Bài giảng Khuyến nông cơ bản - Hoàng Gia Hùng
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Khuyến nông cơ bản - Hoàng Gia Hùng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- bai_giang_khuyen_nong_co_ban_hoang_gia_hung.pdf
Nội dung text: Bài giảng Khuyến nông cơ bản - Hoàng Gia Hùng
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ DỰ ÁN HỢP TÁC VIỆT NAM – HÀ LAN BÀI GIẢNG KHUYẾN NÔNG CƠ BẢN Người biên soạn: Hoàng Gia Hùng Huế, 08/2009
- Chương 1 NHẬP MÔN KHUYẾN NÔNG 1.1. Vị trí và tầm quan trọng của khuyến nông 1.1.1. Trong lĩnh vực phát triển sản xuất nông nghiệp Thúc đẫy phát triển nông nghiệp thông qua chuyển giao kỹ thuật từ các cơ quan nghiên cứu đến người sản xuất, thông tin và kết nối sản xuất với thị trường, tạo lập mối quan hệ giữa người sản xuất với nhà doanh nghiệp, nhà chính sách, nhà khoa học. NGHIÊN CỨU SẢN XUẤT - Nhà khoa học KHUYẾN - Người nông dân - Nhà chính sách NÔNG - Hộ gia đình - Nhà doanh nghiệp, - Chủ trang trại, 1.1.2. Trong hoạt động phát triển nông thôn Khuyến nông là công cụ phát triển nông thôn, thực thi các chính sách về phát triển nông nghiệp và nông thôn của nhà nước. - Khuyến nông - Chính sách nông Công nghiệp; Phát triển cụ/phương nông thôn - Tín dụng nông tiện can (kinh tế xã hội) thôn; thiệp - 1.2. Lịch sử hình thành và phát triển khuyến nông 1.2.1. Trên thế giới * Pháp Thế kỷ XV-XVI đánh dấu một mốc đầu tiên trong lịch sử phát triển khoa học 1
- Pháp, vì một số công trình đã được bắt đầu ở thời kỳ này như tác phẩm Ngôi nhà nông thôn của Enstienne và Liebault nghiên cứu về kinh tế nông thôn và khoa học nông nghiệp. Tác phẩm Diễn trường nông nghiệp của Oliver de Serres đề cập đến nhiều vấn đề trong nông nghiệp như cải tiến giống cây trồng vật nuôi. Thế kỷ 18, cụm từ phổ cập nông nghiệp (Vulgazigation Argicole), hoặc chuyển giao kỹ thuật đến người nông dân (Transfert des Technologies Agricoles au Payan) được sử dụng phổ biến. Giai đoạn từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất đến nay (1914- 1918). Trung tâm CETA (Centre d’Etuder Techniques Agricoles) nghiên cứu kỹ thuật nông nghiệp đầu tiên được tổ chức do sáng kiến của nông dân vùng Pari hoạt động với nguyên tắc: - Người nông dân có trách nhiệm và chủ động trong công việc - Sáng kiến từ cơ sở - Hoạt động nhóm rất quan trọng Đây là một phương pháp hết sức độc đáo thời bấy giờ, người nông dân được quyền tham gia tích cực vào công việc của nông trại, họ chủ động tìm ra các giải pháp thích hợp với sự hỗ trợ của các kỹ sư nông nghiệp. * Mỹ Năm 1845 tại Ohio, N.S. Townshned Chủ nhiệm khoa Nông học đề xuất việc tổ chức những câu lạc bộ nông dân tại các quận huyện. Những câu lạc bộ này sinh hoạt định kỳ hàng tháng, nghe giảng về những chủ đề khoa học kỹ thuật nông nghiệp, nghe báo cáo đi tham quan thực tế tại những trang trại. Đây là tiền thân của giáo dục sơ đẳng về khuyến nông tại Mỹ. Năm 1891. Bang New York dành 10.000 đôla cho khuyến nông đại học. Năm 1892 Trường Đại học Chicago, Trường Wicosin bắt đầu tổ chức ch- ương trình khuyến nông học đại học. Năm 1907, 42 Trường đại học trong 39 bang đã thực hiện công tác khuyến nông. Năm 1910, 35 trường Đại học đã có Bộ môn khuyến nông. Năm 1914 Tổ chức khuyến nông được hình thành chính thức ở Mỹ, có 1861 hội nông dân với 3050150 hội viên. Thuật ngữ Extension Education đã được sử dụng để chứng tỏ rằng đối tượng giáo dục của trường đại học không nên chỉ hạn chế ở những sinh viên do nhà trường quản lý, mà nên mở rộng tới những người đang sống ở khắp nơi trên đất nước. * Anh Thuật ngữ University Extension hay Extension of University lần đầu tiên được sử dụng ở Anh vào những năm 1840. Những năm 1866- 1868 Thuật ngữ “Extension” và “Agricultural Extension” được sử dụng ở Anh. Jemes Stuart thành viên của Trường. Đại học Cambridge giảng bài cho Hiệp hội phụ nữ và Câu lạc bộ của những người làm việc ở miền Bắc nước Anh. Và Jemes Stuart thường được coi là “người cha đẻ của phổ cập đại học“. Năm 1876 Trường Đại học Luân Đôn và năm 1878 Trường Đại học Oxford cũng dạy theo chương trình đào tạo này, và từ năm 1880 hoạt động này trở thành một 2
- phong trào. Người Hà lan dùng từ Voorliching mang nghĩa việc thắp sáng con đường phía trước để giúp mọi người nhìn thấy đường đi. Theo người Hà Lan, người Indonesia nói đến việc thắp sáng bằng ngọn đuốc (penyuluhan). Hoạt động khuyến nông ở châu Âu, Oxtraylia, New Zealand, Canada có nhiều điểm tương tự nh Pháp, Anh , Mỹ tuy có khác nhau chút ít. Hoạt động dịch vụ khuyến nông thường bắt đầu từ các hội nông nghiệp, nó được giao trách nhiệm cho một cơ quan thuộc Bộ Nông nghiệp. 1.2.2. Ở Việt Nam Nhìn lại lịch sử ta thấy, khuyến nông Việt Nam đã có từ thời Vua Hùng với nông nghiệp nước Văn Lang và nền văn minh lúa nước. Các vua Hùng cách đây hơn 2000 năm đã trực tiếp dạy dân làm nông nghiệp: gieo hạt, cấy lúa, mở cuộc thi để các Hoàng tử, công chúa có cơ hội trổ tài, chế biến các món ăn độc đáo bằng nông sản tại chỗ. Công chúa Thiều Hoa là người đầu tiên dạy dân chăn tằm dệt lụa. Để tỏ rõ sự quan tâm tới nông nghiệp. Vua Lê Đại Hành (979 – 1008) là ông vua đầu tiên đích thân đi cày ruộng tịnh điền ở Đọi Sơn, Bàn hải thuộc vùng Duy Tiên, Nam Hà ngày nay. Các vua nhà Lý (1009 – 1056) rất coi trọng nghề nông và đã ra nhiều chính sách chăm lo phát triển nông nghiệp, nhiều lần vua cày ruộng tịch điền và thăm nông dân gặt hái. Sách Đại việt sử ký toàn thư ghi lại sự kiện năm Mậu dần (1038) Vua Lý Thái Tông ngự ở Bố khẩu lập đàn, tế thần nông, và cày ruộng tịch điền. Khi có người trong các quan lại can Vua không nên làm việc của nông phu, Lý Thái Tông trả lời "Trẫm không tự mình cày ruộng thì lấy gì làm xôi cúng, lấy gì để xướng xuất thiên hạ", nói xong Vua đẩy 3 đường cày. Triều vua Lê Thái Tông(1492). Triều đình đặt chức Hà Đê sứ và Khuyến nông sứ đến cấp phủ huyện và từ năm 1492 mỗi xã có 1 xã trởng phụ trách nông nghiệp và đê điều ( Triều vua Lê Thái Tông thời kỳ cực thịnh của chế độ Phong kiến nớc ta, nông nghiệp có 1 bước tiến bộ lớn, nhiều năm đất nớc đợc mùa, nạn mất mùa ít xảy ra). Triều đình ban bố chiếu khuyến nông, chiếu lập đồn điền, và lần đầu tiên sử dụng từ “khuyến nông” trong bộ luật Hồng Đức. Thời Vua Quang Trung (1788 - 1792): Từ năm 1789 sau khi thắng giặc ngoại xâm, Quang Trung ban bố ngay "chiếu khuyến nông" nhằm phục hồi dân phiêu tán, khai khẩn ruộng đất bỏ hoang sau 3 năm, những đất đai hoang hoá đã được phục hồi, sản suất phát triển. Triều nhà Nguyễn (1807- 1884), đã định ra chức đinh điền sứ. Nguyễn Công Trứ đợc giao chức vụ này ông đã có công khai khẩn đất hoang để lập ra hai huyện Tiền Hải (tỉnh Thái Bình) và Kim Sơn (tỉnh Ninh Bình). Về kỹ thuật nông nghiệp và hoạt động khuyến nông ông cha ta đã có nhiều chủ trương biện pháp đúng đắn như đắp đê trị thủy, xây dựng hệ thống thủy nông, chọn lọc ra nhiều giống cây trồng vật nuôi, công cụ thích hợp cho từng vùng sinh thái. Những kinh nghiệm làm nông nghiệp cũng đã được đúc kết thành những câu ca dao, bài hát dễ nhớ, dễ truyền khẩu mang đặc tính khuyến nông Việt nam, một số 3
- ví dụ: Nói về khai hoang: Ai ơi chớ bỏ ruộng hoang Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu Nói về làm ruộng: Tốt giống tốt má, tốt mạ tốt mạ tốt lúa Nhất nước nhì phân tam cần tứ giống Không lân không vôi thì thôi trồng lạc Được mùa lúa, úa mùa cau, được mùa cau đau mùa lúa Mạ mùa sướng cao, mạ chiêm ao lấp Chiêm hơn sướng, mùa hơn đêm. Ăn kỹ no lâu, cày sâu tốt lúa Người đẹp về lụa , lúa tốt về phân Một hòn đất nỏ bằng giỏ phân Xem thời tiết: Nắng tốt da, ma tốt lúa Chớp đông nhay nháy gà gáy thì ma Trăng quầng thì hạn, trăng tán thì ma Tháng bảy heo may chuồn chuồn bay thì bão Chọn trâu Mõm gầu giai, nhai hai gánh cỏ Đầy kẽ răng, bền tuổi trẻ dai Sừng cánh ná, dạ bình vôi, hay ăn cày khỏe Khô chân gân mặt, đắt tiền cũng mua Đầu thanh cao, tiền thấp hậu cao, chẳng tậu thì sao Chọn gà Nuôi gà phải chọn giống gà Gà ri bé giống nhưng mà đẻ mau Lông dày thịt béo về sau đẻ nhiều Gà nâu chân thấp mình to Đẻ nhiều, trứng lớn con vừa khéo nuôi Chả nên nuôi giống pha mùi Đẻ không được mấy, nuôi con vụng về Thời kỳ Pháp thuộc (1884- 1945): Thực dân Pháp thực hiện chính sách lập các đồn điền thuộc quyền chiếm hữu của bọn thực dân, các quan lại, địa chủ, cường hào. Hàng vạn ngời Việt nam bị ép làm phu, lính trong các đồn điền đó, đời sống của họ vô cùng cực khổ như nô lệ thủa xa, bọn chủ đồn điền như ông vua bà chúa, chúng có quyền bắt ngời dân nhịn đói, bỏ tù và giết chết. Những người không chịu được bỏ trốn thì bị bọn chủ bắn chết. Thời kỳ này Việt Nam cũng đã nhập một số cây trồng mới như: Cà phê (1857), Cao Su (1897), Khoai tây, rau ôn đới: Súplơ, su hào lợn Yoorsai, gà Rôtri, gà Plymut Trong giai đoạn này Việt nam đã xuất khẩu được một số nông sản như gạo 4
- 967.000 tấn (năm 1919), xuất cảng 70417 tấn nhựa cao su (1920-1929). Điều đó cũng nói lên rằng phát triển nông nghiệp và khuyến nông thời kỳ này chủ yếu phục vụ cho chính sách thuộc địa phong kiến của thực dân Pháp. Ngời Pháp tổ chức các Sở canh nông ở Bắc Kỳ, các Ty khuyến nông ở các tỉnh. Hàng năm tổ chức thi đấu xảo các sản phẩm nông nghiệp quý vài năm một lần như thi các giống bò sữa, giống ngựa tốt. Năm 1938 Thành lập trường đào tạo kỹ sư canh nông để đào tạo các kỹ sư ngành nông nghiệp. Từ sau cách mạng tháng 8 /1945 - 1958. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới nông nghiệp, người kêu gọi quốc dân "tăng gia sản xuất! tăng gia sản xuất ngay, tăng gia sản xuất nữa! đó là những việc cấp bách của chúng ta lúc này". Nghe theo lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch, toàn dân bắt tay vào khôi phục kinh tế, phát triển sản xuất. Vụ rau mầu Đông xuân 45- 46 đã thắng lợi rực rỡ: sản lượng ngô tăng gấp 4 lần, khoai lang tăng gấp 5 lần, tổng sản lượng hoa mầu quy thóc bình quân hàng năm 133.100 tấn đến mùa xuân 1946 đã đạt 505.000 tấn, tăng gấp 4 lần. Từ 1958-1975: Nông nghiệp miền Bắc Việt nam phát triển trong sự tác động trực tiếp của mô hình Hợp tác xã nông nghiệp. Từ tổ đổi công (1956), đến hợp tác xã bậc thấp năm 1960, đến hợp tác xã cấp cao (1968), đến hợp tác xã toàn xã năm 1974. Phương pháp hoạt động khuyến nông chủ yếu là: cán bộ truyền đạt chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước hay tiến bộ kỹ thuật thông qua Ban quản trị Hợp tác xã rồi từ đó đến người nông dân. Thành lập các đoàn cán bộ nông nghiệp ở Trung ương, cấp tỉnh, huyện về chỉ đạo sản suất ở cơ sở. Về thành tích đã đạt được: Lúa chiêm đã được thay thế bằng lúa xuân, năng suất cao ngắn ngày. Thái Bình là tỉnh đầu tiên đạt 5 tấn thóc/ha năm 1966. Đến năm 1974 toàn miền Bắc đã đạt 5 tấn thóc/ha trên đất cấy 2 vụ lúa. Năm 1988 huyện Hồng Hà, tỉnh Thái Bình là huyện đầu tiên đạt 10 tấn thóc/ha. Về chăn nuôi có phong trào nuôi lợn hai máu; Móng cái x Yoocsai, Lợn ỉ x Becsai, Bò lai Sind, nuôi gà công nghiệp Thời kỳ 1976- 1988: Nông nghiệp Việt Nam được thống nhất thành một mối, tiềm năng và thế mạnh của hai miền Nam Bắc được bổ xung cho nhau và cùng nhau phát triển theo một đường lối chung là hợp tác hóa nông nghiệp. Song diễn biến tình hình có nhiều phức tạp, do sự tác động của quan hệ sản xuất tập thể và mô hình quản lý, kế hoạch hóa tập trung. Nhiều thiếu sót đã nẩy sinh trong quản lý kinh tế và quản lý nông nghiệp, đã làm cho nông nghiệp phát triển chậm lại, đời sống nông thôn nảy sinh nhiều vớng mắc, nông dân không yên tâm sản suất và sinh sống. Trước thực trạng suy thoái kinh tế những năm cuối thập kỷ 70 và đầu năm 80 nói chung và nông nghiệp nói riêng, ngày 13/1/ 1981 chỉ thị 100 CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp” được ban hành (gọi tắt là khoán 100). Với mục đích phát triển sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế trên cơ sở lôi cuốn mọi người hăng hái lao động. Khoán 100 mặc dù chưa phải là mô hình 5
