14/5/1951, Chính phủ ban hành sắc lệnh 21 - SL, đổi tên Bộ Kinh tế thành Bộ Công - Thương. Bộ Công - Thương có nhiệm vụ: - Quản lý ngành công nghiệp, bao gồm: Công nghiệp dân dụng (khai khoáng, sản xuất tư liệu sản xuất, sản xuất hàng tiêu dùng), tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp. - Quản lý ngành thương nghiệp bao gồm: Nội thương, Ngoại thương, Đấu tranh kinh tế với địch. Mục tiêu của Bộ là: Bảo đảm các nhu cầu của kháng chiến, tích cực phục vụ và thúc đẩy sản xuất công, nông nghiệp phát triển; khuyến khích mở rộng giao lưu hàng hóa, đấu tranh bình ổn vật giá và thị trường, đấu tranh kinh tế với địch, tổ chức trao đổi hàng hóa với nước ngoài; giúp đỡ nhân dân khắc phục khó khăn và ổn định đời sống để kháng chiến lâu dài. Chính phủ cũng ban hành sắc lệnh só 22 - SL ngày 14/5/1951 thành lập Sở Mậu dịch quốc doanh trong Bộ Công - Thương. Theo Sắc lệnh, Sở Mậu dịch Quốc doanh là một cơ quan kinh doanh có nhiệm vụ tổ chức việc buôn bán trong nước, việc buôn bán trao đổi với nước ngoài và việc đấu tranh kinh tế với địch. Sắc lệnh cũng quy định bãi bỏ Cục Ngoại thương và các Sở Nội thương. Với nhiệm vụ của mình, Sở Mậu dịch quốc doanh sẽ giúp Bộ thực hiện việc quản lý công, thương nghiệp bằng các biện pháp kinh tế kết hợp với các chính sách kinh tế, tài chính, tiền tệ mới được Đại hội Đại biểu lần II của Đảng đề ra. Ngay sau khi được thành lập, Sở Mậu dịch Quốc doanh đã khẩn trương xây dựng mạng lưới thương nghiệp quốc doanh. Hệ thống của Sở được hình thành ở các liên khu và tỉnh. Ở liên khu là phân sở, ở các tỉnh là chi sở (Liên khu Việt Bắc, không có phân sở, chi sở các tỉnh trực thuộc Sở Mậu dịch). Dưới chi sở có các chi điếm và cửa hàng trực thuộc. Cán bộ được điều về Sở một phần từ Cục Tiếp tế vận tải và Ngoại thương cục cũ, một phần từ một số cơ quan chính quyền và đoàn thể chuyển sang, phần lớn chưa từng tham gia hoạt động kinh doanh, nên Bộ Công - Thương phải tổ chức nhiều hội nghị phổ biến học tập về chính sách kinh tế dân chủ mới, về phương hướng nhiệm vụ của mậu dịch quốc doanh. Được sự quan tâm giúp đỡ của Đảng và chính quyền các cấp, mậu dịch quốc doanh nhanh chóng được xây dựng trong cả nước, trừ những nơi còn bị địch tạm chiếm. 1.3 Quản lý việc giao lưu hàng hóa giữa vùng tự do và vùng tạm chiếm - bao vây, đấu tranh kinh tế với địch 1.3.1. Quản lý việc giao lưu hàng hóa giữa vùng tự do và vùng tạm chiếm Từ 05/9/1945, Chính phủ đã ban hành sắc lệnh số 6 - SL cấm việc tiếp tế cho địch, cấm buôn bán với địch Suu tam:
- Ngày 03/02/1947, Chủ tịch nước ban hành sắc lệnh số 13 - SL cấm xuất khẩu các loại hàng vào vùng địch tạm chiếm. Ngày 16/3/1947, Chính phủ quyết định thành lập Ngoại thương Cục với nhiệm vụ quản lý hoạt động xuất nhập khẩu giữa 2 vùng. Nhưng ban đầu tổ chức này chỉ được giao nhiệm vụ nhập một số hàng cần thiết qua một số cửa khẩu như Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai, Hà Giang, Diêm Điền (Thái Bình), Quất Lâm (Nam Định), Thanh Hóa 1.3.2. Bao vây, đấu tranh kinh tế với địch Chủ trương