Báo cáo Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và việc thực hiện dân chủ cơ sở trong sinh viên Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh (Phần 1)
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và việc thực hiện dân chủ cơ sở trong sinh viên Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh (Phần 1)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- bao_cao_tu_tuong_ho_chi_minh_ve_dan_chu_va_viec_thuc_hien_da.pdf
Nội dung text: Báo cáo Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và việc thực hiện dân chủ cơ sở trong sinh viên Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh (Phần 1)
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ VÀ VIỆC THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ TRONG SINH VIÊN TRUỜNG ÐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM S K C 0 0 3 9 5 9 MÃ SỐ: T2013-170 S KC 0 0 5 4 2 7 Tp. Hồ Chí Minh, 2013
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI KH&CN CẤP TRƯỜNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ VÀ VIỆC THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ TRONG SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM Mã số: T2013-170 Chủ nhiệm đề tài: TS Thái Ngọc Tăng TP. HCM, 11/2013
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ĐƠN VỊ: KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI KH&CN CẤP TRƯỜNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ VÀ VIỆC THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ TRONG SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM Mã số: T2013-170 Chủ nhiệm đề tài: TS Thái Ngọc Tăng TP. HCM, 11/2013
- MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1 Chƣơng I: TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ 1.1 Cơ sở lý luận 9 1.1.1 Cở sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ 9 1.1.2 Khái niệm dân chủ 13 1.1.3 Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ 13 1.2 Tư tưởng dân chủ trong các thời kỳ lịch sử 13 1.3 Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về dân chủ 17 Chƣơng 2: PHÁT HUY DÂN CHỦ TRONG SINH VIÊN ĐẠI HỌC SƢ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2.1 Phát huy tư tưởng Hồ Chí Minh về dận chủ trong sinh viên trường đại học Sư Phạm Kỹ Thuật thành phố Hồ Chí Minh 27 2.1.1 Chủ trương của Đảng ủy trường, Ban giám hiệu, các tổ chức Đoàn thể .27 2.1.1.1 Đối với cấp ủy 27 2.1.1.2 Đối với ban giám hiệu nhà trường 28 2.1.1.3 Đối với các tổ chức đoàn thể: Đoàn thanh niên, hội sinh viên 29 2.1.2 Các hoạt động của trường nhằm phát huy dân chủ trong sinh viên đại học Sư phạm Kỹ thuật TP. HCM 29 2.2 Thực trạng sinh viện đại học sư phạm kỹ thuật thực hiện dân chủ hiện nay. 34 KẾT LUẬN TỪ THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ 40 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: - Dân chủ là một giá trị mang tính toàn cầu, chính vì thế mà hầu hết các quốc gia đều có từ “dân chủ” hay “cộng hòa” trong quốc hiệu. Tuy nhiên, cách thức thực hành mỗi nơi mỗi khác, tuỳ theo dân trí, văn hóa và thể chế chính trị của mỗi nước. Nhưng dù khác nhau thế nào cũng tuân theo nguyên tắc căn bản là phải có sự tham gia của dân chúng và dân chúng phải là người thụ hưởng thành quả từ sự tham gia của mình. - Trong nếp nghĩ của người Việt, hai cách diễn đạt sau đây về dân chủ thường được đa số đồng tình: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến, góp phần tìm ra chân lý”.Dân chủ là “dân biết, dân bàn, dân làm và dân kiểm tra”. Nhiều người đồng tình ủng hộ cụm từ “dân thụ hưởng thành quả”. Như vậy, theo họ, dân chủ nghĩa là mọi việc đều được “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và dân thụ hưởng thành quả”. - Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, về nhà nước của dân, do dân, vì dân có giá trị lí luận và thực tiễn to lớn, sâu sắc, định hướng cho việc xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ, nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Học tập và quán triệt tư tưởng này để xây dựng nhà nước ngang tầm nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới là hết sức cần thiết. - Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân đang tích cực thực hiện nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam để quân và dân xích lại gần nhau, trở thành một khối đại đoàn kết vững mạnh. Nhà nước đó được xây dựng trên nền tảng lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những điều kiện thực tế hiện nay của thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, thời kì mở cửa, hội nhập kinh tế. Thế nên trước những yêu cầu của thời kì đổi mới như hiện nay nghiên cứu vấn đề 1