- mới về tổ chức và quản lý nông nghiệp mà mới chỉ là cải tiến hình thức khoán, từ khoán việc sang khoán sản phẩm, từ khoán đội sang khoán hộ. Đây cũng được coi là sự đột phá đầu tiên vào cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, sản xuất tập thể. Vì vậy coi là “chìa khóa vàng”để mở ra thời kỳ mới của sản xuất nông nghiệp Việt Nam. Tiến bộ lớn nhất sau khoán 100 là sản suất lương thực. Lần đầu tiên kể từ khi nông nghiệp tập thể hóa (1958), Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng sản lượng lựơng thực cao hơn tốc độ tăng dân số (lựơng thực tăng 5%, dân số tăng 2,3%, lương thực bình quân trên đầu ngời tăng 273 kg/ người/ năm 1981 tăng lên 304 kg/ người/ 1985. Chăn nuôi phát triển ổn định nhất là chăn nuôi gia đình. Song những kết quả đạt được của khoán 100 không vững. Từ năm 1986 sản suất nông nghiệp bắt đầu chững lại và giảm sút, sản lượng lương thực năm 1986 đạt 18,37 triệu tấn, năm 1987 giảm còn 17,5 triệu tấn, trong khi đó dân số tăng gần 1,5 triệu người. Tháng 12 năm 1986, Đại hội VI, Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đổi mới trong lãnh đạo và quản lý kinh tế Nghị quyết 10 của Bộ chính trị Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khóa VI (5/4/1988) về ”Đổi mới quản lý trong nông nghiệp” nhằm giải phóng sản suất trong nông thôn đến từng hộ nông dân, khẳng định hộ xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn. (gọi tắt là khoán 10) Từ 1988 đến nay: Khoán 10 đã đem lại hiệu quả nhanh chóng tạo ra bước ngoặt mới trên mặt trận nông nghiệp. Hộ nông dân đã trở thành đơn vị sản xuất tự chủ, hộ nông dân có quyền sử dụng ruộng đất lâu dài 15-20 năm, có quyền thuê thêm lao động, có quyền phát huy vốn và vật tư kỹ thuật, chủ động xây dựng và thực hiện kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, có tư cách pháp nhân trong quan hệ hợp đồng sản xuất kinh doanh. Ngày 2/3/1993 Chính phủ ra Nghị định 13/ CP về công tác khuyến nông. Bắt đầu hình thành hệ thống khuyến nông từ Trung ương đến địa phương. Kết quả đạt được của nông nghiệp từ sau khi có đường lối đổi mới là rất rõ nét, nói riêng về sản xuất lương thực diện tích, năng suất, sản lượng tăng đều qua các năm. Nếu như trư- ớc năm 1988 trở về trước,Việt Nam là một nước thiếu lương thực trầm trọng hàng năm phải nhận viện trợ hoặc nhập khẩu gạo, thì đến năm 1989 đã xuất khẩu 1,4 triệu tấn gạo, năm 1990: 1,6 triệu tấn, 1992: 1,9 triệu tấn, năm 1994: 2 triệu tấn và từ những năm 1996- 2003 là trên 3 triệu tấn mỗi năm. Khi đánh giá về những thành tựu đạt được trong sự nghiệp đổi mới kinh tế Việt Nam, các nhà kinh tế thế giới đều thống nhất nhận định: Thành công lớn nhất là nông nghiệp, điều đó hoàn toàn đúng. Nông nghiệp Việt nam bắt đầu đổi mới cơ chế quản lý từ sau Nghị quyết 10 (4/1988). Nếu trước đổi mới nông nghiệp Việt Nam mang nặng tính tự cung, tự cấp, làm không đủ ăn, lương thực thiếu triền miên từ năm này sang năm khác, thì từ sau đổi mới tình hình đã khác hẳn,Việt Nam không chỉ đủ lương thực, thực phẩm nuôi sống hơn 80 triệu dân trong nước mà còn dư thừa để xuất khẩu hàng năm 2- 3 triệu tấn gạo, hàng trăm nghìn tấn thịt, rau quả, thu về cho đất nước hàng tỷ USD. Tình trạng thiếu lương thực ở nông thôn đã bị đẩy lùi và không còn có khả năng tái diễn trên diện rộng. Một nền nông nghiệp 6
- hàng hóa đã hình thành với những sản phẩm xuất khẩu nổi tiếng thế giới như gạo, cà phê, cao su, hạt điều, chè Ngày 2/3/1993, Chính phủ ban hành nghị định 13/CP về công tác khuyến nông. Hệ thống tổ chức khuyến nông đã được thiết lập từ Trung ương đến địa phương. Ngày 26/4/2005 Chính phủ ban hành nghị định 56/2005/NĐ-CP về khuyến nông –khuyến ngư. 1.3. Khoa học khuyến nông Khoa học khuyến nông coi con người và mối quan hệ khăng khít giữa người với người (nhà làm chính sách, nghiên cứu, cán bộ khuyến nông, nông dân và các đối tác liên quan) trong quá trình phát triển nông nghiệp và nông thôn là đối tượng nghiên cứu chính. Nghiên cứu khuyến nông nhằm giải đáp câu hỏi làm thế nào để có thể giúp nông dân chuyển đổi quan điểm, thái độ, tăng cường khả năng nhận thức vấn đề và tự đưa ra các quyết định tốt nhất để giải quyết các khó khăn của họ. 1.4. Giáo dục khuyến nông Giáo dục khuyến nông là nghiên cứu xem quyết định nào phải được người làm khuyến nông hay các nhà quản lý đưa ra, thông tin gì cần cho sự quyết định này, và có bao nhiêu thông tin như thế đang có sẵn. Sau đó nghiên cứu viên đó sẽ cố gắng cung cấp những thông tin còn thiếu. Đây là môn khoa học định hướng quyết định (khác với khoa học định hướng kết luận). Nó có thể giúp cho cán bộ khuyến nông và nông dân nhận thức rõ hơn về vấn đề họ đang gặp phải. Giáo dục khuyến nông xây dựng dựa trên một vai môn khoa học định hướng kết luận giúp cán bộ khuyến nông đưa ra các quyết định của họ, đặc biệt là môn tâm lý học, xã hội học và nhân chủng học. Giáo dục khuyến nông bao gồm việc sử dụng có suy nghĩ các thông tin để giúp người ta hình thành ý kiến và đưa ra những quyết định đúng. Giáo dục khuyến nông với mục tiêu là để học cách hình thành ý kiến và học cách đưa ra những quyết định. 7
- Chương 2 LÝ THUYẾT VỀ KHUYẾN NÔNG 2.1. Định nghĩa và mục đích của khuyến nông Thuật ngữ khuyến nông có thể được diễn đạt theo nhiều cách. Mỗi cán bộ khuyến nông, mỗi tổ chức khuyến nông đều có quan niệm riêng về thuật ngữ này dựa trên kinh nghiệm và tích chất công việc của mình. Nói cách khác là không thể đưa ra một định nghĩa duy nhất để có thể thích hợp cho mọi nơi, mọi hoàn cảnh. Đây là một khái niệm động bởi các quan niệm về nó luôn biến đổi. Chúng không thể gắn một ý nghĩa quá cứng nhắc cho một thuật ngữ mà nó lại mô tả một quá trình liên tục chuyển động và tiến hoá ở nông thôn. Để mở đầu ta có thể nhắc lại một số định nghĩa như sau: 2.1.1. Một số định nghĩa về khuyến nông Theo nghĩa Hán- Văn, “khuyến“ có nghĩa là khuyên người ta có gắng sức trong công việc, còn “Khuyến nông” nghĩa là khuyên mở mang phát triển trong nông nghiệp. Thuật ngữ “Extension” có nguồn gốc ở Anh từ những năm 1866 với một hệ thống trường đại học. “Extension” - Khuyến nông được tiếp nhận trước tiên ở các trường Đại học Cambridge và Oxford, sau đó được mở rộng tới các Hội giáo dục khác ở Anh và các nước khác. “Extension” với nghĩa ban đầu là “triển khai” hay “mở rộng”. Nếu khi ghép với từ “Agriculture” thành “Agricultural Extension” thì dịch là “khuyến nông” và hiện nay đôi khi chỉ nói Extension người ta cũng hiểu nó là khuyến nông. “Khuyến nông là phương pháp động, nhận thông tin có lợi tới người dân và giúp họ thu được những kiến thức, kỹ năng và những quan điểm cần thiết nhằm sử dụng một cách có hiệu quả thông tin hoặc kỹ thuật này”. “B.E. Swanson và J.B.Claar” “Khuyến nông khuyến lâm là một sự giao tiếp thông tin tỉnh táo nhằm giúp nông dân hình thành các ý kiến hợp lý và tạo ra các quyết định đúng đắn” (A.W.Van den Ban và H.S Hawkins, khuyến nông, 1988) “Khuyến nông khuyến lâm được xem như một tiến trình của việc hoà nhập các kiến thức khoa học kỹ thuật hiện đại. Các quan điểm, kỹ năng để quyết định cái gì cần làm, cách thức làm trên cơ sở cộng đồng địa phương sử dụng các nguồn tài nguyên tại chỗ với sự trợ giúp từ bên ngoài để có khả năng vượt qua các trở ngại gặp phải.” (D.Sim và H.A.Hilmi, FAO Forestry paper 80, 1987, FAO Rome). “Khuyến nông khuyến lâm là làm việc với nông dân, lắng nghe những khó khăn, các nhu cầu và giúp họ tự quyết định giải quyết vấn đề chính của họ” (Malla, A Manual for training Fiel Workers, 1989) “Khuyến nông khuyến lâm là một quá trình giáo dục. Các hệ thống khuyến nông khuyến lâm thông báo, thuyết phục và kết nối con người, thúc đẩy các dòng thông tin giữa nông dân và các đối tượng sử dụng tài nguyên khác, các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý và các nhà lãnh đạo.” (Falconer, J., Forestry, A Review of Key Issues, Social Forestry Network Paper 4e, 1987, O. D. I., London) 8
- “Khuyến nông là một từ tổng quát để chỉ tất cả các công việc có liên quan đến sự nghiệp phát triển nông thôn, đó là một hệ thống giáo dục ngoài nhà trường, trong đó có người già và người trẻ học bằng cách thực hành” (Thomas. G. Floes) Khuyến nông, hiểu theo nghĩa rộng là khái niệm chung để chỉ tất cả những hoạt động hỗ trợ sự nghiệp xây dựng và phát triển nông thôn. Khuyến nông hiểu theo nghĩa hẹp, là một tiến trình giáo dục không chính thức mà đối tượng của nó là nông dân. Tiến trình này đem đến cho nông dân những thông tin và những lời khuyên nhằm giúp họ giải quyết những vấn đề hoặc những khó khăn trong cuộc sống. Khuyến nông hỗ trợ phát triển các hoạt động sản xuất, nâng cao hiệu quả canh tác để không ngừng cải thiện chất lợng cuộc sống của nông dân và gia đình họ. Theo CIDSE1: Khuyến nông là một từ tổng quát dùng để chỉ tất cả các công việc liên quan đến sự phát triển nông thôn. Đó là một hệ thông giáo dục ngoài nhà trường trong đó các người già và trẻ được học bằng thực hành. Định nghĩa của nước Indonesia: Khuyến nông là một hệ thống giáo dục không theo một quy định thống nhất nào mà cũng không theo một hệ thống chung nào. Để huấn luyện nông dân nhằm mục đích giúp họ có những kỹ năng và trình độ kỹ thuật tốt hơn, phát triển hơn, quan điểm xác thực về sự đổi mới, dành được thế chủ động trong sản xuất kinh doanh và cuộc sống của họ. Theo FAO2: Khuyến nông là cách đào tạo và rèn luyện tay nghề cho người nông dân đồng thời giúp họ hiểu được những chủ trương chính sách về nông nghiệp, những kiến thức về kỹ thuật, kinh nghiêm về quản lý kinh tế và những thông tin về thị trường. Để họ có khả năng tự giải quyết các vấn đề của gia đình và công đồng, nhằm đẩy mạnh sản xuất, cải thiện đời sống, nâng cao dân trí góp phần xây dựng và phát triển nông thôn mới. Những định nghĩa trên đây cho chúng ta một quan điểm về các cách diễn giải thuật ngữ khuyến nông. Tuy vậy chúng có một số điểm giống nhau. Tất cả đều nhấn mạnh khuyến nông là một tiến trình giáo dục được kéo dài trong một giai đoạn mà ở đó: - Đối tượng học là đông đảo người nông dân, ở mọi thành phần và lứa tuổi, đa dạng về trình độ văn hoá, phong tục tập quán, có thể là thanh thiếu niên 18 đôi mươi cho đến những lão nông tri điền, có thể là cán bộ phát triển nông thôn, những người đang có nhu cầu mới về học, học để biết làm nông nghiệp trong những điều kiện mới. 1 Tổ chức đoàn kết quốc tế về hợp tác và phát triển 2 Tổ chức lương thực và nông nghiệp quốc tế 9
- - Mục đích học là giải quyết các vấn đề cụ thể, thực tế và thiết thật trong sản xuất, kinh doanh, công tác nông nghiệp tại cơ sở, cộng đồng, địa phương. - Nội dung học thường là những chủ đề, những hoạt động mang tính tổng hợp nhiều mặt, tích hợp nhiều loại kiến thức, nặng về thực hành kỹ năng, thao tác, học xong ứng dụng được ngay. - Hình thức học chủ yếu là giáo dục ngoài học đường, chương trình học rất linh hoạt, cốt đáp ứng nhu cầu thực tế của người học, có thể tiến hành trên đồng ruộng, nơi chuồng trại hoặc trong nhà. - Phương pháp học thích hợp là phương pháp giải quyết vấn đề đặt ra, dựa trên những tình huống cụ thể và có thật, thông qua những hành động thực tế. 2.1.2. Mục đích khuyến nông: - Mục đích chính của công tác khuyến nông là bắc nhịp cầu nối liền khoảng cách giữa sản xuất và nghiên cứu, giữa người nông dân với nhà khoa học; nhà nghiên cứu; nhà làm chính sách; nhà doanh nghiệp, Đem những thông tin cập nhật và đáng tin cậy về phương pháp canh tác, về kinh tế gia đình, phát triển cộng đồng và các chủ đề liên quan cho những người nông dân cần đến nó bằng cách dễ hiểu và có ích cho họ. Đồng thời phản ánh những vấn đề, những khó khăn, những nhu cầu mà người nông dân đang phải đối mặt cho các nhà nghiên cứu, các nhà làm chính sách để họ có những cải tiến và thay đổi phù hợp. - Nâng cao nhận thức về chủ trương, chính sách, pháp luật và kiến thức, kỹ năng về khoa học kỹ thuật, quản lý, kinh doanh cho người sản xuất. Để từ đó họ có những quyết định đúng đắn trong sản xuất, đáp ứng yêu cầu của thị trường và theo kịp sự phát triển chung của toàn xã hội. - Mở rộng sản xuất, đẩy mạnh sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, phát triển sản xuất theo hướng bền vững, tạo việc làm tăng thu nhập, xoá đói giảm nghèo, góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. - Huy động nguồn lực từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia phát triển nông nghiệp nông thôn. 2.2. Nội dung, nguyên tắc hoạt động khuyến nông 2.2.1. Nội dung hoạt động khuyến nông (Căn cứ theo nghị định 56/CP) Để đạt được những mục đích trên thì nội dung hoạt động của khuyến nông bao gồm những khía cạnh sau: - Thông tin tuyên truyền. + Tuyên truyền chủ trương đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ, thông tin thị trường và giá cả, phổ biến điển hình tiến tiến trong sản xuất, quản lý, kinh doanh, phát triển nông nghiệp. 10