bao vây kinh tế địch vẫn tiếp tục được thực hiện. Tháng 10/1948, Chính phủ ra sắc lệnh thành lập Ban Trung ương bao vây kinh tế địch gồm: Bộ trưởng Bộ Kinh tế là Chủ tịch, Đại diện Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước là ủy viên thường trực, đại diện Bộ Quốc phòng, Bộ Công an là ủy viên, bộ phận thường trực đặt tại Bộ Kinh tế. Ở mọi tỉnh cũng có Ban Trung ương bao vây kinh tế địch do Ủy ban Kháng chiến hành chính tỉnh điều khiển. Tuy nhiên, việc bao vây kinh tế địch không đạt được kết quả mong muốn.Cho nên sau một số năm thực hiện, chủ trương này được bãi bỏ. 1.4. Xây dựng và mở rộng ngoại thương Ngoại thương Cục thuộc Bộ Kinh tế được thành lập khá sớm, từ 16/3/1947. Đến 14/5/1951, Sở Mậu dịch Quốc doanh được thành lập, tiếp nhận nhiệm vụ của Ngoại thương Cục giải thể. Sau chiến thắng biên giới, mở ra thông thương giữa nước ta với Trung Quốc, ta mới có điều kiện lập quan hệ mậu dịch với nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Sau khi lập quan hệ ngoại thương với Trung Quốc, ta xây dựng quan hệ với Liên Xô nhưng do ở xa, trong kháng chiến chỉ có đường xe hỏa qua Trung Quốc, nên hàng hóa của Liên Xô xuất sang Việt Nam chưa nhiều. Hoạt động ngoại thương giữa nước ta với nước CHND Trung Hoa đã hỗ trợ mạnh mẽ cuộc kháng chiến chống Pháp và các cuộc đấu tranh kinh tế với địch, góp phần thúc đẩy sản xuất, khai thác lâm, thổ sản, cải thiện đời sống nhân dân. Chính phủ Trung Quốc còn viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam một khối lượng lớn vật liệu, hàng hóa phục vụ kháng chiến, sản xuất, dân sinh. Việc mở rộng, phát triển quan hệ thương mại kinh tế với các nước xã hội chủ nghĩa là một thành tựu cực kỳ quan trọng của thương nghiệp Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Nó có ý nghĩa chiến lược đối với tăng cường tiềm lực quốc phòng, kinh tế. Nhìn chung, nền ngoại thương Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp có những nét đặc thù, hiếm có. Nó không chỉ buôn bán với nước ngoài mà ngay giữa hai vùng đối địch nhau trong một nước, nhằm tiêu diệt, thôn tính nhau. Cuối cùng nó đã thu được thắng lợi. II. Tình hình kinh tế vùng Pháp chiếm đóng (Vùng bị tạm chiếm) Phạm vi chiếm đóng của Pháp từ cuối 1946 đến 1954 thay đổi tùy theo diễn biến của hoạt động quân sự. 2.1. Giai đoạn 1946-1950 Suu tam:
- Sau một thời gian ngắn ban đầu gián đoạn, kinh tế trong vùng bị tạm chiếm dần dần hoạt động trở lại: - Các doanh nghiệp công nghiệp được hồi phục sản xuất một số tư liệu sản xuất như than, xi măng, sản phẩm cơ khí và hàng tiêu dùng: hàng dệt, giấy, xà phòng, bia, thuốc lá điếu - Các công ty hàng hải nối lại các tuyến vận tải biển giữa Việt Nam với Pháp và Hồng Kông phục vụ cho hoạt động xuất, nhập khẩu của vùng bị tạm chiếm. - Các hãng buôn lớn của người Pháp như Poinsard và Veyret, Descours, Cabaud, Denis Frères, Bourguoin Meifres, Diethlem mở rộng hoạt động xuất khẩu than, cao su, gạo và nhập khẩu hàng công nghiệp. Kết quả là sản phẩm hàng hóa trên thị trường dồi dào, hoạt động kinh