Báo cáo Ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dụng ðến lối sống của sinh viên Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh (Phần 1)

pdf 22 trang phuongnguyen 1550
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo Ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dụng ðến lối sống của sinh viên Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh (Phần 1)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbao_cao_anh_huong_cua_chu_nghia_thuc_dung_en_loi_song_cua_si.pdf

Nội dung text: Báo cáo Ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dụng ðến lối sống của sinh viên Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh (Phần 1)

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH BÁO CÁO TỔNG KẾT ÐỀ TÀI KH&CN CẤP TRƯỜNG TRỌNG ÐIỂM ẢNH HƯỞNG CỦA CHỦ NGHĨA THỰC DỤNG ÐẾN LỐI SỐNG CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ÐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY Mã số: T2014 - 137 Chủ nhiệm đề tài: GV. ThS. ÐẶNG THỊ MINH TUẤN S K C0 0 5 4 7 4 Tp. Hồ Chí Minh, tháng 11/2014
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI KH&CN CẤP TRƯỜNG ẢNH HƯỞNG CỦA CHỦ NGHĨA THỰC DỤNG ĐẾN LỐI SỐNG CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY Mã số: T2014 - 137 Chủ nhiệm đề tài: GV. ThS. ĐẶNG THỊ MINH TUẤN TP. HCM, 11/2014
  3. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI KH&CN CẤP TRƯỜNG ẢNH HƯỞNG CỦA CHỦ NGHĨA THỰC DỤNG ĐẾN LỐI SỐNG CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY Mã số: T2014 - 137 Chủ nhiệm đề tài: GV.ThS. ĐẶNG THỊ MINH TUẤN TP. HCM, 11/2014
  4. MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1 1. Tính cấp thiết của đề tài 1 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài 1 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 2 3.1. Mục đích của đề tài 2 3.2. Nhiệm vụ của đề tài 2 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 3 4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài 3 4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài 3 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài 3 5.1. Cơ sở lý luận 3 5.2. Phương pháp nghiên cứu của đề tài 3 6. Đóng góp mới của đề tài 4 7. Kết cấu của đề tài 4 Chương 1 CHỦ NGHĨA THỰC DỤNG VÀ 5 1.1. Khái quát sự ra đời, phát triển và nội dung cơ bản của chủ nghĩa thực dụng . 5 1.1.1 Điều kiện kinh tế - xã hội và tiền đề lý luận của chủ nghĩa thực dụng 5 1.1.2. Khái lược quá trình phát triển của chủ nghĩa thực dụng 9 1.1.3. Nội dung cơ bản của chủ nghĩa thực dụng 11 1.2. Ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dụng đối với đời sống xã hội và sự du nhập vào Việt Nam 20 1.2.1. Ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dụng đối với đời sống xã hội làm định hình lối sống Mỹ 20 1.2.2 Sự du nhập chủ nghĩa thực dụng vào Việt Nam 24
  5. Chương 2 LỐI SỐNG CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT HIỆN NAY DƯỚI ẢNH HƯỞNG CỦA CHỦ NGHĨA THỰC DỤNG 29 2.1. Biểu hiện của lối sống thực dụng trong sinh viên trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật hiện nay 29 2.1.1. Thông tin chung về phương pháp nghiên cứu, địa bàn và đối tượng khảo sát 29 2.1.2. Kết quả điều tra biểu hiện của lối sống thực dụng trong sinh viên trường đại học Sư phạm Kỹ thuật hiện nay 30 2.2. Một số giải pháp giáo dục, định hướng lối sống lành mạnh cho sinh viên 37 PHẦN KẾT LUẬN 45 TÀI LIỆU THAM KHẢO 46 PHỤ LỤC 49
  6. 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Chủ nghĩa thực dụnglà một trào lưu triết họcthuộc khuynh hướng khoa học của triết học phương tây hiện đại. Hình thành vào cuối thế kỷ XIX và phát triển mạnh mẽ vào đầu thế kỷ XX, nó nhanh chóng trở thành diện mạo đặc trưng của tư tưởng Mỹ với tính cách là triết học bán chính thức của lối sống Mỹ. Cùng với quátrình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, Việt Nam đang bước vào thời kỳ phát triển mới, việc tích cực và chủ động hội nhập toàn cầu hóa đã tạo điều kiện cho các nền văn hoá phương tây du nhập vào nước ta, trong đó có chủ nghĩa thực dụng. Chủ nghĩa thực dụng du nhập vào Việt Nam với tư cách là một lối sống hơn là một học thuyết triết học. Hiện tại, nó có những tác động không nhỏ đến tư duy, cách hành động, cách ứng xử trong cuộc sống của nhân dân mà đặc biệt là thế hệ trẻ. Nghiên cứu về chủ nghĩa thực dụng và ảnh hưởng của nó đến lối sống của sinh viên nói chung, sinh viên trường đại học sư phạm kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh nói riêng có ý nghĩa quan trọng trong việc góp phần giữ gìn, phát huy hệ giá trị truyền thống của dân tộc, giáo dục sinh viên định hướng lối sống lành mạnh, tiến tới góp phần hiện thực hoá triết lý giáo dục của trường Đại học sư phạm kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ mới. Vì lý do đó, tác giả chọn đề tài: “Ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dụng đến lối sống của sinh viên trường Đại học Sư phạm kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.” làm đề tài nghiên cứu khoa học của mình. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài Ở Việt Nam, trong những năm gần đây đã có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu các vấn đề của triết học phương tây hiện đại trong đó có chủ nghĩa
  7. 2 thực dụng. Tuy nhiên, cho đến nay, các nghiên cứu về chủ nghĩa thực dụng mới chỉ là những gợi mở ban đầu. Trong đó, phải kể đến các tác phẩm như: - Mấy trào lưu triết học phương Tây của tác giả Nguyễn Minh Lăng phân tích và đánh giá những vấn đề hạn chế của chủ nghĩa thực dụng. - Các con đường của triết học phương Tây hiện đại của tác giả Đinh Ngọc Thạch và Phạm Đình Nghiệm phân tích vấn đề nhận thức luận và đưa ra những đánh giá thể hiện tính hai mặt của chủ nghĩa thực dụng. - Chủ nghĩa thực dụng và ảnh hưởng của nó đến đời sống xã hội, Luận văn thạc sỹ của tác giả Mai Phú Hợp nghiên cứu chủ nghĩa thực dụng và những ảnh hưởng của nó đến đời sống xã hội Việt Nam hiện đại. - Ngoài ra, còn có các tác phẩm dịch thuật nghiên cứu nội dung của chủ nghĩa thực dụng như Phê phán chủ nghĩa thực dụng của U.K.Menvin, Triết học phương tây hiện đại, giáo trình tiến tới thế kỷ 21 của Lưu Phóng Đồng 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích của đề tài Nghiên cứu tính hai mặt của chủ nghĩa thực dụng trong triết học và những ảnh hưởng của nó đến lối sống của sinh viên ở trường đại học sư phạm kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh, từ đó đề xuất những giải pháp góp phần giáo dục sinh viên định hướng lối sống lành mạnh. 3.2. Nhiệm vụ của đề tài Để đạt được mục đích nêu trên, đề tài tập trung vào thực hiện các nhiệm vụ sau: Thứ nhất: trình bày khái quát sự hình thành, quá trình phát triển, nội dung cơ bản của chủ nghĩa thực dụng và sự du nhập của chủ nghĩa thực dụng vào Việt Nam. Thứ hai: điều tra biểu hiện của lối sống thực dụng trong sinh viên đại học Sư phạm kỹ thuật hiện nay.
  8. 3 Thứ ba:đề xuất các giải pháp định hướng lối sống lành mạnh cho sinh viên trường đại học Sư phạm kỹ thuật từ quan điểm của chủ nghĩa thực dụng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 4.1.Đối tượng nghiên cứu của đề tài Chủ nghĩa thực dụng và ảnh hưởng của nó đến lối sống của sinh viên trường Đại học Sư phạm kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay. 4.2.Phạm vi nghiên cứu của đề tài Trong phạm vi đề tài đã chọn, tác giả khái quát sự hình thành, phát triển, nội dung cơ bản của chủ nghĩa thực dụng và điều tra biểu hiện của lối sống thực dụng trong sinh viên của các khoa thuộc trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật hiện nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài 5.1. Cơ sở lý luận Để thực hiện những yêu cầu trên, đề tài chủ yếu dựa trên cơ sở lý luận triết học và quan điểm phát triển văn hoá xã hội – con người của Đảng Cộng sản Việt Nam; đồng thời có kế thừa những kết quả của một số công trình nghiên cứu đã công bố có liên quan đến đề tài. 5.2.Phương pháp nghiên cứu của đề tài Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời với từng nhiệm vụ đề ra, đề tài sử dụng những phương pháp cụ thể tương ứng: Nhiệm vụ 1: sử dụng phương pháp lịch sử và logic, nghiên cứu tài liệu; Nhiệm vụ 2: sử dụng phương pháp điềutra xã hội học, điều tra giáo dục, so sánh - đối chiếu, phân tích - tổng hợp để xử lý số liệu thu thập được từ phiếuđiều tra dành cho sinh viên trường Đại họcSư phạm kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh.
  9. 4 Nhiệm vụ 3: sử dụng phương pháp phân tích - tổng hợp kinh nghiệm giáo dục, tham khảo tài liệu, quy nạp - diễn dịch, phương pháp chuyên gia, phương pháp giả thuyết 6. Đóng góp mới của đề tài Giúp cho Ban Giám hiệu, Phòng Công tác học sinh sinh viên, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp sinh viên Việt Nam và cán bộ giáo viên của trường có thêm góc nhìn toàn diện về lối sống của sinh viên trong trường, từ đó có những nội dung và phương pháp phù hợp nhằm giáo dục sinh viên xây dựng và phát huy lối sống lành mạnh, đảm bảo đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu xã hội của nhà trường trong giai đoạn hiện nay. Đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu, học tập môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, Nhập môn xã hội học và các môn học thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. 7. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, báo cáo của đề tài gồm có hai chương vàbốn tiết:
  10. 5 Chương 1 CHỦ NGHĨA THỰC DỤNG VÀ QUÁ TRÌNH DU NHẬP VÀO VIỆT NAM 1.1. Khái quát sự ra đời, phát triển và nội dung cơ bản của chủ nghĩa thực dụng 1.1.1 Điều kiện kinh tế - xã hội và tiền đề lý luận của chủ nghĩa thực dụng Chủ nghĩa thực dụng (Pragmatism) với tư cách là một trường phái triết học thuộc khuynh hướng khoa học hình thành vào nữa sau thế kỷ XIX, phát triển mạnh mẽ vào đầu thế kỷ XX. Đó là trào lưu triết học mang tính đặc trưng của tư tưởng Mỹ vì nó ra đời từ những điều kiện lịch sử đặc thù của nước Mỹ, thâm nhập sâu vào đời sống, chính trị, văn hoá, xã hội Mỹ và trở thành học thuyết triết học bán chính thức của lối sống Mỹ. Nước Mỹ hình thành từ làn sóng di dân của “tứ chiếng” dân tộc, từ nhiều nước trên thế giới. Vì vậy, về đặc điểm dân cư, Mỹ là một xã hội có thành phần dân cư đa dạng, là nơi hội tụ của nhiều sắc tộc, quốc tịch và tôn giáo hoàn toàn khác nhau trong đó phần lớn là dân di cư từ châu Âu. Họ rời bỏ quê hương bản quán để tránh các cuộc đàn áp chính trị, để tìm tự do thực hành tôn giáo của họ hoặc để tìm kiếm phiêu lưu và những vận may mà không có được từ quê hương của họ. Nước Mỹ hình thành từ những thế hệ người nhập cư như thế. Mỗi nhóm di dân đều mang theo truyền thống trong đó có triết học của mình. Ở đây họ không phải đương đầu với chủ nghĩa phong kiến và ý thức hệ của nó như khi họ còn ở quê nhà. Mặc dù mục đích di cư và hình thức nhập cư khác nhau, quá trình hoà nhập văn hoá cũng khác nhau nhưng những thành phần nhập cư từ các nơi trên thế giới qua thời gian đã dần dần có sự gắn kết trong một môi trường chung. Và sự khác biệt lớn về sắc tộc, văn hoá, tôn giáo, truyền thống buộc phải mất dần đi tính xung đột
  11. 6 và đối kháng để cuối cùng, khi cách mạng Mỹ nổ ra thì chính các nhóm dân di cư này đã liên kết với nhau đấu tranh vì “quyền con người” nói chung chứ không phải vì một sắc tộc riêng lẻ nào. Về mặt kinh tế, bộ máy nhà nước Mỹ hình thành và hoàn thiện trong thời kỳ phát triển đỉnh cao của chủ nghĩa tư bản độc quyền. Vì vậy, nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển, chính phủ Mỹ đã cố gắng tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp tư nhân trong sản xuất nông nghiệp và công nghiệp. Giữa hai cuộc chiến lớn là Nội chiến và Chiến tranh thế giới thứ nhất, trong chưa đầy năm mươi năm, nước Mỹ đã chuyển hoá từ nước cộng hoà nông thôn thành một quốc gia đô thị. Và đến sau “chiến tranh lạnh”, nền kinh tế Liên bang Mỹ có những bước tiến ngoạn mục. Nước Mỹ trở thành một nước tư bản có nền kinh tế điển hình đứng đầu thế giới. Đến cuối thế kỷ XIX, sản xuất nông nghiệp ở Mỹ đã nhường chỗ cho công nghiệp hoá và phát triển thương mại. Nhờ sự hỗ trợ của khoa học kỹ thuật, “công nghiệp cũng phát triển nhanh chóng, cho tới năm 1850, giá trị những sản phẩm chế tạo đã vượt qua giá trị sản phẩm nông nghiệp trong thu nhập quốc dân”. Về chính trị, so với các nước châu Âu, chủ nghĩa tư bản Mỹ không gặp sự cản trở của thế lực phong kiến hùng mạnh nên phát triển khá thuận lợi. Một thể chế chính trị tư sản về dân chủ, về tự do, về quyền con người được xây dựng hoàn chỉnh càng tạo điều kiện cho kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ. Chính ở đây, quan niệm giá trị của chủ nghĩa cá nhân được lưu hành sâu rộng nhất. Mảnh đất màu mỡ chưa khai phá này cho phép người ta không phải đấu tranh sinh tồn khốc liệt như ở nơi khác, con người không phải suy nghĩ về sự trói buộc của các lực lượng siêu nhiên hay ý thức hệ phong kiến như ở nơi quê nhà của họ. Vì vậy, họ tự do theo đuổi thành công, lợi ích, hiệu quả cá nhân.
  12. 7 Về văn hoá, trong quá trình nhập cư, mỗi nhóm dân đều mang theo văn hoá riêng của dân tộc mình. Vì vậy, Mỹ là một quốc gia có nền văn hoá đa dạng. Tuy nhiên, dân tộc Mỹ luôn khao khát có một bản sắc riêng, tự do và độc đáo. Cho nên, văn hoá Mỹ là nền văn hoá mới trong đó có sự dung hợp của nhiều nền văn hoá truyền thống từ châu Âu và các nước trên thế giới do các nhóm dân di cư mang lại. Nền văn hoá mà ở đó hiệu quả và hữu dụng được lấy làm tư tưởng và hành động của mọi người bất kể họ thuộc nền văn hoá truyền thống nào. Về tâm linh, các nhóm định cư muốn tìm được cơ hội tự do hơn trong việc tiến hành tín ngưỡng của họ ở vùng đất mới. Vì vậy, ngay từ buổi đầu, người Mỹ đã tìm cách phân tách giữa nhà thờ và nhà nước, giữa tôn giáo và chính phủ. Hiến pháp Mỹ nêu rõ, không cho phép nhà nước có bất cứ sự thiên vị nào đối với bất kỳ một tôn giáo nào cũng như không được có bất kỳ ngăn cản nào đối với hoạt động của một loại hình tôn giáo cụ thể. Đa số người Mỹ dĩ nhiên đều có tín ngưỡng tôn giáo nhưng họ muốn làm cho tôn giáo phù hợp với yêu cầu thu được lợi ích, thành công. Chính những đặc trưng về mặt thực tiễn này đã khiến cho nhiệm vụ chủ yếu của triết học Mỹ là phải trực tiếp luận chứng lợi ích cá nhân mà dân di cư theo đuổi. Chủ nghĩa thực dụng phù hợp với yêu cầu đó. Giữa các đại biểu chủ yếu của chủ nghĩa thực dụng, tuy có nhiều điểm khác nhau, nhưng nhìn chung triết học của họ đều giới hạn trong phạm vi kinh nghiệm, coi tri thức là công cụ để thích ứng với hoàn cảnh, coi chân lý là cái có ích. Chủ nghĩa thực dụng thể hiện một cách nổi bật phương thức tư duy và phương thức hành động vì mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận của xã hội Mỹ. Đó chính là nguyên nhân khiến chủ nghĩa thực dụng ra đời và chiếm vị trí thống trị lâu dài tại Mỹ. Về tiền đề lý luận, chủ nghĩa thực dụng đã kế thừa có chọn lọc tư tưởng của nhiều trường phái triết học khác nhau trong lịch sử tư tưởng của nhân
  13. 8 loại. Đối với bất cứ trào lưu triết học nào dù hình thành một cách độc lập ra sao, thì với tư cách là một triết học, nó không thể không bắt nguồn từ những tài liệu trong quá khứ. Các nhà triết học thực dụng từng viện dẫn từ triết học Hy Lạp cổ đại với Socrate, Protagoras, Platon đến triết học hiện đại với F. Bacon (1561 - 1626), Spinoza (1632 - 1677), Locke (1632 - 1704), Berkeley (1685 - 1753), Hiume (1711 - 1776), Kant (1724 - 1804), Stuar Mill (1806 - 1873) Trong đó, chính lý luận của Kant đã quyết định đến nguồn gốc lý luận của chủ nghĩa thực dụng. Trong lý luận của mình, Kant “niềm tin ngẫu nhiên” đã tạo nền tảng để sử dụng hiệu quả các phương tiện của một số hành vi, và niềm tin đó được gọi là niềm tin thực dụng. Ở Kant, thực dụng đồng nghĩa với “kinh nghiệm”, “thử nghiệm”. Quan điểm đó ảnh hưởng đến sự phát triển của học thuyết chủ nghĩa thực dụng. Bên cạnh đó, quan điểm triết học của Locke cho rằng “giá trị đạt được thay vì tính hợp lý” cũng trở thành một trong những tiền đề cho sự hình thành của chủ nghĩa thực dụng. Việc chủ nghĩa thực dụng dùng hiệu quả của kinh nghiệm để thẩm định tất cả nhằm phủ định thế giới bên ngoài và quy luật khách quan thực chất cũng là đi theo con đường kinh nghiệm luận duy tâm của Berkeley. Trường phái triết học ảnh hưởng quan trọng đến sự ra đời của chủ nghĩa thực dụng là chủ nghĩa thực chứng. Được khởi xướng từ thế kỷ XIX đến thế kỷ XX bởi A. Comte (1806 - 1873), chủ nghĩa thực chứng muốn khắc phục sự bất lực của siêu hình học bằng tính hiệu quả, tính ứng dụng của tri thức khoa học. Cũng như chủ nghĩa thực chứng, các nhà thực dụng học cũng nhấn mạnh tính hiệu quả và tính ứng dụng của tri thức xác thực, đồng thời chú ý đến sơ đồ “tam trạng” về lịch sử của A. Comte, xem nó như kiểu mẫu của sự phân loại lịch sử trên nền tảng của nhận thức đi từ hoang tưởng đến hiện thực, từ trừu tượng đến cụ thể.
  14. 9 Bên cạnh tiền đề lý luận, cũng phải kể đến tiền đề về mặt khoa học tự nhiên khi bàn đến sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa thực dụng. Thành tựu về khoa học tự nhiên đóng vai trò là học thuyết trực tiếp dẫn đến sự ra đời của chủ nghĩa thực dụng là thuyết Tiến hoá của Chrles Darwin. Từ việc nghiên cứu thuyết Tiến hoá, các nhà thực dụng học cổ điển đã kế thừa hai điểm chính làm căn cứ xây dựng học thuyết của mình. Đó là: Thứ nhất, mọi sự vật, hiện tượng, quá trình hay nói rộng ra là tất cả sự tồn tại hiện hữu trong hiện thực không bao giờ bất động, vĩnh viễn, chết cứng; không cá thể hay cộng đồng nào dù là thực vật hay động vật được sáng tạo một cách nguyên vẹn, hoàn chỉnh. Tất cả đều nằm trong dòng chảy vận động, phát triển liên tục. Ở đó, tất cả mọi thứ hiện hữu đều phải thích nghi và tự hoàn thiện dần chính bản thân để có thể tồn tại và phát triển. Thứ hai, trong quá trình đó, sự chọn lọc luôn là yếu tố tác động lớn. Bất cứ sự hiện hữu nào cũng đều phải được chọn lọc qua lăng kính của tính hiệu quả, tính hữu dụng và sự thích ứng tốt. Chính vì vậy, vấn đề không phải ở cách thức tiến hành mà quan trọng nhất vẫn là hiệu quả tiến hành. Trong quá trình phát triển của mình, chủ nghĩa thực dụng là “đặc sản” Mỹ, nhưng không có nghĩa là nó “cấm cửa” các trào lưu triết học khác từ châu Âu truyền vào như triết học phân tích, hiện tượng học, chủ nghĩa hiện sinh Chủ nghĩa thực dụng không những không bị đẩy vào “sân sau” mà còn lấn chiếm các triết học mới hội nhập đó và làm cho các loại triết học đó mang thêm màu sắc thực dụng. Nói một cách khác, các triết học đó đã được các nhà thực dụng Mỹ phát triển một cách đặc thù làm cho tất cả trở thành văn hoá Mỹ. 1.1.2. Khái lược quá trình phát triển của chủ nghĩa thực dụng Với tư cách là một trường phái triết học, chủ nghĩa thực dụng ra đời trong những năm 1871 – 1874 tại trường Đại học Cambridge của bang
  15. 10 Masachuset ở Hoa Kỳ, khi câu lạc bộ siêu hình học của trường này được thành lập. Đó là một hội học thuật do một số giáo viên của trường này tổ chức ra với người sáng lập là giáo sư giảng dạy logic học nổi tiếng Ch. Peirce (1893 – 1914). Với tác phẩm A theory of meaning (lý thuyết về ý nghĩa), Ch. Peirce đặt tên cho lý thuyết của mình là “Pragmatism” – chủ nghĩa duy thực dụng – lấy từ chữ pagrama của tiếng Hy Lạp, có nghĩa là hành vi, hành động. (Cụm từ “chủ nghĩa thực dụng” trong tiếng Việt mượn từ một thuật ngữ của Trung Quốc. Trong ngôn ngữ hàng ngày của tiếng Việt, từ “thực dụng” có một nghĩa xấu và cũng không sát với chữ pagrama). Theo Peirce, chỉ khái niệm này mới làm rõ được bản sắc của lý thuyết của mình và tránh được sự vay mượn không cần thiết. Năm 1898, William James (1842 - 1910) kế thừa Peirce và là người đầu tiên đưa ra thuật ngữ “chủ nghĩa thực dụng”. Ông phát triển những nguyên tắc, phương pháp học của Peirce thành một hệ thống lý luận song song với việc phân tích nhiều vấn đề cụ thể. Ông có ảnh hưởng lớn tới toàn bộ nền triết học hiện đại phương Tây. Chủ nghĩa thực dụng trở nên nổi tiếng nhờ các công trình của ông. Chính ông là người đã làm cho tư tưởng của Peirce có được hình thức dễ hiểu. Sau Peirce và W. James, John Dewey (1859 - 1952) là người có công làm cho chủ nghĩa thực dụng thâm nhập sâu rộng vào đời sống văn hoá Mỹ thông qua những thành tựu về xã hội học, tâm lý học, giáo dục học và chính trị học. Ông được tôn vinh là nhà triết học hiện đại kiệt xuất của nước Mỹ với vai trò là người tổng kết và hệ thống hoá chủ nghĩa thực dụng. Ông đã tạo được sức hấp dẫn của chủ nghĩa thực dụng Mỹ trong đời sống xã hội, nhất là sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Vào đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa thực dụng có sự thâm nhập vào châu Âu và tìm được người bảo vệ mới ở Anh, Italia, Đức, Pháp với G. Simmel, F.C.
  16. 11 Schiller, W. Ostwald, H. Hahn, E. husserl, Giovani Vailati, H. Bergson và thậm chí ở cả Trung Quốc với đại diện tiêu biểu là Hồ Thích. Từ những năm 1950 đến những năm 1970 của thế kỷ XX, chủ nghĩa thực dụng không còn hiện diện và được tuyên truyền rầm rộ như một học thuyết. Chủ nghĩa thực dụng Mỹ bị một số trường phái triết học hiện đại có nguồn gốc châu Âu như chủ nghĩa kinh nghiệm logic, triết học phân tích ngôn ngữ, hiện tượng học, chủ nghĩa hiện sinh lấn át. Sau khi John Dewey qua đời, chủ nghĩa thực dụng Mỹ không có ai đủ uy tín. Và đặc biệt là khi hệ thống triết học này đi vào cuộc sống, thành cái hồn của dân tộc thì nó chẳng cần náo nhiệt như lúc mới ra đời. Điều này không có nghĩa là chủ nghĩa thực dụng đến lúc suy tàn mà chỉ là trong nghiên cứu triết học nó không còn là địa vị thống trị như cũ nữa. Những nguyên tắc cơ bản của nó đã tồn tại trong cuộc sống của mỗi cá nhân và hoá thân trong đường lối của một số đảng chính trị. Bắt đầu từ những năm 70 của thế kỷ XX, sau một quá trình hội nhập, phát triển và chiếm ưu thế, các học thuyết triết học có nguồn gốc châu Âu bắt đầu khủng hoảng và ngày càng bộc lộ mâu thuẫn về lý luận. Các bức tranh mô tả thế giới, mô tả con người được đưa ra trước đây đã trở nên cũ kĩ không còn phù hợp với thực tiễn xã hội. Trong triết học Mỹ lại nổi lên phong trào phục hồi chủ nghĩa thực dụng nhằm đưa triết học hướng về cuộc sống hiện thực, làm cho triết học thích ứng và thúc đẩy sự phát triển xã hội. Chủ nghĩa thực dụng phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới nhưng không nơi nào đạt được thành tựu rực rỡ như ở Mỹ. Tại đây, chủ nghĩa thực dụng trở thành khuynh hướng thống trị, thể hiện ở hầu hết các lĩnh vực của đời sống tinh thần, thậm chí còn khuynh đảo cả hệ thống giáo dục và được xem như triết học bán chính thức của lối sống Mỹ. Những người trung lưu cảm thấy chủ nghĩa thực dụng nói đúng suy nghĩ của họ. 1.1.3. Nội dung cơ bản của chủ nghĩa thực dụng
  17. 12 Chủ nghĩa thực dụng thâm nhập vào đại chúng, vào ý thức con người bình thường và khoa trương khá rầm rộ. Các nhà thực dụng nói về “bước ngoặt Copernic” do họ khởi xướng, về sự “tái thiết toàn bộ nền triết học”. Họ tự hào khẳng định rằng mình đã tìm thấy chiếc chìa khoá mới để giải quyết những vấn đề triết học trường cửu. Họ dõng dạc tuyên bố: đã đến lúc phải đưa những khái niệm triết học trừu tượng xuống mảnh đất thực tiễn và tìm kiếm ý nghĩa các vấn đề triết học ở quan hệ của chúng với đời sống con người. Chỉ những vấn đề mang ý nghĩa thực tiễn đối với con người mới xứng đáng được quan tâm. Triết học không phải là sự trừu tượng hoá câu chữ, chỉ thu hút sự chú ý của giới chuyên môn, không nên chỉ gắn với “những vấn đề của triết gia” mà với “những vấn đề của con người”. Vì vậy, phải cải tạo nó có lợi cho cuộc sống. Tại nơi mà tư duy lý luận trừu tượng không được đề cao bằng lý luận có định hướng thực tiễn như ở Mỹ thì quả thực chủ nghĩa thực dụng phát huy tác dụng ngay lập tức. Có thể trình bày bản chất của chủ nghĩa thực dụng một cách cô đọng như sau: con người hoạt động trong một thế giới phi lý không nhận thức được, những toan tính tìm hiểu chân lý khách quan là vô nghĩa, do đó cần tiếp cận và đánh giá các học thuyết khoa học, các quan điểm xã hội, các nguyên lý đạo đức từ khía cạnh công cụ; nghĩa là từ sự thích hợp và tiện lợi nhằm đạt được mục đích. Cái gì hữu dụng và tiện lợi, dẫn tới thành công thì cái đó là chân lý. Cũng do vậy mà các nhà thực dụng đặc biệt chú trọng đến phương pháp. Peirce nhấn mạnh phương pháp thiết lập ý nghĩa của khái niệm. James lưu ý rằng phương pháp là xương sống của chủ nghĩa thực dụng và Dewey thì xem thuyết công cụ như phương pháp khoa học phổ quát không chỉ dùng giải quyết bất kỳ tình huốngnan giải nào mà còn giúp cải tổ đời sống con người trên cơ sở khoa học. Nội dung cơ bản trong triết học của chủ nghĩa thực dụng trước hết là về lý luận nhận thức. Chủ nghĩa thực dụng không bàn luận sâu về thế giới quan
  18. 13 mà quan tâm nhiều đến lý luận nhận thức. Trong nhận thức luận của mình, chủ nghĩa thực dụng nói đến một phương pháp tư duy đặc thù. Phương pháp tư duy đó không xem xét khái niệm ở bản thân khái niệm mà đi sâu nghiên cứu xem khi được sử dụng thì nó sản sinh ra hậu quả gì. Khái niệm và lý luận không phải là sự giải đáp về thế giới. Muốn phân biệt ý nghĩa và giá trị của nó thì không phải là xem nó có phản ánh đúng thực tế khách quan hay không mà là xem hiệu quả có thể kiểm nghiệm được của nó khi ứng dụng vào thực tế. Theo quan diểm của chủ nghĩa thực dụng thì các cuộc tranh luận giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học truyền thống được coi là các cuộc đấu tranh có tính chất siêu hình, chẳng có ý nghĩa gì. Bởi vì, theo cách nhìn của chủ nghĩa thực dụng thì thế giới mà con người có kinh nghiệm thực tế về nó đều giống nhau. Lấy hiệu quả thực tế mà xét thì thế giới dù là vật chất hay tinh thần cũng chẳng có sự khác biệt gì cả. Nếu xuất phát từ hiệu quả để khẳng định giá trị của tôn giáo và khoa học thì niềm tin khoa học và tín ngưỡng tôn giáo đều có giá trị thiết thực vì cả hai đều là công cụ để đạt đến mục đích đời sống của con người. Chủ nghĩa thực dụng phê phán triết học truyền thống là đã tách rời chủ thể nhận thức, tức là tách rời người có kinh nghiệm, với đối tượng được nhận thức trong kinh nghiệm, tức là tách tinh thần và vật chất thành hai cái không cùng một lĩnh vực. Ở đây, chủ nghĩa thực dụng sử dụng khái niệm “kinh nghiệm”để lẩn tránh vấn đề cơ bản của triết học. Đối với chủ nghĩa thực dụng thì kinh nghiệm không có tính chủ quan cũng không có tính khách quan mà là “kinh nghiệm thuần tuý” hoặc “kinh nghiệm nguyên thuỷ”. Kinh nghiệm là một khái niệm có hai nghĩa: nó bao gồm mọi cái thuộc về ý thức chủ quan và nó cũng bao gồm mọi cái về sự vật, sự kiện khách quan. Bản thân nó không có sự khác biệt và đối lập về nguyên tắc giữa chủ quan và khách quan. Kinh nghiệm là có tính nguyên thuỷ. Vật chất và tinh thần đều là sản phẩm của việc
  19. 14 tiến hành phản tỉnh đối với kinh nghiệm nguyên thuỷ. Chủ thể và đối tượng, kinh nghiệm và tự nhiên đều là hai mặt khác nhau trong một chỉnh thể kinh nghiệm thông nhất, chúng không thể thoát ly khỏi kinh nghiệm mà tồn tại độc lập được. Ở đây, chủ nghĩa thực dụng đã dùng quan điểm tâm lý học hoặc sinh học để giải thích kinh nghiệm. Đối với họ, kinh nghiệm không phải là tri thức, không phải là sự phản ánh của bộ óc con người đối với thế giới bên ngoài mà là một hoạt động tâm lý nào đó thích ứng với hoàn cảnh. Đồng thời, chủ nghĩa thực dụng cũng cường điệu hoá tính năng động chủ quan của kinh nghiệm và thủ tiêu cơ sở khách quan của kinh nghiệm khi chính Dewey đã nhận định rằng: hoạt động thích ứng với hoàn cảnh của con người khác với động vật thích ứng một cách tiêu cực với thiên nhiên. Con người dựa vào ý chí và trí tuệ của mình làm cho hoàn cảnh phát sinh sự thay đổi có lợi cho đời sống của mình. Cho nên kinh nghiệm được hình thành ở con người là do tác động lẫn nhau tác động lẫn nhau giữa con người và hoàn cảnh. Trong quan điểm của chủ nghĩa thực dụng, đối tượng của kinh nghiệm là do ý chí sáng tạo ra, bản thân kinh nghiệm là cái gì ở vào trạng thái hỗn độn. Trong hoạt động kinh nghiệm, con người tập trung sự chú ý của mình vào những kinh nghiệm thích hợp với những mục đích, hứng thú, nguyện vọng của mình, hơn nữa làm cho những bộ phận kinh nghiệm đó được cố định, gán cho nó cái địa vị độc lập của “khách thể”. Cho nên, khách thể, đối tượng chỉ là một bộ phận mà ý chí tách ra từ trong kinh nghiệm, còn chủ thể của kinh nghiệm chẳng qua chỉ là ý chí, mục đích, hứng thú, tâm tình chi phối hoạt động kinh nghiệm trong kinh nghiệm mà thôi. Như vậy, chủ nghĩa thực dụng đã tuyệt đối hoá tác dụng ý chí con người và đã rơi vào chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Từ Kinh nghiệm luận, chủ nghĩa thực dụng đi vào trình bày quan niệm của mình về chân lý. Lý luận của chủ nghĩa thực dụng về chân lý cho rằng: tư duy của con người chỉ là một cách thức của kinh nghiệm, là hành vi thích ứng
  20. 15 và chức năng phản ứng của con người. Nó không đưa lại một hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan. James lập luận rằng: chân lý không phải là bản sao chép sự vật khách quan mà chỉ là mối quan hệ giữa các kinh nghiệm với nhau. Theo ông, chân lý là những hành động thoả mãn yêu cầu, hành động đáp ứng nguyện vọng và mục đích mang lại giá trị. Chân lý là do con người tạo ra theo nhu cầu của mình, dùng làm thước đo mức độ thoả mãn nhu cầu của mình. Một “ý niệm đúng”, là “chân lý” chứng nào tin vào nó thì có lợi cho chúng ta. Điều tốt lành, vì nó làm lợi nhiều, thì chúng ta sẽ vui vẻ chấp nhận. Nếu những gì chúng ta làm nhờ sự giúp đỡ của chúng mà là tốt lành thì chúng ta sẽ chấp nhận cái ý niệm tự nó sẽ tốt lành mãi mãi, vì chúng ta là kẻ đánh cuộc cho sự sở hữu nó. Như vậy theo James, chỉ cần có thể đem các quan niệm cũ và mới liên hệ lại với nhau, nếu chúng đem lại cho con người lợi ích cụ thể và hiệu quả thoả mãn nhu cầu thì đó là chân lý. Muốn xét một quan niệm có phải là chân lý hay không thì không cần phải xem nó có phù hợp với thực tế khách quan hay không mà phải xem nó có đem lại hiệu quả hữu dụng hay không. Do đó, hữu dụng và vô dụng là tiêu chuẩn để ông phân biệt chân lý hay sai lầm. Và ông khẳng định quan điểm của mình: hữu dụng là chân lý. Cũng như James, Dewey đã phủ định tính khách quan và tính tuyệt đối của chân lý. Vì vậy, ở một mức độ nhất định, Dewey ngả sang chủ nghĩa tương đối. Dewey nhận định rằng: tính chân lý của quan niệm, khái niệm, lý luận không phải là ở chỗ chúng có phù hợp với thực tế khách quan hay không mà là ở chỗ chúng có gánh vác được một cách hữu hiệu nhiệm vụ làm công cụ cho hành vi của con người hay không. Nếu một quan niệm, một lý luận giúp mọi người loại trừ được khó khăn và đau khổ trong việc thích ứng với hoàn cảnh, hoàn thành nhiệm vụ một cách thuận lợi thì chúng có thể tin cậy được, là hữu hiệu, là thực. Nếu chúng không giải quyết được hỗn loạn,
  21. S K L 0 0 2 1 5 4