- + Xuất bản, hướng dẫn và cung cấp thông tin đến người sản xuất bằng các phương tiện thông tin đại chúng, hội nghị, hội thảo, hội chợ, triển lãm và các hình thức tuyên truyền khác. - Bồi dưỡng, tập huấn và đào tạo. + Bồi dưỡng và tập huấn nghề nghiệp cho người sản xuất để nâng cao kiến thức, kỹ năng quản lý kinh tế trong nông nghiệp. + Đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho người hoạt động khuyến nông + Tổ chức tham quan, khảo sát, học tập trong và ngoài nước. - Xây dựng mô hình và chuyển giao khoa học kỹ thuật. + Xây dựng mô hình trình diễn về các tiến bộ khoa học kỹ thuật phù hợp với từng địa phương. + Xây dựng các mô hình công nghệ cao trong lĩnh vực nông nghiệp + Phổ biến kết quả khoa học kỹ thuật từ các mô hình trình diễn ra diện rộng. - Tư vấn và dịch vụ. + Tư vấn hỗ trợ chính sách, pháp luật về đất đai, thị trường, khoa học công nghệ, quản lý kinh doanh, + Dịch vụ trong các lĩnh vực như: tập huấn đào tạo, giá cả đầu tư, tín dụng, cung ứng vật tư kỹ thuật, thiết bị, + Tư vấn, hỗ trợ, phát triển, ứng dụng công nghệ sau thu hoạch, chế biến nông lâm thuỷ sản. - Hợp tác quốc tế về khuyến nông. + Tham gia các hoạt động khuyến nông trong các chương trình hợp tác với nước ngoài. + Trao đổi kinh nghiệm khuyến nông với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. 2.2.2. Các nguyên tắc trong hoạt động khuyến nông Chúng ta thấy rằng cán bộ khuyến nông có quyền tự do phục vụ nông dân theo cách thức mà họ cho là có hiệu quả nhất. Mặt khác người nông dân có quyền theo hay không theo lời khuyên của cán bộ khuyến nông. Nhưng để có một chương trình khuyến nông có hiệu quả thực sự đối với người dân thì khi tiến hành các hoạt động khuyến nông, người cán bộ khuyến nông cần phải tôn trọng một số nguyên tắc sau: - Tính không áp đặt, không mệnh lệnh. Lý do phải tuân thủ nguyên tắc này đó là do người dân là người làm chủ nông hộ, họ hiểu rõ hoàn cảnh của họ và họ biết họ đang cần cái gì nhất cũng như họ biết năng lực và đang sở hữu những tài nguyên gì. Hơn nữa tính tự nguyện sẽ mang lại hiệu quả cao hơn là áp đặt là mệnh lệnh trong bất kỳ tình huống nào. - Tính thích ứng theo vùng lãnh thô. Lý do của nguyên tắc này là do mỗi vùng có một điều kiện sinh thái khác nhau miền núi khác miền biển, vùng đồng bằng khác vùng trung du, điều kiện sản xuất cũng như nhu cầu thị trường là không hoàn toàn giống nhau Chính vì vậy để 11
- có một chương trình khuyến nông có hiệu quả cần phải thích ứng với từng vùng, tức là chương trình khuyến nông phải được xây dựng dựa trên điều kiện từng vùng và hoàn cảnh của từng người nông dân. - Tính toàn diện hay liên ngành. Do sản xuất nông nghiệp trong nông hộ mang tính đa ngành và liên ngành, hoạt động sống của cộng đồng cũng mang tính đa ngành và liên ngành. Nên nguyên tắc này cần phải đặt ra trong các chương trình khuyến nông. - Tính bình đẳng và phân chia nhóm đối tượng Lý do phải thực hiện nguyên tắc này là do trong thực tế ở nông thôn mỗi người có một hoàn cảnh khác nhau, sở hữu những tài nguyên và nguồn lực khác nhau cũng như đang phải đối mặt với những vấn đề không giống nhau. Thông thường những người có kiến thức chịu khó làm ăn, sở hữu nhiều tài nguyên thì luôn may mắn và dành được ưu thế trong sản xuất kinh doanh và trở thành những người có quyền lực, có uy tín ở địa phương. Ngược lại những người bị gặp rủi ro trong sản xuất kinh doanh hoặc không có nhiều tài nguyên nên họ trở thành những người nghèo, không có thế lực, uy tín. Trên quy mô rộng hơn chúng ta còn thấy ở nông thôn có những người chuyên trồng trọt, những người chuyên chăn nuôi, những người chuyên đánh bắt thuỷ sản Vì thế những con người này, những nhóm người này đang có những nhu cầu không giống nhau đồng thời họ đang gặp phải những vấn đề khó khăn khác nhau. Để thuận lợi trong hoạt động khuyến nông cũng như đảm bảo thành công của hoạt động cần phải tạo ra được bầu không khí bình đẳng trong lúc làm việc và có nội dung làm làm việc phù hợp với từng nhóm đối tượng. - Phối hợp nhịp nhàng với cộng đồng nông dân chứ không phải thay thế họ. Chỉ những người nông dân mới có thể chọn lựa cho họ phương thức sản xuất và cách sống thích hợp với họ. Người cán bộ khuyến nông làm việc bên cạnh họ nhưng không thể thay thế họ. Những người nông dân có thể có được những quyết định sáng suốt để giải quyết các vấn đề của họ nếu như có đầy đủ thông tin về các hướng giải quýêt có thể có. Khi thực hiện một quyết định của mình nông dân sẽ tự tin hơn. Khuyến nông có nghĩa là phối hợp các công việc, là giúp đỡ các cộng đồng nông dân giải quyết các vấn đề vướng mắc và động viên họ cầm lấy những quyết định của chính mình. - Gắn chặt trách nhiệm của khuyến nông với đối với nông dân. Những dịch vụ khuyến nông và những cán bộ khuyến nông đều phải thực hiện hai nhiệm vụ. Một mặt họ chịu sự kiểm soát của các cấp lãnh đạo về các mục tiêu chính trị của các chương trình dự án phát triển nông thôn, và họ cần phải chấp hành đường lối chính sách mà cấp trên giao. Mặt khác họ phục vụ cho quyền lợi của những người nông dân và trong khả năng của mình họ phải cố gắng thoả mãn nhu cầu của những người này. - Nguyên tắc trao đổi hai chiều Bởi vì chúng ta biết rằng sự giúp đỡ của cán bộ khuyến nông là dựa trên những kết quả nghiên cứu của các cơ quan nghiên cứu nông nghiệp, nhưng những 12
- thông tin mà cán bộ khuyến nông thu nhận được từ những người sản xuất cũng rất quan trọng cho công việc của anh ta. Những người này có những ý tưởng và những nhận xét hay phù hợp với thực tế. Do đó nguyên tắc này cũng cần phải tôn trọng khi làm việc với những người nông dân. - Tạo lập mối quan hệ chặt chẽ giữa nhà quản lý, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp với người sản xuất và giữa những người sản xuất với nhau. 2.2.3. Chức năng khuyến nông * Chức năng giáo dục, đào tạo: Chức năng này được thực hiện thông qua các hoạt động như: + Tập huấn kỹ thuật + Tham quan, trao đổi kinh nghiệm * Chuyển giao kỹ thuật và truyền thông: Chức năng này được thực hiện thông qua các hoạt động như: + Xây dựng mô hình trình diễn + Hội thảo đầu bờ + Thông tin qua các phương tiện thông tin đại chúng * Chức năng thúc đẩy: Chức năng này được thực hiện thông qua một số các hoạt động sau: + Kích thích nông dân hành động theo quyết định của chính họ + Tạo lập động cơ cho người dân. * Chức năng thu nhận (và giải thích các bức thông điệp) thông tin và phản hồi Nghĩa là khuyến nông bao gồm việc tiếp nhận và giải thích các bức thông điệp đã được truyền đi các kênh thông tin khác nhau. * Chức năng phát triển các chủ đề khuyến nông và đánh giá các hoạt động khuyến nông: Chức năng này được thực hiện qua một số hoạt động: + Nghiên cứu thực trạng cộng đồng địa phương để đề xướng những chủ đề khuyến nông phù hợp và xây dựng những phương pháp khuyến nông cụ thể. + Kiểm tra theo dõi các hoạt động khuyến nông và tiến hành đánh giá các hoạt động khuyến nông theo từng chủ đề và thời gian nhất định. * Chức năng thành lập các tổ chức nông dân Các nhóm tổ chức như: nhóm sở thích, câu lạc bộ khuyến nông, 2.2.4. Nhiệm vụ khuyến nông Chúng ta thấy rõ rằng cán bộ khuyến nông không thể giải quyết được tất cả các vấn đề của người nông dân được. Kiến thức và hiểu biết của người làm khuyến nông chỉ có thể giải quyết một số vấn đề nào đó và khi thực hiện cần phải có sự hợp tác của người dân. Sau đây là một vài nhiệm vụ chính mà cán bộ khuyến nông có thể và nên làm với người nông dân. - Giúp nông dân phân tích tình hình hiện tại và tương lai của họ Chúng ta dễ dàng nhận ra rằng một số nông dân không đủ hiểu biết để nhận thức ra vấn đề họ đang gặp phải và nghĩ ra các giải pháp thực thi hoặc lựa chọn giải pháp thích hợp nhất để đạt được mục đích của họ. Kiến thức mà họ có cũng có thể chỉ dựa vào những thông tin thiếu chính xác do kinh nghiệm bị hạn chế, ít được đào 13
- tạo Công việc của người làm công tác khuyến nông là giúp họ phân tích tình hình họ đang gặp phải. Ví dụ: Bằng việc phân tích cơ cấu kinh tế của một nông trại, người làm khuyến nông có thể cho người nông dân thấy rằng thu nhập chính của họ đang phụ thuộc vào một loại cây trồng nào đó, nhưng nguồn thu đó đang bị giảm dần. Một sự phân tích tương tự như vậy cũng có thể chứng minh rằng có những loại cây trồng khác đang được các nông dân khác thử nghiệm, có thể có tiềm năng thu nhập cao hơn. - Giúp nông nhận thức được vấn đề trong quá trình phân tích Nếu chỉ dừng lại ở việc giúp người dân phân tích vấn đề thì cán bộ khuyến nông chưa hoàn thành chức năng giáo dục. Bởi vì điều quan trọng là sau khi phân tích một tình huống nào đó, người phân tích phải thấy được điểm mấu chốt ở tình huống đó là gì, cần phải giải quyết nó như thế nào là tốt nhất. Hơn nữa việc giúp họ phân tích vấn đề chỉ thực hiện ở giai đoạn đầu và chỉ đối với một số nông dân, còn về lâu dài thì người nông phải tự phân tích lấy tình huống của họ. Người nông dân đó sẽ truyền lại kiến thức cho các người nông dân khác đó mới là điều quan trọng. Ví dụ: Để giúp nông dân đối phó với các loại dịch hại, cán bộ khuyến nông không chỉ dạy cho nông dân cách sử dụng bình bơm mà còn phải dạy cho nông dân hiểu được vòng đời của dịch hại, chu kỳ sinh trưởng phát triển của cây trồng để nông dân biết được khi nào thì sử dụng thuốc hoá học là đúng lúc và hướng dẫn cho người khác sử dụng. - Tăng thêm kiến thức và phát triển thêm hiểu biết về các vấn đề, và giúp sắp xếp lại những kiến thức hiện có của người nông dân Nếu không có cán bộ khuyến nông thì người nông dân vẫn có thể tiến hành quá trình sản xuất bình thường. Họ không hề được đào tạo chính quy về bất cứ một ngành nghề nào và họ cũng không biết khuyến nông là cần thiết. Có thể mọi quá trình sản xuất đều có thể diễn ra dưới sự điều hành của họ. Bản năng sinh tồn và khát vọng về cuộc sống ấm no hạnh phúc đã cho phép họ làm như thế. Tuy nhiên trong thời buổi kinh tế thị trường như hiện nay thì những kiến thức do đúc rút từ kinh nghiệm và những khát vọng là chưa đủ. Nếu đã chấp nhận nền kinh tế thị trường thì sản xuất phải mang tính hàng hoá. Do đó những kiến thức mới về quản lý kinh tế nông nghiệp, những kiến thức mới về sản xuất hàng hoá cần phải có đối với bất kỳ người chủ sản xuất nào. - Giúp cho nông có những kiến thức cụ thể về những giải pháp cho một vấn đề nào đó, vì thế họ có thể lựa chọn những hành động thích hợp. Chúng ta thấy rằng không chỉ có một câu trả lời cho câu hỏi làm thế nào để giúp nông dân đang gặp khó khăn ở những vùng nông thôn. Bởi vì điều này còn phụ thuộc vào khả năng và tiềm lực mà người nông đang có. Họ biết cái gì là tốt nhất đối với họ. Ví dụ: Việc thiếu lương thực có thể giải quyết bằng việc mỡ rộng diện tích hoặc cũng có thể giải quyết bằng việc tăng mức độ thâm canh. Cả hai cách này đều 14
- có thể làm tăng sản lượng lương thực, tuy nhiên chỉ người nông dân mới biết cách nào là thích hợp với họ nhất. - Động viên nông dân thực hiện những lựa chọn của họ Một số nông dân thiếu động cơ để hành động theo một cách nào đó. Hoặc họ thiếu tự tin do cuộc sống nông thôn đã trói chân họ với những quan niệm cổ xưa. Cán bộ khuyến nông phải giúp họ vượt qua những định kiến của xã hội, tạo ra bầu không khí thuận lợi cho họ hành động. - Giúp nông dân đánh giá và cải tiến kỹ thuật để tự hình thành ý kiến và tự ra quyết định. Đây là nhiệm vụ hết sức quan trọng đối với cán bộ khuyến nông. Chúng ta thấy rằng người nông dân đưa ra quyết định một phần là dựa vào sự trong đợi thu được kết quả đó, và một phần là dựa vào cách làm cho kết quả đó có giá trị. Những cái mà nông dân cho là có giá trị có thể khác với nhà làm khuyến nông. Nhưng chúng ta cũng không có lý do gì để kết luận rằng, những cái có giá trị theo quan điểm của các nhà làm khuyến nông và cấp trên của họ lại tốt hơn những cái của nông dân và gia đình họ. Ví dụ: Việc dùng phân bón ở những vùng chờ nước trời sẽ làm tăng thu nhập bình quân của gia đình nông dân, nhưng cũng đồng thời làm tăng thêm khả năng rủi ro. Như thế chỉ nông dân mới có quyền quyết định thu nhập hay rủi ro là quan trọng đối với họ. 2.3. Nguyên lý tiến trình khuyến nông Khuyến nông được thực hiện theo nguyên lý như sau: - Giúp nông dân hiểu biết được thông tin. Điều này liên quan đến truyền tải kiến thức và kỹ năng, cung cấp và làm sáng tổ thông tin. Hoạt động này có thể được thực hiện thông qua thông tin tuyên truyền, tập huấn, xây dựng mô hình, Ví dụ: tập huấn kỹ thuật trồng lúa lai. Sản phẩm của giai đoạn này là kiến thức và kỹ năng mới (quy trình trồng lúa lai). - Giúp nông dân nhận thức được những thông tin đó. Tức là giúp họ chuyển đổi quan điểm, thái độ, nếp nghĩ, sau khi nhận được thông tin và kiến thức mới. Hoạt động này có thể được thực hiện thông qua các hoạt đông đào tạo và tham quan học tập chia sẽ kiến thức và kinh nghiệm. Ví dụ hiểu được trồng lúa lai là có ích cho gia đình và thích trồng lúa lai thay vì lúa địa phương. Sản phẩm của giai đoạn này là thái độ và nếp nghĩ thay đổi theo hướng tích cực (thích trồng lúa lai). - Giúp nông dân hành động hay thay đổi thực hành sản xuất. Đây là giai đoạn quan trọng nhất trong khuyến nông. Có thể sau khi hiểu biết và nhận thức đầy đủ nhưng người nông dân vẫn không thể hành động được bời vì họ thiếu các ngườn lực cần thiết hoặc họ không thể tiếp cận được nguồn lực đó để sản xuất. Khuyến nông nên giúp họ tiếp cận được các nguồn lực và dịch vụ này, có thể liên quan đến thể chế và chính sách. Ví dụ họ muốn sản xuất lúa lai những không thể trồng được lúa này vì họ không có đất đai để trồng. sản phẩm của giai đoạn này là thực hành sản xuất thay đổi (họ trồng lúa lai thay thế lúa địa phương). Những hoạt động thực hiện, thay đổi nhu cầu của đối tượng 15
- Kiến thức và kỹ năng Khuyến nông cung cấp kiến thức kĩ thuật và huấn luyện những kĩ năng khác nhau cho nông dân. Muốn phát triển sản xuất có hiệu quả, nông dân cần kiến thức mới và những kĩ năng mới. Ví dụ, cách tổ chức và quản lí trang trại kể cả việc theo dõi ghi chép đầy đủ những khoản thu chi, cách sử dụng những loại công cụ mới, hoặc khả năng phân tích khía cạnh kinh tế của thông tin và những lời khuyên. Những khuyến cáo kỹ thuật Khuyến nông cung cấp thông tin và những khuyến cáo kĩ thuật giúp nông dân tự mình đưa ra quyết định và hành động. Thông tin bao gồm giá cả và thị trờng của những mặt hàng họ có thể sản xuất hoặc quan tâm, hoặc có những loài cây/con giống họ đang cần. Khuyến cáo kĩ thuật, trên cơ sở những kết quả nghiên cứu, thường tập trung vào những hoạt động canh tác và những tác động cần thiết để nâng cao hiệu quả sản xuất. Tất nhiên, nhiều nông dân cũng có những kiến thức và kinh nghiệm sản xuất rất có ích mà khuyến nông có thể tiếp thu và phổ biến lại cho những nông dân khác. Tổ chức nông dân Nông dân cần có một tổ chức để đại diện cho quyền lợi của mình và thực hiện những công việc mang tính cộng đồng. Vì vậy cán bộ khuyến nông cần giúp họ tổ chức thành những tổ, nhóm khác nhau trên cơ sở mục đích hoặc lợi ích chung của họ. Những tổ nhóm như vậy thường đóng vai trò kênh đa thông tin đến nông dân và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho công tác khuyến nông. Động cơ và lòng tin Một trong những khó khăn của tiến trình phát triển nông thôn hiện nay là nhiều hộ nông dân phải "đơn phương độc mã" đối mặt với những hoàn cảnh khó khăn và cảm thấy khó có thể làm được gì để thay đổi cuộc sống của mình. Họ thiếu sự hỗ trợ và động viên từ bên ngoài. Có người đã phải vật lộn cả đời mà cũng không làm cho cuộc sống khá lên được bao nhiêu. Vì vậy, cán bộ khuyến nông cần đến với họ, giúp đỡ họ và khuyến khích họ tham gia các chơng trình khuyến nông. Nhng điều quan trọng hơn cả cần phải thuyết phục và động viên để họ tin tởng rằng họ hoàn toàn có thể tự quyết định và hành động để cải thiện cuộc sống của chính mình. Động cơ của hành vi có thể là một cái gì đó mà con người muốn có, muốn cảm nhận thấy hoặc biến thành sự thật Trong đời sống xã hội thì mỗi con nưgời, mỗi vị trí, mỗi địa vị, mỗi điều kiện lại có các nhu cầu khác nhau. Theo tác giả Abraham H. Maslow trong cuốn sách “ Động cơ và nhân cách” New York, 1970 đã đa ra 5 nhóm nhu cầu cơ bản của con người và chúng có một trật tự logic, hệ thống, nghĩa là các nhu cầu ở 5 mức độ khác nhau, mỗi mức trở thành một đòi hỏi chỉ khi các mong muốn ở các mức thấp hơn đã được thoả mãn. Nhu cầu sinh tồn: Ở mức cơ bản thấp nhất là những nhu cầu được gọi là “nhu cầu sinh lý”, chủ yếu là những điều thiết yếu để cơ thể con người tồn tại như một cơ thể sống. Nhóm này gồm: Lương thực, thực phẩm, nơi ở Chừng nào các nhu cầu này chưa thỏa 16
- mãn thì con người sẽ không cảm thấy băn khoăn về các nhu cầu khác cao hơn. Khi các nhu cầu sinh tồn tương đối đáp ứng, thì nhu cầu tiếp theo đòi hỏi. Nhu cầu an toàn Khi đã có đủ lương thực, thực phẩm, và các nhu thiết yếu cho cuộc sống thì con người nghĩ đến việc làm thế nào cuộc sống được đảm bảo hơn, an toàn hơn. Con người tìm các biện pháp bảo đảm cho tương lai khỏi bị thiếu các nhu cầu cơ bản: như làm nhà cửa chắc chắn hơn, tích lũy lương thực, tích lũy tiền bạc Nhu cầu nhập hội Khi các nhu cầu cho sinh tồn và an toàn đợc đáp ứng đầy đủ thì vấn đề vật chất không còn làm ta bân tâm nhiều nữa, và lúc này con người muốn làm được một cái gì đó, hoặc tham gia vào một nhóm hay tổ chức nào đó để đợc mọi người chấp nhận, và tham gia vào công tác xã hội Nhu cầu thừa nhận/ kính trọng Lòng kính trọng tùy thuộc rất nhiều vào người khác đánh giá ta. Thường con người không thỏa mãn với việc người khác chấp nhận bình thờng. Nếu được hoan nghênh, khâm phục con người cảm thấy tự tin và hãnh diện Nhu cầu khẳng định Sau khi đạt được 4 nhu cầu trên, thì con người cũng muốn làm được một cái gì đó để có thể khẳng định được tài năng của mình Trong công tác khuyến nông việc tìm hiểu động cơ người dân có thể giúp ta trong hai tình huống: khi muốn giúp họ và khi muốn họ thay đổi hành vi. Để giúp con người khắc phục vấn đề nào đó của họ, trước tiên ta phải tìm hiểu tại sao họ lại có hành vi như họ đang thực hiện? Hành động của họ có thể bộc lộ hoàn toàn vô lý đối với chúng ta, song họ có thể hóa ra khôn ngoan và sáng suốt khi họ được hiểu ra dới lý thuyết động cơ và nhu cầu. Một sự phân tích hệ thống các tình huống có thể cho phép chúng ta giúp họ những vấn đề mà họ cảm thấy cần có sự giúp đỡ thực sự. Khi một khuyến nông viên muốn thuyết phục người này thay đổi hành vi, thực hiện một vấn đề mới, bản thân phải tin rằng phương pháp mới phải tốt hơn, hiệu quả hơn hay sinh lợi hơn. Nhưng như thế chưa đủ, còn phải xem xét tác động của vấn đề mới ra sao. Liệu vấn đề mới đó có đáp ứng được một trong các nhu cầu của họ hay không? Còn đối với động cơ của khuyến nông viên thì sao? Chúng có thể thay đổi như với bất cứ ai. Họ có thể cần sự an toàn của việc làm thường xuyên, hoặc sự nhập hội trong quá trình gặp gỡ nhiều người, hoặc sự công nhận hay tín nhiệm của những người họ đã giúp bằng lời khuyên đúng đắn. Họ cũng có thể cần sự tự khẳng định, và thỏa mãn nhu cầu đó khi họ biết đã thành công trong một công tác quan trọng. Khuyến nông được coi như là một công tác tổ chức, thiết kế để cải thiện điều kiện sinh sống của các nông dân và nông thôn, bằng cách hướng dẫn họ thực hiện tốt hơn các kỹ thuật canh tác, cải thiện phơng pháp làm việc. Khuyến nông được bắt đầu từ bất cứ đâu mà con người hiện diện và với nguồn lực sẵn có của chính họ. 17
- Hành động Khuyến nông Nhận thức Khuyến nông TIẾN TRÌNH Hiểu biết Khuyến nông Thử nghiệm Đánh giá/hình Ra quyết định thành ý kiến Một số nước như Pháp trước đây hiểu khuyến nông theo nghĩa hẹp là “phổ cập nông nghiệp” hay chuyển giao kỹ thuật nông nghiệp đến nông dân, nay cũng đã chuyển sang nghĩa rộng là phát triển nông nghiệp. Còn ở Anh từ thế kỷ 19 đã thực hiện khuyến nông theo nghĩa rộng (Agricultural Extension). Thực tiễn hoạt động và hiệu quả của khuyến nông Việt Nam trong những năm qua cho thấy khuyến nông theo nghĩa rộng là phù hợp với xu thế của thời đại trong sự nghiệp phát triển nông thôn của thế kỷ 21. 2.4. Đánh giá hiệu quả khuyến nông 2.4.1. Khái niệm về đánh giá Đánh giá có thể được hiểu như sự ước tính hay nhận định giá trị của một vật thể hay hoạt động nào đó. Người ta đánh giá bằng cách so sánh kết quả với mục tiêu đặt ra ban đầu. Khác với đánh giá kỹ thuật, đánh giá hiệu quả khuyến nông người ta chú trọng vào xem xét hiệu quả trên một hộ nông dân thay vì trên một đơn vị sản xuất hoặc trên một lao động. 2.4.2. Các chỉ tiêu/chỉ tiêu đánh giá hiệu quả khuyến nông - Số lượng mô hình thay đổi theo thời gian; Ví dụ: số mô hình khuyến nông tăng lên (lúa, bông, mía, cao su, cà phê, rau, hoa, trên một cộng đồng trong một khoảng thời gian. - Quy mô áp dụng kỹ thuật thay đổi theo thời gian trên một không gian xác định; Ví dụ: diện tích lúa lai tăng lên trong tổng diện tích trồng lúa của nông hộ; - Thu nhập/hộ nông dân. Ví dụ: thu nhập của hộ nghèo tăng lên từ việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật của chương trình khuyến nông 2.5. Hệ thống tổ chức khuyến nông Việt Nam 2.5.1. Những nguyên tắc cơ bản - Phải đánh giá đúng tầm quan trọng của những cán bộ khuyến nông làm việc trực tiếp với dân. Tính hiệu quả của một tổ chức khuyến nông thể hiện ở những đầu ra của nó. Đó là khâu tiếp xúc trực tiếp hàng ngày với dân. Khâu này làm tốt hay không tốt sẽ ảnh hởng đến toàn bộ tiến trình khuyến nông và khả năng sống còn của tổ chức. Vì vậy, những cán bộ khuyến nông cơ sở có một vai trò quan trọng. Họ phải được tạo điều kiện để làm tốt công việc khuyến nông. 18
- - Tuyển lựa những cán bộ không những có năng lực mà còn phải có một thái độ, một tư cách thích hợp với công việc khuyến nông. Đặc thù của khuyến nông là làm việc ở nông thôn, điều kiện công tác khó khăn, ít chịu sự kiểm soát chặt chẽ của cấp trên. Do vậy nhất thiết phải tuyển lựa những người đáng tin cậy, siêng năng, tháo vát và chân thành mong muốn được phục vụ bà con nông dân. - Phát triển mạng lới khuyến nông trên cơ sở bằng cách tuyển lựa và đào tạo cộng tác viên là những nông dân nhiệt tình và có năng lực ở địa phương. Muốn cho kĩ thuật được chuyển giao đến từng hộ nông dân, nhất thiết phải xây dựng mạng lới, tuyển lựa và đào tạo các cộng tác viên tại địa phương. Những người này ngoài lòng nhiệt tình còn phải có năng lực công tác. Họ có thể làm việc trên cơ sở tình nguyện hoặc được trả thù lao theo từng chương trình. - Cần một đội ngũ chuyên gia thành thạo về kĩ thuật và phương pháp để luôn hỗ trợ cho các hoạt động khuyến nông. Đây là hậu phương của những cán bộ ngoại nghiệp, lực lượng này sẽ hỗ trợ kĩ thuật và bổ sung kiến thức cho những cán bộ khuyến nông ngoại nghiệp khi cần thiết. - Tổ chức bộ máy khuyến nông phải hết sức gọn nhẹ và năng động. Trong điều kiện giao thông và thông tin liên lạc ở nông thôn nước ta còn gặp nhiều khó khăn, việc có một bộ máy khuyến nông gọn nhẹ và năng động là rất cần thiết cho cán bộ hoạt động. Chỉ có một tổ chức khuyến nông năng động, có đủ điều kiện làm việc mới có thể nhanh chóng đáp ứng được những yêu cầu của nông dân. 2.5.2. Hệ thống tổ chức khuyến nông ở Việt Nam. 2.5.2.1. Hệ thống tổ chức khuyến nông theo nghị đinh số 13-CP Ngày 2-3-1993, Chính phủ đã ban hành nghị định số 13-CP kèm theo bản Quy định về công tác khuyến nông. Thông tư liên bộ số 02/LB/TT ngày 2-8-1993 cũng đã có những hướng dẫn cụ thể về việc thi hành nghị định số 13-CP. Tổ chức mạng lới khuyến nông như thế nào, điều đó phụ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể ở từng địa phương. 2.5.2.2. Trung tâm khuyến nông Quốc gia Nhiệm vụ của các tổ chức khuyến nông đã được quy định cụ thể trong thông t liên bộ số 02/LB/TT ngày 2-8-1993 'Hướng dẫn thi hành nghị định số 13-CP ngày 2-3-1993 của Chính phủ về công tác khuyến nông". - Xây dựng và chỉ đạo các chơng trình dự án khuyến nông về trồng trọt, chăn nuôi, bảo vệ thực vật, thú y, bảo quản, chế biến nông sản - Theo dõi, đôn đốc, điều phối hoạt động khuyến nông, và giám sát đánh giá việc thực hiện các chương trình dự án khuyến nông - Tham gia thẩm định các chương trình dự án khuyến nông theo quy định của Bộ NN & PTNT - Tổ chức chỉ đạo thực hiện phổ biến và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, những kinh nghiệm về điển hình sản xuất giỏi, bồi dưỡng kỹ năng, kiến thức và quản lý kinh tế, thông tin thị trường cho nông dân - Quan hệ với các tổ chức kinh tế, xã hội trong và ngoài nớc để thu hút nguồn vốn hoặc tham gia trực tiếp vào hoạt động khuyến nông 19
- - Xây dựng và hướng dẫn thực hiện các quy trình, quy phạm kỹ thuật về trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp 2.5.2.3. Trung tâm khuyến nông tỉnh Theo nghị định 13/CP thì mỗi tỉnh thành lập 1 Trung tâm khuyến nông, trực thuộc Sở NN&PTNT, mỗi trung tâm có từ 3-5 phòng chức năng, biên chế từ 15-20 ngời tùy từng tỉnh. Nhiệm vụ của trung tâm là: - Xây dựng chỉ đạo thực hiện các chương trình khuyến nông của Trung ương và Tỉnh - Phổ biến và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật về nông lâm nghiệp và những kinh nghiệm, điển hình sản xuất cho nông dân . - Bồi dưỡng kiến thức, quản lý kinh tế và rèn luyện tay nghề cho cán bộ khuyến nông cơ sở, cho nông dân, cung cấp cho nông dân những thông tin thị trường, giá cả nông sản. - Quan hệ với các tổ chức trong và ngoài nước để thu hút nguồn vốn hoặc tham gia trực tiếp vào các hoạt dộng khuyến nông địa phơng 2.5.2.4. Trạm khuyến nông huyện/ thị: Theo quy định thì mỗi huyện thị sẽ thành lập Trạm khuyến nông, làm công tác sự nghiệp về khuyến nông. Tuy nhiên hiện nay việc hình thành trạm, và tổ chức của các trạm ở mỗi địa phương lại có sự khác nhau, và không thống nhất. Theo tổng kết của Trung tâm khuyến nông Quốc gia thì hiện nay có 4 loại hình tổ chức của Trạm khuyến nông cấp huyện: Một là: Trạm khuyến nông được trực tiếp quản lý theo ngành dọc là Trung tâm khuyến nông tỉnh. Loại hình này gồm 30 tỉnh, chủ yếu ở phía nam Hai là: Trạm khuyến nông trực thuộc huyện quản lý về nhân sự, chuyên môn do ngành dọc quản lý. Loại hình này có 21 tỉnh Ba là: Trạm khuyến nông trực thuộc Phòng NN&PTNT quản lý. Loại hình này có 13 tỉnh Bốn là: Sự nghiệp khuyến nông và quản lý nhà nớc về nông nghiệp vẫn cùng chung trong Phòng NN&PTNT, khuyến nông chưa hình thành Trạm. Loại hình này có 8 tỉnh Nhiệm vụ của Trạm khuyến nông được quy định cụ thể: - Tiếp nhận những chương trình khuyến nông do Trung tâm khuyến nông tỉnh đưa xuống, tổ chức thực hiện, giám sát và báo cáo kết quả hoạt động lên Trung tâm. - Xác định những nhu cầu khuyến nông của các xã trong huyện và tập hợp thành kế hoạch khuyến nông tháng/quý/năm để trình lên cấp tỉnh. - Tổ chức hoạt động khuyến nông như: Tập huấn kĩ thuật, tổ chức trình diễn phương pháp và kết quả, đi tham quan, hội thảo đầu bờ v.v để chuyển giao kĩ thuật cho dân. - Hợp tác với những cơ quan nghiên cứu để khảo sát và thử nghiệm những mô hình canh tác nông lâm kết hợp, chăn nuôi và bảo vệ thực vật trên cơ sở có ng- ười dân cùng tham gia. 20
- - Thông qua những phương tiện khuyến nông, cung cấp cho nông dân những thông tin cần thiết về hạt giống, cây con, phân bón, thuốc trừ sâu, giá cả thị trờng Thu thập thông tin khoa học kĩ thuật trong những lĩnh vực khác để sẵn sàng cung cấp thông tin cho dân khi cần. - Tổ chức và giúp đỡ nông dân tiếp cận các nguồn tín dụng để phục vụ sản xuất nông nghiệp hoặc phát triển các hoạt động tăng thu nhập. - Phối hợp khuyến nông với các chương trình phát triển khác ở địa phương như chăm sóc sức khoẻ, kế hoạch hoá gia đình, xoá nạn mù chữ và những chương trình khác của các tổ chức phi chính phủ. - Tổ chức các buổi ngoại khoá cho học sinh phổ thông trong huyện về những chủ đề có liên quan đến môi trờng, bảo vệ rừng, chăn nuôi và canh tác nông nghiệp. - Khuyến khích và giúp đỡ dân xây dựng vườn ươm hoặc các cơ sở sản xuất cây/con giống do hộ nông dân hoặc do cộng đồng quản lí. - Khuyến khích và giúp đỡ dân phát triển những hoạt động sản xuất khác tăng thu nhập cho gia đình. - Phối hợp với những cơ quan chức năng khác nhau trong huyện nh Trạm bảo vệ thực vật, Trạm thú y, để thực hiện các chương trình có liên quan tới khuyến nông. 2.5.2.5. Cấp xã Tuỳ theo điều kiện từng địa phương, có thể thành lập các cụm khuyến nông, mỗi cụm khuyến nông bao gồm từ 3-4 xã gần kề nhau. Trong một cụm có thể bố trí 3-4 cán bộ khuyến nông (biên chế của trạm) có chuyên môn khác nhau (trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp ) để họ có thể phối hợp giải quyết những vấn đề thuộc chuyên môn trong địa bàn họ phụ trách. Tổ chức theo Cụm khuyến nông là hình thức phổ biến trước đây ở một số địa phơng nh Thái Nguyên, Bắc Kạn Hình thức này có ưu điểm là có sự hợp tác của các cán bộ khuyến nông có chuyên ngành khác nhau, nhng cũng có nhược điểm là sự phân công trách nhiệm không rõ ràng, nên có xã hoạt động tốt có xã hầu như ít hoạt động, nên hiệu quả hoạt động còn có những hạn chế. Cụm trưởng chịu trách nhiệm trước Trạm khuyến nông về việc quản lí nhân sự, lập kế hoạch, thực hiện, giám sát, đánh giá và báo cáo những chương trình khuyến nông trong địa phương. Theo thông tư liên bộ, Bộ NN&PTNT- Ban Tổ chức cán bộ chính phủ số 07 ngày 24/4/1996, mỗi xã có một ủy viên nhân dân xã theo dõi sản xuất nông lâm nghiệp và làm công tác khuyến nông. Hiện nay do đặc thù hết sức phong phú và đa dạng của hoạt động khuyến nông ở các địa phương nên, nhiều tỉnh đã hình thành mạng lưới khuyến nông tới các xã, các cán bộ này được biên chế như công chức nhà nước và làm nhiệm vụ khuyến nông xã. Tham mưu cho chính quyền địa phương về hoạt động nông lâm nghiệp. Xác định các nhu cầu của người dân. Xây dựng các kế hoạch khuyến nông và phát triển nông thôn tại các thôn bản của xã. Tập huấn kỹ thuật cho nông dân, xây dựng các mô hình trình diễn tại địa phương, chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật tới người dân. Giám sát đánh giá các hoạt động 21
- khuyến nông tại các thôn bản. Ngoài ra khuyến nông cấp xã có một số nhiệm vụ sau: Phát hiện những nông dân sản xuất giỏi, những kinh nghiệm kiến thức sản xuất trong địa bàn để báo cáo cho Trạm và phổ biến những điển hình này cho những nông dân khác. Giúp thành lập các Ban quản lí thôn bản để quản lí các chương trình khuyên nông ở địa phương, phát hiện những nông dân có năng lực và nhiệt tình để bồi dưỡng họ trở thành khuyến nông viên thôn bản. Thực hiện đào tạo khuyến nông và kĩ thuật cho họ để phổ cập cho nông dân. Giúp thành lập những nhóm nông dân có cùng hoàn cảnh hoặc cùng lợi ích để tiến hành khuyến nông cho họ. 2.5.2.6. Cấp thôn bản Hiện nay, các tỉnh rất quan tâm đến việc xây dựng mạng lới khuyến nông cơ sở, bao gồm các cán bộ kỹ thuật làm theo hợp đồng, những nông dân tiên tiến. Ở các thôn bản có thể hình thành nên các câu lạc bộ khuyến nông (Hà Nội, Cần Thơ, Long An, Sơn la, Lai Châu ), làng khuyến nông tự quản (Thái Nguyên Bắc Kạn ), hoặc nhóm hộ sở thích. Làng khuyến nông tự quản/ Ban quản lí thôn bản Làng khuyến nông tự quản là một tổ chức nông dân ở cơ sở được thành lập trên tinh thần tự nguyện và nhu cầu của cộng đồng thôn bản. Với sự giúp đỡ của cán bộ khuyến nông, làng khuyến nông tự quản hoàn toàn chủ động và tự quản trong việc tổ chức phát triển sản xuất và các hoạt động khác ở địa phương. Mục tiêu: - Nâng cao năng lực tự quản của nông dân. - Xây dựng kế hoạch và biện pháp phù hợp với điều kiện thực tế, đáp ứng nhu cầu của người dân trong sản xuất và phát triển thôn bản. - Tăng cường tính cộng đồng trong các hoạt động nông nghiệp và phát triển nông thôn . Ban quản lí thôn bản : Do người dân tự bầu ra dưới sự giúp đỡ của cơ quan khuyến nông, Ban quản lí có thể từ 3-5 người, bao gồm trưởng ban, các ủy viên, có thể có các đại diện của các tổ chức quần chúng khác như hội phụ nữ, hội nông dân, đoàn thanh niên, hội cựu chiến binh tham gia. Ban quản lí thôn bản có nhiệm vụ sau: - Cùng với dân và cán bộ khuyến nông xây dựng, thực hiện, giám sát và đánh giá kế hoạch phát triển kinh tế cộng đồng và những chương trình khuyến nông trong thôn bản. - Quản lí và phát triển các quỹ tín dụng và tiết kiệm trong thôn bản. - Phối hợp và tạo điều kiện cho các nhóm cùng sở thích, các khuyến nông viên thôn bản triển khai các chương trình khuyến nông - Theo dõi và đánh giá các chương trình khuyến nông - Phản ánh kịp thời nhu cầu và nguyện vọng của dân lên cụm khuyến nông. Câu lạc bộ khuyến nông 22
- Câu lạc bộ khuyến nông là tổ chức khuyến nông tự nguyện được chính quyền xã cho phép hoạt động và quản lý. Có những nhiệm vụ chủ yếu như sau: - Tập hợp các hội viên là nông dân để tổ chức học tập tiếp thu tiến bộ kỹ thuật mới, trao đổi kinh nghiệm, giúp đỡ hội viên nâng cao trình độ quản lý, khả năng tổ chức sản xuất có hiệu quả kinh tế cao - Tổ chức các buổi sinh hoạt câu lạc bộ để nông dân trao đổi, bàn bạc, đề xuất các nhu cầu nguyện vọng. Tạo mối quan hệ gắn bó giữa các hộ nông dân với nhau, giúp nhau khắc phục khó khăn trong sản xuất và đời sống. - Tổ chức các hoạt động dịch vụ cung ứng vật tư nông nghiệp (phân bón, thuốc trừ sâu, cây con giống Câu lạc bộ có thể đứng ra làm tín chấp với các tổ chức tín dụng để giúp các hộ thành viên vay vốn đầu tư sản xuất có hiệu quả Nhóm hộ sở thích Là các nhóm có chung nguyện vọng, chung sở thích và có điều kiện kinh tế, xã hội tương đối gần nhau. Mục tiêu chung của nhóm sở thích là: - Nâng cao năng lực của nông dân để họ giúp đỡ lẫn nhau tự giải quyết các vấn đề khó khăn, thay vì chỉ phụ thuộc vào sự hỗ trợ bên ngoài. Nông dân có thể giúp dỡ, hỗ trợ, liên kết với nhau trong sản xuất, cùng nhau học hỏi và áp dụng các kỹ thuật mới vào sản xuất - Giúp người dân đưa ra được những vấn đề khó khăn trong sản xuất, đề xuất các giải pháp phù hợp. Khuyến nông viên thôn bản Khuyến nông viên thôn bản do dân hoặc Ban quản lý thôn bản bầu ra. Nên chọn những người có năng lực sản xuất và nhiệt tình với công tác khuyến nông. Họ sẽ được đào tạo và hỗ trợ để làm khuyến nông trực tiếp cho dân. Mỗi thôn bản cử ra từ 1-2 ngời, tuỳ theo quy mô của thôn bản. Nhiệm vụ của Khuyến nông viên thôn bản là - Trực tiếp phổ cập các chương trình khuyến nông đến từng hộ nông dân . - Giám sát và báo cáo Ban quản lý hoặc cán bộ khuyến nông về việc thực hiện các hoạt động khuyến nông và tín dụng của những nhóm hộ nông dân cho mình phụ trách . - Phối hợp theo dõi những chương trình thử nghiệm và trình diễn của nông dân. - Phản ánh kịp thời những nhu cầu và nguyện vọng của dân với Ban quản lý và khuyến nông cấp trên 2.5.2.7. Các tổ chức tham gia khuyến nông khác Các Viện nghiên cứu, Trung tâm, Trường đại học, Cao đẳng, doanh nghiệp, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức quốc tế tham gia công tác khuyến nông Ngoài hệ thống tổ chức khuyến nông Nhà nước thì nhiều cơ quan, trờng học viện nghiên cứu, các tổ chức phi chính phủ Cũng là một lực lượng quan trọng có thể trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia công tác khuyến nông thông qua các kết quả nghiên cứu, xây dựng mô hình trình diễn, các lớp tập huấn, hội thảo, tham quan hoặc một dự án phát triển nông thôn Thực tế trong nhiều năm qua sự đóng góp 23
- của thành phần này cũng rất quan trọng, đã góp phần rất lớn trong việc từng bước hoàn thiện phương pháp luận trong công tác khuyến nông. Các Hội, đoàn thể, các ban ngành Một số hội tham gia tích cực công tác khuyến nông như: Hội nông dân, Hội phụ nữ, Hội làm vườn , các ngành như: ngân hàng, tài chính cũng đã tham gia tích cực vào công tác khuyến nông và hoạt động cũng rất có hiệu quả. Hội nông dân, Hội phụ nữ đã có những hoạt động cụ thể để giúp các thành viên trong hội mình phát triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo, vươn lên làm giàu. * Hệ thống tổ chức khuyến nông mới Theo nghị định mới của chính phủ về khuyến nông (56/2005/NĐ-CP), hiện nay hệ thống tổ chức khuyến nông ở Việt Nam chia làm 4 tổ chức khuyến nông sau: Tổ chức khuyến nông Trung ương: - Trung Tâm Khuyến Nông Quốc Gia, đây là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Bộ Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn. - Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Trung Tâm Khuyến Nông Quốc Gia do bộ trưởng Bộ Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn quy định. Tổ chức khuyến nông địa phương Tổ chức khuyến nông ở địa phương là đơn vị sự nghiệp, được quy định như sau: - Tổ chức khuyến nông ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được gọi là khuyến nông cấp tỉnh. - Tổ chức khuyến nông ở quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh được giọi là khuyến nông cấp huyện. Chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của khuyến nông địa phương do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định. Tổ chức khuyến nông cơ sở - Mỗi xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) có ít nhất một nhân viên làm công tác khuyến nông. - Ở thôn, bản, phum, sóc(sau đây gọi chung là cấp thôn) có cộng tác viên khuyến nông. - Uỷ ban nhân dân tỉnh quy định số lượng và chế độ thù lao cho nhân viên khuyến nông cấp xã, cộng tác viên khuyến nông cấp thôn. Tổ chức khuyến nông khác - Tổ chức khuyến nông khác bao gồm các tổ chức và cá nhân như: tổ chức chính trị xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức hội nghề nghiệp, tổ chức khoa học, giáo dục đào tạo, tham gia vào việc khuyến khích, tạo điều kiện và thành lập các tổ chức khuyến nông. - Chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của tổ chức khuyến nông thuộc tổ chức, cá nhân nào thì do tổ chức, cá nhân đó quy định. 2.6. Vai trò, phẩm chất và yêu cầu cán bộ khuyến nông 2.6.1. Vai trò của cán bộ khuyến nông Để giúp đỡ những người nông dân có ý kiến đúng và ra các quyết định có hiệu quả. Cán bộ khuyến nông thường đóng vai trò như: 24
- - Người thúc đẫy; - Người lãnh đạo; - Người bạn; - Người tổ chức; - Ngườiquản lý; - Ngườii cung cấp thông tin; - Đối tác. 2.6.2. Yêu cầu của cán bộ khuyến nông 2.6.2.1. KiÕn thøc, n¨ng lùc vµ phÈm chÊt c¸ nh©n * Kiến thức Một cán bộ khuyến nông thực thụ cần có kiến thức về các lĩnh vực sau: + Kiến thức về mặt kỹ thuật: Người cán bộ khuyến nông cần được đào tạo đầy đủ về các lĩnh vực kỹ thuật trong phạm vi trách nhiệm công tác của mình, vì các hoạt động ở nông thôn tương đối toàn diện,và đa ngành: trồng trọt, chăn nuôi, trồng rừng, nuôi cá, nghề phụ , nên người cán bộ khuyến nông không chỉ hiểu sâu một chuyên ngành nào đó mà còn phải biết rộng về các chuyên ngành khác, có như vậy mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình (ví dụ: một kỹ sư trồng trọt thì cũng cần hiểu về một số kỹ thuật cơ bản về chăn nuôi hay trồng rừng ) + Kiến thức về xã hội và cuộc sống nông thôn: Người cán bộ khuyến nông cần hiểu được những vấn đề liên quan đến nhân văn và xã hội của đời sống nông thôn nơi mình đang công tác, đặc biệt là phải hiểu được các phong tục, tập quán, truyền thống văn hoá và những giá trị tinh thần của người dân. + Kiến thức về đường lối, quan điểm và chính sách của Nhà nước: Người cán bộ khuyến nông phải nắm đợc chủ trương, đường lối và những chính sách cơ bản của Đảng và Nhà nước về phát triển nông thôn. Những chính sách cụ thể của địa phương (tỉnh, huyện ) về phát triển nông nghiệp và nông thôn trên địa bàn. Đồng thời cũng phải hiểu được những vấn đề khác có liên quan và ảnh hưởng đến đời sống nông thôn như các chương trình phát triển, chương trình tín dụng, hoặc các thủ tục pháp lý và hành chính ở nông thôn. + Kiến thức về giáo dục người lớn: Do khuyến nông là một tiến trình giáo dục mà đối tượng của nó là nông dân, nên người cán bộ khuyến nông phải biết cách tiếp cận và giáo dục người lớn, cần phải nắm được những kỹ thuật lôi cuốn sự tham gia của người dân vào các chương trình khuyến nông. * Năng lực cá nhân Thật khó xác định được tất cả những năng lực cá nhân của một cán bộ khuyến nông để mà đào tạo. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp năng lực cá nhân không phải chỉ do đào tạo mà có, năng lực cá nhân còn phụ thuộc vào năng khiếu, vào sự rèn luyện bền bỉ, kiên trì, sự tích luỹ kinh nghiệm trong quá trình công tác thực tiễn của bản thân + Năng lực tổ chức và lập kế hoạch: Người cán bộ khuyến nông cần có khả năng lập kế hoạch các hoạt động khuyến nông và tổ chức nông dân thực hiện những 25
- kế hoạch đó, ngoài ra còn còn phải biết cách quản lý một cách có hiệu quả văn phòng và các hoạt động khuyến nông của văn phòng mình. + Năng lực truyền đạt thông tin: Người cán bộ khuyến nông phải có khả năng nói và viết tốt, bởi vì cán bộ khuyến nông sẽ phải sử dụng thường xuyên những kỹ năng này để giao tiếp với mọi người trong công tác khuyến nông. + Năng lực phân tích và đánh giá: Người cán bộ khuyến nông phải có khả năng đánh giá những tình huống anh ta đối mặt hàng ngày, nhận thức và hiểu rõ được các vấn đề để có thể đề xuất đợc các giải pháp kịp thời và hợp lý. + Năng lực lãnh đạo: Người cán bộ khuyến nông phải tự tin và biết tin tưởng vào những nông dân mình đang phục vụ, phải gương mẫu trớc quần chúng và có khả năng lãnh đạo quần chúng thực hiện thành công các chương trình khuyến nông. + Năng lực sáng tạo : Người cán bộ khuyến nông thường phải làm việc trong các điều kiện độc lập và ít chịu sự giám sát của cấp trên, vì vậy cần phải có khả năng sáng tạo, tự tin vào công việc của chính mình, chứ không phải lúc nào cũng dựa vào sự chỉ đạo và hỗ trợ của cấp trên * Phẩm chất cá nhân Phẩm chất cá nhân là những đức tính tốt mà mỗi người làm khuyến nông đều phải có, nó bao gồm rất nhiều các nội dung, tuy nhiên có một số phẩm chất nổi bật cần quan tâm: - Sẵn sàng làm việc ở những vùng nông thôn xa xôi hẻo lánh với tinh thần vì nhân dân. - Là niềm tin, là chỗ dựa cho người nông dân trong công tác khuyến nông, người cán bộ khuyến nông là người không những được cán bộ cấp trên tín nhiệm mà còn được nông dân tin tưởng khi đưa ra những lời khuyên - Lòng nhân đạo, tình cảm yêu mến đối với bà con nông dân và tính hài hước nhẹ nhàng trong công việc. Cán bộ khuyến nông cần biết thông cảm với những ước muốn và những tình cảm của ngời dân, đồng thời khi làm việc cũng phải biết tôn trọng và lắng nghe ý kiến của họ - Tin tưởng vào năng lực của chính mình và quyết tâm làm được một điều gì đó để góp phần vào sự nghiệp phát triển nông thôn. Vì làm việc trong điều kiện độc lập và ít có sự giám sát của cấp trên, nếu không tin tưởng vào chính bản thân mình và không có lòng quyết tâm thì khó có thể làm tốt vai trò của người cán bộ khuyến nông. Những điều nói về kiến thức, năng lực và phẩm chất cá nhân nói trên không phải nhằm mục đích tạo ra cơ sở để đánh giá tư cách bất kỳ một cán bộ khuyến nông nào. Tất cả chỉ nhằm cho chúng ta thấy khuyến nông là một công việc khó khăn và đòi hỏi rất cao. Đó cũng là một hướng dẫn cần thiết cho chúng ta khi tuyển lựa và đào tạo cán bộ khuyến nông để phục vụ cho sự nghiệp phát triển nông thôn * Khả năng truyền thông giao tiếp Nói trước quần chúng là một kỹ năng mà người cán bộ khuyến nông phải thường xuyên rèn luyện. Một trong những công việc chính của cán bộ khuyến nông là truyền đạt thông tin. Điều đó đòi hỏi cán bộ khuyến nông phải thờng xuyên tiếp 26
- xúc với nhiều người để giải thích một vấn đề nào đó, trình bày một ý tưởng hay để người dân áp dụng, hoặc tham gia vào một cuộc thảo luận nhóm v.v. Khả năng nói trước quần chúng sẽ giúp người cán bộ khuyến nông truyền đạt thông tin tới người nghe một cách có hiệu quả, và khi trình bày điều quan trọng không phải chỉ trình bày kiến thức về khoa học kỹ thuật mà còn phải truyền được cả tâm huyết của mình cho người dân Khi giao tiếp với nông dân, muốn bài giảng hoặc bài nói chuyện của mình có hiệu quả tốt với người nghe, người cán bộ khuyến nông không có cách nào khác là phải chuẩn bị trước để lời nói trôi chảy, lu loát và tạo ấn tượng cho người nghe. Đối với nông dân, thật không có gì buồn ngủ hơn là phải nghe một diễn giả mắt lúc nào cũng cắm vào tờ giấy, nói năng ngắc ngư, quên mất những điều quan trọng hoặc cứ thao thao bất tuyệt những chuyện trên trời dưới biển, chẳng liên quan gì đến những vấn đề của họ. Không phải ai sinh ra là đã có khả năng nói tốt trước đám đông, người cán bộ khuyến nông hoàn toàn có thể rèn luyện cho mình kỹ năng này. Để làm tốt được điều trên cần nhớ một số nguyên tắc sau: - Chuẩn bị kỹ bài nói chuyện hoặc bài giảng, tập thử một vài lần trớc khi trình bày với mọi người. - Luôn động viên người nghe nêu ý kiến và sẵn sàng khuyến khích mọi người thảo luận. - Tránh những cuộc thảo luận chỉ có một mình độc thoại hoặc chỉ có duy nhất hỏi và trả lời, điều đó làm mất tính đối thoại chân chính và tính giáo dục của khuyến nông. - Không nên có những cuộc thảo luận hoặc những bài nói chuyện dài lê thê - Luôn luôn đặt câu hỏi cho người nghe để khuyến khích thảo luận và thông tin hai chiều. * Kỹ năng viết báo cáo Cũng như nói trước quần chúng, viết báo cáo là một kỹ năng cần thiết mà người cán bộ khuyến nông phải rèn luyện cho mình. Muốn viết được một báo cáo tốt cần ghi nhớ một số gợi ý sau đây: - Chuẩn bị đầy đủ thông tin và các loại số liệu sẽ đưa lên báo cáo - Lập dàn ý cho bản báo cáo, báo cáo bao gồm các nội dung gì? sẽ được trình bày như thế nào? - Xắp xếp các nội dung báo cáo theo một trật tự logic: Phần giới thiệu chung, mục đích báo cáo, nội dung báo cáo, kết luận và những đề xuất - Nên báo cáo ngắn gọn, súc tích, chính xác và dễ hiểu: các báo cáo không nên dài lê thê mà cần ngắn gọn, nên sử dụng dụng hình thức bảng biểu trong báo cáo. * Cách tiếp cận và làm việc với các lãnh đạo địa phương Một khuyến nông viên giỏi phải luôn biết cách tiếp cận và sử dụng những nguồn lực có sẵn ở địa phương trong công tác khuyến nông, biết động viên khuyến khích họ tham gia công tác khuyến nông và phát triển cộng động. Làm khuyến nông 27
- không chỉ có các khuyến nông viên, mà cần phải mở rộng và phát triển mạng lưới khuyến nông viên cơ sở, họ có thể là các cán bộ thôn, bản, hoặc công tác đoàn thể ở địa phương, hoặc những người có kinh nghiệm sản xuất giỏi, những người có uy tín trong thôn bản. v.v. có thể phân chia thành 2 dạng lãnh đạo tại địa phương: - Lãnh đạo chính thức: là những người đang giữ vị trí trong bộ máy hành chính tại địa phương hoặc nhân viên nhà nước như: chủ tịch xã, chủ nhiệm hợp tác xã, trưởng thôn, hội trưởng phụ nữ, hội làm vườn, hội cựu chiến binh - Lãnh đạo không chính thức: Là những người tuy không giữ một cương vị gì ở địa phương, nhưng do năng lực và phẩm chất cá nhân, họ có uy tín và tiếng nói nhất định trong dân chúng như lão nông tri điền, người sản xuất giỏi, già làng, bộ đội phục viên, cán bộ về hưu, hoặc các cha xứ ở nơi theo đạo Đó là những người mà khuyến nông cần hợp tác và sử dụng ảnh hưởng của họ vào công tác khuyến nông.Tuỳ theo tính chất của mỗi hoạt động khuyến nông, nên tham khảo ý kiến của các nhân vật này hoặc mời họ tham gia các cuộc họp hoặc các chương trình khuyến nông, có thể bồi dưỡng và đào tạo họ trở thành những khuyến nông viên ở địa phương. Nếu tranh thủ được sự hỗ trợ của họ, hoạt động khuyến nông sẽ có một chỗ dựa vững chắc. Trong công tác khuyến nông tại cơ sở nên chú trọng xây dựng mối quan hệ của mình với lãnh đạo địa phương, cả chính thức lẫn không chính thức. Đó là những mối quan hệ cá nhân quan trọng và luôn thường trực giúp đỡ các hoạt động khuyến nông. Thông thường, khuyến nông có thể hợp tác với lãnh đạo địa phương theo những phương thức sau: Tuyển lựa họ làm khuyến nông viên theo hình thức tự nguyện, sau đó đào tạo, tập huấn cho họ về phương pháp khuyến nông, một số kỹ thuật cơ bản về cây trồng vật nuôi, cách tổ chức một cuộc trình diễn hoặc cách điều hành một cuộc họp Thông báo cho họ biết những hoạt động khuyến nông và những đề xuất xây dựng những chương trình mới. Cung cấp các tài liệu khuyến nông cho họ. Đến thăm họ ở mức độ vừa phải, đủ làm cho họ không cảm thấy bị bỏ quên. Cố gắng đến thăm họ một cách đều đặn để những cuộc đến thăm của bạn thực sự đi vào đời sống của gia đình họ. Khuyến khích họ chủ động tham gia và đi đầu trong các chương trình khuyến nông. Cần nhớ rằng vai trò của họ càng được nhận biết và tôn trọng, sự tham gia của họ càng tích cực và có hiệu quả bao nhiêu thì ảnh hởng của khuyến nông trong địa bàn càng lớn bấy nhiêu. Những vấn đề chú ý có thể xảy ra trong khi tiếp cận và làm việc tại cơ sở: Nếu giành quá nhiều thời gian cho một hoặc hai người, thì những nông dân khác sẽ cho rằng khuyến nông thiên vị, chỉ muốn đến với những người có vai vế ở địa phương. Lãnh đạo địa phương là những người truyền đạt thông tin và những kiến thức, kinh nghiệm cho người nông dân khác. Tuy nhiên, không phải bao giờ điều đó cũng xảy ra như chúng ta mong muốn, bởi họ cũng có vấn đề của họ như bận nhiều công việc, hoặc họ muốn giữ lại một số bí quyết cho bản thân gia đình họ chẳng 28
- hạn cho nên sau khi giao việc cho họ, cần kiểm tra xem họ có làm tốt hay không. Nếu có ai không làm được vai trò chuyển giao đó, cần tìm tìm hiểu nguyên nhân để có biện pháp khắc phục thích hợp. Có những người thường tỏ ra quá tự tin vào bản thân mình nên hay có những tư tưởng áp đặt với những nông dân khác. Họ cũng có thể lợi dụng lợi thế và uy tín của mình để vụ lợi cho cá nhân Một vài người do năng lực có hạn nên cũng có thể mắc sai lầm và đưa ra những lời khuyên không đúng đắn với những nông dân khác. Do vậy khi giao cho họ làm công việc khuyến nông cần kiểm tra để đảm bảo chắc chắn rằng những thông tin họ truyền đạt cho dân là đúng đắn. Cán bộ khuyến nông là một trong những nhân tố chính trong toàn bộ tiến trình khuyến nông. Nếu không có họ trực tiếp hớng dẫn, chỉ đạo và giám sát các hoạt động khuyến nông ở địa phương, sẽ không có dịch vụ khuyến nông cho nông dân. Vai trò và mối quan hệ của người cán bộ khuyến nông với nông dân là có tính quyết định đối với các chương trình khuyến nông. Kinh nghiệm khuyến nông trong những năm qua cho thấy rằng sự nghiệp phát triển nông thôn đòi hỏi phải có những cán bộ khuyến nông: Biết giành thời gian rèn luyện những kỹ năng cho mình để giúp đỡ nông dân có hiệu quả hơn chứ không phải chỉ biết tập trung toàn bộ những cố gắng của mình vào việc đạt được những mục tiêu cụ thể của các dự án khuyến nông đơn thuần. Biết thường xuyên đến với nông dân chứ không phải lúc nào cũng ngồi ở văn phòng khuyến nông như một nhân viên bàn giấy. Biết khuyến khích nông dân phát huy sáng kiến, phát huy tinh thần tự lực cánh sinh chứ không phải chỉ áp đặt cho nông dân những cách làm ăn theo bài bản có sẵn. Biết hướng tới sự phát triển bền vững và lâu dài chứ không phải chỉ tìm kiếm những thành công nhất thời. 2.7. Sự cần thiết của công tác khuyến nông Trong những năm gần đây, dân số trên thế giới không ngừng tăng lên theo cấp số nhân. Theo số liệu thống kê năm 1990 là 5 tỷ người, năm 1996 là 5,7 tỷ và đến năm 1999 đã hơn 6 tỷ người. Như vậy, việc tất yếu sẽ diễn ra là nhu cầu về lương thực, gỗ xây dựng, củi đun sẽ tiếp tục gia tăng nhanh chóng. Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, đang có những thay đổi lớn đó là chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường, với nhiều thành phần kinh tế. Với chủ trương hộ là đơn vị kinh tế độc lập tự chủ. Mặt khác hợp tác xã kiểu cũ ở nông thôn Việt Nam trên thực tế đã không còn tác dụng. Các hộ nông dân rất cần có một tổ chức để làm chỗ dựa, hỗ trợ cho mình trong quá trình sản xuất nông lâm nghiệp. Vai trò của ngành nông nghiệp ngày càng được đề cao, phát triển kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa trên cơ sở phát triển bền vững, đồng thời chú trọng đến việc bảo tồn tính đa dạng sinh học. Các nhà nông nghiệp làm việc ngày càng gần gũi với các cộng đồng nông thôn để quản lý có hiệu quả hơn các nguồn tài 29
- nguyên thiên nhiên. Các chương trình phát triển nông thôn miền núi, lâm nghiệp xã hội, lâm nghiệp cộng đồng đang được thực hiện nhiều nơi trên thế giới. Có nhiều lý do giải thích tại sao việc phát triển nông lâm nghiệp cũng như đẩy mạnh hoạt khuyến nông khuyến lâm ở Việt Nam ngày càng trở nên quan trọng vì: - Áp lực của việc gia tăng dân số, đặc biệt là gia tăng dân số ở các vùng thành thị. - Suy thoái nguồn tài nguyên thiên nhiên (đất, nước, rừng) và môi trường (khí hậu thay đổi theo chiều hướng bất lợi) - Gia tăng khoảng cách giữa người dân thành thị và nông thôn về mức thu nhập, giáo dục, đời sống và phúc lợi xã hội. - Tiếp cận kiến thức và các kỹ thuật mới là rất khó khăn tại nhiều vùng nông thôn, đặc biệt là vùng sâu vùng xa. - Tiếp cận các nguồn thông tin và chính sách, luật pháp, thị trường cũng như điều kiện giao thông đi lại là rất hạn chế đối với người dân nông thôn. Trước bối cảnh đó cần thiết phải có những thay đổi này, đã và đang đưa các nhà nông lâm nghiệp ở các cấp khác nhau đến với vai trò của các nhà khuyến nông. Để thực hiện vai trò này có hiệu quả, họ cần được trang bị các kiến thức, kỹ năng và thái độ thích ứng để làm việc với người dân đang sống tại các vùng nông thôn, miền núi. 2.8. Định hướng công tác khuyến nông trong giai đoạn mới Hoạt động khuyến nông thời gian tới diễn ra trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng đến gần. Đây là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước và là xu thế tất yếu. Trước tình hình đó, đòi hỏi phải đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp hàng hóa có sức cạnh tranh cao. Ở nước ta, điều kiện môi trường, thời tiết cho sản xuất nông nghiệp diễn biến phức tạp và bất thuận; tỷ lệ hộ nông dân nghèo còn cao, chênh lệch giàu nghèo ngày càng lớn, do đó bảo đảm các chỉ tiêu tăng trưởng trong nông nghiệp và phát triển nông thôn; công cuộc xóa đói giảm nghèo và an ninh lương thực vẫn là những ưu tiên và quan tâm hàng đầu. Ngày 26 tháng 4 năm 2005, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định 56/2005/NĐ-CP, thay thế cho Nghị định 13. Sự ra đời Nghị định 56 là đòi hỏi của thực tế sản xuất nông nghiệp nước ta trong tình hình mới; là kim chỉ nam cho hoạt động khuyến nông đồng thời đòi hỏi Khuyến nông Việt nam phải vươn lên hơn nữa. góp phần xứng đáng vào sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn. 2.8.1. Mục tiêu Mục tiêu hoạt động khuyến nông trong thời gian tới là 1. Nâng cao nhận thức về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, kiến thức và kỹ năng về khoa học kỹ thuật, về quản lý, kinh doanh cho người sản xuất Đặc biệt là nông dân vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người. 2. Góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, phát triển sản xuất theo hướng hàng hóa, 30
- tạo việc làm, tăng thu nhập, xóa đói, giảm nghèo, góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn . 3. Huy động các nguồn lực từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia vào hoạt động khuyến nông. 2.8.2. Nội dung công tác khuyến nông Hoạt động khuyến nông phải đáp ứng nhu cầu của người sản xuất và bám sát chiến lược phát triển nông nghiệp-nông thôn của ngành. Cần tập trung vào các nội dung chính sau đây. 1. Thông tin, tuyên truyền Nội dung chính của hoạt động thông tin, tuyên truyền là: - Tuyên truyền pháp luật, chủ trương, đường lối, chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn của Đảng và Nhà nước, tiến bộ khoa học và công nghệ, thông tin thị trường, giá cả, phổ biến điển hình tiên tiến trong sản xuất, quản lý, kinh doanh, phát triển nông nghiệp và nông thôn. - Xuất bản, hướng dẫn và cung cấp thông tin đến người sản xuất bằng các phương tiện thông tin đại chúng, hội nghị, hội thảo, hội thi, hội chợ, triển lãm và các hình thức thông tin tuyên truyền khác. - Công tác thông tin, tuyên truyền phải bảo đảm nguyên tắc: đầy đủ, chính xác. kịp thời và hai chiều giữa người sản xuất với khuyến nông và các cơ quan khác liên quan. - Cần tăng cường nguồn kinh phí khuyến nông trung ương hỗ trợ công tác thông tin, tuyên truyền ở địa phương để xây dựng và nâng cao chất lượng bản tin khuyến nông, kết nối mạng và trao đổi tin, bài giữa Trung tâm Khuyến nông Quốc gia với các đơn vị khác. Tăng cường hơn nữa các hoạt động hội thi, hội chợ nông nghiệp gắn với các phiên chợ truyền thống của địa phương trên phạm vị toàn quốc. - Sản phẩm chính của hoạt động thông tin, tuyên truyền là số lượng, chất lượng các thông tin, các bài viết trên tờ tin Khuyến nông Việt Nam, trang Web khuyến nông. Trên các phương tiện truyền thông đại chúng, trên các loại ấn phẩm; số lượng và chất lượng tổ chức các hội chợ, hội thi, triển lãm. Đặc biệt là phát hành các quy trình kỹ thuật sản xuất nông nghiệp, hướng dẫn nông dân cách làm ăn thông qua các băng hình, đĩa hình, phim, ảnh . 2. Bồi dưỡng, tập huấn và đào tạo Nội dung chính của hoạt động bồi dưỡng, tập huấn, đào tạo là: - Bồi dưỡng, tập huấn và truyền nghề (nghề nông, lâm, ngành nghề nông thôn bảo quản chế biến sau thu hoạch) cho người sản xuất để nâng cao kiến thúc, kỹ năng sản xuất, quản lý kinh tế trong lĩnh vực nông nghiệp. - Tăng cường năng lực thông qua đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn. nghiệp vụ cho người tham gia hoạt động khuyến nông các cấp, các vùng miền. - Xây dựng, cải tiến giáo trình, tài liệu khuyến nông theo hướng hiện đại, phù hợp với những điều kiện cụ thể, bao gồm cả các tài liệu, các phương tiện nghe nhìn hỗ trợ công tác tập huấn, huấn luyện như băng đĩa hình, tiếng, phim, ảnh kỹ thuật số ( biên soạn bằng tiếng Kinh và một số tiếng dân tộc). 31
- - Tăng cường tổ chức tham quan, khảo sát, học tập và trao đổi kinh nghiệm giữa các vùng miền trong nước và nước ngoài. - Sản phẩm chính của hoạt động bồi dưỡng, tập huấn, đào tạo là số lượng và chất lượng các lớp học được tổ chức; số lượng nông dân và cán bộ khuyến nông tham dự; số lượng và chất lượng các loại tài liệu, giáo trình để phục vụ công tác bồi dưỡng, tập huấn, đào tạo, thiết thực góp phần nâng cao trình độ kỹ thuật, kỹ năng sản xuất cho học viên 3. Xây dựng mô hình trình diễn và chuyển giao khoa học công nghệ Yêu cầu của xây dựng mô hình trình diễn là: - Mô hình phải đáp ứng nhu cầu và phù hợp với những điều kiện cụ thể của từng địa phương, trình độ của người sản xuất. Xây dựng mô hình trình diễn phải đi đôi với tổ chức hội nghị đầu bờ nhằm thông tin, tuyên truyền, đưa nhanh các tiến bộ kỹ thuật ra sản xuất, với sự tham gia của các cơ quan quản lý Nhà nước, của hội đồng tư vấn khuyến nông tỉnh. Nội dung chính của hoạt động xây dựng mô hình trình diễn và chuyển giao khoa học công nghệ: - Xây dựng mô hình trình diễn phục vụ công tác chuyển đổi cây trồng, vật nuôi kém hiệu quả sang nuôi trồng cây con mới có hiệu quả hơn, phát huy thế mạnh của từng vùng sinh thái. Chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn với việc tăng dần tỉ trọng dịch vụ, ngành nghề, chăn nuôi, giảm dần tỉ trọng trồng trọt. - Xây dựng các mô hình khuyến nông tổng hợp (trồng trọt, chăn nuôi, khuyến công. . . ) theo hướng liên kết trên một địa bàn và với khoảng thời gian nhất định (dự án khuyến nông) Xây dựng các mô hình công nghệ cao trong lĩnh vực nông nghiệp nhằm tăng nhanh năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất nông nghiệp, phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Chuyển giao kết quả khoa học công nghệ từ các mô hình trình diễn ra diện rộng. Cụ thể: - Đối với khuyến nông trồng trọt: tập trung khuyến khích phát triển bền vững các mô hình về cây trồng mũi nhọn xuất khẩu và thay thế nhập khẩu; các loại mô hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ nhằm nâng cao hiệu quả, hạ giá thành sản xuất và không ngừng nâng cao thu nhập cho người nông dân đồng thời đảm bảo giữ vững an ninh lương thực quốc gia.Ưu tiên khuyến nông xóa đói giảm nghèo, vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người Đối với khuyến nông chăn nuôi. tập trung phát triển một số vật nuôi chủ lực phục vụ nội tiêu và xuất khẩu trên cơ sở phát huy lợi thế của từng vùng sinh thái. Khuyến khích phát triển các mô hình chăn nuôi tập trung, quy mô lớn theo hướng sản xuất hàng hóa, nhằm tăng năng suất và chất lượng sản phẩm chăn nuôi, giảm giá thành, giảm thiểu ô nhiễm môi trường và tăng tính cạnh tranh khi hội nhập quốc tế. Đẩy mạnh công tác khuyến nông thú y nhằm phòng chống dịch bệnh cho đàn gia súc, gia cầm và bảo vệ sức khỏe cộng đồng 32
- Đối với khuyến lâm. khuyến khích phát triển các cây đặc sản rừng, cây rừng làm nguyên liệu và cây gỗ lớn có giá trị kinh tế. Đặc biệt, chương trình khuyến lâm phải tập trung giúp thay đổi tập quán, tư duy và nhận thức của người dân từ chỉ khai thác rừng thành bảo vệ rừng, sống bằng nghề rừng - Đối với khuyến công (bao gồm khuyến nông cơ giới hóa, bảo quản, chế biến nông lâm sản và phát triển ngành nghề nông thôn): khuyến khích việc áp dụng cơ giới hóa và công nghệ vào quá trình từ sản xuất đến thu hoạch, bảo quản, chế biến nông lâm sản; khuyến khích khôi phục, phát triển nghề, làng nghề và HTX kiểu mới ở nông thôn nhằm nâng cao năng suất lao động, giảm tổn thất sau thu hoạch, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao giá trị sản phẩm và tăng sức cạnh tranh trong điều kiện hội nhập quốc tế 4. Tư vấn và dịch vụ khuyến nông Nội dung của hoạt động tư vấn và dịch vụ khuyến nông là: Tư vấn, hỗ trợ chính sách, pháp luật về đất đai, thị trường, khoa học công nghệ, áp dụng kinh nghiệm tiên tiến trong sản xuất, quản lý, kinh doanh về phát triển nông nghiệp. Tư vấn, hỗ trợ việc khởi sự doanh nghiệp nhỏ và vừa lập dự án đầu tư phát triển nông nghiệp và ngành nghề nông thôn, tìm kiếm mặt bằng sản xuất, tuyển dụng, đào tạo lao động, huy động vốn, xin ưu đãi đầu tư và các thủ tục hành chính khác, theo quy định của pháp luật, phù hợp với quy hoạch phát triển nông nghiệp và ngành nghề nông thôn theo vùng, lãnh thổ và địa phương. . . - Tư vấn, hỗ trợ phát triển, ứng dụng công nghệ sau thu hoạch, chế biến nông lâm sản và nghề muối. - Tư vấn, hỗ trợ quản lý, sử dụng nước sạch nông thôn và vệ sinh môi trường nông. Tư vấn, hỗ trợ đổi mới tổ chức, cải tiến quản lý, hợp lý hóa sản xuất, hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp, của tổ chức kinh tế tập thể trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Dịch vụ trong các lĩnh vực pháp luật, tập huấn, đào tạo, cung cấp thông tin, chuyển giao khoa học công nghệ, xúc tiến thương mại, thị trường, giá cả, đầu tư, tín dụng, xây dựng dự án, cung ứng vật tư kỹ thuật, thiết bị và các hoạt động khác có liên quan đến nông nghiệp theo quy định của pháp luật. Trong thời gian tới cần khuyến khích phát triển dịch vụ-tư vấn khuyến nông. Trước mắt cần bồi dưỡng kiến thức về tư vấn và dịch vụ cho cán bộ khuyến nông; chỉ đạo điểm tại một số trung tâm khuyến nông, trước khi triển khai ra diện rộng. Trong hoạt động tư vấn và dịch vụ khuyến nông cần thu hồi một phần sản phẩm tăng lên do áp dụng chương trình khuyến nông. 2.8.3. Các giải pháp 1. Quy hoạch đào tạo nguồn nhân lực khuyến nông * Ở Trung ương 33
