Báo cáo của các Đoàn Khảo sát Thực địa thuộc Viện Hàn lâm Quốc gia Hoa Kỳ Đệ trình cho Quỹ Giáo dục Việt Nam

pdf 130 trang phuongnguyen 4170
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo của các Đoàn Khảo sát Thực địa thuộc Viện Hàn lâm Quốc gia Hoa Kỳ Đệ trình cho Quỹ Giáo dục Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbao_cao_cua_cac_doan_khao_sat_thuc_dia_thuoc_vien_han_lam_qu.pdf

Nội dung text: Báo cáo của các Đoàn Khảo sát Thực địa thuộc Viện Hàn lâm Quốc gia Hoa Kỳ Đệ trình cho Quỹ Giáo dục Việt Nam

  1. NHỮNG QUAN SÁT VỀ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC trong các Ngành Công nghệ Thông tin, Kỹ thuật Điện-Điện tử-Viễn thông và Vật lý tại một số Trường Đại học Việt Nam Báo cáo của các Đoàn Khảo sát Thực địa thuộc Viện Hàn lâm Quốc gia Hoa Kỳ Đệ trình cho Quỹ Giáo dục Việt Nam 08 - 2006
  2. CÁC TÁC GIẢ TS. Stephen W. Director Phó Hiệu trưởng kiêm Trưởng Phòng Đào tạo Trường Đại học Drexel TS. Philip Doughty Phó Giáo sư Trưởng Bộ môn Phát triển và Đánh giá Thiết kế Giảng dạy Phân hiệu Giáo dục Trường Đại học Syracuse TS. Peter J. Gray Giám đốc Đánh giá Đào tạo Trung tâm Bồi dưỡng Giảng viên Học viện Hải quân Hoa Kỳ TS. John E. Hopcroft Giáo sư Khoa Công nghệ Thông tin Trường Đại học Cornell TS. Isaac F. Silvera Giáo sư Danh hiệu Thomas Dudley Cabot về Khoa học Tự nhiên Phòng Thí nghiệm Vật lý Lyman Trường Đại học Harvard
  3. MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN iv DANH MỤC VIẾT TẮT v TÓM TẮT 1 TỔNG QUAN 6 BỐ CỤC CỦA BÁO CÁO 8 I. CÁC VẤN ĐỀ VÀ CƠ HỘI THAY ĐỔI 9 Việc giảng dạy và học tập ở bậc đại học 10 Chương trình đào tạo và các môn học ở bậc đại học 13 Giảng viên 15 Giáo dục và nghiên cứu của bậc học sau đại học 18 Đánh giá kết quả học tập của sinh viên và hiệu quả của trường 20 Các cơ hội để thay đổi ở cấp quốc gia 24 II. CÁC QUAN SÁT CỦA NGÀNH HỌC CỤ THỂ 25 Công nghệ thông tin 25 Kỹ thuật điện-điện tử-viễn thông 26 Vật lý 27 III. CÁC TÌNH HUỐNG ĐỂ THAY ĐỔI 27 Quản lý sự thay đổi trong cải cách giáo dục đại học 28 Tình huống và dự án thí điểm 30 Cấp quốc gia 30 Trường đại học quốc gia Việt Nam 31 Cấp trường 31 Cấp chương trình đào tạo 32 IV. KẾT LUẬN 34 TÀI LIỆU THAM KHẢO 36 CÁC THÔNG TIN HỮU ÍCH 38 PHỤ LỤC 39 Phụ lục 1. Danh sách các chuyên gia Hoa Kỳ 39 Phụ lục 2. Mô tả dự án 40 Phụ lục 3. Lịch họp của đoàn Dự án giáo dục đại học 43 Phụ lục 4. Danh sách thành viên tham gia và cộng tác viên 53 Phụ lục 5. Phỏng vấn tiền khảo sát thực địa: Câu hỏi dành cho nhà quản lý 60 Phụ lục 6. Phỏng vấn tiền khảo sát thực địa: Câu hỏi dành cho giảng viên 66 Phụ lục 7. Phỏng vấn tiền khảo sát thực địa: Câu hỏi dành cho sinh viên 70 Phụ lục 8. Tóm tắt dữ liệu tiền khảo sát thực địa 74 Phụ lục 9. Nghi thức phỏng vấn tại các trường 105 Phụ lục 10. Câu hỏi phỏng vấn dành cho nhà tuyển dụng 107 Phụ lục 11. Các buổi tọa đàm tại Thành phố Hồ Chí Minh 108 Phụ lục 12. Các buổi tọa đàm tại Hà Nội 110 Phụ lục 13. Các khuyến nghị cho Đoàn Chương trình Tiên tiến Việt Nam đi khảo sát thực địa các chương trình ưu việt ở Hoa Kỳ 112 Phụ lục 14. ABET: Các tiêu chuẩn và quy trình kiểm định 117 iii
  4. LỜI CẢM ƠN Báo cáo này được thực hiện bởi một nhóm chuyên gia với tư cách là những thành viên của đoàn khảo sát thực địa do Viện Hàn lâm Quốc gia Hoa Kỳ tổ chức với sự trợ giúp của TS. Nguyễn Thị Thanh Phượng – Tư vấn Dự án của Quỹ Giáo dục Việt Nam (VEF) và TS. Lynne A. McNamara – Quyền Giám đốc Điều hành của VEF. TS. Thanh Phượng đã tiến hành nhiều cuộc phỏng vấn và tóm tắt các dữ liệu tiền khảo sát thực địa, thu âm và diễn giải các thông tin trả lời phỏng vấn, đồng thời tổ chức mọi công việc trong suốt giai đoạn này của dự án, bao gồm sắp xếp các cuộc phỏng vấn, các cuộc họp, và các cuộc khảo sát thực địa của hai đoàn giáo sư Hoa Kỳ. TS. McNamara đã liên tục theo dõi và chỉ dẫn trong suốt quá trình thực hiện dự án, chỉnh sửa, và biên tập những bản thảo sơ khởi cũng như bản báo cáo cuối cùng. Trong suốt thời gian đi thực địa, TS. McNamara chủ trì các cuộc thảo luận mà chính nơi đây các chuyên gia đã đưa ra những nhận định và khuyến nghị của mình. Trên cơ sở các cuộc họp và ghi chép chi tiết, các đoạn thu âm, dàn ý, và các cuộc thảo luận nhóm, TS. Phượng, thay mặt các chuyên gia Hoa Kỳ, biên soạn và tổng hợp bản báo cáo cuối cùng cho Viện Hàn lâm Quốc gia Hoa Kỳ. Xin chân thành cảm ơn tất cả các chuyên gia Hoa Kỳ về những đóng góp của họ, đặc biệt là TS. Peter Gray – người đã có rất nhiều đóng góp cho công việc soạn thảo và hiệu đính vào những lúc cần thiết, và TS. Gloria Rogers – người đã cung cấp những nhận định và tài liệu của tổ chức ABET để đưa vào trong phần phụ lục của báo cáo này. Chúng tôi xin cảm ơn các nhân viên của Viện Hàn lâm Quốc gia Hoa Kỳ cũng như các nhân viên của VEF tại Việt Nam và Hoa Kỳ đã giúp đỡ cho dự án thành công tốt đẹp. Ngoài ra, chúng tôi cũng xin trân trọng cảm ơn sự hợp tác của Phòng Văn hoá-Thông tin, Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội đã cho phép chúng tôi in biểu trưng của hai nước Hoa Kỳ - Việt Nam trên trang bìa của báo cáo này. Chúng tôi đặc biệt biết ơn bốn trường đại học Việt Nam và tất cả những người tham gia dự án, đã nhiệt tình và cởi mở chia sẻ những kinh nghiệm và ý kiến của mình nhằm đóng góp cho sự phát triển giáo dục đại học ở Việt Nam. Và hơn hết, chúng tôi xin chân thành cảm ơn các đơn vị đồng tài trợ cho dự án: Bộ Giáo dục và Đào tạo (MOET), Trường Đại học Khoa học Xã Hội và Nhân văn (USSH) thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (VNU – HCM), Trung tâm Đào tạo Khu vực của Tổ chức các Bộ trưởng Giáo dục Đông Nam Á tại Việt Nam (SEAMEO RETRAC), và Viện Nghiên cứu Giáo dục thuộc Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh (IER-HCMC). Chúng tôi khuyến khích những ai nhận được bản báo cáo này chia sẻ rộng rãi với những người khác với hy vọng rằng những nhận định được trình bày trong báo cáo này sẽ thúc đẩy hơn nữa sự phát triển giáo dục đại học ở Việt Nam. Washington, D.C., ngày 25 tháng 8 năm 2006 TS. H. Ray Gamble Giám đốc Các Chương trình Học bổng Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia Viện Hàn lâm Quốc gia Hoa Kỳ iv
  5. DANH MỤC VIẾT TẮT ABET ABET, Inc. (formerly known as Accreditation Board for Engineering and Technology) (Tổ chức ABET [trước đây có tên gọi là Ban Kiểm định Kỹ thuật và Công nghệ]) ADSL Asymmetric Digital Subscriber Line (Đường truyền thuê bao số bất đối xứng) AUN ASEAN University Network (Mạng lưới các trường đại học Đông Nam Á) CCD Charge coupled device (Thiết bị cảm biến hình ảnh CCD) CHEA Council for Higher Education Accreditation (Hội đồng Kiểm định Đại học) CHERA Centre for Higher Education Research and Accreditation (Trung tâm Nghiên cứu và Kiểm định Đại học) CP Chính phủ CS Computer Science (Khoa học máy tính/ Công nghệ thông tin) Dr. Sc. Doctor of Science (Tiến sĩ khoa học) EC2000 Engineering Criteria 2000 (Các Tiêu chí Kỹ thuật 2000) EE Electrical Engineering (Kỹ thuật điện-điện tử-viễn thông) ESL English as a Second Language (Tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai) E & T Electrical and Telecommunications (Điện và viễn thông) GOATs Goals, objectives, activities, and tasks (Các mục đích, mục tiêu, hoạt động, và công tác cụ thể) GPA Grade point average (Điểm học tập trung bình) GS General subjects (Các môn đại cương) HCMUNS Ho Chi Minh City University of Natural Sciences (Trường Đại học Khoa học Tự nhiên Thành phố Hồ Chí Minh) HCMUT Ho Chi Minh City University of Technology (Trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh) HUS Hanoi University of Science (Trường Đại học Khoa học Tự nhiên Hà Nội) HUT Hanoi University of Technology (Trường Đại học Bách khoa Hà Nội) IAES International Academy of Electrotechnical Science (Viện Hàn lâm Khoa học Kỹ thuật Điện Quốc tế) ID Instructional development (Phát triển về cách thức giảng dạy) IELTS International English Language Testing System (Hệ thống trắc nghiệm Anh ngữ quốc tế) IEM Institute for Educational Management (Viện Quản lý Giáo dục) IEP Institutional effectiveness plan (Kế hoạch nâng cao hiệu quả trường) IER-HCMC Institute for Educational Research, Ho Chi Minh City (Viện Nghiên cứu Giáo dục, thuộc Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh) IT Information Technology (Công nghệ thông tin) v
  6. MIT Massachusetts Institute of Technology (Viện Công nghệ Massachusetts) MOET Ministry of Education and Training (Bộ Giáo dục và Đào tạo) NA The National Academies (Viện Hàn lâm Quốc gia Hoa Kỳ) OD Organizational development (Phát triển về cơ chế tổ chức) PC Personal computer (Máy tính cá nhân) PD Professional development (Phát triền nghiệp vụ chuyên môn) RMIT Royal Melbourne Institute of Technology (Viện Công nghệ Hoàng gia Melbourne) SEAMEO RETRAC The Southeast Asian Ministers of Education Organization Regional Training Center (Trung tâm Đào tạo Khu vực của Tổ Chức các Bộ trưởng Giáo dục Đông Nam Á) SS Specialized subjects (Môn học chuyên ngành) TOEFL Test of English as a Foreign Language (Trắc nghiệm Anh ngữ như một ngoại ngữ) U1 University 1 (pseudonym for case study university 1) (Trường Đại học 1 [biệt hiệu dành cho điển cứu trường đại học thứ nhất]) U2 University 2 (pseudonym for case study university 2) (Trường Đại học 2 [biệt hiệu dành cho điển cứu trường đại học thứ hai]) U3 University 3 (pseudonym for case study university 3) (Trường Đại học 3 [biệt hiệu dành cho điển cứu trường đại học thứ ba]) U4 University 4 (pseudonym for case study university 4) (Trường Đại học 4 [biệt hiệu dành cho điển cứu trường đại học thứ tư]) U.S. The United States (Hợp chủng quốc Hoa Kỳ) USSH University of Social Sciences and Humanities (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn) VIFOTEC The Vietnam Fund for Supporting Technological Creations (Quỹ Hỗ trợ Sáng tạo Kỹ thuật Việt Nam) VEEA Vietnam Electrical Engineering Association (Hội Điện lực Việt Nam) VEF Vietnam Education Foundation (Quỹ Giáo dục Việt Nam) VND Vietnamese Dong (Đơn vị tiền tệ của Việt Nam – Đồng) VNU Vietnam National University (Đại học Quốc gia Việt Nam) VNU-Hanoi Vietnam National University – Hanoi (Đại học Quốc gia Hà Nội) VNU-HCM Vietnam National University – Ho Chi Minh City (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) vi
  7. TÓM TẮT Dự án Những quan sát về giáo dục đại học trong các ngành công nghệ thông tin, kỹ thuật điện-điện tử-viễn thông và vật lý tại một số trường đại học Việt Nam được thực hiện dưới sự bảo trợ của Quỹ Giáo dục Việt Nam (VEF) – một cơ quan hoạt động độc lập thuộc Liên bang Hoa Kỳ. Dự án này còn được gọi là Dự án giáo dục đại học của VEF, được thực hiện theo đề nghị của GS. TS. Nguyễn Thiện Nhân, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, khi đó là Phó chủ tịch Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Dự án được triển khai với sự hợp tác và hỗ trợ của Bộ Giáo dục và Đào tạo và các đơn vị đồng tài trợ, bao gồm: Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm Đào tạo Khu vực của Tổ chức các Bộ trưởng Giáo dục Đông Nam Á tại Việt Nam (SEAMEO RETRAC), và Viện Nghiên cứu giáo dục thuộc Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Dưới sự bảo trợ của Viện Hàn lâm Quốc gia Hoa Kỳ, các chuyên gia hàng đầu của Hoa Kỳ về đánh giá và thiết kế giảng dạy, và các chuyên gia trong một số chuyên ngành được lựa chọn trong lĩnh vực khoa học và kỹ thuật đã tham gia vào dự án này. Dự án giáo dục đại học được tiến hành theo phương pháp điển cứu đa trường hợp và là một dự án nghiên cứu định tính bao gồm các giai đoạn sau: (1) giai đoạn 1, từ tháng 1 đến tháng 8/2006, đánh giá hiện trạng công tác giảng dạy và học tập trong các ngành công nghệ thông tin, kỹ thuật điện-điện tử-viễn thông và vật lý tại bốn trường đại học điểm ở Việt Nam và để nhận diện những cơ hội thay đổi; (2) giai đoạn 2, từ tháng 9/2006 đến tháng 8/2009, hỗ trợ thực hiện các thay đổi; và (3) vào cuối giai đoạn 2, đưa ra các mô hình có thể áp dụng cho tất cả các ngành học và các đơn vị đào tạo. Có bốn trường đại học của Việt Nam (hai trường ở Hà Nội và hai trường ở Thành phố Hồ Chí Minh) được chọn tham gia dự án này. Tên các trường tham gia được giữ kín nhằm tạo điều kiện cho các trường cung cấp những thông tin một cách cởi mở và chân thật hơn. Mục đích của Dự án là hỗ trợ các nhà lãnh đạo và quản lý của bậc giáo dục đại học trong các nỗ lực nhằm nâng cao chương trình đào tạo, phương pháp sư phạm, và đưa ra các nhận định về các ngành khoa học và kỹ thuật tại Việt Nam. Sau khi kết thúc các chuyến khảo sát thực địa vào tháng 5/2006, hai đoàn chuyên gia đa ngành của Hoa Kỳ đã đưa ra kết luận về năm nhóm vấn đề then chốt mà giáo dục đại học ở Việt Nam cần được thay đổi. Đó là: công tác giảng dạy và học tập ở bậc đại học, chương trình đào tạo và các môn học ở bậc đại học, giảng viên, đào tạo và nghiên cứu sau đại học, và công tác đánh giá kết quả học tập của sinh viên và hiệu quả nhà trường. Không phải tất cả các chương trình đào tạo, các khoa, và các trường được khảo sát đều tồn tại các vấn đề này. Ngược lại, các đoàn chuyên gia đã tìm thấy nhiều giải pháp tốt đối với các vấn đề nêu trên mà các trường khác có thể xem như là mô hình tốt để áp dụng theo. Thêm vào đó, các đoàn cũng phát hiện được nhiều sinh viên giỏi và cần cù; nhiều giảng viên cao tuổi và trẻ tuổi có nhiều năng lực; lãnh đạo các cấp nhiệt tình và có tầm nhìn. Các đoàn chuyên gia cũng tìm thấy có nhiều đề tài nghiên cứu hay đang được thực hiện và ghi nhận việc sử dụng khoa học công nghệ và thiết bị tiên tiến. Đặc biệt, các đoàn chuyên gia cũng đã nhận diện được Các vấn đề và cơ hội thay đổi đối với năm vấn đề nêu trên và đưa ra các đề xuất chung để xem xét và cân nhắc ở cấp độ toàn quốc. Dưới đây là tóm lược một số vấn đề và cơ hội thay đổi chính yếu bởi vì nội dung này chiếm phần lớn trong toàn bộ nội dung của bản báo cáo. Dưới mỗi nhóm 1
  8. vấn đề, những tiểu mục chấm đầu dòng trình bày ngắn gọn những vấn đề chính yếu được nhận diện và các giải pháp tiềm năng do các đoàn chuyên gia đề xuất nhằm khắc phục các vấn đề đó. Xin lưu ý rằng các kết luận của đoàn chuyên gia Hoa Kỳ chỉ đúng với một số trường hợp mà các đoàn chuyên gia đã đến khảo sát và có thể không đúng cho mọi trường hợp. Và cũng cần lưu ý thêm rằng các vấn đề nêu trên không được xếp theo thứ tự ưu tiên, vì thế chúng không được đánh số. Công tác giảng dạy và học tập ở bậc đại học • Các phương pháp giảng dạy kém hiệu quả: diễn thuyết, thuyết trình, ghi nhớ một cách máy móc, giao ít bài tập về nhà, ít có sự tương tác giữa sinh viên và giảng viên. Giải pháp đề xuất: phối hợp sử dụng các phương pháp học tập tích cực, yêu cầu giao bài tập về nhà và có chấm điểm, chú trọng đến việc học khái niệm hoặc học ở cấp độ tư duy cao, và thành lập các Trung tâm xuất sắc về giảng dạy và học tập. • Trang thiết bị và nguồn lực chưa đầy đủ. Giải pháp đề xuất: hiện đại hoá phòng học, thư viện, và trang thiết bị thí nghiệm; cung cấp các nguồn lực (con người và thiết bị) để hỗ trợ giảng dạy và học tập. Chương trình đào tạo và các môn học ở bậc đại học • Quá nhiều môn học (trên 200 tín chỉ để tốt nghiệp). Giải pháp đề xuất: cho phép các trường có quyền chủ động nhiều hơn trong nội dung chương trình đào tạo và sắp xếp chương trình đào tạo để các khoa có thể hợp nhất các môn học nhằm giảm thiểu tổng số tín chỉ để tốt nghiệp. • Quá nhiều yêu cầu mà ít sự lựa chọn Giải pháp đề xuất: tăng tính linh động và đưa vào nhiều môn học tự chọn hơn. • Nội dung của mỗi môn học và chương trình đào tạo đã lỗi thời, không ngang bằng với trường đại học hàng đầu thế giới. Đặc biệt, ít dạy về các khái niệm và nguyên lý, quá nhấn mạnh vào kiến thức dữ kiện và kỹ năng. Giải pháp đề xuất: nhấn mạnh vào các kỹ năng tư duy ở cấp độ cao hơn (ứng dụng, phân tích, tổng hợp và đánh giá) trong giảng dạy và sau đó kiểm tra các kỹ năng tư duy này. • Sự mất cân đối giữa các giờ học lý thuyết (khái niệm và nguyên lý, nhấn mạnh quá nhiều vào các kiến thức dữ kiện) và giờ học thực hành/áp dụng (thực hành phòng thí nghiệm hay các kinh nghiệm thực tế). Giải pháp đề xuất: thiết kế nhiều hơn nữa những kinh nghiệm học tập thực hành, ứng dụng thực tiễn, các bài tập, và dự án. • Thiếu các kỹ năng nghề nghiệp thông thường (làm việc nhóm, giao tiếp và viết bằng tiếng Anh, quản lý dự án, phương pháp giải quyết vấn đề, sáng kiến tích cực, học tập suốt đời). Giải pháp đề xuất: giảng dạy bằng tiếng Anh và tạo nhiều cơ hội để phát triển các kỹ năng thông qua các hoạt động trong lớp và trong đời sống thực (học và làm việc, thực tập, kinh nghiệm thực tiễn). • Thiếu tính linh hoạt trong việc chuyển tiếp giữa các ngành học. Giải pháp đề xuất: thiết lập các thỏa thuận liên thông giữa các ngành học trong cùng một trường và giữa các trường. • Các môn học và chương trình đào tạo được thiết kế mà không dựa trên những mong đợi rõ ràng về kết quả học tập của sinh viên ở đầu ra (những kiến thức, kỹ năng, và thái độ 2
  9. gì sinh viên được mong đợi cần đạt được khi hoàn tất môn học hoặc khi tốt nghiệp một chương trình đào tạo). Giải pháp đề xuất: yêu cầu, và hỗ trợ, việc thiết lập những kết quả học tập của sinh viên làm cơ sở nền tảng cho việc xây dựng chương trình đào tạo và đề cương chi tiết của các môn học. Giảng viên • Thiếu giảng viên có đủ trình độ. Giải pháp đề xuất: phát triển các trường đại học nghiên cứu, các trường đại học hàng đầu đào tạo giảng viên cho các trường đại học khác. • Sự chuẩn bị về học thuật cho các giảng viên còn ở trình độ thấp. Giải pháp đề xuất: tạo cơ hội học tập sau đại học ở cả trong và nước ngoài. • Thiếu các kỹ năng trong nghiên cứu và thực hành giảng dạy hiện đại. Giải pháp đề xuất: tiến hành các chương trình phát triển nghiệp vụ chuyên môn, cụ thể là về phương pháp sư phạm và nghiên cứu. • Thiếu các kiến thức cập nhật về chuyên ngành bao gồm nội dung chương trình đào tạo và nội dung các môn học. Giải pháp đề xuất: tạo điều kiện tiếp cận với nguồn tri thức mới, chương trình dạy và học hiện hành, các tài liệu học tập liên quan trên mạng. • Làm việc quá nhiều mà lương lại thấp dẫn đến việc thiếu thời gian cần thiết để chuẩn bị giáo án, tiếp xúc với sinh viên và nghiên cứu. Giải pháp đề xuất: giảm khối lượng giảng dạy; thuê và trả lương cho giảng viên “làm trọn giờ” và xác định rằng họ sẽ làm 40 giờ một tuần tại trường của mình và cân đối giữa giảng dạy, nghiên cứu và các hoạt động khác; tăng thời gian nghiên cứu bằng cách hỗ trợ họ có trợ giảng để chấm điểm, trợ lý nghiên cứu và thư ký văn phòng. • Không có sự khuyến khích đối với giảng viên trong việc nâng cao kỹ năng giảng dạy, chất lượng môn học, chương trình đào tạo, và khả năng nghiên cứu vì sự đề bạt và tăng lương thường dựa vào khối lượng giảng dạy và thâm niên, không dựa trên thành tích, khả năng hoặc thành tích nghiên cứu. Giải pháp đề xuất: thiết lập chế độ thưởng theo thành tích; thưởng và ghi nhận các giáo viên có những cải tiến trong công tác giảng dạy, học tập và nghiên cứu. Giáo dục và nghiên cứu sau đại học. • Ít có cơ hội cho các tiến sĩ đã được học tập ở nước ngoài, tiếp tục nghiên cứu hoặc ứng dụng các phương pháp giảng dạy khi trở về Việt Nam. Giải pháp đề xuất: tuyển dụng các tiến sĩ sau khi tốt nghiệp từ nước ngoài về tham gia lãnh đạo, phổ biến việc áp dụng các kiến thức chuyên ngành, phương pháp giảng dạy, và kỹ năng nghiên cứu; xây dựng nguồn tư liệu thư viện sau đại học phù hợp và tạo điều kiện tiếp cận các nguồn tài liệu học thuật mới trên mạng; nâng cấp các phòng thí nghiệm; và hỗ trợ họ tham dự các hội thảo quốc tế. • Tuyển giảng viên từ những sinh viên tốt nghiệp của chính trường mình, do đó làm cản trở môi trường nghiên cứu năng động. Giải pháp đề xuất: tuyển dụng sinh viên tốt nghiệp từ các trường đại học khác. • Tách các viện nghiên cứu và các phòng thí nghiệm ra khỏi các khoa giảng dạy, do đó làm giảm thiểu cơ hội cho các giảng viên tham gia các hoạt động nghiên cứu. 3
  10. Giải pháp đề xuất: sắp xếp lại cơ cấu và mối liên hệ giữa các trường đại học, viện nghiên cứu, và các phòng thí nghiệm, để giảng viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh có điều kiện thực hiện nghiên cứu. Đánh giá kết quả học tập của sinh viên và hiệu quả nhà trường • Thiếu sự phối hợp kết quả học tập của sinh viên ở các cấp độ trường, khoa, chương trình đào tạo và môn học. Giải pháp đề xuất: đưa ra yêu cầu thiết lập và sử dụng kết quả học tập của sinh viên ở cấp trường; chương trình đào tạo đưa ra phải dựa trên kết quả học tập chung của sinh viên, bao gồm việc đặt ra kết quả học tập của sinh viên thật cụ thể cho từng đề cương chi tiết môn học; hỗ trợ cho việc thiết lập và thực hiện các kết quả học tập của sinh viên thông qua các Trung tâm xuất sắc về giảng dạy và học tập và các Trung tâm đánh giá chất lượng trường. • Hiệu quả nhà trường không được đánh giá dựa trên kết quả học tập của sinh viên. Kết quả là giảng viên không có nhiều động cơ vì không có nhận được nhiều sự khuyến khích và tưởng thưởng cho sự thay đổi. Giải pháp đề xuất: các trường chịu trách nhiệm nâng cao thành tích học tập của sinh viên và xem đó là một yêu cầu trong công tác kiểm định chất lượng nhà trường; phân bố nguồn lực cho trường, khoa, và các chương trình đào tạo ít nhất là dựa trên một phần kết quả học tập của sinh viên. • Chất lượng chương trình đào tạo và môn học không dựa vào sự đánh giá học tập của sinh viên. Giải pháp đề xuất: thiết lập và thực hiện hệ thống đánh giá chương trình đào tạo dựa một phần vào kết quả học tập của sinh viên trong từng môn học và trong toàn bộ chương trình đào tạo, đồng thời thiết lập và thực hiện hệ thống đánh giá môn học và thường niên đánh giá lại giảng viên để có được các phản hồi về công tác giảng dạy và học tập nhằm mục đích để cải tiến. • Thiếu cơ sở hạ tầng nghiên cứu cấp trường. Giải pháp đề xuất: thiết lập các văn phòng nghiên cứu cấp trường, tiến hành đào tạo cho cán bộ quản lý học thuật đảm nhận các chức năng nghiên cứu, cung cấp các nguồn dữ liệu điện tử để theo dõi, phân tích và báo cáo các số liệu sinh viên như số lượng đăng ký nhập học, tiến triển trong quá trình học tập, tốt nghiệp và kết quả học tập. Nhận thấy Bộ Giáo dục và Đào tạo có vai trò quan trọng trong mối quan hệ với các trường đại học Việt Nam, các đoàn chuyên gia Hoa Kỳ đã đưa ra một số ý kiến rộng và bao quát hơn, kiến nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo xem xét một số nội dung sau: ™ Phương thức mở rộng hệ thống giáo dục đại học ở Việt Nam, phân bố đều khắp cả nước để tạo điều kiện cho học sinh trung học có nhiều cơ hội hơn để theo học đại học. Hiện nay, số lượng 255 truờng đại học và cao đẳng là không đủ để đáp ứng nhu cầu. ™ Cách thức chuẩn bị đội ngũ giảng viên tương lai được đào tạo ở trình độ cao là bằng cách giao quyền cho các trường đại học điểm đào tạo ra các giảng viên giỏi trong các ngành khoa học và công nghệ cho các trường đại học khác ở Việt Nam. 4
  11. ™ Có nhiều phương án lựa chọn để ra quyết định chiến lược về việc cấp vốn cho nghiên cứu cơ bản trong trường đại học để bảo đảm cho thế hệ các nhà khoa học tương lai. ™ Các khả năng cho phép các trường chủ động và linh hoạt hơn trong việc nâng cao chất lượng và luôn cập nhật chương trình đào tạo. ™ Phương thức thiết lập quy trình kiểm định bao gồm đánh giá kết quả học tập sinh viên và làm việc với các trường để thiết lập hoặc hoàn thiện quy trình đánh giá chương trình đào tạo cho các khoa. ™ Các cách thức để thiết lập một cơ chế nhằm bảo đảm các nguồn lực được phân bổ dựa trên thành tích công việc và chất lượng. ™ Làm thế nào để đánh giá mức độ chất lượng của các trường đại học trên toàn quốc mà dựa vào quá trình nghiên cứu và học tập của sinh viên, và thiết lập cơ chế hỗ trợ cho các trường có chất lượng thấp nâng lên đến mức tốt nhất có thể được. ™ Làm thế nào để các trường có điều kiện tiếp cận với các phương tiện thông tin đại chúng mới nhất, tạp chí điện tử chuyên ngành và các cơ sở dữ liệu thông qua mạng Internet có đường truyền tốc độ cao. ™ Làm thế nào để xây dựng năng lực cho giảng viên trong việc thiết kế nội dung, phương pháp sư phạm, tiếp xúc với sinh viên, và nghiên cứu thông qua các nỗ lực phát triển về mặt chuyên môn nghiệp vụ có hệ thống. ™ Cách thức tổ chức lại khối lượng công việc để giảng viên có thêm thời gian chuẩn bị giáo án, tiếp xúc với sinh viên và thực hiện nghiên cứu. ™ Các cách thức điều chỉnh và tổ chức lại chương trình đào tạo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo để sinh viên có thêm thời gian tiếp thu nội dung học liên quan và tiếp thu thông tin môn học. ™ Làm thế nào để có thể nâng cao phương pháp sư phạm trong trường trung học để học sinh có sự chuẩn bị tốt hơn cho chương trình giáo dục đại học mới, với nhiều thách thức hơn. ™ Các phương thức hỗ trợ học sinh trung học chuẩn bị chọn ngành học ngay khi còn ở trung học. Ngoài phần Các vấn đề và cơ hội thay đổi, báo cáo này còn bao gồm các phần sau: Các quan sát về ngành học cụ thể, đưa ra các nhận xét ngắn gọn về các ngành cụ thể như công nghệ thông tin, kỹ thuật điện-điện tử-viễn thông và vật lý; Các viễn cảnh thay đổi, trình bày các viễn cảnh ở cấp quốc gia, khu vực, trường và chương trình đào tạo; và Kết luận, trong đó bàn đến ý nghĩa giáo dục của Dự án giáo dục đại học. Báo cáo cũng bao gồm các phụ lục cung cấp thông tin chi tiết hơn về các khía cạnh khác nhau của dự án. 5
  12. TỔNG QUAN Dự án Những quan sát về giáo dục đại học trong các ngành công nghệ thông tin, kỹ thuật điện-điện tử-viễn thông và vật lý tại một số trường đại học Việt Nam được thực hiện dưới sự bảo trợ của Quỹ Giáo Dục Việt Nam (VEF), một cơ quan hoạt động độc lập của liên bang Hoa Kỳ. VEF cấp học bổng đào tạo sau đại học cho các công dân Việt Nam trong các ngành khoa học, kỹ thuật, công nghệ và sức khỏe cộng đồng. Thông qua các chương trình học bổng, hội thảo, và các dự án, VEF giúp đỡ xây dựng năng lực về khoa học và công nghệ tại Việt Nam. Dự án giáo dục đại học của VEF được thực hiện theo đề nghị của GS. TS. Nguyễn Thiện Nhân, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, khi đó là Phó chủ tịch Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Dự án được triển khai với sự hợp tác và hỗ trợ của Bộ Giáo dục và Đào tạo và các đơn vị đồng tài trợ, bao gồm: Trường Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn, thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm Đào tạo Khu vực của Tổ chức các Bộ trưởng Giáo dục Đông Nam Á tại Việt Nam (SEAMEO RETRAC), và Viện Nghiên cứu Giáo dục tại Thành phố Hồ Chí Minh. Dưới sự bảo trợ của Viện Hàn lâm Quốc gia Hoa Kỳ, các chuyên gia hàng đầu của Hoa Kỳ về đánh giá và thiết kế giảng dạy và các chuyên gia của một số ngành được chọn trong lĩnh vực khoa học và kỹ thuật đã tham gia dự án. Các chuyên gia này đến từ tổ chức ABET (trước đây có tên gọi là Ban Kiểm định về Kỹ thuật và Công nghệ), Trường Đại học Cornell, Trường Đại học Drexel, Trường Đại học Harvard, Trường Đại học Syracuse, và Trung tâm Bồi dưỡng Giảng viên thuộc Học viện Hải quân Hoa Kỳ (Phụ lục 1 - Danh sách các chuyên gia Hoa Kỳ). Dự án giáo dục đại học được tiến hành theo phương pháp điển cứu đa trường hợp và là một dự án nghiên cứu định tính với các giai đoạn sau: (1) giai đoạn 1, từ tháng 1 đến tháng 8/2006, đánh giá hiện trạng công tác giảng dạy và học tập trong các ngành công nghệ thông tin, kỹ thuật điện-điện tử-viễn thông và vật lý tại bốn trường đại học điểm ở Việt Nam và để nhận diện những cơ hội thay đổi; (2) giai đoạn 2, từ tháng 9/2006 đến tháng 8/2009, hỗ trợ thực hiện các thay đổi; và (3) vào cuối giai đoạn 2, đưa ra các mô hình có thể áp dụng cho tất cả các ngành học và các đơn vị đào tạo (Phụ lục 2 - Mô tả dự án). Bốn trường đại học được chọn tham gia dự án này vì các đặc điểm sau: (a) họ có chương trình đào tạo điển hình trong các ngành công nghệ thông tin, kỹ thuật điện-điện tử-viễn thông và vật lý; (b) có nhiều học viên cao học và nghiên cứu sinh nhận được học bổng VEF tốt nghiệp từ các trường này. Ba câu hỏi nghiên cứu sau đây được dùng để thu thập dữ liệu cho giai đoạn 1: 1. Hiện trạng giảng dạy và học tập tại các trường đại học Việt Nam trong một số ngành được lựa chọn trong dự án lần này, cụ thể là công nghệ thông tin, kỹ thuật điện-điện tử-viễn thông và vật lý là gì? 2. Những cơ hội để cải tiến là gì? 3. Những thay đổi tiềm năng nào có thể đem lại sự cải tiến? Nhằm mục đích đối chiếu so sánh, các kỹ thuật thu thập dữ liệu khác nhau đã được sử dụng (xem tài liệu, phỏng vấn, và quan sát). Điểm yếu của kỹ thuật thu thập dữ liệu này sẽ được khắc phục bởi điểm mạnh của kỹ thuật thu thập dữ liệu khác (Newman Bentz, 1998). Dữ liệu được thu thập qua việc đọc các dữ liệu trực tuyến và các tài liệu lưu trữ của bốn trường đại học, cũng như từ trang Web của Bộ Giáo dục và Đào tạo. 6
  13. Thành phần tham gia phỏng vấn đa dạng, gồm các nhà quản lý (cấp trường và khoa), giảng viên, nhân viên, sinh viên (đại học và sau đại học), cựu sinh viên, và các cán bộ của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Quá trình quan sát bao gồm: tham quan các cơ sở vật chất của trường (phòng thí nghiệm, thư viện, các khu vực giáo viên và khu vực sinh viên), thăm các phòng học (để xem cách thức bố trí phòng học, các công cụ trợ giảng sẵn có để sử dụng, và sự tương tác giữa sinh viên và giảng viên). Tháng 5/2006, hai đoàn chuyên gia đa ngành Hoa Kỳ đã đến khảo sát bốn trường đại học để thực hiện phỏng vấn, quan sát, cũng như là thu thập tài liệu lưu trữ (Phụ lục 3 - Lịch họp của đoàn Dự án giáo dục đại học, Phụ lục 4 - Danh sách thành viên tham gia và cộng tác viên). Trước khi đi thực địa vào tháng 5, các thành viên trong đoàn đã có nhiều câu hỏi về giáo dục đại học ở Việt Nam nói chung và các ngành học cụ thể sẽ nghiên cứu nói riêng. Do đó, Tư vấn Dự án, TS. Nguyễn Thị Thanh Phượng đã tiến hành chuẩn bị các thông tin tiền thực địa cho thành viên các đoàn chuyên gia Hoa Kỳ (Phụ lục 5, 6 và 7 - Phỏng vấn tiền khảo sát thực địa: Câu hỏi dành cho nhà quản lý, giảng viên, và sinh viên; Phụ lục 8 - Tóm tắt dữ liệu tiền khảo sát thực địa). Các đoàn chuyên gia Hoa Kỳ, thông qua các cuộc phỏng vấn và quan sát, đã xác nhận rằng nhìn chung các dữ liệu tiền thực địa là đúng. Mục đích của các cuộc phỏng vấn tại chỗ của đoàn chuyên gia vào tháng 5/2006 là: gặp gỡ và tiếp xúc trực tiếp với các nhà quản lý, giảng viên, cán bộ công nhân viên, sinh viên, và cựu sinh viên; tìm hiểu hiện trạng và cơ hội để nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập trong các ngành công nghệ thông tin, kỹ thuật điện-điện tử-viễn thông và vật lý tại bốn trường đại học điểm; và nhận diện các yêu cầu để tận dụng được các cơ hội này (Phụ lục 9 - Nghi thức phỏng vấn tại các trường, Phụ lục 10 - Câu hỏi phỏng vấn dành cho nhà tuyển dụng). Phương pháp so sánh liên tục được sử dụng để phân tích dữ liệu. Phỏng vấn, quan sát, các ghi chép tại chỗ, và tài liệu trong quá trình thu thập dữ liệu được phân tích liên tục. Phương pháp này giúp xác định các khoảng cách trong dữ liệu để thực hiện các điều chỉnh cần thiết Merriam (1998) nói rằng "sự hình thành các phân loại chủ đề, đặc tính, và giả thuyết tiềm năng thông qua phương pháp so sánh liên tục là một quá trình mà các dữ liệu dần dần phát triển thành những lý thuyết chính" (trang 191). Trong quá trình khảo sát thực địa, hàng ngày các thành viên trong đoàn đã gặp gỡ và trao đổi về những điều quan sát và thu thập được. Năm hoạt động khác cũng được tiến hành như là một phần của Dự án giáo dục đại học. Đầu tiên, là tham luận Vai trò của công tác bảo đảm và kiểm định chất lượng trong việc thúc đẩy và duy trì sự đổi mới trong giáo dục đại học tại Việt Nam được trình bày tại hội thảo quốc gia về Đảm bảo chất lượng trong đổi mới giáo dục đại học, do Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức vào 31/3/2006. Thứ hai, VEF, Bộ Giáo dục và Đào tạo và Trung tâm Đào tạo Khu vực SEAMEO đã tổ chức buổi toạ đàm kéo dài cả ngày để đánh giá về giáo dục đại học và các chương trình đào tạo, cũng như xây dựng mối quan hệ giữa các doanh nghiệp và trường học. Buổi toạ đàm có cùng chủ đề được thực hiện tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 12/5 và tại Hà Nội ngày 18/5/2006. Tại các buổi toạ đàm đã có sự tham gia của các chuyên gia Việt Nam những người đã từng đánh giá các mặt khác nhau của giáo dục đại học; các nhà quản lý, các giảng viên của các trường đại học có đào tạo các ngành công nghệ thông tin, kỹ thuật điện-điện tử-viễn thông và vật lý; và các đại diện doanh nghiệp của Việt Nam (Phụ lục 11 và 12 - Các buổi toạ đàm tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội). 7
  14. Thứ ba, bốn buổi trao đổi nghiên cứu chuyên đề về Những Lĩnh vực “Nóng” trong Nghiên cứu ngành Vật lý đã được thực hiện tại bốn trường tham gia vào dự án. Thứ tư, đoàn chuyên gia thứ hai được mời tham gia trình bày hai tham luận tại Hội thảo khu vực về Xây dựng Chương trình Đào tạo cho các Ngành học trong Hệ chế Tín chỉ có Sử dụng Internet do Viện Nghiên cứu Giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh (IER-HCM) tổ chức ngày 26/05/2006. Cuối cùng, theo yêu cầu của một số trường cụ thể đang triển khai Chương trình tiên tiến của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đoàn chuyên gia đã đề ra các khuyến nghị nhằm tạo điều kiện và tối ưu hoá chuyến khảo sát tại Hoa Kỳ của các giảng viên và nhà quản lý của các trường đại học Việt Nam đang thực hiện Chương trình tiên tiến của Bộ Giáo dục và Đào tạo (Phụ lục 13 - Các khuyến nghị cho đoàn Chương trình Tiên tiến Việt Nam đi khảo sát thực địa các chương trình ưu việt của Hoa Kỳ). BỐ CỤC CỦA BÁO CÁO Những nhận định và khuyến nghị các đoàn chuyên gia Hoa Kỳ được trình bày như sau. Phần đầu tiên là Các vấn đề và cơ hội để thay đổi bàn về các vấn đề và đề xuất của các đoàn, được trình bày xung quanh năm chủ đề: (1) việc giảng dạy và học tập ở bậc đại học; (2) chương trình đào tạo đại học và các môn học; (3) giảng viên; (4) giáo dục sau đại học và nghiên cứu; và (5) đánh giá kết quả học tập của sinh viên và hiệu quả của nhà trường. Ở mỗi chủ đề, các vấn đề sẽ được trình bày, sau đó là các cơ hội để cải tiến và được trình bày theo thứ tự sau: phát triển về mặt chuyên môn nghiệp vụ, phát triển về cách thức giảng dạy, phát triển về cơ cấu tổ chức. Sau khi bàn về năm chủ đề trên, ở cuối phần này các chuyên gia có đưa ra một số khuyến nghị chung về các cơ hội để thay đổi mà có thể xem xét ở cấp quốc gia. Các đoàn nhận ra rằng không phải tất cả các vấn đề này đều tồn tại ở tất cả các khoa, các chương trình đào tạo, và các trường đã được khảo sát thực địa. Thực ra, các đoàn chuyên gia đã tìm thấy thí dụ điển hình về các giải pháp tốt mà các trường khác có thể theo đó mà áp dụng. Một điều khả quan là đoàn đã phát hiện các sinh viên giỏi và cần cù; giảng viên có năng lực, lãnh đạo các cấp nhiệt tình và có tầm nhìn chiến lược; và có nhiều đề tài nghiên cứu hay đang được thực hiện. Đồng thời các chuyên gia cũng ghi nhận việc sử dụng kỹ thuật và thiết bị tiên tiến. Thực tế, đoàn đã gặp nhiều giáo viên và các nhà quản lý các cấp, những người rất nhiệt huyết, mong mỏi nâng cao chất lượng giáo dục đại học Việt Nam lên cấp độ mà các tổ chức quốc tế công nhận về mặt ngành nghề và các trường đại học hàng đầu thế giới công nhận về mặt học thuật. Ngoài ra, các sự kiện gần đây cũng thể hiện các quyết tâm trong công cuộc cải cách nền giáo dục đại học tại Việt Nam. Đầu tiên, là Dự án giáo dục đại học được thực hiện theo sự đề nghị của GS. TS Nguyễn Thiện Nhân, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, khi đó là Phó chủ tịch Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và được sự hợp tác và hỗ trợ của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Thứ hai, những nhận định gần đây của Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm gởi đến hiệu trưởng các trường đại học - cao đẳng Việt Nam về sự cấp bách trong việc “đổi mới tư duy thực sự từ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, lãnh đạo Bộ GD-ĐT, đến hiệu trưởng các trường ĐH-CĐ để tìm những hướng đi sáng tạo" (Thu Hồng, 2006, trang 1) đã làm tiền đề cho việc cải tiến giáo dục đại học Việt Nam. Thứ ba, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chọn 9 trường đại học điểm Việt Nam để thực hiện 10 Chương trình tiên tiến. Cuối cùng, trong một chuyến thăm gần đây của nhà sáng lập tập 8
  15. đoàn Microsoft, Bill Gates đã kêu gọi đầu tư vào giáo dục đại học như là một cách để chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam, ông phát biểu rằng "Với việc Internet đang kết nối cả thế giới với nhau, cơ hội . . . không còn phụ thuộc đơn thuần vào yếu tố địa lý nữa, mà là vào sự đầu tư dành cho giáo dục. . ." (Thiên Ý, 2006, trang 1). Ngoài các bàn luận chung về các vấn đề và cơ hội được đề cập trong phần một, phần hai của báo cáo, Những quan sát về chuyên ngành cụ thể, bao gồm các quan sát cụ thể của các chuyên gia Hoa Kỳ chuyên ngành công nghệ thông tin, kỹ thuật điện-điện tử- viễn thông và vật lý. Phần ba của báo cáo, Các viễn cảnh thay đổi, mô tả viễn cảnh của các giải pháp cho các vấn đề khác nhau trên cơ sở các cơ hội để cải tiến. Các viễn cảnh này được đưa ra thông qua tám điều kiện tổng quát tạo điều kiện cho những thay đổi được mô tả ở phần mở đầu của phần thứ ba. Các điều kiện này rất quan trọng đối với việc tạo ra các kế hoạch vững chắc và đảm bảo cho việc các thay đổi này cuối cùng sẽ được thể chế hóa. Trong nhiều trường hợp, các giải pháp được đưa ra dựa trên các nỗ lực hiện hành của các nhà giáo dục Việt Nam. Các viễn cảnh này phối hợp các đề xuất được trình bày tại phần đầu và đưa ra các hướng dẫn cho việc thiết lập và thực hiện các dự án thí điểm với sự tham gia của các trường và các tổ chức Việt Nam và Hoa Kỳ. Hy vọng rằng các dự án thí điểm này sẽ đưa ra được các mô hình về nâng cao giáo dục đại học của Việt Nam trong tất cả các môn học và ở tất cả các cấp độ. Cuối cùng, phần bốn, Kết luận, sẽ bàn luận về ý nghĩa và tầm quan trọng giáo dục trong Dự án giáo dục đại học. I. CÁC VẤN ĐỀ VÀ CƠ HỘI THAY ĐỔI Các đoàn chuyên gia nhận thấy rằng nhiều vấn đề trong năm chủ đề đã xác định có liên quan mật thiết với nhau. Ví dụ, vấn đề chính liên quan đến việc giảng dạy và học tập ở bậc đại học là phương pháp giảng dạy chủ yếu được sử dụng. Phương pháp này chủ yếu là diễn thuyết trong hai đến bốn tiết (45 phút/tiết), tập trung giới thiệu kiến thức thuần túy trong khi đó sinh viên ghi chép một cách rất thụ động. Việc học chỉ yêu cầu sinh viên ghi nhớ kiến thức máy móc và sẽ kiểm tra vào cuối kỳ. Thông thường, ít bài tập được giao về nhà để củng cố lại những kiến thức được học trong các phần diễn thuyết hoặc để thực hành ứng dụng các kiến thức được học. Vì vậy, các bài diễn thuyết dài cộng với một ít bài tập về nhà đã làm giảm đi sự hứng thú và kết quả học tập của sinh viên. Có nhiều yếu tố gây ra vấn đề này như: kỳ vọng mang tính văn hóa về mối quan hệ giữa giáo viên và sinh viên; các định nghĩa truyền thống về phương pháp giảng dạy; chương trình đào tạo, môn học, và nội dung truyền thống; số lượng lớn các môn học, tín chỉ sinh viên phải hoàn thành trong mỗi học kỳ và là một phần của chương trình đào tạo đại học (gần 200 tín chỉ); cách tính thu nhập cho giảng viên (lương cố định thấp, phụ cấp thì dựa trên số tín chỉ giảng dạy, điều này đã khuyến khích giảng viên dạy trên 20 giờ một tuần tại một hoặc nhiều trường); và cách phân bổ ngân sách ở cấp trường và khoa1. Bên cạnh đó, việc thiết lập chương trình đào tạo và môn học cũng như đánh giá chương 1 Từ “Faculty” được các trường đại học Việt Nam sử dụng để chỉ từ tương đương “Department” (khoa) trong các trường đại học Hoa Kỳ. Từ “Department” được các trường Việt Nam sử dụng để chỉ từ tương đương “Major” (ngành học) trong các trường đại học Hoa Kỳ. Các trường Việt Nam không sử dụng từ “faculty” để nói đến đội ngũ cán bộ giảng dạy của họ. Để được nhất quán trong bản báo cáo tiếng Anh, các thuật ngữ được sử dụng phổ biến tại Hoa Kỳ sẽ được sử dụng trong nội dung của bản báo cáo này. 9
  16. trình và phương pháp đánh giá không nhấn mạnh đến hiệu quả của trường, cụ thể là không nhấn mạnh đến kết quả học tập sinh viên và việc không ngừng cải thiện công tác giảng dạy và học tập. Chính vì vậy, không có nhiều sự động viên cho giảng viên và không có nhiều khuyến khích hoặc khen thưởng cho việc giảng viên thực hiện những thay đổi. Nếu muốn có những thay đổi thực sự và lâu dài cho giáo dục đại học Việt Nam thì phải xét đến tất cả yếu tố trên để có hướng giải quyết các vấn đề và tận dụng các cơ hội được nêu ra ở phần tiếp theo. Năm chủ đề sẽ được thảo luận theo trình tự sau: đầu tiên là mô tả tầm quan trọng của các vấn đề được nhận diện trong chủ đề đó, thứ hai là các cơ hội (hoặc các khuyến nghị) để cải tiến thông qua sự phát triển về mặt chuyên môn nghiệp vụ, giảng dạy và tổ chức. Do có sự liên quan lẫn nhau giữa các chủ đề, danh sách các vấn đề và cơ hội có thể bị trùng lắp với nhau. Xin lưu ý rằng việc đánh số thứ tự không mang ý nghĩa sắp xếp theo thứ tự ưu tiên. Việc giảng dạy và học tập ở bậc đại học Lĩnh vực chủ yếu mà đoàn chuyên gia có mối quan ngại đó là nội dung và phương pháp giảng dạy, học tập ở bậc đại học tại các trường đại học Việt Nam. Lĩnh vực này là nền tảng cho một cơ sở đào tạo đại học cũng giống như việc cải tiến giáo dục là nền tảng đối với bất cứ nỗ lực xây dựng các trường đại học nghiên cứu ở Việt Nam có chất lượng đẳng cấp quốc tế được thừa nhận bởi các trường đại học hàng đầu thế giới. Các vấn đề Cụ thể có các vấn đề sau: 1. Phương pháp giảng dạy không hiệu quả, quá phụ thuộc vào các bài thuyết trình và ít sử dụng các kỹ năng học tích cực (như giao bài tập về nhà có chấm điểm, thảo luận trong lớp), kết quả là có ít sự tương tác giữa sinh viên và giảng viên trong và ngoài lớp học. Nhiều giảng viên không định ra lịch để tiếp sinh viên. 2. Quá nhấn mạnh vào ghi nhớ kiến thức theo kiểu thuộc lòng mà không nhấn mạnh vào việc học khái niệm hoặc học ở cấp độ cao (như phân tích và tổng hợp), dẫn đến hậu quả là học hời hợt thay vì học chuyên sâu. 3. Sinh viên học một cách thụ động (nghe diễn thuyết, ghi chép, nhớ lại những thông tin đã học thuộc lòng khi làm bài thi). 4. Đa số sĩ số ở các lớp đại học quá đông. 5. Quá nhiều sinh viên không đến lớp. 6. Sinh viên mất quá nhiều thời gian học ở lớp mỗi ngày và học quá nhiều môn trong một học kỳ mà không có thời gian để tiếp thu tài liệu (không có học và hiểu sâu). 7. Sau giờ học, hầu hết sinh viên đi làm thêm, do đó họ không có thời gian để làm bài tập có thể được cho về nhà làm. 8. Thiếu hiểu biết về sự khác biệt giữa giáo dục (sự chuẩn bị chung cho việc học cá nhân và nghề nghiệp lâu dài) và đào tạo (sự chuẩn bị cụ thể để hoàn tất công việc). 10
  17. 9. Thiếu nhấn mạnh đến sự phát triển các kỹ năng thông thường và nghề nghiệp, chẳng hạn như làm việc theo nhóm, khả năng giao tiếp hoặc viết bằng tiếng Anh, quản lý dự án, các phương pháp giải quyết vấn đề, sáng kiến, học lâu dài, v.v. 10. Thiếu hiểu biết về mối tương quan giữa việc sử dụng phương pháp dạy hiện tại với chất lượng và mức độ tiếp thu của sinh viên. 11. Thiếu sự chuẩn bị cho các giảng viên trong các lĩnh vực: a. Phương pháp sư phạm (như phương pháp, tài liệu giảng dạy và học tập); b. Thiết kế và phát triển giảng dạy nhằm hướng đến cải tiến các môn học và chương trình đào tạo; c. Phát triển chuyên môn nghiệp vụ (như đào tạo sau đại học). 12. Không có nhiều nguồn tài liệu viết hoặc nguồn tài liệu điện tử, cũng như các cán bộ hỗ trợ chuyên nghiệp để giúp đào tạo các phương pháp giảng dạy và học tập mới nhất. 13. Sách, tài liệu thuyết giảng, phần mềm lạc hậu. 14. Trang thiết bị phòng học nghèo nàn (quá nhiều tiếng ồn và không tiện nghi), trang thiết bị phòng thí nghiệm và thiết bị để phục vụ công tác giảng dạy và nghiên cứu không tương xứng hoặc không có. 15. Trang thiết bị thư viện và các nguồn lực không phù hợp (như thiếu không gian, thiếu các sách báo, tạp chí chuyên ngành dưới dạng ấn phẩm và điện tử, sử dụng Internet băng thông rộng còn hạn chế, và quá ít máy vi tính). 16. Thiếu tôn trọng tài sản trí tuệ thể hiện rõ đối với các ấn phẩm tài liệu và phần mềm. Cơ hội để cải tiến công tác giảng dạy và học tập bậc đại học Các khuyến nghị cải tiến công tác giảng dạy và học tập ở bậc đại học được trình bày qua ba nội dung: Phát triển về mặt chuyên môn nghiệp vụ (PD), Phát triển về cách thức giảng dạy (ID), và Phát triển về cơ chế tổ chức (OD). Phát triển về mặt chuyên môn nghiệp vụ Xem xét các phương thức để hỗ trợ nâng cao công tác giảng dạy và học tập dưới các hình thức: 1. Thành lập và cấp vốn cho các Trung tâm xuất sắc về giảng dạy và học tập của quốc gia, khu vực, và/hoặc địa phương với đội ngũ nhân viên giàu kinh nghiệm, và nguồn tài liệu dưới dạng ấn phẩm hoặc điện tử để hỗ trợ phát triển sư phạm, cách thức giảng dạy và chuyên môn nghiệp vụ. 2. Các hội thảo mục tiêu và các hoạt động đào tạo của các chuyên gia có uy tín và có các kỹ năng tổng quát về phương pháp sư phạm, thiết kế giáo án và phát triển cũng như các chuyên gia về giảng dạy các ngành cụ thể nào đó (như công nghệ thông tin, kỹ thuật điện-điện tử-viễn thông và vật lý); và 3. Các cơ hội được ra nước ngoài để tự học hỏi các phương pháp hoc tập năng động và các thực hành sư phạm hiệu quả khác. (Xem thêm phần Giảng viên ở phía dưới đây) 11
  18. Phát triển về cách thức giảng dạy Xem xét các phương tiện hiệu quả nhất để: 1. Nâng cao cấp độ học từ học thuộc lòng lý thuyết lên khả năng tư duy ở cấp độ cao hơn, đó là nhận thức, áp dụng, phân tích, tổng hợp và đánh giá. 2. Kết hợp các chiến lược học tập chủ động vào các buổi thảo luận trong lớp, như hỏi đáp, học nhóm, các dự án, và chấm điểm bài tập về nhà. 3. Yêu cầu chấm điểm bài tập về nhà phải liên quan đến các ý kiến trong lớp, và sử dụng yếu tố này để cho phản hồi đối với việc học tập của sinh viên. Ví dụ, yêu cầu có hai giờ làm bài về nhà cho mỗi giờ học trên lớp. 4. Cộng điểm bài tập về nhà, tỉ lệ thời gian đến lớp, và tham gia hoạt động trong lớp vào điểm thi kết thúc môn học. 5. Biên soạn các tài liệu giảng dạy phù hợp với Việt Nam và hiện đại, kết hợp toàn bộ tài liệu và nội dung môn học (bài thuyết giảng, PowerPoint, các hoạt động trong lớp, kiểm tra, thực hành phòng thí nghiệm); điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện địa phương và chuyển thành dạng dữ liệu điện tử cho sinh viên. 6. Tăng cường sự ứng dụng thực tế, các bài tập, dự án, thực hành phòng thí nghiệm, thực tập và các cơ hội khác cho sinh viên được đào tạo nhằm hoàn thành một nhiệm vụ cụ thể. 7. Đánh giá quá trình học của sinh viên trong suốt học kỳ chứ không chỉ dựa vào kết quả kỳ thi cuối kỳ. 8. Giảm khối lượng giảng dạy và tăng cường trợ giảng để chấm bài. Trợ giảng có thể giúp giảm khối lượng giảng dạy cho giáo sư bằng cách chấm điểm bài tập về nhà, thi giữa khóa và thi cuối khóa. 9. Cung cấp dữ liệu điện tử cho tất cả giảng viên để cập nhật chương trình đào tạo, chương trình học và các tài liệu học tập liên quan trên trang Web và thông qua Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) hoặc hệ thống học liệu mở (xem thêm phần phát triển về cơ cấu tổ chức). Phát triển về cơ cấu tổ chức Xem xét các cách tốt nhất để: 1. Giảm số lượng tín chỉ, từ đó giảm số lượng môn học cho sinh viên và giảng viên mỗi học kỳ. 2. Tăng tính linh động và đưa thêm các môn tự học vào chương trình đào tạo (xem thêm phần Các môn học và chương trình đào tạo ở bậc đại học). 3. Tạo điều kiện cho sinh viên thay đổi chuyên ngành sau khi họ đã đăng ký chương trình đào tạo. 4. Hiện đại hóa trang thiết bị phòng thí nghiệm và phòng học. Nên kiểm toán thiết bị giảng dạy để biết được tình hình. 5. Sắp xếp và giảm sĩ số sinh viên trong lớp học, tạo điều kiện cho sinh viên chủ động tham gia tích cực trong lớp. Thiết lập hệ thống kiểm soát sự hiện diện của sinh viên, cộng điểm tham dự lớp học vào điểm cuối khóa. 6. Yêu cầu giảng viên dành thời gian cố định tiếp sinh viên (Điều này có nghĩa là giảng viên phải có địa điểm và thời gian trống để gặp sinh viên ngoài giờ lên lớp). 12
  19. 7. Bảo vệ bản quyền tài sản trí tuệ bằng cách chứng nhận bản quyền toàn quốc và giáo dục cho sinh viên và giảng viên về đạo đức nghề nghiệp (như tầm quan trọng bản quyền và tính trung thực trong học thuật, sự hiểu biết thế nào là ăn cắp bản quyền). 8. Khuyến khích giảng viên cộng tác với các đồng nghiệp tại trường, với các trường khác tại việt Nam cũng như khu vực để chia sẻ các tài liệu về môn học. 9. Thiết lập cơ chế vay mượn liên thư viện giữa Việt Nam và khu vực Đông Nam Á. 10. Cung cấp đủ các nguồn tài liệu dưới dạng ấn phẩm và điện tử (sách, tạp chí chuyên ngành) cho giảng viên và sinh viên để tạo điều kiện cho công tác giảng dạy, học tập và nghiên cứu. 11. Tạo điều kiện truy cập internet băng thông rộng/tốc độ cao và cung cấp đủ máy vi tính để giảng dạy. 12. Thiết lập chương trình từ thiện và tặng quà, phát triển cách thức giảng dạy, các nguồn đầu tư phát triển các trường từ Việt Nam, Hoa Kỳ và các nước khác để hỗ trợ cải thiện giảng dạy và học tập. Chương trình đào tạo và các môn học ở bậc đại học Mối quan tâm thứ hai của các đoàn chuyên gia chính là nội dung, cấu trúc, phương pháp của chương trình đào tạo và các môn học. Hiện có quá nhiều môn học trong các chương trình đào tạo (xấp xỉ 200 tín chỉ). Hầu hết các môn học bao gồm quá nhiều chủ đề và lạc hậu. Hơn nữa, nhiều môn học, thậm chí không tính các môn học chính trị, không liên quan trực tiếp đến ngành học. Điều này ảnh hưởng không tốt đến công tác giảng dạy và học tập. Kết quả là, các chương trình đào tạo đại học hiện nay không chuẩn bị tốt cho sinh viên tốt nghiệp như là các sinh viên tốt nghiệp từ các trường quốc tế khác. Các vấn đề Cụ thể hơn, có các mối quan ngại và các vấn đề như sau: 1. Chương trình đào tạo đại học yêu cầu quá nhiều môn học (6-8) và số tín chỉ (khoảng 25) trong một học kỳ, kết quả là sinh viên không có kiến thức sâu. Đây là khối lượng công việc khá nặng cho giáo viên và sinh viên. Sinh viên không thể hấp thụ được hết khái niệm và nội dung, không tiếp thu được các nguyên tắc, và không thể hoàn tất bài tập về nhà. Giáo viên không có thời gian cho môn học và chuẩn bị lên lớp, hoặc phản hồi cho sinh viên. 2. Thông thường, các trường đại học hàng đầu trên thế giới đều yêu cầu ít hơn 200 tín chỉ, chỉ vào khoảng 120 tín chỉ để tốt nghiệp. Bộ Giáo dục và Đào tạo nắm quyền kiểm soát quá nhiều về mặt nội dung trong hai năm học đầu, ví dụ, “hình hoạ” là môn bắt buộc đối với sinh viên ngành kỹ thuật. Đây là kỹ năng yêu cầu phải có trước khi đăng ký học đại học hoặc thông qua các môn học khác, sẽ tốt hơn nếu môn học này không được xem là một môn học trong chương trình đào tạo. 3. Thường không có sự liên kết giữa các môn học có liên quan. Ngoài ra trình tự sắp xếp chưa rõ trong toàn bộ chương trình đào tạo đại học (ví dụ các môn học kỹ thuật được dạy quá trễ). 13
  20. 4. Nhiều môn học trong chương trình đào tạo không liên quan đến ngành học và chuyên ngành. 5. Nội dung của từng môn học và toàn bộ chương trình đào tạo lạc hậu và không ngang tầm với các trường đại học hàng đầu thế giới. Đặc biệt, ít dạy các khái niệm và nguyên lý và quá nhấn mạnh vào kỹ năng và lý thuyết. 6. Các ứng dụng thực tiễn tập trung vào các bài tập mức độ thấp như lập trình và giải bài tập để tìm câu trả lời đúng, hơn là các khả năng tư duy như phân tích, tổng hợp, đánh giá và giải quyết vấn đề. 7. Không có đủ các bài thực tập tại phòng thí nghiệm do tỉ lệ chương trình đào tạo dành cho phòng thí nghiệm không thích hợp và trang thiết bị còn thiếu. Có sự mất cân đối giữa các môn học lý thuyết và các môn học thực hành. 8. Các chương trình đào tạo đại học chưa trang bị đủ về tiếng Anh (gồm các kỹ năng viết, đọc, nghe, nói), và điều này rất quan trọng bởi vì tiếng Anh đã trở thành ngôn ngữ quốc tế và hầu hết các tài liệu nghiên cứu đều bằng tiếng Anh. 9. Thiếu sự chuẩn bị cho các kỹ năng thông thường và nghề nghiệp như giao tiếp nói và viết, các kỹ năng thuyết trình, làm việc nhóm, giải quyết vấn đề, quản lý dự án, tư duy phê phán, và sự tự tin. 10. Tính chất duy nhất của chương trình đào tạo trong mỗi chuyên ngành đã làm cho sinh viên không thể chuyển qua ngành khác sau khi đã đăng ký học một chương trình đào tạo. 11. Các môn học và toàn bộ chương trình đào tạo không được định hướng bằng những kỳ vọng về kết quả học tập của sinh viên. 12. Sinh viên không có cơ hội thường xuyên đánh giá các môn học và toàn bộ chương trình đào tạo có liên quan đến thành tích học tập đạt được. Các cơ hội để cải tiến chương trình đào tạo và các môn học ở bậc đại học Các cơ hội để cải tiến chương trình đào tạo và các môn học ở bậc đại học được trình bày theo các nội dung: phát triển về mặt chuyên môn nghiệp vụ (PD), phát triển về cách thức giảng dạy (ID) và phát triển về cơ cấu tổ chức (OD). Phát triển về mặt chuyên môn nghiệp vụ Xem xét các cách tốt nhất để: 1. Nhận được sự hỗ trợ về thiết kế và phát triển giảng dạy từ các chuyên gia có uy tín giúp giảng viên cập nhật nội dung, cấu trúc, phương pháp sư phạm cho các môn học và chương trình đào tạo (xem thêm Giảng dạy và học tập ở bậc đại học ở trên). 2. Gửi giáo viên đi nước ngoài học hỏi với các giảng tiêu biểu trong ngành (xem thêm Giảng viên ở phần dưới). 14
  21. Phát triển về cách thức giảng dạy Xem xét các cách tốt nhất để: 1. Cung cấp cho sinh viên nhiều hơn những kinh nghiệm và thực hành ứng dụng bằng các hình thức bài tập trong các phòng thí nghiệm, thiết kế và thực hiện dự án, học thông qua việc giải quyết vấn đề. 2. Gắn kết doanh nghiệp trong các kinh nghiệm về dự án, thực tập và các chương trình hợp tác. 3. Sử dụng các cơ hội này (trong mục 1 và 2 vừa nêu) để phát triển năng lực giao tiếp và kỹ năng thuyết trình, làm việc nhóm, giải quyết vấn đề, quản lý dự án, và nâng cao sự tự tin. 4. Cho sinh viên đánh giá các môn học như là một hoạt động thông thường. 5. Sử dụng các phản hồi của sinh viên và của doanh nghiệp về các môn học và về các kinh nghiệm giáo dục cụ thể để định hướng cho những nỗ lực cải tiến. Phát triển về cách thức tổ chức Xem xét các cách tốt nhất để: 1. Hợp nhất các môn học sao cho phù hợp với các hệ thống đào tạo theo hệ chế tín chỉ được thừa nhận của các trường đại học hàng đầu trên khắp thế giới, thông thường hoàn thành từ 120 đến 130 tín chỉ để tốt nghiệp. Điều này sẽ giảm số lượng các môn học cho sinh viên và số môn giảng viên phải dạy trong một học kỳ và do đó khối lượng công việc sẽ được giảm. 2. Hợp nhất và giảm số lượng môn học nhưng không giảm tiền lương của giáo viên (xem thêm Giảng viên phía dưới). 3. Hiện đại hóa trang thiết bị phòng thí nghiệm để có thể thực hiện tốt các thí nghiệm, bài tập, các dự án nhằm thúc đẩy khả năng tư duy và các kỹ năng giải quyết vấn đề. 4. Bộ Giáo dục và Đào tạo giảm bớt sự kiểm soát đối với số lượng và kiểu môn học, cho phép các trường được tự chủ hơn trong nội dung và cách sắp xếp các môn học (ví du: cho phép học môn kỹ thuật sớm hơn trong quá trình đào tạo). 5. Đưa ra các thoả thuận liên thông giữa các chương trình học và/hoặc chương trình đào tạo để sinh viên có thể chuyển ngành học sau khi họ đã đăng ký vào học một chương trình học. Giảng viên Chất lượng của đội ngũ giáo viên là phạm vi thứ ba mà các đoàn chuyên gia xác định. Các đoàn cũng đã nhận thấy tuy nhiều giáo viên tận tâm, cần cù, có năng lực, nhưng tổng thể quá trình học tập và kinh nghiệm của họ chưa chuẩn bị cho họ khả năng thiết lập và thực hiện các chương trình đào tạo đại học hiện đại hoặc thực hiện các nghiên cứu ngang tầm với các nghiên cứu ở các trường đại học hàng đầu thế giới. 15
  22. Các vấn đề Cụ thể hơn, các vấn đề sau được xác định: 1. Đội ngũ giảng viên được trang bị ít ỏi về mặt học thuật do chỉ tập trung vào việc học thuộc lòng các dữ kiện (lý thuyết) trong giáo dục đại học và thiếu các trang thiết bị nghiên cứu hiện đại cho các học viên cao học và nghiên cứu sinh. Các vấn đề cụ thể bao gồm: a. Giảng viên có bằng cử nhân chịu trách nhiệm phụ trách phòng thí nghiệm. (Họ có ít hoặc không có kinh nghiệm nghiên cứu). Ban giám hiệu nhà trường có thể xem xét đặt các phòng thí nghiệm dưới sự giám sát của các giảng viên trong khoa có học vị cao hơn. b. Giảng viên, có hạn chế về đào tạo sau đại học như chỉ xong chương trình thạc sĩ, chịu trách nhiệm lên lớp phần lý thuyết về những kiến thức mang tính dữ kiện, kết quả là phần bài giảng của họ là không sâu. c. Giảng viên có bằng tiến sĩ không tham gia công tác nghiên cứu, do đó, không có khả năng cố vấn cho các học viên cao học và nghiên cứu sinh hoặc đưa các nghiên cứu của họ vào lớp học đại học. 2. Giảng viên thiếu các kiến thức cập nhật trong chuyên ngành liên quan đến chương trình đào tạo, nội dung môn học, phương pháp giảng dạy và nghiên cứu. Do đó, thiếu các giảng viên đạt trình độ có thể hiện đại hoá phương pháp giảng dạy đại học, chương trình đào tạo, cũng như giáo dục và nghiên cứu sau đại học. 3. Tuyển dụng học thuật còn mang tính chất nội bộ đã cản trở sự trao đổi kiến thức chéo vì các trường tiến hành tuyển trợ lý phòng thí nghiệm, học viên cao học, nghiên cứu sinh, giảng viên và giáo sư từ chính trong nội bộ của các trường, 4. Giảng viên dạy quá nhiều nhưng lương thì thấp (dạy trên 20 giờ một tuần và làm việc thêm ngoài giờ để kiếm sống), do đó, khối lượng giảng dạy rất nặng. Họ thiếu thời gian cần thiết để nâng cao kỹ năng giảng dạy, nội dung môn học, chương trình đào tạo, và khả năng nghiên cứu. Thêm vào đó, không có khen thưởng để khuyến khích họ cải tiến. Ngoài ra, vì khối lượng giảng dạy nhiều nên các giảng viên không có thời gian gặp gỡ sinh viên ngoài phạm vi lớp học. 5. Giảng viên thụ động và không muốn thay đổi hoặc cải tiến vì điều này mất nhiều thời gian và công sức. 6. Giảng viên thuộc biên chế thiếu sự hỗ trợ trong các lĩnh vực sau: a. Có ít hoặc không có sự hỗ trợ phát triển về mặt chuyên môn nghiệp vụ cho giảng viên với tư cách là một người đứng lớp hay là một học giả; b. Thiếu nguồn nhân lực hỗ trợ cho giảng viên như trợ giảng và/hoặc trợ lý nghiên cứu, thư ký, chuyên gia phát triển về cách thức giảng dạy; và c. Trang thiết bị nghèo nàn, lạc hậu phục vụ cho việc giảng dạy (phòng học) và nghiên cứu (phòng thí nghiệm). 7. Thư viện thiếu tiện nghi và nguồn tài liệu ít ỏi như sách giáo khoa, tạp chí chuyên ngành điện tử, tạp chí chuyên ngành quốc tế, các cơ sở dữ liệu điện tử. 8. Thăng tiến và mức lương phụ thuộc vào thâm niên, không căn cứ theo thành tích. 9. Giảng viên được nhận tiền thưởng dựa trên thời lượng giảng dạy, chứ không phải việc thực hiện nghiên cứu. 10. Một số giảng viên từ nước ngoài về bất mãn trước sự thay đổi chậm chạp. 16
  23. 11. Giảng viên không nhận biết được viễn cảnh của các cấp lãnh đạo cao hơn để cải tiến nhà trường và giáo dục đại học. 12. Giảng viên không tham gia vào các quyết định quan trọng về chương trình đào tạo và các vấn đề liên quan khác. 13. Không có tiến hành đánh giá giảng viên; do đó, không có phản hồi về công tác giảng dạy của họ. 14. Giảng viên không nhận thức được hết các thủ tục và các bước của hệ thống khen thưởng (như thăng tiến, khen thưởng, bổ nhiệm) hoặc hậu quả của công tác giảng dạy của họ. Các cơ hội để nâng cao chất lượng giảng viên Các cơ hội để nâng cao chất lượng giảng viên được trình bày theo các nội dung: phát triển về mặt chuyên môn nghiệp vụ (PD), phát triển về cách thức giảng dạy (ID) và phát triển về cơ cấu tổ chức (OD). Phát triển về mặt chuyên môn nghiệp vụ Xem xét các cách tốt nhất để: 1. Giúp giảng viên có sự chuẩn bị nâng cao học thuật bằng cách: a. Có các chương trình trọng tâm về phát triển chuyên môn nghiệp vụ tại Việt Nam về một số ngành học và môn học; b. Có các chương trình đi học nước ngoài, ngắn hạn (1-6 tháng) hoặc nghỉ phép trong một số ngành học và môn học cụ thể để giảng viên trực tiếp tham gia các môn học kiểu mẫu của các trường đại học hàng đầu thế giới; c. Cơ hội nâng cao bằng cấp trong ngành học tại Việt Nam; và d. Cơ hội đi học nước ngoài để nâng cao bằng cấp, như các học bổng của VEF. 2. Hỗ trợ giảng viên tham dự các hội thảo khoa học chuyên ngành với tư cách là người trình bày hoặc người tham gia. Phát triển về cách thức giảng dạy (Xem thêm Phát triển về mặt chuyên môn nghiệp vụ trong Cơ hội để cải tiến giảng dạy và học tập bậc đại học). Xem xét các cách để: 1. Giúp giảng viên thiết kế và giảng dạy môn học, nhấn mạnh việc sinh viên học ở cấp độ tiếp thu khái niệm. 2. Giúp giảng viên phát triển và sử dụng phương pháp giảng dạy tương tác và các phương pháp học tích cực để họ có thể trình bày tài liệu môn học theo các cách và quan điểm khác nhau. Phát triển về cách thức tổ chức Xem xét các cách tốt nhất để: 1. Giảm bớt và chuẩn hóa khối lượng giảng dạy và tăng thời gian nghiên cứu cho giảng viên bằng cách: 17
  24. a. Trả lương cho giảng viên đủ để hỗ trợ họ làm việc tại trường đủ 40 giờ một tuần, tập trung vào giảng dạy, nghiên cứu và tham gia các hoạt động tại trường; b. Điều chỉnh lại chế độ phụ cấp để giảng viên không phải làm thêm ngoài trường và vì vậy số tiết dạy sẽ độc lập với lương/thu nhập; và c. Thay đổi chế độ khen thưởng và thăng tiến để lương cán bộ giảng dạy và các khoản thưởng được tính trên công tác nghiên cứu và các hoạt động khác ngoài công tác giảng dạy (như tư vấn cho sinh viên, phát triển về cách thức giảng dạy và quản lý khoa). Ở nhiều nước như Hoa Kỳ, giảng viên được trả lương giảng dạy, nhưng được tuyển dụng và thăng tiến dựa vào thành tích nghiên cứu. Thăng tiến sẽ đem lại mức lương cao hơn. 2. Đặt ra chỉ tiêu và hỗ trợ hành chính và tài chính cho các giảng viên có nhiều cải tiến trong việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu. 3. Thiết lập các chương trình để phát triển và đánh giá giảng viên làm căn cứ để nâng bậc, trong đó, chủ nhiệm khoa thực hiện đánh giá hàng năm về công tác giảng dạy, tăng mức lương theo thành tích. Tốt nhất là chương trình sử dụng các tiêu chuẩn liên quan đến kết quả học tập của sinh viên, các đánh giá về môn học của sinh viên, số lượng ấn phẩm phát hành, các bài tham luận tại hội nghị, phát triển môn học, tài trợ nghiên cứu, có những gắn kết hiệu quả với doanh nghiệp và tham gia các hoạt động phục vụ cho khoa và trường. 4. Cung cấp sổ tay hướng dẫn cho giảng viên, trong đó nêu rõ quy trình và các bước của hệ thống khen thưởng (như thăng tiến, khen thưởng, bổ nhiệm). 5. Tạo môi trường làm việc thuận lợi để thu hút và giữ lại các giảng viên nhiều kỳ vọng, tận tâm và đã được đào tạo từ nước ngoài. 6. Có trợ giảng, trợ lý nghiên cứu, thư ký cho các giảng viên thuộc biên chế. 7. Cung cấp các nguồn lực để hiện đại hoá phòng thí nghiệm nghiên cứu, trang thiết bị phòng học thông qua nguồn đầu tư của chính phủ, doanh nghiệp, các ngành công nghiệp và các tổ chức quốc tế. 8. Cung cấp máy tính có thể truy cập Internet tốc độ cao cho tất cả giảng viên. 9. Tuyển chọn giảng viên từ những sinh viên tốt nghiệp từ các trường đại học khác. 10. Duy trì mối quan hệ, hợp tác giữa các khoa. Kết quả là có thể tránh được các môn học bị trùng lặp không cần thiết. Ví dụ, có nhiều môn học trùng lặp nhau tại Khoa Kỹ thuật điện và khoa Viễn thông và Điện tử. 11. Phổ biến đầy đủ về viễn cảnh và lý do căn bản cho sự thay đổi đến giảng viên và các chủ thể liên quan và gắn kết giảng viên vào quá trình thiết lập viễn cảnh. 12. Cung cấp các nguồn tư liệu nghiên cứu cập nhật dưới dạng: a. Sách giáo khoa để sử dụng cho giảng viên và sinh viên b. Truy cập vào cơ sở dữ liệu điện tử cho tất cả giảng viên; và c. Các sách đầu ngành/có ảnh hưởng lớn trong thư viện. Giáo dục và nghiên cứu của bậc học sau đại học Tuy đây không phải là trọng tâm của dự án này, nhưng chất lượng của giáo dục và nghiên cứu của bậc học sau đại học có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giảng dạy, học tập, các môn học, chương trình đào tạo và đội ngũ giảng viên của bậc đại học. 18
  25. Các vấn đề Cụ thể hơn, các mối quan ngại và vấn đề sau được xác định: 1. Việc thiếu chuẩn bị của giảng viên và sinh viên bậc sau đại học liên quan đến sự quá nhấn mạnh cách học thuộc lòng kiến thức dữ kiện (lý thuyết) trong giáo dục đại học. 2. Giảng viên sau đại học dường như thiếu kiến thức cập nhật trong ngành của họ cũng như chương trình đào tạo mới nhất và nội dung môn học, thực hành giảng dạy và nghiên cứu. Do đó, có sự thiếu hụt rõ ràng về các giáo sư đạt trình độ để hiện đại hóa chương trình giáo dục và nghiên cứu của bậc đại học và sau đại học. 3. Thiếu các trang thiết bị nghiên cứu hiện đại trong phòng thí nghiệm dành cho giảng viên, sinh viên sau đại học. Trang thiết bị sẵn có hầu như đã lỗi thời và nghèo nàn. 4. Giảng viên sau đại học có ít hoặc không có trợ lý phòng thí nghiệm nghiên cứu hoặc nhân viên hỗ trợ kỹ thuật và công việc văn phòng. 5. Các thư viện dành cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không đủ và có ít, nếu có, cơ hội truy cập các nguồn học thuật khoa học như sách giáo khoa, tạp chí điện tử, và cơ sở dữ liệu điện tử. 6. Dường như không có được sự hỗ trợ cần thiết để tham dự các hội thảo quốc tế. 7. Có ít cơ hội cho các tiến sĩ từ nước ngoài khi họ trở về Việt Nam tiếp tục nghiên cứu và áp dụng phương pháp sư phạm mà họ đã học. 8. Việc tuyển dụng giảng viên nội bộ rõ ràng đã cản trở môi trường nghiên cứu năng động. 9. Sự tách biệt giữa phòng thí nghiệm và các viện/trường nghiên cứu với các khoa đào tạo đã hạn chế các cơ hội cho giảng viên tham gia vào hoạt động nghiên cứu. Các cơ hội để cải tiến giáo dục và nghiên cứu ở bậc sau đại học Ngoài các khuyến nghị trên liên quan đến việc nâng cao chất lượng của giảng viên, các khuyến nghị sau đây được xem là phương pháp để cải tiến chất lượng giảng dạy và nghiên cứu ở bậc sau đại học. Phát triển chuyên môn nghiệp vụ Xem xét các cách tốt nhất để: 1. Phát triển chuyên môn nghiệp vụ giúp giảng viên có cơ hội, ở cấp sau đại học, nâng cao kiến thức và hiểu biết về khái niệm và về ngành học cụ thể; thực hiện các nghiên cứu ngang tầm với các trường hàng đầu trên thế giới, và hiểu được các cách tiếp cận về giảng dạy và học tập sau đại học được áp dụng tại các trường đại học thế giới. 2. Tạo cơ hội cho giảng viên nhận được các văn bằng cao hơn (thạc sĩ hoặc tiến sĩ) từ các trường nghiên cứu hàng đầu về một số ngành học cụ thể như khoa học, công nghệ, kỹ thuật, và các đề tài khác như về thiết kế giảng dạy, phát triển chuyên môn nghiệp vụ và đánh giá. 19
  26. 3. Hỗ trợ kinh phí cho giảng viên tham gia các hội nghị quốc tế. Phát triển về cách thức giảng dạy Xem xét các cách tốt nhất để: 1. Nâng cao chất lượng của chương trình đào tạo và môn học ở bậc sau đại học ngang tầm với các trường đại học hàng đầu trên thế giới cả về nội dung và phương pháp giảng dạy. Điều này có thể thực hiện bằng cách học tập các chương trình quốc tế tốt nhất. 2. Mời các chuyên gia chuyên ngành và chuyên gia về phương pháp sư phạm hướng dẫn cải tiến việc dạy và học. 3. Thu nhận các tiến sĩ sau khi học ở nước ngoài về vào các cương vị lãnh đạo để áp dụng các phương pháp sư phạm họ đã học được. 4. Thiết lập các thư viện dành cho học viên cao học và nghiên cứu sinh để họ có thể tiếp cận các nguồn tài liệu như sách giáo khoa, tạp chí điện tử, cơ sở dữ liệu điện tử trên toàn quốc. Phát triển về cách thức tổ chức Xem xét các cách tốt nhất để: 1. Những người có quyền quyết định xem xét lại việc cần thực hiện nghiên cứu cơ bản ở nơi nào để chuẩn bị cho các nhà khoa học thế hệ tiếp theo. Xem xét tổ chức lại cấu trúc và quan hệ giữa các trường đại học, viện nghiên cứu, các phòng thí nghiệm để nhiều nghiên cứu được thực hiện bởi đội ngũ giảng viên và các sinh viên sau đại học tại các trường đại học. 2. Cấp kinh phí để xây dựng các phòng thí nghiệm có trang thiết bị hiện đại cho giáo sư và các sinh viên sau đại học. 3. Cung ứng nguồn nhân lực cho đội ngũ giảng viên. Xem xét tuyển dụng các trợ lý phòng thí nghiệm, nhân viên hỗ trợ kỹ thuật, thư ký cho các giảng viên sau đại học. 4. Khuyến khích và tạo điều kiện hợp tác giữa các trường đại học nghiên cứu chủ yếu. Đánh giá kết quả học tập của sinh viên và hiệu quả của trường Phạm vi bao quát được đoàn chuyên gia lưu ý liên quan đến cách thức chính phủ, các trường và các khoa giám sát và cải tiến chất lượng ra sao. Nhìn chung, chưa có sự đánh giá về học tập của sinh viên, về các chương trình đào tạo và hiệu quả trường. Nguồn gốc của các vấn đề này nằm ở chỗ thiếu sự nêu rõ về kết quả học tập của sinh viên ở cấp độ nhà trường, khoa và môn học. 20
  27. Các vấn đề Cụ thể hơn, các vấn đề sau được xác định: 1. Ở cấp độ môn học, hiện không có cơ chế phản hồi về giảng dạy và học tập cho mục đích cải tiến. Thiếu hẳn cách thức đánh giá thường kỳ. a. Ít khi có bài tập về nhà và, nếu có thì cũng không tính điểm hoặc không ghi nhận xét cho sinh viên. b. Dường như còn phụ thuộc quá nhiều vào các kỳ thi cuối để tính điểm. Sinh viên không biết được thành tích học cho đến cuối khoá học. c. Đặc biệt, không áp dụng đánh giá khoá học để thu thập phản hồi từ sinh viên về giảng dạy và học tập. d. Các bài thi và kiểm tra nhanh không được thường xuyên sử dụng để đánh giá sự lĩnh hội của sinh viên, hoặc để chỉ ra mặt mạnh, mặt yếu của công tác giảng dạy. e. Giảng viên dường như không phải chịu trách nhiệm đến chất lượng giảng dạy và học tập, cũng như cải tiến chất lượng giáo dục. f. Thiếu bằng chứng liên quan đến chất luợng giảng dạy và học tập. g. Giảng viên dường như thiếu kiến thức và kỹ năng liên quan đến công tác đánh giá giảng dạy và học tập. 2. Ở cấp độ khoa, rõ ràng là không có nhiều công tác đánh giá, dựa trên các dữ liệu đánh giá, chất lượng các môn học trong chương trình đào tạo và những thành tích của các sinh viên chuyên ngành. a. Chương trình đào tạo và môn học thường không được điều chỉnh hoặc cập nhật dựa trên các phản hồi về giảng dạy và học tập. b. Bằng chứng trực tiếp về học tập của sinh viên rõ ràng không được sử dụng trong việc đánh giá các môn học hoặc chương trình đào tạo. c. Thành tích học tập hay những thành công của sinh viên tốt nghiệp không được giám sát kỹ lưỡng. d. Các chương trình học dường như không được xem xét thường kỳ để liên tục nâng cao chất lượng, dựa vào các tiêu chuẩn thường được áp dụng tại các trường đại học hàng đầu trên thế giới. 3. Rõ ràng thiếu cơ sở hạ tầng nghiên cứu ở cấp trường. Điều này muốn nói đến nghiên cứu các thông tin về trường, chứ không phải các dự án nghiên cứu trong các ngành học. Các giải pháp tiềm năng bao gồm tổ chức đào tạo cho các nhà quản lý giáo dục phụ trách công tác đào tạo; thành lập các văn phòng nghiên cứu của trường; và cung cấp nguồn tư liệu điện tử để theo dõi, phân tích và báo cáo số liệu về sinh viên, bao gồm đăng ký ghi danh, tiến triển của quá trình học, tốt nghiệp và kết quả học tập. 4. Hiệu quả trường không được đánh giá dựa trên kết quả học tập sinh viên và hiệu quả nghiên cứu. a. Các phạm vi quản lý dường như không chịu trách nhiệm đóng góp vào chất luợng giảng dạy và học tập. 21
  28. b. Các khoa dường như không chịu trách nhiệm về chất luợng giảng dạy, về việc đạt được các kết quả học tập của sinh viên đã xác định trước, và hiệu quả nghiên cứu. c. Không có nhiều kỳ vọng đối với việc không ngừng cải tiến dựa trên bằng chứng học tập của sinh viên và hiệu quả trường. d. Không có nhiều các nguồn lực hỗ trợ cho qui trình đánh giá. 5. Kiểm định cấp nhà nước (như đánh giá cuối kỳ) còn đang ở trong giai đoạn đầu của quá trình thiết lập với một số tiềm năng phát triển. a. Các tiêu chuẩn hiện hành dường như mang tính tuân thủ hơn là đánh giá việc học của sinh viên và sự liên tục cải tiến. b. Dường như thiếu hụt nguồn nhân lực để trợ giúp cho các trường và các khoa khác nhau. Tốt nhất là các cán bộ của Bộ Giáo dục và Đào tạo và văn phòng trung tâm của đại học quốc gia tổ chức đào tạo và hỗ trợ cho công tác kiểm định và đánh giá. Các cơ hội để cải tiến công tác đánh giá kết quả học tập của sinh viên và hiệu quả của trường Các khuyến nghị cải tiến công tác đánh giá kết quả học tập của sinh viên (như mong muốn sinh viên biết gì, làm được gì, và học được những giá trị gì) và đánh giá hiệu quả của trường bao gồm: Phát triển về mặt nghiệp vụ chuyên môn 1. Bộ Giáo dục và Đào tạo cần khuyến khích và hỗ trợ dưới hình thức phát triển nghiệp vụ chuyên môn cho các chuyên gia đánh giá địa phương. 2. Các cơ hội phát triển nghiệp vụ chuyên môn bao gồm: a. Cấp đủ kinh phí để đào tạo trong nước, như tổ chức các viện, hội thảo, các khoá học ngắn hạn, các hội nghị chuyên đề, tất cả đều được tính vào lương/sự tưởng thưởng theo cơ chế dựa trên thành tích. b. Mời các chuyên gia quốc tế tham gia đào tạo chính quy và tư vấn cho các chuyên gia đánh giá địa phương. c. Tạo cơ hội cho giảng viên được nâng cao bằng cấp (thạc sĩ hoặc tiến sĩ) tại các trường đại học nghiên cứu hàng đầu về thiết kế, phát triển, và đánh giá giảng dạy. 3. Đào tạo các quản lý giáo vụ phụ trách công tác đào tạo là rất hữu ích, bao gồm: a. Nâng cao bằng cấp về tâm lý sư phạm, đo lường và thống kê; b. Các khóa ngắn hạn về quản lý điểm số sinh viên để giúp quản lý giáo vụ hiểu rõ các nguyên tắc của nghiên cứu trường; và c. Các chương trình đào tạo để trợ giúp các nhân viên hành chính học cách thức lưu trữ và phân tích dữ liệu. 22
  29. Phát triển về cách thức giảng dạy Xem xét các cách tốt nhất để: 1. Phát triển các biện pháp đánh giá học tập của sinh viên kết hợp sử dụng đánh giá thường kỳ (như bài tập về nhà hoặc bài kiểm tra nhỏ trong lớp) và đánh giá tổng kết (như kiểm tra tổng hợp, dự án và hồ sơ (portfolio) lưu giữ bằng chứng tiến bộ và thành quả cá nhân sinh viên). 2. Thiết lập và thực hiện hệ thống tiếp nhận phản hồi của sinh viên trong mỗi khoa. Trong việc đánh giá môn học thường xuyên, hãy xem xét đến việc thu thập ý kiến sinh viên về mức độ mà giảng viên và môn học đã giúp họ đạt được đến mức độ nào so với kết quả học tập đã được định trước. 3. Trình bày rõ ràng về các mục tiêu học tập chung trong các môn học trong chương trình đào tạo. 4. Ghi rõ kết quả học tập cụ thể của sinh viên trong các bài giảng, bài tập, bài kiểm tra nhỏ và bài thi vào đề cương chi tiết. Phát triển về cách thức tổ chức Xem xét các cách tốt nhất để: 1. Lập kế hoạch chiến lược cấp trường để hướng dẫn cách đánh giá trường và các khoa. 2. Khuyến khích mỗi trường và khoa thiết lập và thực hiện các kế hoạch đánh giá để cải tiến không ngừng công tác giảng dạy và học tập, trên cơ sở học tập các cách thực hiện đảm bảo và nâng cao chất lượng của các trường đại học hàng đầu trên thế giới. 3. Yêu cầu các khoa thường xuyên đánh giá chương trình đào tạo có sự tham gia của chuyên gia đánh giá bên ngoài hoặc chuyên gia đánh giá quốc tế. 4. Thành lập các văn phòng nghiên cứu ở cấp trường và ở cấp Đại học Quốc Gia để sắp xếp, phân tích và báo cáo các dữ liệu về sinh viên. 5. Tổ chức đào tạo cho các nhà quản lý học thuật phụ trách công tác nghiên cứu. 6. Cung cấp nguồn dữ liệu điện tử để theo dõi, phân tích, và báo cáo số liệu sinh viên bao gồm số lượng sinh viên đăng ký học, tiến bộ trong quá trình học, tốt nghiệp, kết quả học tập nhằm cung cấp thông tin cần thiết hỗ trợ cho việc đánh giá kết quả học tập của sinh viên và hiệu quả của trường. 7. Thành lập các Trung tâm xuất sắc về giảng dạy và học tập tại mỗi trường đại học để hỗ trợ cho việc thiết lập và thực hiện các kế hoạch đánh giá, trong đó lấy việc đo lường trực tiếp kết quả học tập của sinh viên làm nền tảng cho sự cải tiến liên tục. 8. Tiến hành thực hiện đánh giá giảng viên thường niên để định hướng việc phát triển nghiệp vụ chuyên môn (xem thêm phần Giảng viên). 9. Rà soát lại và xem xét các tiêu chuẩn và cách thức thực hiện mẫu mực trong các tài liệu và tổ chức sau: a. Mạng lưới Đại học Châu Á: Các hướng dẫn đảm bảo chất lượng (Mạng lưới Đại học Châu Á, 2004); 23
  30. b. SEAMEO: Khuôn khổ hợp tác đảm bảo chất lượng khu vực trong giáo dục đại học (SEAMEO, 2003); c. ABET, Inc.2: 2006-2007 Các tiêu chí kiểm định chương trình đào tạo vi tính (ABET, 2006a); và Các tiêu chí kiểm định chương trình đào tạo kỹ thuật (ABET, 2006b); và d. Hội đồng Kiểm định Đại học (CHEA)3 tại địa chỉ www.chea.org. Xem thêm tài liệu Những đặc trưng xuất sắc của Uỷ ban giáo dục đại học của các bang miền Trung4 (Uỷ ban giáo dục đại học của các bang miền Trung, 2002). 10. Đảm bảo cho các giảng viên và các chủ thể khác có thể tham gia vào việc thiết lập tiêu chuẩn kiểm định. 11. Giảm tải khối lượng giảng dạy để giảng viên có thêm thời gian phản hồi cho sinh viên dựa vào các kỹ thuật đánh giá lớp học hợp lý. 12. Thuê người chấm điểm và/hoặc trợ giảng để có phản hồi kịp thời. Xem xét thiết lập chế độ trợ giảng (ví dụ, mỗi sinh viên có thể được yêu cầu làm trợ giảng cho một học kỳ, và được tính vào số tín chỉ yêu cầu cho việc hoàn tất văn bằng đại học). 13. Khen thưởng những giảng viên có những phản hồi thích đáng cho sinh viên. Có thể sử dụng các kỹ thuật chấm điểm đơn giản (ví dụ, cho phép sinh viên chấm chéo bài tập tại lớp với nhau, và/hoặc cho sinh viên tự tính điểm bài tập của mình bằng cách so sánh với đáp án đã đưa lên bản tin hoặc Internet). 14. Cho các sinh viên năm cuối và sinh viên giỏi phụ đạo các sinh viên năm 1, 2 và 3 như là một cách phản hồi về học tập của sinh viên. 15. Khuyến khích và hỗ trợ, có lẽ từ Bộ Giáo dục và Đào tạo, qua các hình thức: a. Hỗ trợ tài chính để thành lập hoặc cải tiến các Trung tâm đánh giá của Đại học Quốc Gia và các Trung tâm xuất sắc về giảng dạy và học tập tại các trường. b. Tư vấn kỹ thuật cho các nhà quản lý và giảng viên; và c. Giúp đỡ phát triển cơ chế thiết lập các mối quan hệ tích cực, hỗ trợ với các trường đại học Hoa Kỳ, và lựa chọn trường tốt để làm đối tác. Các cơ hội để thay đổi ở cấp quốc gia Đoàn chuyên gia Hoa Kỳ cũng đã đưa ra các khuyến nghị chung như sau để Bộ Giáo dục và Đào tạo có thể xem xét. ™ Phương thức mở rộng hệ thống giáo dục đại học ở Việt Nam, phân bố đều khắp cả nước để tạo điều kiện cho học sinh trung học có nhiều cơ hội hơn để theo học đại học. Hiện nay, số lượng 255 truờng đại học là không đủ để đáp ứng nhu cầu. 2 ABET Inc. là một cơ quan kiểm định được công nhận ở Hoa Kỳ chuyên kiểm định các chương trình khoa học ứng dụng, công nghệ thông tin, nghề kỹ sư và kỹ thuật. 3 CHEA là một cơ quan quốc gia Hoa Kỳ chủ trương việc tự quản về chất lượng học thuật thông qua kiểm định. CHEA là một hiệp hội gồm 3.000 trường đại học và cao đẳng cấp bằng và công nhận 60 tổ chức kiểm định trường và kiểm định chương trình. 4 Uỷ ban giáo dục đại học của các bang miền Trung là một trong sáu cơ quan kiểm định vùng được công nhận tại Hoa Kỳ. 24
  31. ™ Cách thức chuẩn bị đội ngũ giảng viên tương lai được đào tạo ở trình độ cao là bằng cách giao quyền cho các trường đại học điểm đào tạo ra các giảng viên giỏi trong các ngành khoa học và công nghệ cho các trường đại học khác ở Việt Nam. ™ Có nhiều phương án lựa chọn để ra quyết định chiến lược về việc cấp vốn cho nghiên cứu cơ bản trong trường đại học để bảo đảm cho thế hệ các nhà khoa học tương lai. ™ Các khả năng cho phép các trường chủ động và linh hoạt hơn trong việc nâng cao chất lượng và luôn cập nhật chương trình đào tạo. ™ Phương thức thiết lập quy trình kiểm định bao gồm đánh giá kết quả học tập của sinh viên và làm việc với các trường để thiết lập hoặc hoàn thiện quy trình đánh giá chương trình đào tạo cho các khoa. ™ Các cách thức để thiết lập một cơ chế nhằm bảo đảm các nguồn lực được phân bổ dựa trên thành tích công việc và chất lượng. ™ Làm thế nào để đánh giá mức độ chất lượng của các trường đại học trên toàn quốc, dựa vào quá trình nghiên cứu và học tập của sinh viên, và thiết lập cơ chế hỗ trợ cho các trường có chất lượng thấp nâng lên đến mức tốt nhất có thể được. ™ Làm thế nào để các trường có điều kiện tiếp cận với các thông tin đại chúng mới nhất, tạp chí điện tử chuyên ngành và các cơ sở dữ liệu thông qua mạng Internet có đường truyền tốc độ cao. ™ Làm thế nào để xây dựng năng lực cho giảng viên trong việc thiết kế nội dung, phương pháp sư phạm, tiếp xúc với sinh viên, và nghiên cứu thông qua các nỗ lực phát triển về mặt chuyên môn nghiệp vụ có hệ thống. ™ Cách thức tổ chức lại khối lượng công việc để giảng viên có thêm thời gian chuẩn bị giáo án, tiếp xúc với sinh viên và thực hiện nghiên cứu. ™ Các cách thức điều chỉnh và tổ chức lại chương trình đào tạo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo để sinh viên có thêm thời gian tiếp thu nội dung học liên quan và thông tin môn học. ™ Làm thế nào để có thể nâng cao phương pháp sư phạm trong trường trung học để học sinh có sự chuẩn bị tốt hơn cho chương trình giáo dục đại học mới, với nhiều thách thức hơn. ™ Các phương thức hỗ trợ học sinh trung học chuẩn bị chọn ngành học ngay khi còn ở trung học. II. CÁC QUAN SÁT CỦA NGÀNH HỌC CỤ THỂ Sau đây là một số quan sát ngắn gọn của các chuyên gia Hoa Kỳ thuộc đoàn khảo sát thực địa về các chuyên ngành công nghệ thông tin, kỹ thuật điện-điện tử-viễn thông và vật lý. Công nghệ thông tin Ngành công nghệ thông tin đối mặt với hai vấn đề lớn đặc biệt cho chuyên ngành này: sự thiếu hụt về giáo viên có năng lực và thiếu khả năng khai thác Internet. Đối với vấn đề đầu tiên, công nghệ thông tin là ngành mũi nhọn của nền kinh tế, tạo ra nhu cầu 25
  32. lớn trong các doanh nghiệp về người lao động có khả năng sử dụng thành thạo vi tính. Sự đòi hỏi này tranh đua với nhu cầu cả nước về nâng cấp và mở rộng giáo dục công nghệ thông tin. Nếu nền kinh tế Việt Nam đến gần với nền kinh tế Hoa Kỳ, Việt Nam buộc phải tăng đáng kể số lượng các trường đại học thiên về nghiên cứu. Dân số Việt Nam là 80 triệu, bằng 1/3 so với 240 triệu người của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ có ít nhất 200 trường đại học thiên về nghiên cứu, có các khoa công nghệ thông tin với khoảng 30 cán bộ giảng dạy là tiến sĩ. Nếu Việt Nam muốn đạt được trình độ giáo dục sánh ngang với Hoa Kỳ, điều này có nghĩa là cần phải có 60 trường đại học nghiên cứu, và mỗi trường có 30 cán bộ giảng dạy là tiến sĩ trong ngành công nghệ thông tin. Để chỉ riêng thoả mãn nhu cầu này, Việt Nam cần phải có 1.800 tiến sĩ ngành công nghệ thông tin. Nhu cầu của các doanh nghiệp đối với các cá nhân được đào tạo bậc cao sẽ còn lớn hơn rất nhiều. Nghĩa là các trường hàng đầu của Việt Nam sẽ phải cải tiến đáng kể chất lượng chương trình đào tạo của họ để có thể bắt đầu đào tạo ra đội ngũ giảng viên cần thiết cho các trường khác nhằm nâng cao kết quả đầu ra. Vấn đề quan trọng thứ hai là nghiên cứu trong ngành công nghệ thông tin đòi hỏi phải có nối mạng băng thông rộng và máy tính hiện đại. Các giảng viên Việt Nam sẽ không thể sánh được với các giảng viên tại các trường đại học hàng đầu thế giới nếu không có sự nâng cấp đáng kể về mạng và máy tính. Các nghiên cứu gần đây trong ngành công nghệ thông tin có thể được truy cập dưới dạng điện tử. Mạng băng thông hiện tại là một cản trở lớn đối với các nhà nghiên cứu Việt Nam. Kỹ thuật điện-điện tử-viễn thông Chương trình đào tạo ngành kỹ thuật điện-điện tử-viễn thông nhìn thoáng qua có vẻ như tương đương với các chương trình đào tạo tại phần lớn các trường kỹ thuật tại Hoa Kỳ. Tuy nhiên có một số phạm vi cần phải xem xét. Một trong số đó là một số phần trong chương trình đào tạo đã lỗi thời. Ví dụ, hai môn học vẽ kỹ thuật bắt buộc trong năm học đầu tiên. Không rõ mục đích của các môn học này là gì. Đồng thời, hầu hết các chương trình đào tạo trong hai năm đầu đều giống nhau cho tất cả sinh viên kỹ thuật, bất kể chuyên ngành, và không có lớp dạy về kỹ thuật trong năm đầu tiên. Hầu hết các chương trình đào tạo kỹ thuật tại Hoa Kỳ hiện nay đều có ít nhất một lớp kỹ thuật trong năm đầu tiên. Cuối cùng, dường như không có nhiều cơ hội cho sinh viên học môn tự chọn. Chương trình đào tạo đã kín với các môn học bắt buộc, không có nhiều linh hoạt và hạn chế sinh viên có thể thay đổi chương trình đào tạo theo sở thích đặc biệt của riêng mình. Hơn nữa, ba học kỳ đầu tiên và một phần học kỳ thứ tư của chương trình đào tạo ngành kỹ thuật là do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định, không cho phép trường tự thiết kế chương trình đào tạo của riêng mình. Sẽ tốt hơn nếu mỗi trường có nhiều sự tự chủ hơn để thử nghiệm các chương trình đào tạo thay thế. Tại một trong các trường được khảo sát, có nhiều phiên bản của một môn học được phát triển dành cho các sinh viên có trình độ khác nhau dựa trên thành tích học của sinh viên. Nhưng nội dung dường như giống nhau trong mỗi môn học. Các giảng viên hoặc sinh viên được phỏng vấn không thể nêu rõ được là những tiêu chí nào được dùng để quyết định sinh viên học môn học nào hoặc thực sự đạt được kết quả gì khi đưa ra nhiều phiên bản của cùng một môn học như vậy. 26
  33. Vật lý Đánh giá ngắn gọn về giáo dục ngành Vật lý tại Việt Nam bao gồm ngành vật lý ở cả bậc đại học và sau đại học. Hầu hết các nhận xét mang tính tổng quát và sẽ có một vài sự phân biệt giữa các trường đại học khác nhau ở phần cuối. Giảng viên rất nhiệt tình với môn học họ dạy cũng như với công tác giảng dạy ngành vật lý, và có thể nhận xét tương tự như vậy đối với các sinh viên được phỏng vấn, hầu hết các sinh viên này là sinh viên giỏi. Vật lý là một lĩnh vực hoàn thiện, và cấp độ giáo dục lý thuyết và thực hành ở bậc đại học khá chuẩn trên toàn thế giới. Vì vậy, một cuốn sách được viết từ 20-30 năm trước hiện nay vẫn có thể sử dụng làm sách giáo khoa cho sinh viên. Các môn tiêu chuẩn như cơ học, điện từ học, nhiệt động lực học và vật lý thống kê, quang học và sóng, cơ học lượng tử đều được dạy tại các trường được khảo sát. Tuy nhiên, vấn đề là ở chỗ các phòng thí nghiệm và thực hành dành cho sinh viên nhìn chung đã lỗi thời, sơ sài, hoặc thiếu thiết bị. Để việc giảng dạy các kỹ thuật tại phòng thí nghiệm đạt hiệu quả tốt thì nên có các phòng thí nghiệm tiên tiến hơn, sử dụng các công nghệ kỹ thuật đo đạc hiện đại (khuếch đại lock-in, dao động kí tốc độ cao, thiết bị cảm biến hình ảnh CCD, máy dò quang học, quang phổ laser, vi ba, nhiệt độ thấp, v.v.) trong các thí nghiệm. Một số kinh nghiệm ở phòng thí nghiệm như vậy có thể thấy được ở các trường đại học hàng đầu thế giới khi sinh viên tham gia vào các nhóm nghiên cứu thực nghiệm ở năm thứ ba và thứ tư; nhưng các thí nghiệm này khá cụ thể và tập trung chứ không mang tính chung chung hay trên diện rộng. Một vấn đề nghiêm trọng khác đối với sinh viên thấy được qua phỏng vấn tại các trường đại học Việt Nam, là trong chương trình đào tạo có nhiều môn học bắt buộc trong khi có rất ít các môn tự chọn. Chương trình đào tạo có thể dễ dàng giảm tải đi một nửa mà vẫn đảm bảo cung cấp cho sinh viên các kiến thức trọng tâm. Sinh viên nhận đựơc rất ít phản hồi về việc học của mình trong suốt năm học và nhiều sinh viên không có thời gian để làm bài tập về nhà và đa số giảng viên không theo dõi hay chấm điểm. Giảng viên làm việc quá nhiều để có thêm thu nhập, do đó không có thời gian tiếp xúc với sinh viên và phản hồi về quá trình học tập của sinh viên. Ở bậc sau đại học, các môn học nâng cao được dạy ở trình độ tối thiểu, và các phòng thí nghiệm thua kém hẳn so với các trường đại học hàng đầu thế giới. Các phòng thí nghiệm được trang bị không đầy đủ và chật chội; nhiều trường hợp, phòng thí nghiệm thực hành là phía sau bàn học của sinh viên. Như một thước đo về trình độ, tại các trường được khảo sát, vật lý nhiệt độ thấp được xem là làm việc với ni tơ lỏng (77.3K) trong khi theo mức độ của quốc tế (mức mà heli hóa lỏng), vật lý nhiệt độ thấp khởi đầu với heli lỏng (4.2K và thấp hơn) và hạ xuống nhiệt độ mmK hoặc ngay cả μmK. Cuối cùng, đoàn chuyên gia nhận thấy có một sự chênh lệch về mức độ, thiết bị và các yêu cầu giáo dục, được cải thiện từ các trường đại học về khoa học tự nhiên, đến trường đại học bách khoa, và từ Nam ra Bắc. Các nỗ lực nên được xem xét để công bằng hoá về cơ hội giáo dục. III. CÁC TÌNH HUỐNG ĐỂ THAY ĐỔI Trong phần này, các tình huống để thay đổi dưới đây là sự kết hợp các khuyến nghị từ năm phạm vi chủ đề với các quan sát ngành học cụ thể. Nhưng trước tiên, cần bàn tới việc quản lý thay đổi để định hướng cho việc thiết lập và thực thi tình huống thay đổi 27
  34. và các dự án thí điểm tiềm năng có thể tạo ra các mô hình cho sự phát triển của giáo dục đại học tại Việt Nam có thể áp dụng được ở tất cả các ngành học và các trường. Quản lý sự thay đổi trong cải cách giáo dục đại học Nội dung cơ bản của Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP của Chính phủ ngày 2/11/2005 về Đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006- 2020 là việc cải tiến cả về quy trình và kết quả của giáo dục đại học không chỉ được mong đợi, mà trên thực tế, là rất cần thiết. Yêu cầu này phù hợp với nhiệm vụ của đoàn chuyên gia Hoa Kỳ do VEF mời thông qua Viện Hàn lâm Quốc gia Hoa Kỳ; cụ thể là đánh giá tình trạng giáo dục đại học trong một số ngành cụ thể và đưa ra các quan sát và khuyến nghị với mục tiêu là giúp cải tiến giáo dục đại học Việt Nam. Tuy nhiên, đây là một thách thức rất lớn khi phải xem xét thay đổi toàn bộ các yếu tố cấu thành hệ thống giáo dục đại học của một quốc gia, bao gồm cơ cấu tổ chức, chính sách, phương pháp giảng dạy và học tập, quy trình quản lý và tài chính. Sự điều chỉnh rộng lớn như thế đòi hỏi có hoạch định và quản lý kỹ lưỡng, chu đáo, một cách có hệ thống đối với quá trình thay đổi. Tám điều kiện tổng quát sau đây là tổng hợp của nhiều nghiên cứu khác nhau về sự thay đổi tổ chức (Ely, 1990). Các điều kiện này rất quan trọng để có thể đưa ra các kế hoạch hợp lý và để đảm bảo các thay đổi, cuối cùng, sẽ được thể chế hóa. Các điều kiện này được sử dụng như là cấu trúc tổ chức đối với các khuyến nghị trình bày trong báo cáo. Tiếp theo chủ đề là câu trích dẫn có thể được sử dụng bởi các cá nhân tham gia vào quá trình thay đổi và mang tính khái quát cho toàn bộ ý tưởng. Tất cả các điều kiện này được đưa ra đều liên quan đến mục đích và kết quả của báo cáo này. 1. Không bằng lòng với tình trạng hiện tại: “Mọi thứ có thể tốt hơn.” Sự không hài lòng ở mức độ nào đó xuất hiện trong cộng đồng giáo dục đại học Việt Nam, bao gồm Bộ Giáo dục và Đào tạo, các nhà quản lý trường đại học, giảng viên và sinh viên. Nghị quyết số 14 về Đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam năm 2006-2020 của Chính phủ cũng đã phản ánh điều kiện này. 2. Có kiến thức và kỹ năng: “Người thực hiện thay đổi phải có khả năng làm được việc.” Ở Việt Nam vẫn có kiến thức và các kỹ năng cơ bản, tuy nhiên chúng thấp hơn so với các mô hình giáo dục đại học của Hoa Kỳ, bao gồm phương pháp giảng dạy và học tập, cấu trúc chương trình đào tạo, tài chính của trường, đánh giá và kiểm định. Khắc phục điều kiện này đòi hỏi cần phải phát triển mạnh về giảng viên, quản lý và tổ chức. Cần có các hội thảo tập huấn, chuyên gia hỗ trợ tại chỗ, các điển cứu và các ví dụ thực tiễn, các mô hình mới về giáo dục đại học. 3. Có các nguồn lực: “Thiếu nguồn lực hoặc có mà không phù hợp có thể làm tê liệt sự thay đổi." Phạm vi và bản chất của các thay đổi cần thiết cho việc cải cách giáo dục đại học Việt Nam bao hàm sự bổ sung rất nhiều nguồn lực đa dạng khác nhau. Các nguồn lực quan trọng cần xem xét bao gồm: giảng viên đủ năng lực, đủ số lượng, trang thiết bị phòng thí nghiệm đầy đủ, hiện đại, tài liệu học tập cập nhật, thiết bị học tập chất lượng và có nguồn kinh phí để chi trả cho các nguồn lực này. 28
  35. 4. Có thời gian: “Có thời gian cá nhân và các mốc thời gian tổ chức.” Thời gian là nguồn lực đặc biệt liên quan đến nhiều yếu tố trong quá trình thay đổi, bao gồm: (a) đối với giảng viên - thời gian tính theo ngày (ví dụ, thời gian để đưa ra những phản hồi thích đáng) và thời gian phát triển nghiệp vụ chuyên môn dài hạn (như thời gian phát triển kiến thức và kỹ năng mới); (b) đối với các trường và các khoa - thời gian phát triển về cách thức giảng dạy và cơ cấu tổ chức (như thời gian thay đổi cấu trúc và phương pháp); và (c) đối với cấp đưa ra quyết định mang tầm quốc gia - thời gian xây dựng năng lực (như thời gian nâng cao nguồn lực cho Bộ Giáo dục và Đào tạo cho quy trình đánh giá và kiểm định, thời gian cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cho việc phát triển nghiệp vụ chuyên môn và cách thức giảng dạy, và thời gian nâng cao năng lực quản lý dự án và sự thay đổi). 5. Có khen thưởng và khuyến khích dành cho người tham gia: “Tôi có được điều gì trong đó?” Tất cả các thành viên tham gia, gồm các nhà quản lý, giảng viên, nhân viên hỗ trợ, và sinh viên đều muốn biết lợi ích của sự thay đổi, bao gồm sự khuyến khích khi tham gia vào quá trình thay đổi, và khen thưởng khi thực hiện thành công sự thay đổi. Sự tập trung toàn diện và kiên định đối với các sự khích lệ cho sự thay đổi là một phần quan trọng của quy trình đổi mới có hoạch định. 6. Có sự mong đợi và khuyến khích mọi người tham gia: "Tại sao tôi nên thay đổi?" Các khích lệ quan trọng để thay đổi chính là các kỳ vọng do các nhà quản lý hành chính chính thức và các nhà lãnh đạo không chính thức đặt ra. Những khích lệ này sẽ tạo điều kiện cho nhiều người tham gia hơn bao gồm những người được mời tham gia hoặc tình nguyện tham gia trong quá trình thay đổi. Do đó, việc khuyến khích nhiều người tham gia ủng hộ cho việc thay đổi sẽ giúp chuyển đổi từ việc chỉ có những người chấp nhận ban đầu thực hiện sự đổi mới sang thành đa số người sẵn lòng thực hiện trong bất cứ cộng đồng nào. 7. Cam kết: "Thể chế hoá lâu dài sự đổi mới là cần thiết." Nếu chỉ có sự ủng hộ của các quan chức nhà nước và các hiệu trưởng là chưa đủ để thực hiện một sự thay đổi lớn, như cải cách giáo dục đại học tại Việt Nam. Trưởng khoa, bộ môn; giảng viên và sinh viên phải cam kết thực hiện sự thay đổi mới toàn diện. Hình thức thực hiện cam kết có thể khác nhau tuỳ vào vị trí và vai trò, nhưng tất cả phải đảm bảo các thông điệp và hành động nhất quán thể hiện cam kết của mình. 8. Lãnh đạo: "Cần thiết phải xác định và phát triển các lãnh đạo chính quy và không chính quy." Trong giai đoạn đầu của quá trình thay đổi, yêu cầu phải có sự lãnh đạo chính quy cao cấp ở tất cả lĩnh vực để định ra chỉ tiêu, khuyến khích, khen thưởng cho việc tham gia vào quá trình thay đổi. Khi các thay đổi được thực thi, nhiều lãnh đạo khác, bao gồm các nhà lãnh đạo không chính quy thuộc các nhóm như các giảng viên và sinh viên mới cần đóng vai trò lãnh đạo. Các vấn đề được đoàn chuyên gia Mỹ nhận định bao gồm các thông tin liên quan đến các điều kiện này. Các khuyến nghị bao gồm các chiến lược và sự can thiệp nhằm tạo ra các điều kiện trên và từ đó tạo điều kiện cho công tác quản lý sự thay đổi toàn diện nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đại học tại Việt Nam. Sau đây là các tình huống và dự án thí điểm tiềm năng để hợp nhất với các thông tin mà đoàn chuyên gia cung cấp. 29
  36. Tình huống và dự án thí điểm Các tình huống sau đây phát họa bối cảnh cho các dự án thí điểm của các cấp, trong đó bao gồm Bộ Giáo dục và Đào tạo và các trường Đại học quốc gia Việt Nam, các trường đại học khu vực, trường đại học ở cấp địa phương, và các chương trình đào tạo của các khoa ở cấp trường. Các tình huống này đưa ra các mô tả chung về các hành động cần thực hiện ở mỗi cấp. Các cơ hội để cải tiến đã được đề cập trong những phần trước sẽ đưa ra các khuyến nghị cụ thể có thể áp dụng để thực hiện các tình huống. Cấp quốc gia Như đã nêu trên, Nghị quyết 14 yêu cầu cải cách cả về quy trình và kết quả của giáo dục đại học tại Việt Nam. Bộ Giáo dục và Đào tạo là cơ quan chính chịu trách nhiệm đảm bảo cho những cải cách này. Do đó, một tình huống để đổi mới do Bộ Giáo dục và Đào tạo dẫn đầu có thể bao gồm các hoạt động sau: 1. Nỗ lực mang tính quốc gia để tạo điều kiện tiếp cận được các thông tin cập nhật nhất cho tất cả các trường thông qua mạng Internet băng thông rộng, truy cập được các tạp chí điện tử và các cơ sở dữ liệu. Bằng cách ký hợp đồng với một số nhà cung cấp dịch vụ, Bộ Giáo dục và Đào tạo có thể tạo được hệ thống mạng thông tin trải khắp cả nước liên quan đến các ngành học cụ thể và phương pháp sư phạm. Từ đó, sẽ tạo nền tảng cho các nỗ lực xây dựng năng lực cho giảng viên về các kiến thức liên quan, các phương pháp giảng dạy, tương tác với sinh viên và nghiên cứu. 2. Các nỗ lực của các nhà lãnh đạo để tiếp tục duy trì quyền tự chủ và sự linh hoạt để các chương trình đào tạo có được chương trình giảng dạy cập nhật. Một bước mà Bộ Giáo dục và Đào tạo cần xem xét là chỉnh sửa và tổ chức lại các môn học bắt buộc, cho phép các trường được quyết định về chương trình đào tạo. 3. Đánh giá hiệu quả của trường nhấn mạnh đến sự cải tiến không ngừng. Bộ Giáo dục và Đào tạo có thể xem xét đến việc yêu cầu các trường phải chịu trách nhiệm trong khi được Bộ Giáo dục và Đào tạo tăng quyền tự chủ và tính linh hoạt cho các trường 4. Quá trình đánh giá chương trình học kết hợp các phản hồi của các học giả trong và ngoài nước có chuyên môn cả về nội dung và phương pháp giảng dạy. Sự thiết lập và thực hiện quá trình đánh giá chương trình học cũng có thể được xem là một “tiêu chí” trong việc kiểm định đối với cơ sở đào tạo. 5. Cách thức đánh giá chất lượng của trường đại học tại Việt Nam dựa trên sự cải thiện không ngừng của kết quả học tập của sinh viên và hiệu suất nghiên cứu. Bộ Giáo dục và Đào tạo có thể xem xét việc thành lập cơ chế hỗ trợ cho các trường được đánh giá là có chất lượng thấp để nâng chất lượng lên mức cao nhất có thể. 6. Cách thức đảm bảo cho sự thay đổi bằng cách các cấp trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam, bao gồm cả Bộ Giáo dục và Đào tạo, phải nỗ lực hỗ trợ cho việc phát triển nghiệp vụ chuyên môn một cách có hệ thống. 30
  37. Trường đại học quốc gia Việt Nam Đại học Quốc gia đưa ra cơ cấu tổ chức tiềm năng để tạo điều kiện cho những nỗ lực phát triển nghiệp vụ chuyên môn và tổ chức một cách có hệ thống. Trong số các trường thành viên của Đại học Quốc gia, có các chuyên gia chuyên ngành và phương pháp sư phạm cũng như rất nhiều nhà quản lý và các giảng viên có nhiều kinh nghiệm, có học vị cao từ các trường quốc tế. Ngoài ra, có các đơn vị chuyên phụ trách công tác đánh giá và nâng cao chất lượng. Tình huống để thay đổi do Đại học Quốc gia thực hiện có thể bao gồm các hoạt động sau: 1. Các chuyên gia tại Đại học Quốc gia cung cấp đội ngũ lãnh đạo để thành lập các Trung tâm xuất sắc về giảng dạy và học tập tại mỗi trường. 2. Đại học Quốc gia và các Trung tâm xuất sắc về giảng dạy và học tập ở các trường sẽ giúp tổ chức các hội thảo phát triển nghiệp vụ chuyên môn để xây dựng năng lực cho đội ngũ giảng viên và các nhà quản lý đào tạo với mục đích cải tiến chương trình đào tạo, nội dung môn học và phương pháp giảng dạy. 3. Các nỗ lực phát triển lâu dài có thể được định hướng bởi các chuyên gia tư vấn trong và ngoài nước, những người có khả năng xây dựng mối quan hệ với các trường khác. Điều cần thiết là mỗi cuộc hội thảo và các hoạt động phát triển dài hạn phải được định hướng theo các mục đích cụ thể và các mục tiêu có thể đo lường được liên quan đến công tác xây dựng năng lực trực tiếp, nâng cao công tác giảng dạy và cải tiến học tập của sinh viên. Cấp trường Tại mỗi trường, các nhà quản lý chịu trách nhiệm phát huy quyền tự chủ và tính linh hoạt mà Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép. Tình huống để thay đổi do các trường thực hiện bao gồm các hoạt động sau: 1. Điều chỉnh chương trình đào tạo, hợp nhất các môn học, giảm số môn học để tương ứng với các trường hàng đầu, cụ thể đối với hệ chế tín chỉ thì chỉ cần từ 120-130 tín chỉ để hoàn thành bậc giáo dục đại học. 2. Giảm số môn giảng viên phải dạy trong mỗi học kỳ. Tuy nhiên, điều quan trọng là giảm khối lượng giảng dạy của giảng viên nhưng không làm ảnh hưởng đến thu nhập của họ. Sự thay đổi này có thể thực hiện bằng cách tổng số tiền lương và tiền thưởng trả cho giảng viên đủ để hỗ trợ cho họ làm việc cả tuần tương đương 40 giờ, bao gồm cả trách nhiệm nghề nghiệp, nghiên cứu và tham gia các hoạt động tại trường. Với chế độ lương được điều chỉnh, giảng viên sẽ không cần làm thêm ở ngoài. Điều quan trọng là số lượng môn học sẽ phải độc lập với mức lương/thu nhập. 3. Thay đổi hệ thống khen thưởng để các khoản lương và thưởng sẽ được tính theo thành tích về chuyên môn nghiệp vụ của giáo viên (tư vấn sinh viên, nâng cao cách thức giảng dạy, quản lý khoa) và thực hiện nghiên cứu bên cạnh việc giảng dạy tại trường. 4. Thiết lập chương trình phát triển giảng viên và chương trình đánh giá, xem đây là cách để đề bạt vào vị trí cao hơn. Trưởng khoa có thể xem xét thực hiện đánh giá hàng năm tập trung vào hiệu quả giảng dạy và gắn liền với tăng lương khi được 31
  38. khen thưởng. Chương trình thăng tiến sẽ xem xét đến các điều kiện liên quan đến bằng chứng về kết quả học tập của sinh viên, kết quả đánh giá môn học của sinh viên, chất lượng của các ấn phẩm, các bài tham luận tại hội nghị, phát triển môn học, số tiền được tài trợ cho việc nghiên cứu, mối liên hệ hiệu quả với các doanh nghiệp, và tham gia các hoạt động phục vục cho khoa và trường. 5. Soạn sách hướng dẫn cho giảng viên, trong đó nêu rõ các quy trình và các bước trong hệ thống khen thưởng (như thăng tiến, khen thưởng, bổ nhiệm). 6. Thiết lập các Trung tâm xuất sắc về giảng dạy và học tập tại mỗi trường đại học (với sự hỗ trợ nguồn lực của Đại học Quốc gia và Bộ Giáo dục và Đào tạo). Quan trọng là các trung tâm này phải có đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm và có nguồn tài liệu dưới dạng ấn phẩm và điện tử, hỗ trợ phát triển cách thức giảng dạy, nghiệp vụ chuyên môn và sư phạm. Các trung tâm này có thể mở các hội thảo đã định trước và các hoạt động đào tạo khác với sự tham gia của các chuyên gia quốc tế, những người có kỹ năng về sư phạm và thiết kế giảng dạy cũng như có chuyên ngành như công nghệ thông tin, kỹ thuật điện-điện tử-viễn thông và vật lý. 7. Tạo cơ hội cho các nhà quản lý và giảng viên đi nước ngoài học tập hoặc tham gia các chương trình về chuyên môn nghiệp vụ để trực tiếp quan sát phương pháp học tích cực và các cách thực hành sư phạm hiệu quả khác. 8. Cung cấp nguồn tài liệu mới nhất dưới dạng ấn phẩm và điện tử (sách, tạp chí, v.v.) cho giảng viên và sinh viên nhằm tạo điều kiện tốt cho giảng dạy, học tập và nghiên cứu. Có thể đạt được điều này khi có sự hợp tác giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo và Đại học Quốc gia. 9. Tạo điều kiện giảng viên truy cập Internet băng thông rộng và cung cấp đủ các máy vi tính hiện đại để giảng dạy. 10. Hiện đại hóa trang thiết bị phòng thí nghiệm để thực hành thí nghiệm, bài tập, dự án nhằm thúc đẩy khả năng tư duy và các kỹ năng giải quyết vấn đề. 11. Thiết lập kế hoạch nâng cao hiệu quả của trường (IEP) để đưa ra các chiến lược, sơ đồ thời gian, và các tiêu chuẩn để cải tiến hiệu quả theo thứ tự ưu tiên. Nói chung, các hoạt động này không chỉ tạo môi trường làm việc thuận lợi để thu hút và giữ chân các giảng viên giàu nhiệt huyết và được đào tạo ở nước ngoài, mà còn chuẩn bị tốt cho sinh viên Việt Nam có thể sánh vai với các sinh viên tại các trường hàng đầu trên thế giới. Cấp chương trình đào tạo Mục đích chính của Dự án giáo dục đại học là đánh giá hiện trạng của công tác giảng dạy và học tập trong ngành công nghệ thông tin, kỹ thuật điện-điện tử-viễn thông và vật lý ở bốn trường đại học của Việt Nam để có thể đưa ra các mô hình về cải tiến giáo dục đại học. Các dự án thí điểm về chương trình đào tạo đã đưa ra những mô hình để cải tiến việc giảng dạy và học tập bậc đại học, chương trình đào tạo đại học, môn học, giảng viên, đào tạo và nghiên cứu sau đại học, đánh giá kết quả học tập của sinh viên. Tình huống để thay đổi do các khoa thực hiện ở cấp độ chương trình đào tạo có thể bao gồm các hoạt động sau: 1. Các dự án giảng dạy và học tập đại học tập trung vào: (a) nâng cao cấp độ học tập từ học thuộc lòng lý thuyết lên khả năng tư duy cao hơn; (b) kết hợp chiến lược học tập linh họat vào các buổi thảo luận trên lớp; (c) yêu cầu có các bài tập về nhà 32