doanh buôn bán khá sầm uất. Nhưng cũng có những biểu hiện xấu: - Sản xuất công nghiệp tại chỗ không phát triển. Hàng công nghiệp trên thị trường phần lớn là hàng nhập khẩu. - Hàng hóa dồi dào nhưng giá cả thị trường vẫn tăng nhanh. So với năm 1946, năm 1950, giá ở vùng bị tạm chiếm đã tăng 3,3 lần. - Tiền ra thị trường nhiều. Đồng tiền Đông Dương ngày càng mất giá. 2.2. Giai đoạn 1951-1954 Từ năm 1951, trước những thắng lợi của ta trên mặt trận quân sự, triển vọng thất bại của cuộc chiến tranh xâm lược Pháp ngày càng bộc lộ rõ. Hậu quả là: - Các nhà kinh doanh Pháp bắt đầu rút khỏi Việt Nam, chuyển về đầu tư ở châu Âu và châu Phi. Những người còn lại thì chuyển sang làm ăn theo kiểu chụp giựt, bóc ngắn cắn dài: Rút vốn đầu tư, ra sức khai thác tài nguyên, tranh thủ kiếm lời nhanh, thu hồi vốn nhanh Cách làm ăn theo kiểu giã đám này khiến sản xuất công nghiệp trong vùng bị tạm chiếm không tăng trưởng mà sụt giảm dần. - Trên thị trường thì giá cả tăng nhanh, đồng tiền Đông Dương ngày càng mất giá. Tuy nhiên, hàng hóa trên thị trường vẫn dồi dào. Hàng nhập khẩu từ Pháp ngày càng nhiều. Ngoài ra lại có thêm hàng viện trợ của Hoa Kỳ. Nguồn hàng phong phú đã tạo nên một bộ mặt hoạt động thương mại sầm uất. Tình hình kinh tế vùng bị tạm chiếm ngày càng xấu thêm cho đến khi hiệp định Geneve được ký kết và ta vào tiếp quản. III. Chuẩn bị tiếp quản Thủ đô Sau khi hiệp định Geneve được ký kết, Bộ Công - Thương phải giải quyết 3 vấn đề lớn: Duy trì hoạt động bình thường của sản xuất và thương mại ở vùng tự do; xác định phương hướng hòa nhập nền kinh tế vùng tự do cũ và vùng tự do mới giải phóng thành một nền kinh tế duy nhất, chuẩn bị tiếp quản thủ đô Hà Nội trên lĩnh vực kinh tế. Về gạo Chủ trương của Chính phủ và Bộ là, tranh thủ lúc giá gạo trên địa bàn nông thôn vùng mới giải phóng còn thấp hơn nhiều so với mức giá dự kiến điều chỉnh, sẽ kết hợp việc thu mua thóc gạo để bổ sung lực lượng cho Mậu dịch quốc doanh với điều chỉnh giá lúa gạo ở vùng mới giải phóng. Suu tam:
- Thực hiện chủ trương này, Mậu dịch đã tổ chức việc mua lúa gạo ở vùng nông thôn, các tỉnh Nam Định, Hà Nam, Thái Bình, Hải Dương, Hưng Yên Giá mua ban đầu đặt cao hơn giá thị trường một mức được tính toán sao cho khuyến khích được nông dân bán lúa gạo cho Mậu dịch mà thương nhân không thể lợi dụng mua gom để bán lại cho Mậu dịch kiếm lời. Khi giá thị trường tăng lên ngang giá mua của Mậu dịch thì lại nâng giá mua của Mậu dịch lên một mức nữa. Cứ như vậy cho đến khi giá thóc gạo trên thị trường lên tới mức giá dự kiến điều chỉnh thì Mậu dịch ngừng thu mua để giữ giá ở mức đó. Kết quả là Mậu dịch quốc doanh thu mua được hàng vạn tấn thóc gạo, giá thị trường được điều chỉnh lên mức dự kiến, nông dân phấn khởi đẩy mạnh việc khôi phục sản xuất thóc gạo, thương nhân không thể đầu cơ kiếm lời. Về muối Nguồn muối ở các cánh ruộng muối tại Nam Định rất dồi dào, đường vận chuyển về Hà Nội thuận lợi. Chỉ cần Mậu dịch bố trí phương tiện chở về đều đặn để đảm bảo cung ứng. Về hàng công nghiệp tiêu dùng