- Trung tâm Khuyến nông Quốc gia (trực thuộc Bộ Nông nghiệp & PTNT) cần tiếp tục được củng cố và tăng cường nhân lực, vật lực. Phấn đấu đến 2010, định hình tổng biên chế khoảng 80 người. Ngoài 8 phòng hiện có (Phòng Khuyến nông trồng trọt: Phòng Khuyến nông chăn nuôi, Phòng Khuyến lâm, Phòng Khuyến khích phát triển kinh tế hợp tác-ngành nghề nông thôn, Phòng Thông tin-tuyên truyền, Phòng Huấn luyện-đào tạo, Phòng Hành chính-tổng hợp, Phòng Kế hoạch- tài chính) sẽ xây dựng thêm Phòng Kiểm tra-đánh giá. Do đặc điểm sinh thái của đất nước và nhu cầu phát triển hoạt động khuyến nông, tiến tới xây dựng 7 trung tâm khuyến nông vùng, có sự phối kết hợp với các viện nghiên cứu và trường đại học nông nghiệp của từng vùng, nhằm tận dụng các điều kiện nhân lực, cơ sở vật chất hiện có để tăng cường năng lực công tác khuyến nông đồng thời gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu, đào tạo và khuyến nông 1) Vùng Trung du Miền Núi phía Bắc (vùng Đông Bắc và vùng Tây Bắc): kết hợp với Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp vùng Trung du Miền Núi phía Bắc, Viện Nghiên cứu Chè và Đại học Nông lâm Thái Nguyên. 2). Vùng Đồng bằng sông Hồng: kết hợp với Viện Cây lương thực - cây thực phẩm, Trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội. 3). Vùng Bắc Trung bộ: kết hợp với Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp Bắc Trung bộ và Đại học Nông lâm Huế. 4). Vùng Duyên hải Nam Trung bộ: kết hợp với Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp Duyên hải Nam Trung bộ, Đại học Qui Nhơn và Đại học Nha Trang. 5). Vùng Tây Nguyên: kết hợp với Viện Nghiên cứu Nông lâm nghiệp Tây Nguyên và Đại học Tây Nguyên. 6). Vùng Đông Nam bộ: kết hợp với Viện KHKT Nông nghiệp Miền Nam, Viện Cây có dầu và Trường Đại học Nông lâm Tp. HoChiMinh 7). Vùng Đồng bằng sông Cửu Long: kết hợp với Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu Long, Trường Đại học Cần Thơ và Trường Đại học An Giang. Nội dung hoạt động của các trung tâm khuyến nông vùng là: - Bồi dưỡng, huấn luyện, đào tạo nghiệp vụ khuyến nông và các chuyên đề kỹ thuật mới cho cán bộ khuyến nông cấp tỉnh, cấp huyện - Chỉ đạo, hướng dẫn nội dung, phương pháp xây dựng mô hình trình diễn trọng điểm trong vùng * Ở địa phương Hiện nay, toàn quốc có nhiều loại hình tổ chức khuyến nông, Bộ Nông nghiệp & PTNT và Bộ Nội vụ cần hướng dẫn tổ chức hệ thống khuyến nông phù hợp với từng vùng, từng địa phương theo hướng : Các tỉnh có địa bàn rộng lớn, dân cư sống không tập trung như 15 tỉnh vùng Trung du Miền Núi phía Bắc và 5 tỉnh vùng Tây Nguyên nên tổ chức hệ thống khuyến nông 4 cấp: trung tâm khuyến nông tỉnh - trạm khuyến nông huyện - khuyến nông xã - khuyến nông thôn, bản. Trường hợp đặc biệt có thể thêm cấp khuyến nông liên xã. 34
- Các tỉnh có địa bàn hẹp, dân cư sống tập trung như 44 tỉnh còn lại, nên tổ chức hệ thống khuyến nông 3 cấp: trung tâm khuyến nông tỉnh - trạm khuyến nông huyện - khuyến nông xã. Ở thôn có cộng tác viên khuyến nông, câu lạc bộ khuyến nông. Quy hoạch và xây dựng đội ngũ cán bộ khuyến nông có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ cao là giải pháp mang tính chiến lược lâu dài. Trước mắt cần tuyển chọn khuyến nông viên cấp xã, thôn, bản, có ưu tiên đối tượng là nữ, là người địa phương. Mỗi xã có ít nhất 01 nhân viên khuyến nông, đối với vùng đồng bằng và 02 nhân viên khuyến nông, đối với vùng núi (5 tỉnh Tây Nguyên và các tỉnh Miền Núi phía Bắc). Về quản lý mạng lưới khuyến nông, Bộ Nông nghiệp và PTNT đề nghị các tỉnh quản lý theo ngành dọc, cụ thể là : trạm khuyến nông huyện trực thuộc trung tâm khuyến nông tỉnh; nhân viên khuyến nông xã, thôn bản trực thuộc trạm khuyến nông. Đây là xu thế của công tác quản lý nhằm thúc đẩy nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa 2. Chính sách tài chính khuyến nông Sửa đổi cơ chế tài chính đã có hơn 10 năm qua để công tác khuyến nông mở rộng hoạt động phục vụ sản xuất, theo hướng hàng hoá, thích ứng với tình hình mới, là một trong những yêu cầu bức thiết Định mức tài chính khuyến nông cần có cơ chế linh hoạt để phù hợp với từng thời kỳ phát triển kinh tế của ngành nông nghiệp & PTNT, phù hợp với chu kì sản xuất của cây, con Mức đầu tư, hỗ trợ cho khuyến nông cần có sự khác nhau giữa các vùng miền theo hướng tăng cao cho các tỉnh khó khăn thuộc vùng Trung du Miền Núi phía Bắc. Vùng Tây Nguyên, các tỉnh Tây Nam Bộ Thống nhất cơ chế tài chính khuyến nông cho người nghèo. Chấm dứt tình trạng nhiều tổ chức làm công tác khuyến nông cho người nghèo nhưng áp dụng các cơ chế tài chính khác nhau. Đổi mới phương pháp phân bổ kinh phí hỗ trợ cho địa phương và các đơn vị. Bố trí kinh phí khuyến nông hàng năm theo các dự án khuyến nông có thời gian dài. ít nhất là 2 năm để phù hợp với chu kỳ sản xuất của cây trồng, vật nuôi. Xây dựng cơ chế và định mức tài chính cho khuyến nông công nghệ cao. Thu lại một phần kinh phí khuyến nông sau một chu kì sản xuất ở các đối tượng doanh nghiệp nông nghiệp, chủ trang trại và người sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực riêng) nghiệp để tăng cường vào nguồn kinh phí khuyến nông hàng năm (có cơ chế Quy định chế độ hạng ngạch thống nhất, cụ thể cho cả hệ thống khuyến nông (tương đương như các cơ quan quản lý nhà nước). Bảo đảm khuyến nông viên xã được hưởng phụ cấp từ ngân sách nhà nước, tương đương với bằng cấp đào tạo. Thời gian tới kinh phí khuyến nông Trung ương phân bổ theo tinh thần tăng kinh phí khuyến nông chăn nuôi, huấn luyện đào tạo và khuyến nông sau thu hoạch so với các loại khuyến nông khác; tăng kinh phí hỗ trợ cho các tỉnh khó khăn ở Tây Bắc,Tây Nguyên, Tây Nam so với các tỉnh khác. 35
- Phân cấp quản lý kinh phí: Trung ương có trách nhiệm hướng dẫn, tập hợp, thẩm định kế hoạch và nội dung; phân bổ kinh phí hỗ trợ; tổ chức kiểm tra, đánh giá kết quả nghiệm thu và đánh giá kết quả quyết toán các chương trình khuyến nông trung ương do địa phương triển khai - Địa phương có trách nhiệm xây dựng kế hoạch và nội dung; triển khai. kiểm tra, đánh giá báo cáo; nghiệm thu và quyết toán các chương trình khuyến nông. - Tạo điều kiện thuận lợi để người hưởng lợi khuyến nông được học tập, được hỗ trợ trong khi xây dựng mô hình trình diễn. 3. Khoa học công nghệ Khoa học công nghệ là một trong những giải pháp quan trọng bảo đảm thắng lợi của hoạt động khuyến nông. Cần xây dựng chiến lược nghiên cứu khoa học theo từng thời kỳ, nhất là đối với những cây, con chủ lực, để có những tiến bộ kỹ thuật phù hợp với các vùng sinh thái khác nhau. Tăng cường nghiên cứu khoa học theo các chương trình tổng thể; kết hợp khoa học kỹ thuật với khoa học kinh tế và khoa học xã hội để cho việc chuyển giao tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất đạt hiệu quả cao, nhanh chóng và theo hướng bền vững. Tăng cường, phối hợp chặt chẽ giữa công tác nghiên cứu khoa học và khuyến nông từ trung ương đến địa phương thông qua hoạt động tư vấn, thẩm định, phản hồi hai chiều và xác định ưu tiên các tiến bộ kỹ thuật chuyển giao cho sản xuất. Đổi mới nội dung và phương pháp chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho phù hợp với điều kiện và trình độ của nông dân theo hướng đơn giản, dễ hiểu, dễ làm, hiệu quả và bền vững. 4. Hợp tác quốc tế - Tham gia các hoạt động về khuyến nông trong các chương trình hợp tác quốc tế. - Trao đổi kinh nghiệm khuyến nông (đặc biệt là về phương pháp khuyến nông) với các tổ chức, cá nhân nước ngoài và các tổ chức quốc tế. Nâng cao trình độ ngoại ngữ, chủ yếu là tiếng Anh, nhằm đáp ứng nhu cầu từng bối cảnh hội nhập và giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng. 5. Xã hội hóa khuyến nông Xã hội hóa công tác khuyến nông hơn nữa, mở rộng hợp tác, liên kết với mọi lực lượng, thành phần xã hội trong và ngoài nước nhằm nâng cao hiệu quả công tác khuyến nông và huy động được nhiều nguồn lực tham gia vào công tác khuyến nông, đặc biệt là công tác tư vấn khuyến nông. Các đơn vị tham gia khuyến nông cần hoạt động phù hợp với nhiệm vụ chính là của mình để nâng cao hiệu quả. Khuyến khích sử dụng kinh phí tự có của các thành phần để tham gia công tác khuyến nông. Ngăn chặn tình trạng kinh phí khuyến nông trung ương chạy vòng vèo, làm giảm hiệu quả hoạt động khuyến nông và gây lãng phí tiền của Nhà nước. Tạo điều kiện thuận lợi để người sản xuất có quyền lựa chọn đối tác cung cấp dịch vụ khuyến nông. 36
- PHẦN THẢO LUẬN Bài 1: Việc nghiên cứu đã đưa ra một phương pháp tăng năng suất ngô ở nước A bằng việc sử dụng giống ngô lai, phân hóa học và thuốc trừ sâu. Hầu hết nông dân sẽ vay tiền để mua các loại vật tư này. Thông thường thị họ có thu hoạch cao bằng các khoản tiền vay đó, nhưng vì hạn hán nên họ bị thất thu. Với áp lực dân số tăng nhanh, nhu cầu về ngô cũng tăng lên nhanh chóng. Khuyến nông nên sử dụng chiến lược nào sao đây. 1) Khuyến khích nông dân sử dụng kỹ thuật mới này; hay 2) Giúp nông dân tự quyết định xem có nên sử dụng kỹ thuật đó hay không. Hãy nêu lý do? Bài 2: Các bạn có thể thành công với các chương trình khuyến nông không sử dụng thuốc trừ cỏ, thuốc trừ sâu bệnh và những hóa chất độc hại hay không?những yếu tố nào cản trở thành công của bạn? Bài 3: Tổ chức khuyến nông ở nước bạn có được giao nhiệm vụ chuyển giao kỹ thuật từ các viện nghiên cứu khoa học đến nông dân hay không? Bạn có cho rằng đó là một vai trò chủ yếu mà tổ chức này phải thực hiện hay không? Vì sao? 37
- TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phương pháp khuyến nông, Nguyễn Thị Lan, 2004. 2. Khuyến nông hoc, Trần Văn Hà, 1999. 3. Nguyên lý khuyến nông (sách dịch), Đại học kinh tế quốc dân, 2000. 4. Sổ tay khuyến nông, C. Floress, Philipine, 1999. 5. Agricultural extension, V. Hawpkin, 1998. 6. Báo cáo Hội thảo Quốc Gia về phương pháp KN có sự tham gia của người dân do bộ NN và PTNT tổ chức 2002. 7. Kỹ năng huấn luyện có sự tham gia - Cục Khuyến Nông 8. Kỹ năng giao tiếp và phương pháp chuyển giao TBKH trong công tác khuyến nông - Cục Khuyến Nông 9. Phương pháp đào tạo cho người lớn tuổi - Bộ KHĐTư 10. Phương pháp khuyến nông có sự tham gia của người dân và việc áp dụng thử nghiệm tại vùng Tây Bắc Việt Nam - Tạp chí KN VN , số 6 năm 2004 11. Phương pháp khoa học học và làm của kỹ sư Nông Lâm nghiệp , NXBHN 1995 12. Tập huấn để biến đổi (3 tập) - Phòng nghiên cứu công công tác xã hội biên dich - 2001 13. Tài liệu đào tạo kỹ năng thuyết trình và điều hành hội thảo - Trung tâm hỗ trợ DN vừa và nhỏ (SMEDEC). 14. Tài liệu tập huấn Lớp học hiện trường của nông dân (FFS)-Nguyễn Thị Hồng Lý 15. Thông tin và những kỹ năng làm việc theo nhóm Dự án PTLNXH Sông Đà . 16. Alternative Strategies for education - G. Bishop 17. Farmer Fieeld School on Integarated Soil Management Facilitator’s manaul 18. Extension alternatives in Tropical Africa - Jon Moris 19. Tools for community participation ( Lyra Srinivasan) 20. Vocational and Technical Education and Training 21. Trang Web : 22. Trang Web : Người biên soạn Hoàng Gia Hùng 38