- dân chủ và thực hiện dân chủ cơ sở trong sinh viên trường đại học sư phạm kỹ thuật Tp.HCM là cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài: Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại, kính yêu của dân tộc Việt Nam, là anh hùng giải phóng dân tộc và nhà văn hóa lớn của thế giới. Tại Đại hội đại biểu lần thứ VII, Đảng ta khẳng định: “Đảng lấy Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động”. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống lí luận bao gồm nhiều lĩnh vực rộng lớn và vô cùng phong phú cho nên việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh đang ngày càng trở thành yêu cầu bức thiết không chỉ đối với các ngành khoa học xã hội và nhân văn mà cả đối với sự nghiệp đổi mới của đất nước vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Ở nước ta trong 15 năm đổi mới vừa qua, thành tựu nghiên cứu những vấn đề lý luận về dân chủ và nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ được thể hiện ở những công trình của nhiều tác giả và các tập thể tác giả. Ví dụ: Những lực cản đối với quá trình dân chủ hóa ở Việt Nam – Báo Nhân Dân, số ra ngày 22/4/1998 của Hoàng Chí Bảo. - Dân chủ trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam, tạp chí TTLL số 7/1989 của Hoàng Chí Bảo. - Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nxb Sự thật, 1991 của Thái Ninh – Hoàng Chí Bảo. - Tổng quan về dân chủ và cơ chế thực hiện dân chủ: quan điểm, lý luận và phương pháp nghiên cứu, tạp chí TTLL số 9/1992 của Hoàng Chí Bảo. - Để thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, tạp chí Cộng sản số 2/1999 của Trần Quang - Dân chủ ở cơ sở là điểm mấu chốt để thực hiện quyền dân chủ. Tạp chí QLNN, số 1/1999 của Lê Minh Châu. 2
- - Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới: Sự hình thành và phát triển,Nxb CTQG, 1995 của Hoàng Văn Hảo. - Dân chủ - Di sản văn hóa Hồ Chí Minh, sự thật, 1997 của Nguyễn Khắc - Về dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tạp chí Lịch sử Đảng, số 6/1998 của Hoàng Trang. - Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân, CTQG 1988 của Nguyễn Đình Lộc. Ngoài ra, còn có rất nhiều bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí khoa học, các luận án phó tiến sĩ, thạc sĩ về tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh và vấn đề dân chủ, dân chủ hóa ở nước ta (xem danh mục tài liệu tham khảo ở phần sau). Các công trình nghiên cứu đó từ những hướng tiếp cận và phạm vi nghiên cứu khác nhau đã cố gắng làm rõ bản chất, nội dung, tính chất và cơ chế thực hiện dân chủ. Tuy nhiên, dân chủ ở cơ sở và vận dụng tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh vào việcxây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở vẫn đang còn là vấn đề mới mẻ, dường như chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống. Đề tài này là một cố gắng bước đầu của tác giả góp phần nghiên cứu bổ sung vào chỗ còn thiếu hụt đó. 3. Mục đích nghiên cứu của đề tài: - Làm rõ cơ sở lý luận thực tiễn những nội dung cơ bản tư tưởng hồ chí minh về dân chủ. Những quan điểm của đảng nhà nước, của Đảng ủy ban giám hiệu trường Đại học sư phạm kỹ thuật về thực hành dân chủ cơ sở hiện nay. Từ đó hướng tới xây dựng phát triển dân chủ rộng rãi trong sinh viên trường Đại học sư phạm kỹ thuật TP.HCM. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu: 3
- 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu: -Tư tưởng dân chủ cho nhân dân Việt Nam của Hồ Chí Minh qua lời chỉ dạy sâu sắc và những hành động thực tiễn mẫu mực của đề tài. Trong đó, sinh viên trường đại học sư phạm kỹ thuật TP. HCM là đối tượng ngiên cứu cụ thể của đề tài này. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: - Đề tài tập trung đi nghiên cứu tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh chứ không nghiên cứu toàn bộ tư tưởng của Người. - Nghiên cứu tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh từ đó hướng đến việc vận dụng , phát huy dân chủ trong trường đại học sư phạm kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu: 5.1. Cơ sở lý luận: - Triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. - Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về dân chủ. - Tư tưởng của Hồ Chí Minh về dân chủ. 5.2/Phƣơng pháp nghiên cứu: - Đề tài này chọn phương pháp chung là phương pháp luận của triết học Mac-Lênin. - Đồng thời đề tài sử dụng phương pháp cụ thể như: phân tích và tổng hợp, so sánh, logic – lịch sử, quy nạp và diễn dịch, điều tra, thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, phương pháp chuyên gia, 6. Đóng góp mới của đề tài: - Nghiên cứu tư tưởng về dân chủ của Hồ Chí Minh một cách có hệ thống, góp phần vào công tác tuyên truyền, lý luận trong giai đoạn hiện nay. - Đề tài chỉ ra khái niệm dân chủ, các quan niệm dân chủ trong lịch sử, thực trạng dân chủ Từ đó đề xuất ra biện pháp tách động tích cực nhằm 4
- nâng cao nhận thức và ý thức dân chủ cho sinh viên trường đại học sư phạm kỹ thuật TP.HCM. - Ngoài ra đề tài còn là nguồn tài liệu tham khảo cho những người quan tâm nghiên cứu, vân dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong giai đoạn hiện nay. 5
- CHƢƠNG I CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ 1.1 Cơ sở hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về dân chủ 1.1.1 Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong các tác phẩm của Người thường là những tư tưởng khi Người bàn về vấn đề nhà nước và nhất là nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó cũng là những vấn đề được Hồ Chí Minh đặt ra và trả lời một cách ngắn gọn, xúc tích và dễ hiểu nhất quan điểm của Người khái niệm dân chủ và vấn đề dân chủ. Đó là những vấn đề thường được Người nêu ra những câu hỏi và cũng tự mình trả lời dưới các hình thức khác nhau trong quan hệ với vấn đề nhà nước. Ví dụ như: “Dân chủ là như thế nào?” và Người lại tự trả lời: “Là dân làm chủ” Do đó, Hồ Chí Minh thường nói: “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do dân làm chủ”, chế độ ta là chế độ dân chủ. Theo nghĩa chung nhất, tức là nhân dân làm chủ Người còn nói : “Nước ta là nước dân chủ , địa vị cao nhất là dân, vì dân làm chủ”. Quan niệm về dân chủ được diễn đạt qua hai mệnh đề: “Dân là chủ” và “Dân làm chủ”. Dân là chủ: nói đến vị thế của dân. Dân làm chủ: đề cập đến năng lực và trách nhiệm của dân. Cả hai đi đôi với nhau, thể hiện vị trí, vai trò, quyền và trách nhiệm của dân. Người nói :“Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nhà nước do nhân dân làm chủ”; “Chế độ ta là chế độ dân chủ. Tức là nhân dân làm chủ”;“Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”. Phản ánh đúng nội dung bản chất về dân chủ. Quyền hành và lực lượng đều thuộc về nhân dân. Xã hội đảm bảo điều đó được thực thi thì đó là một xã hội thực sự dân chủ. 1.1.2 Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ 6
- Quan niệm dân chủ của Hồ Chí Minh đã phản ánh nội dung căn bản nhất về khái niệm dân chủ - Demoskratos – quyền lực thuộc về nhân dân và cụ thể hơn là quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Theo đó, trong khái niệm dân chủ, Hồ Chí Minh nhấn mạnh vấn đề nhà nước, để khẳng định nội dung chính trị của dân chủ. Về vấn đề này, C.Mác cũng đã nói: “Trong chế độ dân chủ thì bản thân chế độ nhà nước hiện ra là một trong những quy định, cụ thể là sự tự quy định của nhân dân và nó “ngày càng hướng tới cơ sở hiện thực của nó , tới con người hiện thực , tới nhân dân hiện thực và được xác định là sự nghiệp của bản thân nhân dân” . Xét theo phương diện chính trị, thì Lênin cũng cho rằng nội dung của khi niệm dân chủ: “dân chủ là một phạm trù th uộc lĩnh vực chính trị” Tuy nhiên, Lênin cũng giải thích thêm: “Nhưng mặt khác, chế độ dân chủ có nghĩa là chính thức thừa nhận cho mọi người được thừa nhận quyền bình đẳng giữa những người công dân, thừa nhận cho mọi người được quyền ngang nhau trong việc xác định cơ cấu nhà nước và quản lý nhà nước” Như vậy, Hồ Chí Minh cho thấy rằng sự thể hiện rất cụ thể nội dung chính trị khi xem dân chủ là một hình thứ c nhà nước , một thiết chế xa ̃ hội và quyền lực thuộc về nhân dân. Trong đó, bản chất của chế độ dân chủ XHCN là phục vụ con người phục vụ xã hội trên tinh thần của chủ nghĩa Mác – Lênin. Vì, theo Mác và Angghen thì: “Chế độ dân chủ xuất phát từ con người và biến nhà nước thành con người được khách thể hóa không phải nhà nước tạo ra nhân dân mà nhân dân tạo ra chế độ nhà nước”, phù hợp với ý chí, hành động và lợi ích của quần chúng nhân, của nhân dân. Đó không có gì khác là nhà nước do dân và vì dân. Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh không chỉ giới hạn về vấn đề nhà nước, mặc dù thông qua nhà nước đã chỉ rõ quyền làm chủ của nhân dân về việc thiết lập hệ thống chính chính trị để “bầu ra đại biểu thay mặt cho mình thi hành chính quyền” , “cử ra” chính quyền các cấp và “tạo ra” các đoàn thể, v,v mà còn cho chúng ta thấy vấn đề nhà nước là cả hệ thống 7
- chính trị, nhà nước chỉ là một bộ phận của dân chủ. Bởi, Hồ Chí Minh xem chế độ nhà nước kể cả nhà nước kiểu mới (Nhà nước vô sản ), cũng chỉ là một yếu tố tồn tại của xã hội, hoặc là một hình thức tồn tại đặc biệt của nhân dân nhưng không bao trùm lên tất cả các lĩnh vực của đời sống xa ̃ hội. Theo ý nghĩa trên đây về vấn đề dân chủ, Hồ Chí Minh cho rằng quyền lực của nhân dân trong việc “bầu ra”, “cử ra”, “tạo ra”, những hình thức tồn tại của nhân dân về nhà nước – thiết chế xã hội là một nhu cầu tất yếu. Nhưng vấn đề quan trọng hơn, quyền tự quản của nhân dân trong việc hoàn thiện nhà nước, thì đồng thời phải dẫn đến sự hoàn thiện dân chủ trong mọi quan hệ xã hội, mặc dù nó là một bộ phận của đời sống xã hội. Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh, một vấn đề mang tính độc đáo , riêng biệt nếu có thể nói như vậy là vấn đề đạo lý làm người , khi Người cho rằng dân chủ là giá trị của nhân loại , là sản phẩm của nền văn minh , là kết quả tất yếu của quá trình đầu tranh tự giải phóng con người và giải phóng xã hội. Và hơn nữa, sự hình thành và phát triển dân chủ là một quá trình tự thân , từ thấp đến cao trong lịch sử xã hội . Chính vì vậy , Hồ Chí Minh đa ̃ từng nêu lên một khái niệm là lý tưởng dân chủ như là tiêu chí của sự phát triển xã hội. Trong đó, một nguyên tắc, một công thức , một chìa khoá đảm bảo cho nhân loại thiết lập một nền hòa bình thế giới dựa trên nền tảng dân chủ và bình đẳng giữa các dân tộc . Đó là: “Hòa bình – một nền hòa bình chân chính xây dựng trên công bằng và lý tưởng dân chủ phải thay cho chiến tranh, rằng tự do, bình đẳng, bác ái phải thực hiện trên khắp các nước không phân biệt chủng tộc, màu da”. Trên cơ sở đó, Người thường xem xét sự phát triển dân chủ đặt trong quan hệ so sánh giữa chế độ về dân chủ cũ. Khái niệm Dân chủ cũ lần đầu tiên xuất hiện trong sách Thường thức chính trị của Hồ Chí Minh viết năm 1953 và xuất bản năm 1954. Người viết: “Thời đại mới khiến cách mạng Việt Nam phải là cách mạng dân chủ mới (tức cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân hiện nay ) cách mạng Việt Nam phải là cách mạng dân chủ mới chứ không phải là dân 8
- chủ cũ”. Khái niệm “Dân chủ mới” xuất hiện 74 lần trong bộ Hồ Chí Minh Toàn tập (xuất bản lần thứ hai). Lần đầu tiên cụm từ dân chủ mới xuất hiện trong bài Cách tổ chức các ủy ban nhân dân (11-9-1945). Trong sách “Thường thức chính trị”, Hồ Chí Minh đa ̃ đăng trong mục 48 nói về Dân chủ mới. Người đa ̃ nêu lên 5 đặc điểm về chính trị , kinh tế, tư tưởng, sự lãnh đạo của Đảng và quyết tâm c ủa nhân dân với nền “dân chủ mới”. Người cho rằng, bước chuyển từ dân chủ cũ sang dân chủ mới là kết quả của cuộc đấu tranh liên tục của nhân dân toàn thế giới cho lý tưởng dân chủ, cho sự tự do, bình đẳng giữa các dân tộc và giữa con người với con người. Nghiên cứu tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh và nhất là vấn đề dân chủ mới của Người trên cơ sở xem xét bản chất của dân chủ phải coi dân chủ là một phạm trù chính trị theo ba nguyên tắc phương pháp luận mà Lênin đa ̃ chỉ ra trong việc giải quyết mối quan hệ giữa chính trị – kinh tế, với quan hệ giai cấp và sự tham gia của nhân dân vào sự hoạt động của nhà nước. Trong đó, mối quan hệ với kinh tế thì chính trị là sự biểu hiện tập trung nhất của kinh tế. Điều này, không chỉ phản ánh vai trò của cơ sở kinh tế với nhà nước là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, mà còn nói lên tính chất, trình độ về sự hoàn thiện của nhà nước với tính cách là nền dân chủ sẽ tương ứng với tính chất và trình độ của một nền kinh tế xã hội nhất định. Theo nghĩa đó, trong xã hội có giai cấp, thì khái niệm chính trị phản ánh về quyền lực nhà nước giữa các giai cấp khác nhau, chứ không đồng nhất với quyền lực xã hội. Mặc dầu, tính chất và trình độ dân chủ được đặt ra trong quan hệ trực tiếp với chính trị, phản ánh mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất thống trị với tư tưởng xã hội, thiết chế xã hội tương ứng. Nhưng vấn đề cốt lõi, khi xem xét thước đo trình độ dân chủ của một chế độ xã hội, nhất là xã hội hiện đại là sự tham gia của nhân dân vào công việc của nhà nước và xã hội. Đặc biệt, trong nền dân chủ mới – dân chủ xã hội chủ nghĩa. 9
- Hồ Chí Minh, coi bản chất của nền dân chủ mới phải thể hiện được tính nhân dân của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thông qua phương thức tổ chức hệ thống chính trị - đó là xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân. Trong đó, nhân dân với vai trò là người chủ, người làm chủ. Theo nghĩa đó, một vấn đề lý luận và thực tiễn cần phải làm rõ về các khái niệm: Nhân dân là ai? Họ là những bộ phận của xã hội và thực chất vai trò của họ trong xã hội được thể hiện trong xã hội như thế nào? 1.1.2 Khái niệm dân chủ Dân chủ là bản chất của Nhà nước ta. Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa nói chung, của công cuộc đổi mới hiện nay nói riêng. Quyền làm chủ của người dân được thực hiện qua hai hình thức cơ bản là dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Thông qua đó, người dân tham gia vào việc xây dựng và quản lí nhà nước, nhất làviệc kiểm tra của người dân đối với hoạt động của cơ quan và cán bộ, công chức nhà nước. Dân chủ XHCN là dân chủ với nhân dân, là bảo đảm phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực, bảo đảm phát huy những quyền tự do, quyền con người, quyền công dân. Dân chủ phải đi đôi với kỉ cương, nề nếp xã hội. 1.1.3 Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân, là cơ sở đảm bảo các quyền cơ bản của nhân dân lao động. Quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ được biểu đạt qua hai mệnh đề ngắn gọn: “Dân là chủ” và “Dân làm chủ”. Dân là chủ, nghĩa là đề cập đến vị thế của dân; còn dân làm chủ, nghĩa là đề cập đến năng lực và trách nhiệm của dân – Thể hiện vị trí, vai trò, quyền và trách nhiệm của dân. Quan niệm đó của Hồ Chí Minh phản ánh đúng nội dung bản chất của dân 10
- chủ. Quyền hành và lực lượng đều thuộc về nhân dân. Xã hội nào bảo đảm cho điều đó được thực thi thì đó là một xã hội thực sự dân chủ. 1.2 Tƣ tƣởng dân chủ trong các thời kỳ lịch sử Truyền thống “thân dân”, “lấy dân làm gốc” là một tư tưởng tiến bộ đã có từ hơn 2500 năm trước đây trong tư tưởng Nho giáo. “Lấy dân làm gốc” cũng là một bài học chính trị và lời dặn dò quí báu của ông cha ta thể hiện ở các triều đại tiến bộ trong lịch sử dựng nước và giữ nước mấy nghìn năm của dân tộc, được biểu hiện trong tư tưởng và hành động của nhiều vị vua anh minh thời Lý, Trần, Lê, của nhiều nhà tư tưởng như Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, v.v .Đến chủ tịch Hồ Chí Minh, quan điểm nhân dân là người chủ đất nước của Người là tiếp thu từ truyền thống dân tộc và từ tư tưởng dân chủ tư sản Pháp từ rất sớm. Có thể nói rằng tư tưởng “nước lấy dân làm gốc” là tư tưởng thể hiện những giá trị triết học và nhân văn sâu sắc và nhất quán trong toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng của Người. Quan điểm đó còn biểu hiện sự thấm nhuần quan điểm triết học Mác – Lênin về vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân lao động, biểu hiện ở quan điểm nhân văn cao cả của Bác, luôn chăm lo xây dựng, bồi dưỡng giáo dục và phát triển nhân tố con người. Đó chính là sự kế thừa và phát triển những giá trị tư tưởng Triết học phương đông, Việt Nam và thế giới trong thời đại mới. Tư tưởng “Lấy dân làm gốc” không chỉ đã trở thành nội dung, mục tiêu chủ yếu mà còn là cơ sở, là căn cứ để hình thành và triển khai đường lối cai trị, quản lý xã hội của các triều đại phong kiến Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Ngày nay, việc phát huy tinh thần “lấy dân làm gốc” đã trở thành bài học quý giá cho Đảng và nhà nước ta trong quá trình lãnh đạo nhân dân thực hiện những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, xây dựng bảo vệ Tổ quốc. 11
- Đảng ta ngay từ khi mới thành lập, xuất phát từ lợi ích của dân đã gắn bó chặt chẽ với dân. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã thật sự được nhân dân yêu mến, tin cậy và ủng hộ. Sự nghiệp đổi mới xã hội hiện nay của chúng ta do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, là công việc to lớn, lâu dài, không ít khó khăn gian khổ, nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp ấy đòi hỏi hơn bao giờ hết, phải phát huy cao nhất sự kiến tạo cách mạng của quần chúng nhân dân lao động. Chân lý “lấy dân làm gốc” tưởng như đơn giản, nhưng trên thực tế tổ chức thực tiễn cách mạng vẫn chưa phát huy được hết sức mạnh to lớn của quần chúng nhân dân lao động. Do đó, việc quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc” của Đảng vừa là mục đích, vừa là động lực để chúng ta nhanh chóng đạt tới thắng lợi các mục tiêu đổi mới xã hội. Từ việc thấm nhuần tư tưởng “lấy dân làm gốc” của Bác Hồ, của Đảng cộng sản Việt Nam mà chúng ta có những giải pháp hiện thực hóa nó bằng thực tiễn cách mạng. Nhận thức về vai trò, sức mạnh của dân chúng đối với sự tồn vong, phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc và định ra những đường lối chính trị, chính sách xã hội tiến bộ theo hướng thân dân là một quá trình lâu dài trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Quá trình này đi từ sự kế thừa các nhân tố dân chủ mầm mống trong xã hội cổ đại, tới sự tiếp thu ảnh hưởng tư tưởng thân dân trong nho giáo tới sự nhận thức và tầm cao lý luận làm nên một truyền thống lý luận chính trị tiến bộ trong lịch sử tư tưởng dân tộc. Điển hình của truyền thống đó là các nhà tư tưởng: Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và Hồ Chí Minh (linh hồn của Đảng cộng sản Việt Nam). * Tƣ tƣởng lấy dân làm gốc của Trần Quốc Tuấn Trần Quốc Tuấn cho rằng: việc khoan thư sức dân, tranh thủ sự đồng lòng của dân là kế sâu rễ bền gốc, phương châm chiến lược lâu dài để phát triển quốc gia độc lập. Ông coi trọng sức mạnh của nhân dân, dựa vào dân 12
- để đánh giặc giữ nước, đây là một tư tưởng hết sức tiến bộ mà ở thời đại đó rất ít người có thể nhận ra vì các triều đại phong kiến xưa kia chỉ coi dân là “thảo dân” mà thôi. * Tƣ tƣởng thân dân của Nguyễn Trãi Tới Nguyễn Trãi, tư tưởng than dân phát triển hơn và đạt tới đỉnh cao. Là một nhà nho ông hiểu rõ tư tưởng của Mạnh Tử: Dân vi bản, quân vi khinh, xã tắc thứ chi. Khi đất nước bị xâm lược ông chỉ đau đáu một điều làm sao để cứu dân cứu nước, bình ngô sách của ông được xây dựng trên cơ sở của tư tưởng thân dân, theo ông cứu nước phải cứu dân, việc nhân nghĩa cốt ở yên dân. Khi đất nước được thái bình thịnh trị thì mọi việc ông làm nhằm mục đích đền ơn dân, làm cho dân giàu, nước mạnh. Đây là tư tưởng tiến bộ mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Nó phản ánh sự phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam khi lợi ích của giai cấp thống nhất trị còn gắn với lợi ích quốc gia dân tộc và không đối kháng gay gắt với lợi ích của dân chúng. Tuy nhiên tư tưởng này vẫn bị hạn chế bởi thế giới quan của giai cấp địa chủ phong kiến, người dân lao động chưa được nhìn nhận đánh giá đầy đủ, họ chỉ được xem như thứ dân, dân đen, là bậc tiểu nhân. Tư tưởng dân chủ của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh Đến đầu thế kỷ XX, các nhà nho duy tân đã kế thừa những quan điểm về dân của các bậc tiền bối trong lịch sử và phát triển tư tưởng về dân lên một bước mới. Đó là một bước ngoặt phát triển thật sự của tư tưởng chính trị. Nhận thức được vai trò của quần chúng nhân dân, các nhà nho yêu nước thời kỳ này đã chú trọng đến vai trò của văn hoá tư tưởng, đến công cuộc đổi mới tư duy cho nhân dân, xây dựng con người mới. Tiêu biểu cho quan niệm tiến bộ về dân trong giai đoạn này là hai nhà chí sĩ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh. + Phan Bội Châu đề cao vai trò làm chủ đất nước của nhân dân. Và để nhân dân phát huy được quyền làm chủ của mình, nắm giữ được vận mệnh của đất nước thì theo ông phải dựng con người, xây dựng tư tưởng mới cho 13
- nhân dân. Biện pháp hiệu quả theo Phan Bội Châu là “tự tân”. Quan niệm về dân đồng nhất với quốc dân thể hiện sự chuyển biến tích cực mới mẻ trong tư tưởng của Phan Bội Châu, từ quân chủ sang dân chủ, từ quân quyền sang dân quyền, từ tôn quân sang tôn dân. Đây chính là bước chuyển trung gian từ quan niệm “thần dân” sang quan niệm “nhân dân” sau này. + Phan Châu Trinh cũng với tư tưởng đề cao vai trò của quần chúng nhân dân, để có thể giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc, nhưng đối lập với biện pháp “tự tân” của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh cho rằng để chấn hưng dân tộc phải dựa trên những thành tựu văn minh của Pháp để tranh thủ thực hiện canh tân. Đặc biệt là để đất nước ta trở thành một nước tiến bộ thì phải dựa vào sức mạnh của nhân dân. Tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh là một sự tiếp nối hợp qui luật những tư tưởng canh tân đất nước của các nhà cải cách trước đó. Ông đã đi từ chủ nghĩa yêu nước cũ trong xã hội phong kiến, đến chủ nghĩa yêu nước mới dưới ngọn cờ dân chủ tư sản phương Tây qua tân văn, tân thư. Đánh dấu bước chuyển trong tư tưởng phong kiến sang tư tưởng dân chủ tư sản. Lịch sử đã chỉ rõ những cuộc chiến tranh yêu nước thắng lợi đều là những cuộc chiến tranh nhân dân, phát huy được sức mạnh tinh thần và vật chất tiềm tàng của toàn dân. Chúng ta càng thấy sâu sắc hơn chân lý ấy trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng thân dân trong lịch sử tư tưởng Việt Nam đến đầu thế kỷ XX. Có thể thấy, việc nhận thức về vai trò, sức mạnh của dân chúng đối với sự tồn vong, phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc và định ra những đường lối chính trị, chính sách xã hội tiến bộ theo hướng than dân là một quá trình lâu dài trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Quá trình này đi từ sự kế thừa các nhân tố dân chủ mầm mống trong xã hội cổ đại, kết hợp với tư tưởng thân dân trong nho giáo tới sự ý thức và tầm cao lý luận làm nên một truyền thống lý luận chính trị tiến bộ trong lịch sử tư tưởng dân tộc. Điển hình của truyền thống đó là các nhà tư tưởng như: 14
- Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và Hồ Chí Minh. 1.3 Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về dân chủ - Đảng ta coi việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa không chỉ là một trong những nội dung thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa mà còn là quy luật hình thành, phát triển và tự hoàn thiện của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển công cuộc đổi mới của xã hội ta, khâu quan trọng cấp bách hiện nay là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở. - Để việc phát huy sâu rộng quyền làm chủ của nhân dân, ngày 18-2-1998, bộ chính trị đã ra chỉ thị số 30-CT/TW về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Việc ban hành chỉ thị 30-CT/TW của bộ chính trị và liền sau đó là các nghị quyết, nghị định của quốc hội và chính phủ về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đã chứng tỏ Đảng và nhà nước ta rất quan tâm và quan tâm kịp thời đến vấn đề phát huy dân chủ ở cơ sở. Chỉ trong một thời gian ngắn, quy chế dân chủ ở cơ sở đã tạo ra không khí cởi mở, dân chủ ở khắp các đơn vị, địa phương. Có thể nói, vấn đề đẩy mạnh phát huy dân chủ ở cơ sở, nhất là đẩy mạnh tổ chức thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, là xuất phát từ nhu cầu tất yếu khách quan của thực tiễn xã hội. Bởi vậy, nó hoàn toàn phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của nhân dân và với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, nó cũng xuất phát từ nhu cầu đổi mới của Đảng, đó là sự đổi mới về đường lối, quan điểm cho phù hợp với bước phát triển mới của thực tiễn xã hội và để định hướng cho những bước phát triển tiếp theo. Quan điểm của Đảng và nhà nước ta về dân chủ : - Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, Đảng ta luôn xác định rõ phát huy dân chủ trong xã hội là một nội dung lớn của đường lối cách mạng nhằm phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, khẳng định : 15
- + Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của đổi mới. Xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh, do nhân dân lao động làm chủ. + Dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn liền với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. - Như vậy, dân chủ xã hội chủ nghĩa nằm trong hệ thống mục tiêu của đổi mới, thể hiện bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Để đi lên chủ nghĩa xã hội, cùng với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nhất thiết phải xây dựng thành công nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân được Đảng ta tổng kết là một trong năm bài học lớn của đổi mới. Đảng ta nhận thức rằng, dân chủ xã hội chủ nghĩa thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, nhà nước và nhân dân. Phấn đấu cho quyền làm chủ thật sự của nhân dân được thực hiện, nhân dân là chủ thể của quyền lực, mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân, nhà nước là người nhận quyền lực xã hội do nhân dân ủy giao phó để tổ chức và thực hiện đường lối chính trị của Đảng, hành động vì quyền lợi của nhân dân, làm điều lợi, tránh điều hại cho dân, chăm lo phát triển sức dân, bồi dưỡng và tiết kiệm sức dân theo lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhân dân là người chủ xã hội, cho nên nhân dân không chỉ có quyền, mà còn có trách nhiệm tham gia hoạch định, thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Nói như chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân có quyền làm chủ thì đồng thời cũng có nghĩa vụ của người chủ. Một nền dân chủ chân chính, tiến bộ và hiện đại bao giờ cũng gắn liền quyền với nghĩa vụ, lợi ích với trách nhiệm. Đó là quan hệ mật thiết không 16
- thể tách rời, nó thấm nhuần trong các quan hệ giữa công dân với nhà nước, cá nhân với xã hội, thành viên với cộng đồng. Tất cả được luật pháp điều chỉnh, điều tiết, chi phối để dân chủ không biến dạng thành các hành vi phản dân chủ. Pháp luật, như đã nói, là công cụ đầy hiệu lực của quản lý, bảo đảm cho quyền lực của nhân dân được thực hiện, thông qua sức mạnh của nhà nước. Pháp luật không tách rời dân chủ, cũng như không có dân chủ nào ở bên ngoài pháp luật. Đó là một chỉnh thể toàn vẹn. Sự vận động và phát triển lành mạnh của dân chủ đòi hỏi sự hiện diện của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong đó, pháp luật là giới hạn, là hành lang vận động của dân chủ. Mọi tổ chức trong xã hội, mọi công dân và công chức phải hoạt động theo đúng chuẩn mực luật pháp, hợp hiến và hợp pháp. Sự kiểm soát, điều tiết hành vi của mỗi cá nhân cũng như hoạt động của từng tổ chức không chỉ có sự tác động của luật pháp, mà còn được định hướng bởi đạo đức. Điều đó làm nổi bật đặc trưng pháp lý và nhân văn của dân chủ xã hội chủ nghĩa. Bằng cách đó, đạt được mục tiêu dân chủ sẽ dẫn tới sự phát triển tích cực, lành mạnh của cá nhân và xã hội. Trong các thể chế dân chủ của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa dân chủ với tập trung trong nguyên tắc (hay chế độ) tập trung dân chủ của hoạt động chính trị và quan hệ giữa dân chủ với đoàn kết, đồng thuận và hợp tác của cộng đồng xã hội, trong đời sống xã hội là những mối quan hệ nổi bật. Giải quyết đúng các mối quan hệ này sẽ chẳng những làm cho dân chủ thật sự là mục tiêu, mà còn là động lực phát triển. Đó là sự thống nhất và tác động lẫn nhau giữa mục tiêu và động lực của dân chủ. Trong mối quan hệ giữa tập trung và dân chủ trong tổ chức và hoạt động của các tổ chức chính trị, dân chủ cần có tập trung như một bảo đảm tất yếu, không thể thiếu. Như vậy, tập trung không đối lập với dân chủ mà chỉ đối lập với tự do vô chính phủ, tính phân tán, cát cứ, cục bộ địa phương và thói phường hội. Dân chủ không đối lập với tập trung, mà chỉ đối lập với quan liêu, chuyên chế, độc 17
- S K L 0 0 2 1 5 4