Ngoài lực lượng Mậu dịch quốc doanh đã chuẩn bị được, vẫn có thể khai thác luồng hàng từ Hải Phòng lên bằng đường sắt Hà Nội - Hải Phòng. Ta đã yêu cầu phía Pháp bảo đảm con đường này được thông suốt để duy trì luồng hàng này. Về xăng dầu Kho xăng dầu nhập khẩu nằm ở Hải Phòng trước khi được chở về Hà Nội bằng đường sắt. Ta cũng yêu cầu phía Pháp bảo đảm cho việc vận chuyển xăng dầu lên Hà Nội được thường xuyên liên tục Về than mỏ Một mặt, Bộ Công - Thương yêu cầu các mỏ ở vùng tự do cũ cố gắng tăng sản lượng than khai thác để có thêm than cung ứng cho thị trường. Mặt khác, Bộ cử cán bộ liên hệ với các nhà buôn than ở nội thành Hà Nội để ký hợp đồng mua than của họ. Trên cơ sở hợp đồng đã ký, ta ứng trước tiền cho họ (bằng tiền VN, tiền Đông Dương, hoặc bằng đặc sản có giá trị) để sau khi tiếp quản Thủ đô, sẽ nhận than và thanh toán. Các hợp đồng này đều được hai bên thực hiện nghiêm chỉnh: sau ngày 10/10/1954, khi Nhà máy Điện Hà Nội đến nhận than, các nhà buôn đã giao đầy đủ và Mậu dịch quốc doanh cũng thanh toán cho họ sòng phẳng, nhanh gọn. Sau đó ta lại ký với đại diện phái đoàn Pháp ở Hà Nội hợp đồng để mua than Hòn Gai với số lượng lớn, phục vụ cho hoạt động của Nhà máy Điện. Qua điều tra, ta nắm được Công ty Than Hòn Gai (còn nằm trong khu vực 300 ngày) cần tiêu thụ sản phẩm của họ; Công ty Hỏa xa Đông Dương (cũng thuộc Pháp) cần than chạy tàu để có doanh thu, và chính phủ Pháp muốn có một biểu thị thiện chí giữ mối quan hệ hữu hảo với Chính phủ Việt Nam. Vì vậy, ta chấp nhận lời chào hàng và hợp đồng mua than đã được ký với các điều khoản chặt chẽ về số lượng, tiêu chuẩn chất lượng than, đường vận chuyển than, phương tiện vận chuyển, nơi giao nhận, việc xác nhận số lượng và chất lượng than, việc xử lý mất mát dọc đường vận chuyển v.v Bản hợp đồng này đã được hai bên thực hiện nghiêm chỉnh. Bằng nhiều biện pháp kết hợp như trên, việc chuẩn bị than cho tiếp quản Thủ đô đã được tiến hành khá chu đáo. Suu tam:
- Ngày 10/10/1954, quân ta vào tiếp quản Thủ đô. Theo sau quân đội là các đoàn xe của Mậu dịch quốc doanh chở hàng hóa vào và ngay sau đó, Mậu dịch quốc doanh đã tổ chức bán những mặt hàng thiết yếu nhất cho đời sống nhân dân, như gạo, muối, dầu hỏa, chất đốt. Trong niềm hân hoan của toàn dân trước chiến thắng, các cửa hàng của thương nhân cũng mở cửa mua bán sau ngày nghỉ để đi đón Chính phủ kháng chiến trở về Thủ đô, tạo nên một khung cảnh hoạt động kinh tế rất bình thường, khiến nhiều khách quốc tế phải ngạc nhiên vì xưa nay trên thế giới, hiếm có hiện tượng thủ đô một nước được giải phóng từ một cuộc chiến tranh ác liệt mà hoạt động kinh tế trên địa bàn vẫn vận hành bình thường không một ngày ngưng trệ. Còn nhân dân Thủ đô thì yên tâm vì những nhu cầu thiết yếu nhất cho đời sống hàng ngày vẫn được đảm bảo và niềm vui phấn khởi càng rộ lên khi đêm ngày 10/10 bắt đầu buông xuống, ánh điện vẫn bừng sáng trên toàn Thành phố, xóa tan mối lo âu trước đó, là Hà Nội sẽ chìm trong bóng tối sau khi quân Pháp rút vì không có điện. Suu tam: