Bài giảng Cây công nghiệp dài ngày - ThS. Đinh Xuân Đức

pdf 170 trang phuongnguyen 180
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Cây công nghiệp dài ngày - ThS. Đinh Xuân Đức", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbai_giang_cay_cong_nghiep_dai_ngay_ths_dinh_xuan_duc.pdf

Nội dung text: Bài giảng Cây công nghiệp dài ngày - ThS. Đinh Xuân Đức

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ DỰ ÁN HỢP TÁC VIỆT NAM – HÀ LAN BÀI GIẢNG CÂY CÔNG NGHIỆP DÀI NGÀY Người biên soạn: ThS. Đinh Xuân Đức Huế, 08/2009
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ DỰ ÁN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM - HÀ LAN BÀI GIẢNG CÂY CÔNG NGHIỆP DÀI NGÀY NGƯỜI BIÊN SOẠN: Ths. Đinh Xuân Đức Huế, 2008 1
  3. Bài 1: NGUỒN GỐC, PHÂN LOẠI,GIÁ TRỊ KINH TẾ CỦA CÁC CÂY CÔNG NGHIỆP DÀI NGÀY CAO SU, CÀ PHÊ, CHÈ. I. NGUỒN GỐC, PHÂN LOẠI, GIÁ TRỊ KINH TẾ CỦA CÂY CAO SU (Hevea brasiliensis. L). 1. Nguồn gốc Cây cao su có nguồn gốc từ Nam Mỹ, mọc trên một địa bàn rộng 5 đến 6 triệu km2, thuộc toàn bộ lưu vực sông Amazon và vùng kế cận, giữa hai vĩ tuyến 130 B-130N (Nguyễn Khoa Chi, 1985). Theo Nguyễn Thị Huệ (1997), phạm vi phân bố của cao su hoang dại chỉ trong khoảng vĩ độ 50 Bắc và Nam. Nó được nhận ra bởi thổ dân vùng Amazôn từ lâu. Tuy nhiên, cho đến cuối thế kỷ XV những người Châu Âu đầu tiên đến đây mới biết chúng, Christophe Colombo phát hiện vào giai đoạn 1493-1496. Mãi đến thế kỷ XVII mới có những công trình nghiên cứu thêm về cây cao su, do La Condamine và Fresneau thực hiện. Sau đó nhờ có phát hiện thêm của Goodyear vào năm 1999 về việc lưu hóa mủ cao su. Từ đó, cao su nhanh chóng trở thành hàng hóa. Bắt đầu, mủ cao su chỉ được khai thác từ cây cao su rừng ở Brazil. Trong suốt cuối thế kỷ XIX Brazil luôn giữ thế độc quyền về sản phẩm của cây này. Tuy nhiên, vào năm 1875 Collins, (người Anh) lần đầu tiên lấy trộm được 2.000 hạt, đem gieo mọc được 12 cây và trồng ở Calcutta - Ấn Độ. Nhưng đã bị chết hết. Sau đó một năm (14/06/1876) Henry Wickham(người Anh), cũng lấy trộm được hơn 70.000 hạt đem gieo tại vườn bách thảo Kew, London mọc được 24 cây. Số cây này được đem trồng tại Colombo - Srilanka. Từ nguồn này cao su phát triển lan rộng khắp vùng Đông Nam Á, Châu Phi và trở lại Châu Mỹ. Trong đó vùng Đông Nam Á có diện tích trồng lớn nhất. Mủ cao su trồng được thu hoạch lần đầu tiên từ 24 cây của Wickham vào năm 1884 tại Colombo - Srilanka. Nó là khởi đầu cho việc phá bỏ thế độc quyền của Brazil. Những năm cuối thế kỷ XX, nhờ có sự hổ trợ của hiệp hội cao su thế giới (IRRDB) có hơn 15.800 cây đầu dòng đã được thu thập từ khắp lưu vực sông Amazon (1974-1982) đã làm phong phú thêm nguồn gen để bổ sung vào nguồn Wickham hiện có, nhờ đó mà khả năng các giống được tạo ra sau này sẽ có nhiều ưu thế về năng suất và nhiều đặc tính ưu việt khác. 2. Phân loại thực vật Hevea brariliensis.L thuộc bộ ba mảnh vỏ, họ thầu dầu (Euphorbiaceae), loài Hevea, với số nhiễm sắc thể lưỡng bội 2n=26,loại cây thân gỗ có tuổi thọ hơn 100 năm. Trong họ thầu dầu có đến 10 loài cây cho mủ cao su, dưới đây là mô tả sơ lược môt số loài Hevea khác Hevea brasiliensis (Nguyễn Thị Huệ, 1997). + H. benthamiana Cây cao trên 27m, gốc cây phình to, lá chét có lông tơ màu nâu đỏ ở mặt dưới lá, khi ổn định lá nằm ngang hơi chúc xuống. Cây bắt đầu trổ hoa khi lá rụng. Cây thường mọc ở vùng đất phù sa, ngập nước định kỳ vào mùa mưa ở dọc 2
  4. bờ sông Amazon. Năng suất mủ cao su kém, chất lượng mủ tốt, có thể kháng được bệnh SALB. + H. Camagoana: Cây nhỏ, cao từ 2-12m, mọc cạnh Cơ dòng chảy và vùng đầm lầy. Hoa lưỡng tính, phần cuối hoa có màu hồng hoặc màu đỏ. Cây cho năng suất kém, mủ trắng. + H. Camporum:Cây thấp chiều cao dưới 2m, chỉ tìm thấy ở vùng đầu nguồn, vùng sa mạc, mủ trắng. + H. Guianensis: Loài này có vùng phân bố rộng nhất, cây cao 20-35m, thân hình trụ, thường chỉ phân cành ở chiều cao 1/2 thân trở lên, tán lá rậm rạp, lá dựng đứng, lá vẫn còn tồn tại khi cây nở hoa. Năng suất mủ kém, mủ màu hơi vàng, chất lượng mủ thấp. Cây sinh trưởng tại Cơ vùng đất cao (đến 1.100m) và trên đất thoát nước tốt. + H. microphylla : Cây cao 18-20m, thân mảnh khảnh, gốc cây hơi to, phình ra, vỏ cây màu đỏ nhạt, tán lá thưa thớt, lá rụng trước khi cây trổ hoa. Hoa cái to, hình chuông. + H. nitida : Cây nhỏ đến trung bình, thân hình trụ, vỏ cây màu đỏ sậm. Lá chúc xuống có màu xanh sáng, lá còn tồn tại khi cây trổ hoa, trái có màu đỏ nhạt. Mủ màu trắng đậm đặc, chứa nhiều chất nhựa (resin), ít cao su. Cây thường mọc trên đất rừng, thoát nước tốt, có thể phát triển tốt trên đất nghèo dinh dưỡng. + H. pauciflora : Cây lớn cao trên 25m, thân hình trụ, vỏ màu nâu đậm, lá vẫn còn tồn tại khi cây trổ hoa. Mủ có màu trắng, chứa nhiều chất nhựa, ít cao su. Cây thường mọc trên đất thoát nước tốt. + H. rigidifolia : Cây cao trung bình 12-18m, thân hơi nghiêng, vỏ màu xám hung đỏ, lá dày mọc chúc xuống, lá vẫn còn tồn tại khi cây trỗ hoa. Mủ trắng, nhiều chất nhựa, không chứa đủ cao su theo chất lượng thương mại đòi hỏi. Cây thường mọc trên đất thoát nước tốt. + H. Sprucean:a Cây cao đến trên 25m, gốc cây hơi phình to ra, tán lá nặng, lá mọc hơi chúc xuống, mặt dưới lá có lông tơ, lá vẫn còn tồn tại khi cây trỗ hoa. Mủ trắng, ít cao su. Cây mọc trên đất thấp, ngập nước định kỳ ở dọc bờ sông. Ngoài Hevea brasiliensis và 9 loài khác thuộc còn có trên 2.000 loài ở các họ khác có thể cho mủ cao su và phần lớn sống trong vùng nhiệt đới. Trong số đó có thể kể đến cây Parthenium argentatum (hay còn gọi là cây Guayule) thuộc họ Compositae, mọc hoang dại ở Mehico. Sau chiến tranh thế giới II nó được trồng nhiều ở Liên Xô cũ, Tây Ban Nha, Thổ Nhỉ Kỳ và Úc. Kế đó là Taraxachum korsaghyz, cũng thuộc họ cúc (Compositae), được trồng nhiều ở Liên Xô cũ, Thụy Điển và Mỹ. Cuối cùng là một số cây dây leo thuộc giống Landophia mọc ở châu Phi, Á và Madagasca. Loài Landophia sp mọc ở châu Phi có nhiều triển vọng hơn cả. Nhưng cho đến nay chưa có một loài nào có thể cạnh tranh được với cây Hevea brasiliensis 3
  5. 3. Công dụng, giá trị kinh tế - tình hình phát triển cao su 3.1. Công dụng và giá trị: Cây cao su từ khi trở thành hàng hóa công dụng của nó ngày càng được mở rộng. Hiện nay mủ cao su trở thành 1 trong 4 nguyên liệu chính của ngành công nghiệp thế giới. Nó đứng sau gang thép, than đá và dầu mỏ. Sản phẩm cần dùng đến cao su có thể kể đến các loại sau: Cao su vỏ ruột xe chiếm 70% sản lượng cao su thế giới, kế đó là cao su dùng để làm các ống, băng chuyền, đệm giảm xóc, vật liệu chống mài mòn, các trang thiết bị hàng không, dụng cụ gia đình và dụng cụ thể thao. Liệt kê có đến trên 50.000 công dụng của cao su (Nguyễn Khoa Chi, 1985). Ngoài giá trị của mủ cao su, cây cao su còn có thể cung cấp một lượng gỗ lớn. Trong điều kiện canh tác nông nghiệp với mật độ cây trồng 400cây/ha, sau 14 năm trồng cây cao su có thể cho từ 0,30-0,55 m3 gỗ/cây tuỳ theo giống (Mai Văn Sơn, 2001). Khối lượng củi có thể thu khoảng 30-40% khối lượng gỗ (Nguyễn Thị Huệ, 1997). Giá gỗ cao su có thể giao động từ 600-900 USD/m3. Hàng năm, sau năm thứ 7 cây cao su có thể cung cấp khoảng 200-300 kg hạt/ha với hàm lượng dầu khoảng 10-20% trọng lượng hạt và lượng protein đáng kể trong hạt. Dầu cao su cũng có thể được sử dụng trong công nghệ sơn, vecni, xà phòng, làm chất độn pha thuốc kích thích mủ cao su, hoặc nếu được xử lý thích hợp có thể dùng làm dầu thực phẩm. Cuối cùng việc trồng cao su có thể đem lại những lợi ích về môi trường, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, chống xói mòn đất, ổn định xã hội thông qua việc tạo ra nhiều công ăn việc làm và là môi trường tốt để chăn nuôi ong. Về giá trị thương mại của mủ cao su thiên nhiên là loại nguyên liệu độc quyền trong thời gian đầu của thế kỷ này. Tuy nhiên, sau chiến tranh thế giới II do có sự xuất hiện của cao su nhân tạo là sản phẩm của dầu mỏ, cao su thiên nhiên đã bị cạnh tranh gay gắt trong nhiều thập kỷ. Cho đến nay tỉ lệ sản xuất hai loại cao su đã giữ ở mức ổn định là 32/68 (NR/SR) (Nguyễn Khoa Chi, 1985). Giá mủ NR (natural rubber) thường giao động và ở mức thấp nhất là 226 USD cho 1 tấn mủ khô tại thị trường New York năm 1930 và cao nhất là 3.079 USD/tấn tại thị trường Singapor năm 1980. Từ 1980 đến 1995 giá cao su bình quân cho từng loại sản phẩm cao su là: 998$ cho RSS1; 957,3$ cho RSS3; 1103,8$ cho SMRL và 934,7$ cho SMR20. Sự biến động giá mủ cao su không chỉ xảy ra giữa Cơ loại mủ được chế biến khác nhau mà trong từng loại cũng có sự biến động lớn theo thời gian, ví dụ giá cao su RSS1 năm 1985 là 745,5$ và tăng lên 1.563,9$ vào năm 1995; RSS3 giá là 710,6$ vào năm 1985 và tăng lên 1.574,4$ năm 1995; cho SMRL và SMR20 là 807,9$ và 685,8$ vào năm 1985 và 1750,9$ và 1521,7$ vào năm 1995, một cách tương ứng. Trong cùng một năm giá cao su cũng giao động giữa các thị trường khác nhau, ví dụ: Năm 1980 tại thị trường Singapor giá là 3.079$ trong khi tại thị trường New York giá chỉ có 1.625$ cho một tấn mủ khô (Nguyễn Thị Huệ, 1997). Tuy nhiên, giá cao su thường không cho những biến 4
  6. động quá lớn trong một khoảng thời gian ngắn (10 năm) như giá của một số sản phẩm cây công nghiệp khác như hạt tiêu và cà phê. Có lẻ nó là nguyên liệu chính cho công nghiệp nên ngày càng phát triển và khá ổn định. Nhìn chung giá cao su không cao nếu so với cà phê hay tiêu khi được so sánh trên cùng một khối lượng sản phẩm. 3.2.Tình hình phát triển: Trên thế giới, vào đầu thế kỷ XX Brazil đã bị mất thế độc quyền xuất khẩu cao su. Ba nước Anh, Pháp và Hà Lan là những nước trồng cao su đứng đầu trong giai đoạn đó. Tuy nhiên, cao su chỉ được trồng trên các thuộc địa của các nước này, chủ yếu thuộc vùng Đông Nam Á. Càng về sau sản lượng cao su xuất khẩu tại khu vực này càng lớn. Đến nay đã có đến hơn 90% cao su xuất khẩu từ vùng này. Các nước sản xuất cao su hàng đầu thế giới là Malaysia (1.539 nghìn tấn), Indonexia(1.034 nghìn tấn), Thailand (782 nghìn tấn), nguồn: IRSG statistical Bul, Apr.1986. Trong giai đoạn từ 1985 đến 1995 sản lượng mủ cao su thế giới tăng đều đặn từ 4,335 triệu tấn năm 1985 lên đến 5,870 triệu tấn 1995. Giữa các nước sản xuất cao su hàng đầu cũng có sự biến động về ngôi thứ. Trong giai đoạn từ 1985 đến 1995 Malaysia giảm liên tục từ 1,469 triệu tấn xuống còn 1,089 triệu tấn, trong khi Indonexia có sản lượng gia tăng đều đặn từ 1,130 triệu tấn năm 1985 lên 1,456 triệu tấn năm 1995, Thái Lan cũng có sự gia tăng từ 0,725 triệu tấn lên 1,784 triệu tấn trong những năm tương ứng. Hai nước Ấn Độ và Trung Quốc có sản lượng tăng gấp 2 đến 3 lần so với 1985 và được xếp ở vị trí thứ 4 và 5 trong bảng xếp hạng. Tổng diện tích cao su thế giới trong năm 1995 là 9,759 triệu ha. Sự gia tăng sản lượng cao su xuất phát từ sự gia tăng về diện tích và quan trọng hơn là sự gia tăng về năng suất mủ trên 1 ha nhờ vào những cải tiến kỹ thuật đáng kể trong thời gian gần đây. Tuy là khu vực sản xuất cao su lớn nhất thế giới, mức tiêu thụ cao su ở đây vẫn kém rất xa so với châu Âu, châu Mỹ, Trung Quốc và cộng đồng SNG. Hầu hết các nước tiêu thụ mạnh đều là những nước công nghiệp phát triển. Về năng suất, cao su ở các nước biến động theo từng thời kỳ và phụ thuộc nhiều vào việc ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất. Những thay đổi dẫn đến sự cải thiện năng suất tại những khu vưc như thế là do sự cải thiện về giống và công nghệ khai thác. Trong những năm đầu thế kỷ XX năng suất cao su khô trên 1 ha thường là 300- 400kg. Đến nay năng suất bình quân 1.200 kg/ha/năm. Tuy nhiên, trong nhiều khu vực năng suất cao su có thể đạt đến 2.000kg/ha/năm. Trong nước, cây cao su đã phát triển với lịch sử hơn 100 năm, chỉ chậm hơn thế giới 20 năm. Cây cao su đầu tiên được đưa vào Việt Nam vào năm 1877 do Pierre trồng tại vườn bách thảo Sài Gòn nhưng bị chết. Mãi đến 1897 Raoul lấy hạt giống từ Java về gieo tại vườn ông Yệm tại Thủ Dầu Một và chuyển cây con cho Bác sỹ Yersin để thành lập đồn điền đầu tiên tại Suối Dầu - Nha Trang. Sau đó, Bác sỹ Yersin đã nhiều lần nhập hạt giống từ Colombo để lập vườn. Từ đó cao su đã được thực dân Pháp 5
  7. Bảng 1.1: Tình hình sản xuất và tiêu thụ cao su thiên nhiên trên thế giới Năm 2002 2003 2004 2005 2006 Sản xuất (1000tấn) 7.260 8.003 8.708 8.882 9.255 Tiêu thụ (1000tấn) 7.410 8.033 8.581 8.994 8.968 Nguồn : IRSG 2007 trồng trên nhiều đồn điền tại Đông Nam Bộ và Quãng Trị. Một thời gian bị gián đoạn do chiến tranh, diện tích cao su bi hư hỏng nhiều hơn là diện tích trồng. Đến sau năm 1975 chúng ta chỉ tiếp quản chừng 87.000ha diện tích cao su nhưng gồm chủ yếu là cao su già gần hết chu kỳ kinh doanh. Cho đến nay tổng diện tích cao su đã lên đến gần 400.000ha và có mặt trong ba vùng Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và duyên hải miền Bảng 1.2: Diện tích cao su Việt nam qua Cơ thời kỳ Năm Diện tích (ha) Năm Diện tích (ha) 1920 7.000 1975 60.000 1930 9.100 1985 135.000 1945 138.000 1995 275.000 1961 142.770 2005 478.600 (Nguồn: Mai Văn Sơn 2005) Bảng 1. 3: Kế hoạch trồng cao su đến 2010 ( ha) Thành phần Cả nước Đông Nam bộ Duyên hải miền kinh tế Tây Nguyên Trung Qu ốc doanh 300.000 185.000 100.000 15.000 Li ên doanh 50.000 15.000 35.000 - Tư nh ân 350.000 73.000 215.000 62.000 Cộng 700.000 273.000 350.000 77.000 (Nguồn: Mai Văn Sơn 2005) Trung (Mai Văn Sơn, 2001), với năng suất bình quân trên 1.200kg/ha/năm. Hiện nay với khuynh hướng mở rộng diện tích trồng cao su trên hầu khắp các tỉnh miền Trung, nhiều Công ty cao su mới tại các tỉnh từ Tuy Hoà đến Nghệ An đã được 6
  8. thành lập. Bên cạnh đó, cao su tiểu điền với công nghệ sơ chế mủ đơn giản và hoàn thiện đã và đang được khuyến khích phát triển tại nước ta. Lợi ích của sự đẩy mạnh phát triển này nhằm tận dụng nguồn tiềm năng đất đai sẵn có, nhân lực dồi dào và sự ổn định dân cư trong các vùng đồi, núi. Chủ trương của chính phủ diện tích cao su của nước ta có thể nâng lên đến 700.000 ha trong đó những vùng chủ yếu để mở rộng diện tích là Tây Nguyên và duyên hải miền Trung Việt Nam. II. NGUỒN GỐC, PHÂN LOẠI, GIÁ TRỊ KINH TẾ CỦA CÂY CÀ PHÊ ( Coffea. L). 1. Nguồn gốc, sự phân bố Khi nghiên cứu hệ thực vật hoang dại các nhà khoa học đã khẳng định cây cà phê được phát hiện cách đây hàng nghìn năm, chúng thường mọc dưới tán nhiều khu rừng thưa thuộc châu Phi. Tới năm 575 sau Công Nguyên mới được đưa về trồng thuần hoá, đến ngày nay hiện có 3 loài cà phê thương mại và được di thực nhập nội tới nhiều nước trên thế giới. * Loài Coffea arabica (cà phê chè) Có nguồn gốc từ Ethiopya và hai vùng phụ cận là cao nguyên Buma thuộc Sudan và phía Bắc Kenya. Các vùng này có độ cao từ 1.200-2.000m và nằm giữa 70–90 vĩ Bắc. Theo Beuthaud và Charieu 1985 cà phê chè từ Ethiopya được đưa tới Yemen sang Java năm 1690, đến Amsterdam (Hà Lan) năm 1706; sang Trung Mỹ, sang Colombia năm 1724. Từ Yemen sang Brazin (Nam Mỹ) năm 1715 và từ Java sang PaPua New Ghine năm 1700. * Loài Coffea canephora Pierre (cà phê vối) và loài Coffea liberica Bull (cà phê mít, dâu da). Có nguồn gốc từ một số nước thuộc Tây và Trung Phi. Cà phê vối từ Tây Phi và Madagatxca đưa sang Nam Mỹ và Amsterdam năm 1889. Sau đó từ Amsterdam đưa sang Java năm 1900 sau đó lại từ Java đưa trở về châu Phi năm 1912. Do giá trị kinh tế cao, là thức uống thơm ngon hợp khẩu vị của nhiều dân tộc trên thế giới nên cà phê đã được trồng trên 75 nước thuộc vùng nhiệt đới. * Cây cà phê ở Việt Nam Hiện nay cây cà phê là cây trồng nông nghiệp đem lại kim ngạch xuất khẩu lớn thứ hai sau cây lúa. Cây cà phê sau khi du nhập đã phát triển bền vững ở Việt Nam đến nay đã 151 năm (từ 1857). Năm 1870 tại tu viện Kẻ Sở (Kim Bảng, Hà Nam) bắt đầu trồng thử. Năm 1888 sau 30 năm nhập nội và trồng thử cây cà phê đã được trồng trên quy mô sản xuất do nhiều người Pháp lập đồn điền như: Borel Leconte ở Chi Nê tỉnh Hoà Bình, Condoux-Gombert ở tỉnh Nghệ An, Michel Philip ở tỉnh Quảng Trị, Rossi- Delfante ở tỉnh Đắk Lắk. 7
  9. Những năm sau đó cà phê được trồng ở Trung du Bắc Bộ như: Cổ Nghĩa, Đồng Lăng, Cốc Thôn tỉnh Hà Nam. Ba Vì, Phú Mãn, Hoà Mục tỉnh Hà Tây, Phú Hộ tỉnh Phú Thọ. Đến năm 1920-1925 sau khi phát hiện ra vùng đất Bazan ở Tây Nguyên, người Pháp đã bắt đầu trồng cà phê trên vùng đất này. Sau nhiều năm cây cà phê đã phát triển nhanh ở hầu hết các vùng trước đây đã trồng và mở rộng ra nhiều tỉnh khác với quy mô ngày một tăng. 2. Sơ lược phân loại Việc phân loại cây cà phê đến nay vẫn theo cách phân loại của Linne (1937). Theo Linne cây cà phê thuộc loài cà phê coffea.L họ cà phê Rubiacea, bộ cà phê Rubiales. Năm 1947 theo giáo sư Auguste Chevarier trong tự nhiên có tới 70 loài phụ trong Coffea, trong đó có rất ít loài có giá trị kinh tế và ông chia thành 4 nhóm: Nhóm Eucoffea K.Schum, Argocoffea Piere, Mascarocoffea và Paracoffea Miq. Ba nhóm đầu có nguồn gốc duy nhất ở châu Phi. Nhóm Paracoffea có hai loài mọc hoang ở Việt Nam là Coffea dongnaiensis P.ex.Pit và Coffea Cochinchinensis P.ex.Pit. Nhóm này được xác định có nguồn gốc tại các nước Đông Dương và Ấn Độ. Nhóm Eucoffea K.Schum chỉ có một số loài có Cafein chúng có tầm quan trọng về kinh tế và được trồng trọt. Nhóm Eucoffea K.Schum được chia thành 5 nhóm phụ dựa trên một số chỉ tiêu như cây cao to (Nanocoffea), lá dày (Pachycoffea). Màu sắc của quả (Erytrocoffea). Phân bố theo điều kiện địa lý (Mozambicoffea) gồm các loài tương ứng ở bảng 1.4. Như vậy: Các giống cà phê đang được trồng và có giá trị kinh tế lớn thuộc hai nhóm phụ (1) và (2). Số nhiễm sắc thể cơ bản của chi Coffea là n =11, đặc trưng cho tất cả các chi khác thuộc họ Rubiaceae (Suybenga, 1960). Hầu hết các loài thuộc chi Coffea là những loài nhị bội (2n=22) và đều là những cây hoàn toàn không có khả năng tự thụ phấn. Riêng chỉ có loài cà phê chè (Coffea arabica) là loài tứ bội (2n=44) và có khả năng tự hợp và là cây tự thụ phấn. Các nghiên cứu của Dennarly (1975), Chevalier (1978), Lorearn (1982) đều cho thấy tất cả các loài nhị bội của chi Coffea đều có cấu trúc nhiễm sắc thể giống nhau và xuất phát từ một nguồn gen chung. Nhưng trong quá trình tiến hoá theo những hướng khác nhau về địa lý, môi trường sống v.v. nên dần có sự biệt hoá để hình thành các loài khác, chúng thể hiện khả năng thích nghi của mỗi loài, như C. canephora và C. liberica thích hợp ở những vùng thấp, nóng ẩm và có lượng mưa nhiều. Loài C. arabica tại các vùng nguyên sản sống dưới những tán rừng, quanh năm có ẩm độ không khí cao và trên độ cao từ 1.200-1.800m. Tuy có sự biệt hoá nhưng giữa chúng vẫn có khả năng lai tạo khác loài, trong tự nhiên khả năng tạp giao giữa chúng ít xảy ra 8
  10. vì sự phân bố địa lý và thời gian ra hoa khác nhau. Bảng 1.4: Các nhóm phụ và loài trong chi Coffea Nhóm phụ Cơ loài C. arabiaca Linne 1- Erythrocoffea C. canephora Piere ex Froehner C. congnsis Frochner C. liberiaca Bull ex Hiern C. derrei de Wild var.Excelsa Chev 2- Pachycoffea C. klainii Pierre C. abeokutae Cramer C. oymensis Chev C. humilis Chev 3- Nanocoffea C. brevipes Hiem C. togoensis C. stenophyla G.Dun 4- Melanocoffea C. carrisoi Chev C. mayombensis C. chumania C. eugenodes C. kivuensis C. munfindiensis 5- Mozabicoffea C. zanguebariae C. racemosa Lour C. liguisdes Moore C. salvatrix Swyn & Phil Kết quả nghiên cứu của Demarly (1975) thể tứ bội ở loài C. arabica là một thể đa bội tạp, bộ gen của loài này được hình thành từ 2 bộ gen của 2 loài nhị bội khác nhau hợp thành. Một bộ của loài C. canephora, bộ thứ 2 chưa được xác định rõ, nhưng chúng có mối quan hệ gần gũi với loài nhị bội khác được giả định là C. liberica hoặc C. congensis. Đặc điể m một số loài và giống cà phê + Loài cà phê chè (Coffea arabica) 9
  11. *Giống Typica (Coffea arabica L.var Typica): Có nhiều ở Brazin và một số nước Châu Mỹ La tinh. Typica được tìm thấy sớm, là giống có phẩm chất thơm ngon bậc nhất trong các giống cà phê chè thương mại. Trong điều kiện tự nhiên cây có chiều cao tới 5m. Tán cây hình chóp nón, dạng trung bình. Lá non có màu tím hơi tối hoặc màu đồng nhạt. Phiến lá thon nhỏ, đuôi lá dài nhọn hình mũi mác, mép lá ít gợn sóng. Cành cơ bản (cành ngang, cành quả) yếu, buông rủ tạo với thân cây một góc trên 800. Trên cành có nhiều cành thứ cấp nhỏ yếu (cành tăm hay cành nhớt). Lóng đốt của cành ngang dài, số hoa, quả trên mỗi đốt rất ít biến động khoảng 5-10. Quả và hạt to, dạng quả hơi dài, quả khi chín có màu đỏ. Typica thích hợp với vùng khí hậu ôn hoà, mát, cường độ ánh sáng yếu, mẫn cảm với bệnh gỉ sắt (Hemileia vestatrix B&Br), bệnh đốm mắt cua (Cercospora Coffeicola), nấm hồng (Corticicum salmonicolor), năng suất thấp nên đang bị thay thế bằng các giống khác *Giống Bourbon (Coffea arabica L.var Bourbon): Do giống Typica biến dị, trong điều kiện tự nhiên tại Việt Nam cây có chiều cao 3-4m, tán cây hình trụ không khít tán, dạng trung bình. Lá non xanh nhạt, phiến lá dạng bầu, đuôi lá ngắn, mép lá gợn sóng. Cành cơ bản khoẻ, hợp với thân một góc nhỏ hơn 800, có khả năng phân cành thứ cấp nhiều (7 cấp). Lóng đốt trung bình, số hoa, quả trên đốt cao hơn giống Typica biến động từ 10-20, nhưng quả và hạt có kích thước nhỏ hơn, dạng quả hơi hình cầu, quả chín màu đỏ. Bourbon là giống có chất lượng thơm ngon, thích hợp với khí hậu ôn hoà, cường độ ánh sáng vừa, mẫn cảm với bệnh gỉ sắt, sâu bore dễ xâm nhập. *Giống Catura (Coffea arabica L.var Catura): Là một dạng biến dị của giống Bourbon được chọn lọc ở Brazin. Cây thấp khoẻ, chiều cao không quá 3m, tán cây hẹp nên rất thích hợp mật độ trồng dày từ 5.000-10.000 cây/ha. Lóng đốt thân, cành ngắn, khả năng phân cành thứ cấp nhiều. Số hoa, quả trên đốt nhiều từ 20-30 quả/đốt. Quả và hạt có kích thước nhỏ hơn và dạng bầu gần giống dạng hạt cà phê vối (C. canephora). Catura có hai dạng: Một dạng quả màu đỏ khi chín được gọi là Catura rojo và một dạng quả vàng khi chín được gọi là Catura amarello. Catura có tiềm năng cho năng suất nhưng cần thâm canh cao, dạng quả vàng cho năng suất cao hơn. Chất lượng nước uống khá, gần được như Bourbon, có khả năng chịu hạn, thích hợp với cường độ chiếu sáng mạnh và vùng có độ cao thấp, giống rất mẫn cảm với bệnh gỉ sắt, bệnh khô cành khô quả (Colletotricum coffeanum Noak) hay còn được gọi là bệnh CBD (Coffee Berry Disease). Giống Catura amarello được trung tâm nghiên cứu cây ăn quả Phù Quỳ-Nghệ An chọn lọc còn gọi là giống PQII. *Giống Catuai (Coffea arabica L.var Catuai): Là sản phẩm lai tạo giữa giống Catura với giống Mundo novo (Mundo novo là cây lai tự nhiên giữa Bourbon và giống Sumatra, trồng ở Việt Nam từ năm 1971). Đặc điểm hình thái tương tự Catura amarello. Cây thấp, tán hẹp thích hợp mật độ trồng dày. Lá non màu xanh nhạt, phiến lá bầu, mép lá gợn sóng nhiều. Lóng đốt ngắn, số hoa quả trên đốt tương đương giống Catura, khả năng phân cành nhiều. Catuai có khả năng chịu hạn tốt hơn Catura, thích 10
  12. hợp với điều kiện khí hậu những vùng có độ cao thấp, cường độ chiếu sáng mạnh, là giống có tiềm năng cho năng suất cao và cần chế độ thâm canh cao. Catuai mẫn cảm trung bình với bệnh gỉ sắt và bệnh khô cành khô quả. Những năm gần đây Cơ nước châu Mỹ La Tinh trồng giống Catura và Catuai trên diện tích lớn. *Giống Catimor (Coffea arabica L.var Catimor): Giống Catimor là giống được lai tạo giữa Hibrido de Timor (cây khác loài) với giống Catura, do Trung tâm nghiên cứu bệnh gỉ sắt Oeiras - Bồ Đào Nha và Viện nghiên cứu cà phê Colombia. Tại Việt Nam, Viện nghiên cứu cà phê Eakmat nhập thế hệ F4, F5 và chọn lọc là thế hệ F6. Catimor có dạng cây thấp, để phát triển tự nhiên cao từ 2-3m (thâm canh tốt có thể cao trên 3m). Tán cây hẹp, đường kính tán cây từ 1,2-1,5m thích hợp mật độ trồng dày 5.000 - 10.000 cây/ha. Hầu hết các đặc điểm hình thái gần như giống Catura rojo. Điểm khác biệt rõ nhất là lá non có màu đồng nhạt. Phiến lá dày màu xanh đậm, mép lá gợn sóng nhiều. Cành cơ bản khoẻ vươn thẳng hợp với thân một góc nhỏ hơn 800, lóng đốt ngắn từ 3-4cm, phân cành thứ cấp nhiều, quả thuộc loại trung bình, khi chín màu đỏ. Trọng lượng 100 hạt từ 12-16g, tỷ lệ quả tươi/nhân biến động từ 5-7,5 tuỳ vào điều kiện trồng. Catimor có tiềm năng cho năng suất rất cao, đòi hỏi thâm canh cao, có khả năng chịu lạnh, kháng cao với bệnh gỉ sắt. Giống này đang được khuyến cáo để thay một số giống cà phê chè khác. Trên đây là 4 giống cà phê chè (Coffea arabica L.) hiện đang được trồng phổ biến và có khối lượng xuất khẩu lớn trên thị trường cà phê quốc tế. Ngoài ra còn có một số giống khác như giống Mundonovo, Moka do có nhiều hạn chế nên ít được khuyến cáo rộng rãi. + Loài cà phê vối (Coffea canephora Pierre): Cà phê vối được trồng phổ biến trên nhiều nước, chiếm 30% tổng diện tích cà phê. Các nước trồng nhiều cà phê vối là Camerun, Côtđivoa, Uganda, Madagasca, Ấn Độ, Inđônêxia, Philippin, Brazin, Việt Nam. Tại Việt Nam được trồng nhiều ở Cơ tỉnh phía Nam, tập trung chủ yếu ở các tỉnh Tây Nguyên và Đồng Nai. *Giống Robusta (C. canephora var Robusta): Chiều cao cây tự nhiên cao từ 8- 12m. Cây to khoẻ, tán cây rộng, đường kính tán từ 2-2,5m, không thích hợp mật độ trồng dày. Lá non màu xanh nhạt. Phiến lá to bầu hoặc hình mũi mác, đuôi lá nhọn, chiều rộng lá từ 10-15cm, dài từ 20-30cm, mép lá ít gợn sóng hơn cà phê chè. Cành cơ bản to khoẻ, vươn dài hợp với thân một góc lớn hơn 800, khả năng sinh cành thứ cấp ít hơn nhiều so với cà phê chè, lóng đốt dài, quả có dạng hình cầu hoặc hình trứng, cuống quả ngắn và dai hơn cà phê chè nên ít bị rụng khi chín, quả chín có màu đỏ. Trọng lượng hạt trung bình từ 13-16g (ở ẩm độ hạt 12%). Trọng lượng quả tươi/nhân biến động từ 4-6kg. Năng suất thấp nhưng khả chống chịu sâu bệnh tốt hơn cà phê chè, tuy nhiên kém chịu hạn. Vì vậy khi trồng ở Tây Nguyên phải tưới nước đủ ẩm cây mới sinh trưởng tốt. 11
  13. + Loài cà phê mít, dâu da (Coffea liberia Bull): Trong loài này có hai dạng hình chính là giống cà phê mít (C.liberica var dewevrei) thường được gọi là C. liberia var Excelsa có nguồn gốc ở xứ Ubagui-Chari thuộc Trung Phi nên còn gọi là cà phê Chari. Một dạng hình khác là C. liberia var liberica. Cả hai dạng hình này có giá trị thương phẩm thấp nên không có mặt trên thị trường cà phê quốc tế. 3. Giá trị kinh tế: Cây cà phê có giá trị kinh tế về nhiều mặt, sản phẩm chính là hạt, gỗ cũng đem lại nguồn lợi đáng kể cho người sản xuất. Ngoài ra trồng cà phê còn có ý nghĩa trong cải tạo hệ sinh thái và thu hút được nhiều lao động nông nghiệp, tạo cơ sở cho một số ngành công nghiệp phát triển. + Giá trị dinh dưỡng: Trong hạt cà phê khi phân tích có đầy đủ các hợp chất như: protein, lipit, đường, tinh bột, xenlulô đặc biệt là có cafein. Cafein là một hợp chất mang tính độc ở nồng độ cao, ở nồng độ thấp có tác dụng kích thích sự hoạt động của hệ thần kinh nên uống cà phê sẽ tỉnh táo khi bị mệt mỏi, căng thẳng. Cafein còn kích thích sự hoạt động của hệ tiêu hoá. Mỗi loài cà phê khác nhau có hàm lượng Cafein khác nhau. Loài cà phê C. Arabica (cà phê chè) có hàm lượng từ 1,8-2,0%, loài cà phê Canephora robusta (cà phê vối) từ 2,5-3,0%, cà phê C. Liberia (cà phê mít), dâu da từ 1,05-1,15%. Ngoài ra có một số loài cà phê không có Cafein như loài Coffea Luxifolia, Coffea Mongenetii, các loài này có thể làm thức uống có hương vị cà phê dùng cho người bệnh hoặc làm vật liệu lai tạo khi cần thiết. + Giá trị xuất khẩu: Cà phê là loại thức uống có chất lượng cao, thơm ngon nên người uống cà phê ngày một gia tăng. Hầu hết các nước châu Âu và một số nước ở các châu lục khác dùng cà phê làm thức uống hàng ngày. Mức tiêu thụ của các nước Bắc Âu rất lớn, bình quân là 12,5 kg/người/năm, trong đó: Thuỵ Điển là 13,5kg, Đan Mạch 11,8kg. Các nước khác như Đức là 7,4kg, Hunggari 3,5kg, Pháp 5,2kg, Tây Ban Nha là 4,2kg. Nước Mỹ có mức nhập và tiêu thụ lớn, bình quân là 6,2kg/người/năm. Nhật Bản có mức tiêu thụ là 3kg/người/năm, Colombia là 4,9kg, Brazin là 3,2kg, Indonexia và Thái Lan là 0,5kg/người/năm Nhìn chung số người uống cà phê trên toàn thế giới tăng nhanh. Chính vì vậy giá trị xuất khẩu của cà phê luôn có vị trí quan trọng trong các mặt hàng nông sản xuát khẩu. Giá trị xuất khẩu của cà phê ở Việt Nam lớn hơn nhiều so với Ca cao và Chè. Trung bình 5 năm 1985-1989 giá trị xuất khẩu cà phê mỗi năm là 10,5 tỷ USD trong khi với Ca cao là 3,3 tỷ USD, Chè là 2,6 tỷ USD. + Giá trị trong công nghiệp và các giá trị khác Ngoài việc sử dụng làm thức uống hàng ngày thì trong công nghệ thực phẩm cà phê được chế biến thành rượu, bánh kẹo và làm nước giải khát có hương vị cà phê. Trong công nghệ dược phẩm cafein được sử dụng làm thuốc điều trị bệnh. 12
  14. Bảng 1.5: Thành phần hoá học của hạt cà phê Thành phần hoá học Đơn vị tính Số lượng Nước gr/100 gr 8-12 Chất béo " 4-18 Đạm " 1,8-2,5 Protein " 9-16 Caffein " 0,8-3 Axit Clorogenic " 2-8 Trigonenlin " 1-3 Tanin " 2 Axit Cafetanic " 8-9 Axit Cafeic " 1 Pantoza " 5 Tinh bột " 5-23 Dextrin " 0,85 Đường " 5-10 Xenlulô " 10-20 Hemixenlulô " 20 Lenhin " 4 Tro Trong đó có: Ca mg/100g 2,5-4,5 P 85-100 Fe 130-150 Na 3-10 Mn 4 Rb 1,0-45 Cu, F vệt Nguồn: Hoàng Minh Trang, 1983 Sản phẩm phụ của quả cà phê là lớp thịt quả, lớp quả nhớt chiếm 62-67% khối lượng quả trong đó có hàm lượng đường khá và nhiều hợp chất dinh dưỡng khác nên được dùng làm thức ăn gia súc, làm nguyên liệu chế biến cồn, rượu làm phân bón. Phần vỏ trấu dùng làm ván ép, làm nhiên liệu và làm giá thể trong sản xuất nấm. 13
  15. 4. Tình hình sản xuất và tiêu thụ 4.1. Sản xuất và tiêu thụ trên thế giới: + Diện tích: Theo số liệu của tổ chức FAO hiện nay trên thế giới có khoảng 75 nước trồng cà phê, các nước này có vị trí quanh vành đai xích đạo và Á nhiệt đới. Tổng diện tích trong vòng 10 năm trở lại đây khoảng trên 10 triệu hecta. Diện tích tập trung lớn nhất ở Trung và Nam Mỹ, sau đó là một số nước ở Đông Phi như Kenia, Camerun, Ethyopya, Tanzania. Ở Châu Á có Indonexia, Việt Nam, Philippin. Các nước có diện tích lớn từ 1 triệu ha đến trên 3 triệu ha có 4 nước: Brazin > 3.000.000 ha. - Indonexia: 1.000.000 ha. Colombia 1.000.000 ha. - Cotdivoa :1.000.000 ha. + Năng suất: Bình quân chung toàn thế giới khoảng 800kg nhân/ha. Năng suất giữa các vùng, châu lục, các nước chênh lệch rất lớn; 28 nước châu Phi có năng suất bình quân đạt xấp xỉ 400kg/ha. Nam Mỹ và châu Á đạt trên 700 kg/ha. Các nước ở Trung Phi có năng suất xấp xỉ trên 600kg/ha. Một số nước có năng suất cao, trong đó Costa-Rica năng suất 1.380kg/ha, Zaire đạt 1.600kg/ha. Brazin có diện tích lớn nhất nhưng năng suất chỉ đạt trên 475kg/ha. Trong khoảng 10 năm trở lại đây việc áp dụng đồng bộ các tiến bộ kỹ thuật, đặc biệt là tiến bộ trong công nghệ giống. Các giống thấp cây kháng sâu bệnh nên năng suất của một số nước tăng cao gấp 2 lần năng suất bình quân toàn thế giới. Tại Việt Nam năng suất bình quân cả nước đạt 1.500kg/ha. Năng suất cà phê vối trên diện tích rộng hàng trăm hecta đạt từ 2.400kg-3.000kg. Cà phê chè đạt từ 3.011- 4.000kg/ha. Năng suất trên diện hẹp từ 1-5ha đạt từ 6.000-7.000kg với giống cà phê chè Catimor. + Sản lượng: Trong 10 năm gần đây sản lượng cà phê thế giới biến động 6.000.000 tấn/năm, niên vụ 1997-1998 sản lượng đạt 6.143.880 tấn, niên vụ 1998-1999 đạt tới 8.240.000 tấn tương đương 104 triệu ha. Trong đó sản lượng cà phê Arabica chiếm bình quân 68,17%; cà phê Robusta chiếm 30,57%. Những năm trước đó tỷ lệ cà phê Arabica đạt cao hơn tới 80-90% tổng sản lượng. Tổ chức ICO căn cứ vào loại cà phê xuất khẩu mà chia ra các nước sản xuất cà phê thành 2 nhóm: Nhóm sản xuất cà phê Arabica và nhóm sản xuất cà phê Robusta. Ngoài ra còn chia sản phẩm thành 4 nhóm gọi là "nhóm chất lượng". + Tình hình tiêu thụ: Lượng cà phê tiêu thụ hàng năm biến động từ 5.964.000 tấn đến 6.000.000 tấn (99,4-100 triệu bao). Lượng cà phê này chủ yếu là được xuất khẩu dưới dạng cà phê nhân sống chiếm 95%. Chỉ còn 5% được chế biến như các dạng cà phê hoà tan, cà phê phun khô và cà phê dạng lỏng đóng hộp. 14
  16. Bảng 1.6: Tình hình sản xuất cà phê một số nước trên thế giới (1998-2005) NĂM Nước 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Diện tích (ha) 2,070,41 2,222,92 2,336,03 2,370,91 2,395,58 2,366,00 2,326,37 Brazil 0 5 2,267,968 1 0 0 0 0 Colombia 812,000 783,000 650,000 665,000 613,000 575,000 560,000 560,000 Côte d'Ivoire 883,279 819,329 829,319 602,075 520,000 400,000 460,000 460,000 Guatemala 260,000 273,000 273,000 273,000 245,000 245,000 245,000 245,000 Honduras 199,452 205,131 210,769 216,562 204,490 228,438 236,376 238,455 India 280,000 280,000 305,000 321,000 323,000 323,000 328,000 328,000 1,372,18 1,382,73 1,397,93 1,414,90 Indonesia 844,172 900,000 891,000 937,926 4 0 1 1 Mexico 679,156 722,818 701,326 747,416 724,558 743,840 743,840 743,840 Uganda 265,000 275,000 300,991 264,000 217,504 264,000 264,000 264,000 Việt Nam 213,802 269,800 476,900 450,000 470,000 500,000 491,800 642,000 Sản lượng (Kg/ha) Brazil 8,160 7,341 8,393 7,789 11,175 8,295 10,426 9,368 Colombia 9,446 6,982 9,802 9,867 11,368 12,071 12,153 12,189 Côte d'Ivoire 3,861 3,751 4,055 3,471 3,500 3,501 3,473 3,478 Guatemala 9,734 10,752 11,431 10,099 9,054 9,967 8,841 8,841 Honduras 8,662 7,674 9,172 9,491 8,447 7,673 7,830 7,995 India 8,143 9,464 9,574 9,377 9,319 8,514 8,232 8,384 Indonesia 6,067 5,830 7,015 6,132 4,970 4,964 5,008 5,386 Mexico 4,084 4,180 4,822 4,054 4,320 4,179 4,179 4,179 Uganda 7,738 9,159 4,767 7,478 8,689 5,715 7,045 7,045 Viet Nam 19,144 20,504 16,827 18,680 14,883 15,874 16,970 15,421 15
  17. Bảng 1.7: Sản lượng cà phê xuất khẩu của 10 nước hàng đầu thế giới (Từ tháng 10 năm trước đến tháng 9 năm sau niên vụ 1997-1998) STT Tên nước Số lượng (bao: 60kg) Vị thứ 1 Brazin 16.654.607 1 2 Colombia 10.813.329 2 3 Việt Nam 6.496.988 3 4 Indonexia 4.954.339 4 5 Cotdivoa 4.423.925 5 6 Mexico 3.891.695 6 7 Guatemala 3.838.351 7 8 Ấn Độ 3.308.752 8 9 Uganda 3.014.034 9 10 Honduras 2.299.762 10 4.2. Sản xuất và xuất khẩu cà phê ở Việt Nam + Tình hình sản xuất: Sau khi hoà bình lập lại(1954) ở các tỉnh miền Bắc nước ta, cây cà phê đã được trồng tập trung ở các nông trường quốc doanh. Đến năm 1963- 1964 diện tích cà phê có khoảng trên 10.000ha, giống cà phê được trồng chủ yếu là cà phê chè Arabica. Trong thời gian này các tỉnh miền Nam diện tích cà phê tập trung ở 3 tỉnh Tây Nguyên và tỉnh Lâm Đồng. Diện tích cà phê chè chưa nhiều, chủ yếu là cà phê Robusta. Khi nước nhà thống nhất (1975) diện tích cà phê ngày càng được mở rộng, đồng thời năng suất và sản lượng tăng mạnh mẽ. Diện tích năm 1999 tăng gấp 36 lần năm 1975, sản lượng tăng gấp 69 lần. Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp & PTNT thì niên vụ 2000-2001 diện tích cà phê cả nước đã lên tới 484.000ha, hết năm 2001 đã được 565.000ha và vượt diện tích kế hoạch 1998-2001. Nay cây cà phê đã được trồng trong 24 tỉnh thành, ở 5 vùng sinh thái nông nghiệp. Trong tổng diện tích cà phê hiện nay của Việt Nam thì cà phê Robusta chiếm tới 86% diện tích (443.000ha). Diện tích cà phê Arabica chiếm 14% (bản tin cà phê, 2004), để thay đổi cơ cấu giống hơn 10 năm qua Bộ Nông nghiệp & PTNT đã có kế hoạch mở rộng diện tích cà phê chè từ các tỉnh miền Trung ra các tỉnh phía Bắc. Ở nước ta sau hơn 30 năm sản xuất và xuất khẩu hiện nay cũng đang là thời điểm bị thất thu lớn nhất mặc dù đã có nhiều giải pháp khống chế. Trước tình hình đó 16
  18. Bộ Nông nghiệp & PTNT phải nhanh chóng thay đổi kế hoạch phát triển cà phê trên cả nước: Mạnh dạn phá bỏ trên 50.000ha cà phê vối, đồng thời tăng nhanh cơ cấu diện tích cà phê chè, đầu tư cho việc chế biến nâng cao chất lượng cà phê nhân xuất khẩu. Bảng 1.8: Diển biến diện tích, sản lượng cà phê ở Việt Nam. Năm Diện tích Sản lượng Năm Diện tích Sản lượng (ha) (tấn) (ha) (tấn) 1975 13.400 6.100 1993 101.300 136.000 1976 18.847 8.500 1994 123.900 180.000 1980 22.500 18.388 1995 186.400 240.000 1985 44.658 12.340 1996 230.900 350.000 1990 119.314 64.101 1997 254.400 370.000 1991 115.000 100.000 1998 270.600 405.000 1992 103.700 119.000 1999 397.400 420.000 Nguồn: Tư liệu Bộ Nông nghiệp & PTNT, Niên giám thống kê 2000 Bảng 1. 9: Diễn biến diện tích, sản lượng cà phê Việt Nam từ năm 1998-2005 Năm 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Diện tích (ha) 270.600 397.400 476.900 450.000 470.000 500.000 491.800 642.000 Năng suất (Kg/ha) 19.144 20.504 16.827 18.680 14.883 15.874 16.970 15.421 Sản lượng (tấn) 405.000 420.000 802.500 840.600 699.500 793.700 834.600 990.000 Vị trí địa lý của Việt Nam trãi dài gần 15 vĩ độ, từ 80 30'-230 22' độ vĩ Bắc và từ 1020 – 109021’ độ Kinh Đông nên đặc điểm khí hậu các tỉnh miền Bắc phù hợp cho các giống cà phê Arabica. Các tỉnh miền Nam, đặc biệt là các tỉnh Tây Nguyên phù hợp với giống cà phê Robusta. Hiện nay Tây Nguyên có diện tích trồng cà phê lớn nhất, bốn tỉnh: Đăk Lăk, Gia Lai, Kon Tum và Lâm Đồng sản lượng cà phê chiếm 85% tổng sản lượng cả nước với tổng diện tích năm 1998 đạt 175.000ha, trong đó có 140.000ha cà phê kinh doanh. + Năng suất: Cùng với sự gia tăng về diện tích thì năng suất cũng tăng nhanh: năm 1963-1966 năng suất cà phê Arabica ở các tỉnh miền Bắc đạt 400 - 600kg/ha, cà 17
  19. phê Robusta ở các tỉnh miền Nam đạt 1.000kg/ha. Đến niên vụ 1994 - 1995 năng suất bình quân cả nước đạt 1.200kg/ha, niên vụ 1998 - 1999 năng suất đạt trên 1.500kg/ha. Năng suất cà phê ở tỉnh Đăk Lăk đạt 2.400kg/ha trên diện tích 140.000ha. Nhiều công ty cà phê có diện tích từ 200 - 400ha có năng suất từ 3.000kg - 3.500kg/ha như công ty cà phê Đăk Uy đạt 3.700kg/ha trên diện tích 434ha. Năng suất điển hình trên diện tích 2-5 ha ở một số chủ hộ đạt 6.000-7.000kg/ha. Đây là năng suất cao nhất chưa từng có trên thế giới. + Tình hình xuất khẩu: Việt Nam sản xuất cà phê chủ yếu là để xuất khẩu, những năm trước đây thị trường chính là Liên Xô và các nước Đông Âu với khối lượng thấp. Năm 1991 khi Tổ chức cà phê Quốc tế (ICO) công nhận Việt Nam là thành viên thứ 75 và khi nhà nước đã cho thành lập Liên hiệp xí nghiệp cà phê (VINACAFE) thì ngành cà phê Việt Nam có sự phát triển mạnh mẽ. Khối lượng xuất khẩu tăng dần: Năm 1982 khối lượng xuất khẩu là 69.000 bao, năm 1987 là 433.000 bao, năm 1997 xuất khẩu xấp xỉ 62 triệu bao. Hiện nay Việt Nam có khối lượng xuất khẩu 11 triệu bao, chiếm 13% tổng lượng cà phê xuất khẩu trên thế giới, đứng hàng thứ 2 thế giới chỉ sau Brazin, nếu chỉ tính khối lượng cà phê Robusta thì Việt Nam là nước có khối lượng xuất khẩu lớn nhất thế giới. Việt Nam có 51 thị trường nhưng khối lượng tập trung lớn vào thị trường chung châu Âu, các nước Mỹ, Đức, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Anh, Bỉ, Nhật Bản. Đơn giá cà phê của Việt Nam thấp. Giá cà phê Robusta loại 2 của Việt Nam từ 1.530-1.550 USD/tấn (tháng 7/1998) thì của Indonexia là 1.420-1.440USD/tấn. Trong hai niên vụ 1999-2000 và 2000-2001 giá cà phê liên tục giảm thấp chỉ bằng 1/3 giá của năm 1998. Niên vụ 1997-1998 Việt Nam thu được kim ngạch xuất khẩu cao nhất, đạt 599.686,781 USD. Theo số liệu của Bộ NN&PTNT tới 1/1/2002 Việt Nam đã xuất khẩu 850.000 tấn, thu kim ngạch xuất khẩu chỉ bằng 50% kim ngạch 2000. Tuy nhiên nếu Việt Nam nâng cao được chất lượng cà phê và gia tăng được khối lượng cà phê chè xuất khẩu thì sẽ thu được kim ngạch xuất khẩu cà phê cao hơn. Đây cũng là những vấn đề cấp thiết cần có sự đầu tư và cải tiến trong ngành sản xuất cà phê Việt Nam. III. NGUỒN GỐC, PHÂN LOẠI, GIÁ TRỊ KINH TẾ CỦA CÂY CHÈ ( Camellia sinensis.L.). 1. Nguồn gốc: Cho đến nay có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn gốc cây chè. Quan điểm được nhiều người thừa nhận hơn cả là: + Cây chè có nguồn gốc ở Vân Nam - Trung Quốc: Nơi có khí hậu ẩm ướt và ấm. Theo các tài liệu Trung Quốc thì cách đây trên 4000 năm người Trung Quốc đã biết dùng chè làm dược liệu và sau đó là để uống. Theo Daraselia (Gruzia), 1989 thì các nhà khoa học Trung Quốc như: Schenpen, Jaiding đã giải thích sự phân bố của cây chè ở Trung Quốc như sau: Đầu tiên cây chè 18
  20. mọc ở Vân Nam, sau đó hạt chè di chuyển theo dòng nước đến các nước Việt nam, Lào, Campuchia, Mianma. Cũng theo Daraselia thì một luận điểm nữa có cơ sở khoa học là dựa theo học thuyết “Trung tâm khởi nguyên cây trồng” của Vavilốp thì cây chè có nguồn gốc ở Trung Quốc, nó phân bố ở các khu vực phía đông, phía nam, phía đông nam men theo cao nguyên Tây Tạng. + Cây chè có nguồn gốc ở Atxam (Ấn Độ): Năm 1823, R. Bruce đã phát hiện được những cây chè dại lá to ở vùng Atxam (Ấn Độ), nên các học giả người Anh cho rằng: Nguyên sản của cây chè ở vùng Atxam chứ không phải ở Vân Nam- Trung Quốc. + Cây chè có nguồn gốc ở Việt Nam: Những công trình nghiên cứu của Đjemukhatze (1961-1976) về phức catechin của lá chè từ các nguồn gốc khác nhau, so sánh về thành phần các chất catechin giữa các loại chè được trồng trọt và chè mọc hoang dại đã nêu lên luận điểm về sự tiến hóa sinh hóa của cây chè, trên cơ sở đó xác minh nguồn gốc cây chè. Đjemukhatze kết luận rằng những cây chè mọc hoang dại từ cổ xưa, tổng hợp chủ yếu là (-) epicatechin và (-) epicatechin galat. Ở chúng khả năng tổng hợp (-) epigalocatechin và các galát của nó để tạo (+) galocatechin chậm hơn. Nghiên cứu các cây chè dại ở Việt Nam cho thấy chúng tổng hợp chủ yếu là (-) epicatechin và (-) epicatechin galat (chiếm 70% tổng số các loại catechin). Khi di thực các cây chè dại này lên phía Bắc với các điều kiện khí hậu khắc nghiệt hơn, chúng sẽ thích hợp dần với các điều kiện sinh thái bằng cách có thành phần catechin phức tạp hơn, cùng với sự tạo thành (-) epigalocatechin và các galát của nó. Điều đó có nghĩa là sự trao đổi chất ở đây hướng về phía tăng cường quá trình hidroxil hóa và galil hóa. Từ những biến đổi sinh hóa này của lá các cây chè dại và cây chè được trồng trọt, chăm sóc cho phép đi tới một kết luận mới là “Nguồn gốc cây chè chính là ở Việt Nam”. Tuy có sự khác nhau nhưng những quan điểm trên đều có sự thống nhất rằng: Cây chè có nguồn gốc từ châu Á, nơi có điều kiện khí hậu nóng, ẩm. 2. Phân loại cây chè: Cây chè nằm trong hệ thống phân loại thực vật sau đây: Ngành Hạt kín Angiospermae Lớp Ngọc lan (Song tử diệp) Dicotyledonae Bộ Chè Theales Họ Chè Theaceae Chi Chè Camellia (Thea) Loài Chè Sinensis 19
  21. Tên khoa học của cây chè được nhiều nhà khoa học công nhận là: Camellia sinensis. L O. Kuntze và có tên đồng nghĩa là Thea sinensis .L. Năm 1753, Line đặt tên cho cây chè là Thea sinensis, sau đó đặt lại là Camellia sinensis. Sau Line có các nhà thực vật học xếp cây chè thuộc chi Thea, có người lại xếp cây chè thuộc chi Camellia và tên khoa học của cây chè được viết là Thea sinensis hoặc Camellia sinensis. Hơn một trăm năm qua tên khoa học của cây chè vẫn là một vấn đề tranh luận. Có khoảng 20 cách đặt tên cho cây chè, diễn biến như sau: Năm 1807 F. Sim: Thea sinensis Sims. Năm 1822 F. Link: Camellia sinensis Link. Năm 1854 W. Griffim: Camellia theifera Griff. Năm 1874 D. Brandis: Camellia thea Brandis. Năm 1874 W.T.T.Dyer: Cammellia theifera Dyer. Năm 1908 G. Watt: Camellia thea (Link) Brandis. Năm 1919 C.P. Cohen stuart: Camellia theifera (Griff) Dyer. Năm 1933 C.R Harler: Thea sinensis (L) Sims. Năm 1956 C.R Harler: Camellia sinensis (L) O. Kuntze. Hiện nay Cơ nhà thực vật học gộp chi Thea và Camellia làm một và gọi là chi Camellia. Vì vậy tên khoa học của cây chè được nhiều người gọi là Camellia sinensis. L. O. Kuntze. + Cơ sở của việc phân loại chè: Việc phân loại chè thường được dựa vào: * Cơ quan dinh dưỡng: Loại thân bụi hoặc thân gỗ, hình dạng của tán, lá, kích thước lá, đầu lá, số đôi gân chính * Cơ quan sinh thực: Độ lớn của cánh hoa, số lượng đài hoa, vị trí phân nhánh của đài nhụy, số lượng hoa, quả * Đặc tính sinh hóa: Chủ yếu dựa vào hàm lượng tanin biến động trong một phạm vi nhất định. Bảng phân loại chè của Cohen Stuart (1919): Có nhiều bảng phân loại chè nhưng bảng phân loại được nhiều người công nhận nhất là bảng phân loại của Cohen Stuart (1919). Tác giả chia Camellia sinensis L. làm 4 thứ (Varietas) chè chính: * Chè Trung Quốc lá nhỏ (Camellia sinensis var. bohea): Thân bụi, cây thấp, phân cành nhiều. Lá nhỏ, dày, nhiều gợn sóng, màu xanh đậm, dài từ 3,5 - 6,5cm, lá có từ 6 - 7 đôi gân, gân lá không rõ, răng cưa nhỏ không đều, đầu lá tròn. Búp nhỏ, năng 20
  22. suất không cao, Phẩm chất bình thường, nhiều hoa - quả, có khả năng chịu rét (-12OC đến –15OC). Chè Trung Quốc lá nhỏ phân bố chủ yếu ở miền đông, đông nam Trung Quốc, Nhật Bản. Ở Việt Nam, chè Trung Quốc lá nhỏ có thể tìm thấy ở Lạng Sơn, Phú Hộ (Phú Thọ) Trong Cơ thí nghiệm tập đoàn giống. * Chè Trung Quốc lá to (Camellia sinensis var. macrophylla): Thân gỗ nhỡ cao tới 5 m trong điều kiện sinh trưởng tự nhiên. Lá to trung bình, chiều dài từ 12 - 15 cm, chiều rộng từ 5 - 7 cm, màu xanh nhạt, bóng, răng cưa sâu không đều, đầu lá nhọn, lá chè Trung Quốc lá to có từ 8 - 9 đôi gân chính. Búp to trung bình, có khả năng cho năng suất cao, chất lượng tốt, thích hợp cho cả việc chế biến chè đen và chè xanh. Khá nhiều hoa và quả. Khả năng chịu rét kém, chịu đất xấu, hay bị bệnh phồng lá, rầy xanh hại nặng. Nguyên sản của chè Trung Quốc lá to ở Vân Nam, Tứ Xuyên (Trung Quốc). Ở Việt Nam, chè Trung Quốc lá to phân bố ở vùng trung du: Phú Thọ, Thái nguyên, Bắc Giang, Tuyên Quang và phía Nam Yên Bái Do được trồng phổ biến ở vùng trung du, chè Trung Quốc lá to còn có tên gọi là chè Trung Du. * Chè Shan (Camellia sinensis var. Shan): Thân gỗ, trong điều kiện tự nhiên có thể cao từ 6 - 10 m. Lá to, dài (dài 15 - 18 cm), màu lá xanh nhạt, đầu lá dài, răng cưa nhỏ, dày và đều, có khoảng 10 đôi gân chính. Búp to trung bình, tôm chè có nhiều lông tơ trắng mịn, trông như tuyết cho nên chè Shan còn được gọi là chè Tuyết, chè Shan có khả năng cho năng suất khá, chất lượng tốt phù hợp cho chế biến chè đen và đặc biệt là chè xanh. Chè Shan ít hoa, quả hơn chè Trung Quốc lá to và Trung Quốc lá nhỏ. Chè Shan có khả năng thích ứng trong điều kiện nóng ẩm, ấm, địa hình cao. Nguyên sản của chè Shan là Vân Nam (Trung Quốc), Mianma. Ở Việt Nam chè Shan được trồng nhiều ở vùng Tây Bắc, vùng Tây Nguyên (Lâm Đồng). Mỗi địa phương có các giống khác nhau như Shan Mộc Châu, Shan Thamvè, Shan Trấn Ninh đều cho năng suất khá, từ 7- 8 tấn/ha. * Chè Ấn Độ (Camellia sinensis var. Atxamica): Thân gỗ, cao, to. Trong điều kiện tự nhiên có thể cao tới 16 - 17m, phân cành thưa. Lá to, dài tới 20 - 30 cm, lá mỏng mềm, thường có màu xanh đậm, mặt lá gồ ghề, nhiều gợn sóng, đầu lá dài, dạng lá hình bầu dục có từ 12 - 15 đôi gân chính, búp to. Chè Ấn Độ có khả năng cho năng suất cao, phẩm chất tốt, thích hợp cho chế biến chè xanh và chè đen. Rất ít hoa quả, có khi không có quả (giống 1A). Không chịu được rét, hạn. Chè Ấn Độ được trồng nhiều ở Ấn Độ, Mianma, Vân Nam và một số vùng khác. Ở Việt Nam, chè Ấn Độ được trồng nhiều ở Phú Thọ, Nam Yên Bái, Tuyên Quang, Thái Nguyên. Đại biểu của nó là giống PH1, giống chè có khả năng cho năng suất cao nhất nước Việt Nam hiện nay. 3. Giá trị kinh tế: 21
  23. + Vị trí cây chè trong đời sống Nước chè là thứ nước uống tốt và rẻ tiền, có giá trị dinh dưỡng và dược liệu. Hỗn hợp tanin trong chè có tác dụng giải khát rất tốt. Cafein và một số hợp chất ancaloit khác (teobromin, teotilin, ađenin) có trong chè là những chất có tác dụng kích thích hệ thần kinh trung ương, kích thích vỏ đại não làm cho thần kinh minh mẫn, tăng cường sự hoạt động của các cơ trong cơ thể, nâng cao năng lực làm việc, làm giảm bớt những mệt nhọc sau những lúc làm việc căng thẳng. So với cà phê thì khả năng kích thích của chè chậm hơn và kéo dài hơn, không gây kích thích quá mạnh có hại cho thần kinh và cơ thể con người. Ngoài ra chè còn có tác dụng kích thích hệ tiêu hóa, đặc biệt là tiêu hóa mỡ. Trong chè có chứa nhiều vitamin: Vitamin A, B1, B2, B6, K, PP và đặc biệt là chứa nhiều vitamin C. Đây là nguồn dinh dưỡng có giá trị và rất cần thiết cho cơ thể con người. Chất tanin trong chè ngoài tác dụng giải khát còn có khả năng chữa trị nhiều bệnh như tả lị, thương hàn, sỏi thận, sỏi bàng quang, chảy máu dạ dày và có tác dụng lợi tiểu. Theo M. N. Zaprometop, catechin chè có tác dụng làm vững chắc mao mạch trong cơ thể con người. Số liệu của Viện nghiên cứu Leningrat cho thấy: Trong điều trị bệnh cao huyết áp thu được hiệu quả rất tốt khi người bệnh được dùng 150 mg catechin trong 1 ngày. E.K. Mgaloblisvili và các cộng tác viên của ông đã xác định ảnh hưởng tích cực của nước chè xanh tới chức năng của hệ thống tim mạch, tới quá trình trao đổi muối, nước và trao đổi vitamin C Một giá trị đặc biệt của chè là tác dụng chống phóng xạ. Ngoài ra, chè còn được dùng làm chất tạo màu thực phẩm, vừa có khả năng thay thế các chất tạo màu nhân tạo. Các sản phẩm phụ của cây chè như dầu hạt chè có thể sử dụng trong công nghiệp hay làm dầu ăn như các loại dầu thực vật khác. Lá chè có thể làm thức ăn trong chăn nuôi. + Vị trí cây chè trong nền kinh tế quốc dân Chè là cây công nghiệp lâu năm, có nhiệm kỳ kinh tế dài, nhanh cho sản phẩm, hiệu quả kinh tế cao và ổn định. Cây chè trồng một lần có thể cho thu hoạch từ 30 - 40 năm hoặc lâu hơn. Ở Việt Nam trong điều kiện thâm canh, nương chè sau trồng 1 năm đã có thể cho thu từ 500 kg cho đến 1tấn búp tươi/ha. Các năm sau có thể cho thu từ 2-3 tấn búp tươi/ha. Từ năm thứ năm trở đi có thể thu hoạch bình quân 5-10 tấn búp tươi/ha. Đặc biệt có những nương chè có thể cho năng suất 20-30 tấn búp tươi/ha. 22
  24. Chè là cây trồng mà sản phẩm của nó có giá trị hàng hóa và giá trị xuất khẩu cao, thị trường tiêu dùng ổn định, nhu cầu tiêu thụ sản phẩm ngày càng cao. Giá chè trên thị trường quốc tế trong những năm gần đây khá ổn định, bình quân từ 1200 - 1900 USD/tấn chè đen và từ 2000 - 3000 USD/tấn chè xanh, chè vàng. Trước đây chè của Việt Nam thường được xuất khẩu sang thị trường Liên Xô cũ và các nước Đông Âu. Thị trường Châu Á bao gồm các nước Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Iran, Irăc, Cooet, ARập Thống Nhất các nước này chủ yếu nhập chè xanh và chè đen. Thị trường Tây Âu, Bắc Mỹ có nhu cầu nhập khẩu chè đen với khối lượng lớn. Tuy nhiên, công nghệ chế biến của ta còn lạc hậu, chưa đáp ứng được nhu cầu chất lượng của thị trường này. Chè là cây trồng không tranh chấp đất đai với các cây lương thực, trồng chè có tác dụng phủ đất trống, đồi trọc, chống xói mòn. Phát triển mạnh cây chè ở vùng trung du miền núi có tác dụng thu hút và điều hòa lao động trong phạm vi cả nước. Cây chè góp phần công nghiệp hóa sản xuất nông nghiệp ở vùng cao, giúp cho Trung du Miền núi tiến kịp Miền xuôi về kinh tế - xã hội. 4. Tình hình sản xuất và tiêu thụ chè trên thế giới và trong nước 4.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ chè trên thế giới Mặc dù cây chè có nguồn gốc lịch sử lâu đời (4000 năm) song từ thế kỹ thứ XVIII trở lại đây cây chè mới thực sự được phát triển với tốc độ nhanh. Đến nay trên thế giới có trên 50 nước trồng chè. Diện tích chè của châu Á chiếm 86,7%, châu Phi là 8,04%. Trung Quốc là nước có diện tích chè lớn nhất thế giới: 1134,6 nghìn ha. Sản lượng chè toàn thế giới năm 1994 đạt khoảng 2478 nghìn tấn khô, tập trung chủ yếu ở châu Á (chiếm 83,2%) và châu Phi (chiếm 14,4%). Nước có sản lượng chè lớn nhất thế giới là Ấn Độ: 743,8 nghìn tấn. Vương Quốc Anh là nước nhập khẩu chè lớn nhất thế giới, năm 1994 nhập 148,6 nghìn tấn chè khô, sau đó là Liên Xô cũ 115 nghìn tấn, Pakistan 106,6 nghìn tấn, Ai Cập 57 nghìn tấn, Ma Rốc 34 nghìn tấn Mức tiêu thụ chè tính theo đầu người hàng năm cao nhất là Ai Len 3,22kg, Vương Quốc Anh 2,61kg, Quatar 2,3kg, Thổ Nhĩ Kỳ 2,73kg, Irăc 2,95kg, Hồng Công 1,95kg 4.2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ chè trong nước Lịch sử phát triển cây chè ở Việt Nam được chia thành các giai đoạn sau đây: + Giai đoạn 1890 – 1945: Những đồn điền chè ở Việt Nam được thành lập ở Tỉnh Cương (Phú Thọ) 60 ha, ở Đức Phổ (Quảng Nam) 250 ha. 23
  25. Trong những năm 1925-1940, người Pháp đã mở thêm các đồn điền chè ở cao nguyên Trung Bộ với diện tích khoảng 2750 ha. Bảng 1.10: Diện tích, sản lượng và năng suất chè Thế giới từ 1997-2005 Năm 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Chi tiêu D. t ích (1000ha) 2.287 2.288 2.346 2.394 2.408 2.471 2.486 2.542 2.561 N.suất (kg/ha) 12.150 13.176 13.073 12.343 12.727 12.766 12.908 13.146 13.349 S.lượng (1.000tấn) 2.779 3.015 3.068 2.956 3.065 3.154 3.209 3.341 3.418 Tính đến năm 1938, Việt Nam có 13.405 ha chè với sản lượng là 6100 tấn chè khô. Diện tích chè chủ yếu phân bố ở các vùng trung du, miền núi (Bắc Bộ) và cao nguyên Trung Bộ, trong đó đến 75% diện tích do người Việt Nam quản lý. Năm 1939 Việt Nam đạt sản lượng 10.900 tấn chè khô, đứng hàng thứ 6 trên thế giới sau Ấn Độ, Trung Quốc, Srilanca, Nhật Bản và Indonesia. Thời kỳ này diện tích chè phân tán, kỹ thuật lạc hậu, phương thức khai thác quảng canh là chủ yếu. Các cơ sở nghiên cứu chè được thành lập. Trạm nghiên cưú chè Phú Hộ (Phú Thọ) thành lập năm 1918, sau đó trạm nghiên cứu chè Plâycu (Gia lai - Kontum - 1927) và trạm nghiên cứu chè Bảo Lộc (Lâm Đồng-1931). + Giai đoạn 1945 – 1954: Trong giai đoạn này do ảnh hưỏng của chiến tranh, các vườn chè bị bỏ hoang. Diện tích, sản lượng chè trong giai đoạn này đều giảm sút nhiều. + Giai đoạn 1954 – 1990: Ở giai đoạn này cây chè được xác định là cây trồng có giá trị kinh tế cao, có tầm quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở vùng trung du và miền núi. Trong những năm 1958 - 1960 hàng loạt các Nông Trường chè được thành lập, dưới sự quản lý của các đơn vị quân đội. Từ những năm 1960 - 1970 chè được phát triển mạnh ở cả 3 khu vực: Quốc doanh, hợp tác xã chuyên canh chè và hộ gia đình. Các cơ sở nghiên cứu chè ở Phú Hộ (Phú Thọ), Bảo Lộc (Lâm Đồng) được cũng cố và phát triển. Hàng loạt các vấn đề như giống, kỹ thuật canh tác, chế biến được đầu tư nghiên cứu. Nhiều tiến bộ kỹ thuật được áp dụng rộng rãi vào sản xuất, góp phần làm tăng nhanh diện tích, sản lượng chè ở Việt Nam. Ở giai đoạn này, công nghiệp chế biến được phát triển mạnh, nhiều nhà máy chè xanh, chè đen được xây dựng ở Nghĩa 24
  26. Lộ, Hà Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Thái Nguyên, Phú Thọ với sự giúp đỡ về kỹ thuật, vật chất của Liên Xô, Trung Quốc phần lớn chè của Việt Nam được xuất khẩu sang các nước Liên Xô cũ và các nước Đông Âu, một số khác được xuất khẩu sang các nước Tây Á, Iran, Irắc, Côoét, Ả Rập. + Giai đoạn 1990 đến nay: Từ năm 1990 đến 1997 diện tích chè đã tăng từ 60.000 ha lên 81.700 ha (tăng 36,2%), sản lượng chè khô tăng từ 32,2 nghìn tấn lên 52,3 nghìn tấn (tăng 62,1%). Tuy nhiên, từ năm 1990 đến nay do có sự biến động lớn về thị trường tiêu thụ (thị trường chủ yếu là Liên Xô cũ và Đông Âu bị mất) nên sản xuất chè gặp nhiều khó khăn, công nghệ chế biến chưa đáp ứng được nhu cầu về chất lượng, chủng loại chè của thị trường mới (thị trường châu Á, thị trường Bắc Mỹ và thị trường Tây Âu) chưa phù hợp. Ảnh hưởng của bao cấp trong cơ chế quản lý, tư duy về thị trường của người lao động và các tổ chức sản xuất chè chưa cao nên đã làm cho ngành chè chững lại. Diện tích chè vẫn tăng nhưng năng suất chè giảm, đời sống người trồng chè gặp nhiều khó khăn. Bảng 1.11: Diện tích, năng suất và sản lượng chè Việt Nam từ 1999-2005 Năm 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Diện tích (ha) 69.500 70.300 80.000 98.000 99.000 102.000 104.000 Năng suất 10.115 9.943 9.463 9.612 10.076 10.630 10.577 (kg/ha) Sản lượng(tấn) 70.300 69.900 75.700 94.200 99.750 108.422 110.000 Tổng công ty chè Việt Nam được thành lập, thống nhất quản lý ngành chè. Một số liên doanh liên kết sản xuất với nước ngoài (Nhật Bản, Đài Loan, Bỉ, Anh, Malaixia) được ra đời, công nghệ chế biến bước đầu được đổi mới, thị trường xuất khẩu bắt đầu mở rộng sang các nước Tây Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản. Thị trường xuất khẩu truyền thống (các nước thuộc Liên Xô cũ, Đông Âu ) cũng được mở lại, giá chè bước đầu ổn định. + Các vùng sản xuất chè chủ yếu ở Việt Nam: Ở Việt Nam cây chè được trồng tập trung chủ yếu ở một số vùng chính sau đây. * Vùng chè Tây Bắc: Điều kiện khí hậu: Vùng Tây Bắc có lượng mưa bình quân hàng năm từ 1500 - 3000 mm, số tháng có mưa trên 100 mm trong năm là 6 tháng. Nhiệt độ bình quân là 13-230 C, biên độ nhiệt độ ngày đêm lớn. Đầu mùa hạ khô nóng, có gió lào (tháng 3, tháng 5) làm cho chè sinh trưởng chậm, có thể có sương muối vào các tháng 12 và tháng 1 làm cho chè bị táp lá. 25
  27. Điều kiện đất đai: Các loại đất chủ yếu là: Đất đỏ vàng trên đá phiến sét và đá biến chất, đất đỏ nâu phát triển trên đá macma trung tính và bazơ, đất đỏ vàng trên đá macma axit. Những loại đất này đều phù hợp cho sinh trưởng của cây chè. Vùng Tây Bắc chè được trồng nhiều ở các tỉnh Sơn La (1909 ha), Lai Châu (559 ha).Giống chè chủ yếu là giống chè Shan (chiếm trên 80% diện tích) còn lại là chè Trung Du (khoảng 10% diện tích) và Cơ giống chè khác. Ngoài ra, vùng Tây Bắc còn có diện tích đáng kể chè rừng ở Chồ Lống, Phù Yên, Tô Múa do đồng bào Dao và H’ Mông quản lý với kỹ thuật canh tác thô sơ, không đốn hàng năm, không bón phân, không phun thuốc trừ sâu Đây là nguồn vật liệu quý phục vụ cho công tác chọn tạo giống chè mới. * Vùng chè Việt Bắc - Hoàng Liên Sơn: Vùng này gồm tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Tây Yên Bái, Hòa Bình và Lào Cai. Điều kiện khí hậu: Nhiệt độ bình quân từ 18 - 29OC, mùa đông ít lạnh hơn, vùng Đông Bắc có sương muối, lượng mưa bình quân từ 1800-2000 mm/năm, mưa kéo dài từ 180 - 200 ngày/năm. Điều kiện đất đai: Các loại đất chính là đất Feralit đỏ vàng trên đá biến chất, đá gnai, đá mica và đất đỏ vàng phát triển trên phù sa cổ. Chè được trồng tập trung dưới các hình thức công ty quốc doanh, hộ gia đình. Giống chè Trung Du (chiếm 91,6% diện tích chè Tuyên Quang, 65% diện tích ở công ty chè Trần Phú) và giống chè Shan (68,8% diện tích chè Việt Lâm - Hà Giang). Ngoài ra còn có các giống chè khác như chè PH1, TRI 777 Ở các công ty chè Tuyên Quang, Trần Phú nguyên liệu được dùng để chế biến chè đen xuất khẩu. Vùng chè Việt Bắc - Hoàng Liên Sơn có diện tích chè phân tán, chè được trồng ở độ cao lớn hơn 200m ở các tỉnh Hà Giang (Tây Côn Lĩnh), Nghỉa Lộ (Suối Giàng), Lào Cai giống chè chủ yếu là chè Shan (chè Tuyết) chất lượng tốt được coi là chè sạch. Kỹ thuật canh tác đơn giản, không bón phân, ít đốn là nguồn gen quý cho công tác chọn tạo giống. * Vùng chè Trung Du - Bắc Bộ: Gồm các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Giang, Bắc Cạn, Phú Thọ, Nam Yên Bái, Hà Tây và Bắc Hà Nội. Điều kiện khí hậu: Khí hậu vùng này mang tính chất đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa có mùa đông lạnh, nhiệt độ bình quân từ 20–24OC, lượng mưa bình quân từ 1800-92000 mm/năm. Điều kiện đất đai: Các loại đất chính là đất đỏ vàng trên phiến thạch sét (Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Thái Nguyên ) đất phát triển trên đá gnai và mica (Phú Thọ), đất đỏ vàng phát triển trên phù sa cổ (Thái Nguyên, Phú Thọ, Hà Tây ), đất nâu đỏ phát triển 26
  28. trên đá macma bazơ (Thái Nguyên, Hòa Bình), đất vàng nhạt trên đá cát (Thái Nguyên, Vĩnh Phú) Chè được trồng tập trung dưới các hình thức Công ty Quốc doanh (Sông Cầu, Quân Chu, Phú Sơn ) và các hộ gia đình chuyên canh và bán chuyên canh chè. Vùng chè Trung du - Bắc Bộ có nhiều nhà máy chè công suất từ 12-35 tấn búp tươi/ngày. Chủ yếu là chế biến chè đen xuất khẩu (70% tổng sản lượng) và chè xanh. Các xưởng chế biến chè xanh quy mô nhỏ phù hợp với các hộ và nhóm hộ gia đình cũng phát triển ngày càng nhiều. * Vùng chè Bắc Trung Bộ: Gồm Cơ tỉnh: Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, với tổng diện tích trên 5 nghìn ha. Điều kiện khí hậu: Mùa đông ấm hơn vùng Trung Du Bắc Bộ. Có gió lào vào đầu mùa hạ, nhiệt độ trung bình 23-300C có lượng mưa trung bình 2500-3000 mm/năm. Điều kiện đất đai: Chủ yếu là đất feralit phát triển trên đá phiến thạch, sa thạch và trên phù sa cổ. Giống chè chủ yếu là giống PH1, chè Gay (địa phương) và chè Trung Du. Có nhiều nhà máy chế biến chè xanh và chè đen (Yên Mỹ, Hạnh Lâm, Anh Sơn ). Nhiều diện tích chè được thu hái lá già phục vụ cho tập quán uống chè tươi của nhân dân trong vùng. * Vùng chè Tây Nguyên: Chè được trồng chủ yếu ở Lâm Đồng, Gia Lai và ĐăkLăk với khoảng 13.000 ha. Sản lượng hàng năm đạt khoảng 50 nghìn tấn búp tươi. Điều kiện khí hậu: Có hai mùa, mùa mưa và khô rõ rệt, lượng mưa ở mùa khô (tháng 2, tháng 3) chỉ chiếm 7- 8% lượng mưa cả năm. Mùa Đông nhiệt độ ở Tây Nguyên ấm hơn ở miền núi phía Bắc, biên độ nhiệt độ ngày đêm lớn (10 - 110C). Điều kiện đất đai: Tây Nguyên có 8 loại đất trong đó chủ yếu là đất feralit đỏ vàng (66% tổng diện tích toàn vùng). Các loại đất ở Tây Nguyên đều có thể trồng chè, tuy nhiên thường bị hạn về mùa khô. Giống chè chủ yếu của vùng chè Tây Nguyên là chè Shan và chè Ấn Độ. Sản phẩm chế biến chủ yếu là chè đen (xuất khẩu) và chè xanh (tiêu thụ trong nước). Ngoài năm vùng chè chủ yếu trên chè còn được trồng ở cả các vùng Duyên Hải miền Trung: Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi. 27
  29. Bài 2. ĐẶC ĐIỂM THỰC VẬT HỌC VÀ ĐẶC TÍNH SINH HỌC CÂY CAO SU I. RỄ Rễ cao su có thể được phân thành các loại như mô tả dưới đây: - Rễ cọc: Dài từ 3-5m xuất phát từ rễ mầm. Trong đất có cấu trúc tốt, rễ cọc có thể đâm sâu đến 10m, làm nhiệm vụ giữ cho cây đứng vững, hút nước và khoáng ở tầng sâu. Rễ cọc khi bị đứt sẽ không có khả năng tái sinh. Rễ này cũng không thể mọc qua tầng đá ong hay xuyên qua mức nước ngầm hay đá mẹ. Khi nhổ cây từ vườn ươm đi trồng chóp rễ cọc thường bị đứt, sau đó tại vết cắt sẽ mọc ra một chùm rễ phụ mọc sâu xuống đất. Tính chịu hạn của cao su một phần là nhờ vào sự phát triển của loại rễ này. Bảng 2.1: Sự tăng trưởng của hệ thống rễ cao su Tuổi cây Chiều sâu rễ cọc Chiều dài rễ ngang khối lượng rễ (cm) (cm) tươi (kg) 8 ngày 5 - - 25 ngày. 15 - - 1 tháng 35 10 - 3 tháng 75 20 - 6 tháng 130 60 - 1 năm 200 180 - 2 năm 250 200 0,9 4 năm 360 350-500 - 6 năm 380 650 43 12 năm 400 - 250 17 năm 450 bq 800 430 24 năm >500 tối đa 1000-1500 700 Nguồn: (OU TTOWLl, 1960) - Rễ bàng (rễ ngang hay rễ hấp thu): là loại rễ mọc ngang trên tầng đất mặt từ 0- 30cm. Loại rễ này nhiều và mập có khả năng vươn xa từ 6-10m, có khả năng phân nhánh nhiều, khả năng tái sinh tốt. Rễ ngang thường lan rộng theo chiều rộng của tán lá. Tuy nhiên, ở những vùng có gió bão thường xuyên như tại Miền Trung và Tây Nguyên bề rộng của rễ ngang thường ngắn hơn so với bề rộng tán trong những năm mới trồng. Trong thời kỳ sinh trưởng cây con và kiến thiết cơ bản rễ ngang làm nhiệm vụ hút nước và dinh dưỡng ở tầng đất mặt, sau đó các rễ này ngày càng phân nhánh tạo 28
  30. nên các rễ tơ tại phần đầu rễ của các rễ ngang. Rễ ngang lúc này chỉ làm giá đỡ và giữ cho cây đứng vững. - Rễ tơ: Là loại rễ đóng vai trò chủ yếu trong việc hút nước và muối khoáng cho cây ở tầng đất mặt. Do rễ ngang chỉ xuất hiện nhiều ở lớp đất mặt nên hầu hết rễ tơ cũng xuất hiện ở lớp đất mặt. Khả năng tái sinh của rễ tơ rất tốt. Rễ này thường có khuynh hướng ăn lên, háo khí. Người ta thấy rằng sự phát triển của rễ tơ và rễ ngang có tính chu kỳ tương ứng với sự phát triển của tượng tầng (Nguyễn Khoa Chi, 1985). Trọng lượng toàn bộ hệ thống rễ chiếm những tỷ lệ thay đổi tuỳ theo giống, tuổi cây, điều kiện ngoại cảnh và chăm sóc. Trọng lượng rễ lúc cây trưởng thành chiếm 15% trọng lượng toàn bộ cây (bảng 2.1). II. THÂN - Hình thái: Cây cao su thuộc loại cây thân gỗ, cao và to. Sự phát triển chiều cao của thân phụ thuộc vào đỉnh sinh trưởng (chồi ngọn). Đỉnh sinh trưởng này hoạt động theo chu kỳ và phụ thuộc nhiều vào điều kiện khí hậu đất đai. Hình 2.1: Dạng thân thực sinh và thân ghép Thân cao su lúc còn non thường có màu tím hoặc xanh tím. Ngày nay, việc nhân giống cao su chủ yếu dưới dạng cây ghép vì thế để phân biệt giữa cây ghép và cây thực sinh trong quá trình sau trồng mới nhằm loại trừ cây thực sinh hoặc để đánh giá chất lượng vườn cây, người ta thường dựa vào một số đặc điểm hình thái để phân biệt. Trên thân cao su nhỏ hơn 2 tháng, cây ghép thì màu xanh thường có nhiều hơn là màu tím và ngược lại trên cây thực sinh màu tím là chủ yếu. Dựa vào những đặc điểm này, người ta thường tiến hành loại bỏ những cây thực sinh trong giai đoạn từ 1-3 tháng sau khi trồng mới (là giai đoạn dễ phân biệt cây thực sinh và cây ghép nhất). Thân cao su sau 1 năm tuổi thường có hình trụ và có chân voi nếu là cây ghép và hình chóp cụt với không chân voi nếu là cây thực sinh, trên cây thực sinh màu tím là chủ yếu. Dựa vào những 29
  31. đặc điểm này, người ta thường tiến hành loại bỏ những cây thực sinh trong giai đoạn từ 1-3 tháng sau khi trồng mới (là giai đoạn dễ phân biệt cây thực sinh và cây ghép nhất). Thân cao su sau 1 năm tuổi thường có hình trụ và có chân voi nếu là cây ghép và hình chóp cụt với không chân voi nếu là cây thực sinh. Người ta cũng vào đặc điểm này để ước lượng năng suất mủ của cao su trên vườn cây. - Giải phẩu cấu tạo: . Khi cắt ngang thân ta có thể thấy rõ ràng 3 phần là gỗ, vỏ và 1 lớp mỏng ngăn cách giữa chúng là tượng tầng (cambium). Hình 2 giới thiệu giải phẩu mặt cắt ngang thân cao su với sự phân chia các lớp trong vỏ một cách tương đối về khoảng cách. Vì mủ cao su chỉ thấy xuất hiện nhiều trong phần vỏ, nên vỏ sẽ được xem xét chi tiết nhằm xác định vị trí cũng như một số đặc tính khác của hệ thống sản sinh ra mủ cao su. Lớp ngoài cùng là lớp mỏng (lớp mộc thiêm) gồm nhiều tế bào chết tạo thành, làm nhiệm vụ bảo vệ các lớp trong. Ở cây dưới 1 năm lớp này thường rất mỏng hoặc không có. Kế tiếp là “lớp da cát thô” với nhiều tế bào có kích thước lớn, có hoạt động sinh lý kém. Chúng gồm chủ yếu là những tế bào nhu mô vỏ, cương mô, hậu mô và thưa thớt những tế bào ống nhựa mủ đã già, mất khả năng sản xuất mủ. Đây là lớp dày nhất trong các lớp được tìm thấy trong vỏ. Hình 2.2: Giải phẩu mặt cắt ngang thân cây cao su Kế tiếp là “lớp da cát tinh” với nhiều tế bào có hoạt động sinh lý mạnh hơn. Phần này cũng khá dày, thành phần các tế bào chiếm chủ yếu vẫn là các tế bào nhu mô vỏ và 30
  32. tế bào đá. Mật độ các tế bào ống mủ có nhiều hơn lớp trước. Tuy nhiên, chúng cũng chỉ chiếm một tỉ lệ không quá 10%. Tiếp theo là “lớp da lụa” có độ dày khá mỏng nhưng ở đây tập trung chủ yếu các tế bào ống nhựa mủ có kích thước nhỏ, hoạt động sinh lý mạnh cùng với nhiều tế bào mạch rây. Ước tính có hơn 90% tế bào ống nhựa mủ cao su được tìm thấy ở đây. Đây cũng chính là vị trí cần tác động vào để có thể thu được mủ cao su. Da lụa là lớp mỏng nhất và độ dày của nó cũng thay đổi tuỳ theo giống, điều kiện canh tác và tuổi cây. Dòng vô tính GT1 có lớp da lụa thường rất mỏng và nằm sát tượng tầng hơn dòng vô tính PB235. Tuổi cây càng lớn lớp da lụa càng dày. Trong điều kiện chăm sóc và ngoại cảnh thuận lợi lớp này cũng dày hơn. Ở cuối của lớp vỏ là “tượng tầng”, là nơi sản sinh ra các tế bào gỗ phía bên trong nó và các tế bào libe trong đó có hệ thống ống mủ cao su. Tượng tầng trên cao su thường có bề dày chừng 1-1,2mm tuỳ theo giống, tuổi cây và mùa vụ. Tượng tầng hoạt động có tính chu kỳ. Có nhiều hoạt động sinh trưởng phát triển của cây có liên quan đến đặc tính chu kỳ này và cũng dựa vào những đặc tính này để bóc vỏ khi ghép cây, hay phòng trị bệnh cho cây.Thân cây cao su non thường rất dễ mẫn cảm với bệnh nấm, đặc biệt là nấm gây bệnh héo đen đuôi lá và bệnh phấn trắng - Hệ thống ống mủ cao su và những đặc tính của mủ cao su (Latex) + Hệ thống ống mủ cao su: Về nguồn gốc các ống nhựa mủ nguyên thủy có thể thấy được ở trụ dưới lá mầm và các tế bào lá mầm của phôi trong hạt đã trưởng thành dưới dạng những “mầm nhựa mủ”. Các mầm này được xếp thành những dãy dọc theo nhau. Nhưng các đầu mút của chúng vẫn còn nguyên vẹn. Trong các giai đoạn đầu của thời kỳ nảy mầm các đầu mút bị phá vở và các dãy tế bào chuyển nhanh thành mạch. Tuy nhiên, vì cây phát triển từ phôi nên các mạch được kéo dài bằng hiện tượng phân hóa của các tế bào phân sinh thành các yếu tố ống nhựa mủ (Lê Minh Xuân, 1982). Vì vậy, các ống nhựa mủ thường phân hóa theo kiểu hướng ngọn. Ở các phần cây mới được tạo ra chúng được kéo dài không chỉ trong phạm vi trục mà còn ở trong lá và sau này còn ở trong hoa và quả nữa. Vì vậy, có thể nói hệ thống nhựa mủ cao su là một hệ thống cấp hai, phát triển trong phloem cấp hai. Ống nhựa mủ cao su được xếp vào loại kép phân đoạn, thành mạng (tức gồm nhiều tế bào nhựa mủ nối liền nhau và phân nhánh) nó có trong tất cả các phần vỏ của các bộ phận cây. Trong đó ở vỏ thân có nhiều ống mủ nhất. Chúng nằm xen lẫn giữa hệ thống mạch rây. Đường kính ống nhựa mủ được tìm thấy trong khoảng 20-50m (1m = 10-6 mm). Sự phân hóa các tế bào ống nhựa mủ xuất phát từ tượng tầng hoạt động có tính chu kỳ cho nên các ống mủ thường xuất hiện thành từng lớp trên vỏ thân kế tiếp nhau và được ngăn cách giữa các lớp liber. Những lớp ống mủ như thế được gọi là “đai ống mủ” hay “vòng ống mủ”. Giữa các ống mủ trên cùng một đai thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, còn các đai ống mủ ít có liên hệ với nhau hơn. Số lượng vòng 31
  33. ống nhựa mủ có khác biệt lớn giữa cây thực sinh và những dòng vô tính. Kết quả thí nghiệm trên nhiều dòng vô tính và cây thực sinh đã cho thấy rằng ở cây 8 năm rưởi tại độ cao 65cm có 25,6 vòng tính bình quân cho 112 dòng vô tính và chỉ có 11,25 vòng ở cây thực sinh (Nguyễn Thị Huệ, 1997). Các ống mủ trên cùng một đai thường xếp song song với nhau và lệch so với trục đứng của thân một góc từ 30 - 50 từ trái sang phải so với trục thẳng đứng (Nguyễn Khoa Chi, 1985) hoặc từ 20 - 70 (Nguyễn Thị Huệ, 1997). Vì vậy, người ta thường cạo mủ theo hướng ngược lại để có thể cắt được nhiều ống nhựa mủ nhất. Các ống mủ thường xếp không liên tục từ gốc cây đến nơi phân cành. Càng xuống thấp gần gốc số lượng ống mủ càng tăng, nhất là trường hợp cây thực sinh (bảng 2.2). Bảng 2.2: Số lượng ống mủ theo chiều cao cây 12cm 50cm 100cm Chiều cao Số lượng % Số % Số % lượng lượng Cây ghép 20 100 19 95 18 90 Thực sinh 15 75 11 55 9 45 Số lượng ống mủ trong vỏ tái sinh cũng thường cao hơn trong vỏ nguyên sinh, mặc dù vỏ tái sinh có độ dày mỏng hơn (Nguyễn Thị Huệ, 1997). Ở cây cao su tơ ống mủ thường tập trung sát với tượng tầng hơn cây già. Gomez (1972) cho thấy khi cạo mủ ở cây tơ cách tượng tầng 1mm thì chỉ cạo 60% ống nhựa mủ. Trong khi với độ sâu cạo tương tự đối với cây già 32 tuổi lượng ống mủ được cắt lên đến 87-93%. Các vòng ống mủ nằm cạnh nhau thường có khoảng cách trung bình 200m. Trong ống nhựa mủ chứa chủ yếu là mủ cao su (latex). Các ống nhựa mủ không thể tự tái sinh ra tế bào ống nhựa mủ mới mà chúng thường được bổ sung từ mầm mới từ tượng tầng. Ống nhựa mủ thường giải phóng nhựa mủ ra khỏi cây khi chúng bị cắt, dòng nhựa mủ là một dòng áp lực (Bornner và Galston, 1947). Ở cây còn nguyên vẹn mủ là một dòng áp lực ở trạng thái căng phồng đồng thời cân bằng thẩm thấu với các tế bào mô mềm chung quanh. Khi các ống nhựa mủ bị vở một gradien trương được thành lập và có dòng chảy về phía vết cắt nơi độ trương giảm xuống bằng không (Spencer, 1939). Cuối cùng dòng chảy dừng lại và sau đó tính trương lại được phục hồi. + Đặc tính của mủ cao su (latex): Chử latex có nghĩa là sữa vì nó bắt nguồn từ tiếng la-tinh chử “Lac”. Mủ cao su thường có màu trắng sữa. Nó là một dung dịch keo âm, trong đó hạt cao su là hạt keo chủ yếu điện tích âm. Dung dịch keo âm này tồn tại ở trạng thái sol khi pH của nó từ 6,7-7, khi pH giảm dưới 7 nó sẽ chuyển thành dạng gel (nghĩa là các hạt cao su sẽ co cụm lại với nhau). Dựa vào đặc tính này để người ta tách cao su ra khỏi dung dịch latex. Tuỳ theo nồng độ mủ khô (DRC- Dry Rubber 32
  34. Content ) từ 25% đến 40% mà tỷ trọng của latex có thể thay đổi từ 0,991 xuống còn 0,974, một cách tương ứng. Thành phần latex thường thay đổi nhiều tuỳ theo tuổi cây, giống, cường độ khai thác và vị trí khai thác (Đỗ Kim Thành et al., 2001). Sau khi được ly tâm latex thấy có hai phần: Phần lỏng (serum) gồm có nước là chủ yếu (60-70% tổng khối lượng của latex), ngoài ra còn có đường sacaro, Mg2+, Ca2+, Mn2 +, thiols Phần đặc gồm nhiều loại hạt mang điện tích âm có kích thước khác nhau như hạt cao su, hạt lutoid, hạt frey wyssiling nhưng chủ yếu vẫn là hạt cao su. Hạt cao su: Có kích thước nhỏ và hình dáng khác nhau, có hình cầu nhỏ hoặc lớn hoặc hình quả lê. Nó chiếm từ 25-40% tổng trọng lượng của latex. Hạt cao su có đường kính bình quân 0,75m, và giao động trong khoảng 0,5-3m. Hạt có cấu trúc đồng nhất và được bao bọc bởi một lớp lipo-protein và tocotrienol, chính nhờ lớp vỏ này mà hạt cao su mang điện tích âm (Cockbain, 1963). Bên trong lớp vỏ này là hydrat carbon mà là thành phần chính được sử dụng làm nguyên liệu công nghiệp. Hydrat-carbon có công thức (C5 H8)n, có cấu tạo Cis 1-4 polyizopren. Tóm lại, thành phần của hạt cao su có thể bao gồm 94-95% hyrat carbon, 2,5% aceton, 2,5% protein và 0,5% chất bay hơi. Hạt cao su được tạo nên từ đường sacaro mà là sản phẩm của quá trình quang tổng hợp từ lá chuyển xuống trong tế bào ống mủ. Hạt lutoid: Trong phần đặc còn có hạt lutoid có kích thước lớn từ 2-10m, với thành phần rất ít nhưng lại đóng vai trò quan trọng trong việc chống lại sự chảy mủ ra bên ngoài (xem phần cơ chế bít mạch mủ). Nó có cấu tạo tương tự không bào, bên trong nó có chứa dung dịch mang tính acid có pH là 5,5. Hạt FW: Cuối cùng trong phần đặc là hạt FW được tìm thấy từ năm 1929, có màu vàng hay vàng cam tuỳ theo sự hiện diện của chất caroten. Hạt được cấu tạo chủ yếu bằng chất lipid. Hạt này thường hợp lại thành từng đám và được bao bọc bằng một màng chung quanh. Đám có hình cầu, đường kính 4-6m, dễ biến dạng nhưng vững chắc hơn hạt lutoid. Theo Borner và Galston (1947) cho rằng các tiểu thể nhựa mủ được tạo thành ngay trong ống nhựa mủ hoặc trong tế bào chất của các lạp. Sau khi ra khỏi cây, các tiểu thể nhựa mủ (hạt cao su và các hạt khác) theo thời gian sẽ cụm lại với nhau. Điều này xảy ra là do các vi khuẩn lên men đã acid hóa môi trường latex, pH của nó giảm xuống, dung dịch keo chuyển trạng thái từ sol sang gel. + Chức năng của nhựa mủ trong cơ thể cây Hevea brasiliensis: Quan điểm thông thường cho rằng các ống nhựa mủ có liên quan đến quá trình dẫn truyền các chất dinh dưỡng. Dẫn chứng là chúng có thành phần dinh dưỡng cao và cách sắp xếp của chúng trong cơ thể thực vật. Tuy nhiên, chưa thấy có sự vận chuyển thực sự nào của 33
  35. các chất ở trong ống nhựa mủ mà chỉ có sự vận chuyển cục bộ và từng cơn. Quan điểm khác lại cho rằng các ống nhựa mủ chỉ chứa các yếu tố dự trữ dinh dưỡng. Nhưng kiểm nghiệm thực tế lại cho thấy các chất dinh dưỡng trong nhựa mủ không dễ dàng được huy động khi cây bị tước đoạt hydrat-carbon. Một quan điểm nữa cho rằng nhựa mủ dể dàng hấp thu được nước từ các mô lân cận nên có thể coi nhựa mủ đóng vai trò điều hòa cân bằng nước trong cây. Nó cũng được mô tả như là tác nhân của việc vận chuyển oxy hoặc như là một chất để cây sử dụng bảo vệ và chống lại động vật. Quan điểm giải thích được nhiều ngườì chấp nhận nhất là chúng tạo ra một hệ thống bài tiết. Các ống nhựa mủ thường tích lủy nhiều chất thường được công nhận là chất thuộc hệ thống bài tiết và những chất đó thường nhiều hơn các chất dinh dưỡng trong nhựa mủ. Đó là Cơ terpen (cao su và gôm). Một khi chúng được tạo ra trong các tế bào ống mủ người ta không thấy có sự sử dụng lại nó (Benedict, 1949). Vì vậy, ống nhựa mủ được xếp vào cấu trúc dường như là thích hợp nhất. Đồng thời với sự có mặt của các chất khác nhau chứng tỏ ống nhựa mủ và sự đa dạng trong thành phần của nó có thể có nhiều hơn một chức năng. III. LÁ Lá cao su là loại lá kép lông chim mọc cách, mỗi lá gồm ba lá chét. Khi trưởng thành lá có màu xanh đậm ở mặt trên và xanh nhạt ở mặt dưới. Phần cuối phiến lá chét, nơi gắn vào cuống lá chính có một tuyến mật mà chỉ chứa mật trong giai đoạn lá non hoặc vừa ổn định. Màu sắc, hình dáng và kích thước của lá thay đổi theo giống. Giống GT1 lá có màu xanh đậm, phiến lá dày; giống PB235 lá có màu xanh nhạt phiến lá mỏng, giống RRIM600 lá có màu xanh hơi vàng v.v. Số lượng khí khổng ở mặt dưới lá thay đổi từ 22.000-38.000 cái/cm2 cũng tuỳ theo giống.Các mạch mủ trong lá nằm trong lớp libe, khi lá ở mức độ trưởng thành tối đa các mạch mủ tập trung lại ở phần cuối lá chét làm ngăn chặn việc vận chuyển mủ nước và các chất quang hợp từ lá xuống thân cây. Lá được hình thành do sự phân hóa của đỉnh sinh trưởng. Quá trình phát triển lá có thể chia thành những giai đoạn sau: Đầu tiên mầm ngủ bắt đầu mọc với một đoạn thân không lớn hơn 1cm, sau đó nó lớn dần lên và có màu tím. Lá lúc này nhỏ, mềm, có màu tím và mọc rủ xuống. Tiếp theo thân lại vươn ra thêm một đoạn và trở nên xanh hơn, lá phát triển rộng và dài hơn, có màu xanh. Tuy nhiên, ở giai đoạn này lá vẫn mọc rủ. Trong suốt giai đoạn từ khi hình thành đến lúc này nếu gặp phải điều kiện ẩm ướt và sương mù rất dễ bị nấm bệnh tấn công. Sau cùng của quá trình này là sự ổn định lá là giai đoạn tầng lá ổn định (hình 3). Lá mọc ngang, cứng và có màu xanh đậm, rất ít khi bị nhiễm bệnh do nấm. Tương ứng với thời kỳ tầng lá ổn định tượng tầng cũng ngừng hoạt động, kết thúc một chu kỳ hoạt động. Dựa vào đặc tính này để người ta tiến 34
  36. hành ghép cây. Thời gian hình thành 1 tầng lá có thể kéo dài từ 25-50 ngày tuỳ thuộc rất nhiều vào điều kiện khí hậu (ánh sáng và nhiệt độ). Hình 2. 3: Sự phát triển một tầng lá cao su Những nghiên cứu tại Malaysia cho thấy hiện tượng quang hợp ở lá cao su chỉ bắt đầu khi lá đã phát triển được 1 tuần. Cường độ quang hợp tăng dần đến mức tối đa khi lá được 25-30 ngày tuổi và sau đó giảm dần để đạt đến mức ổn định khi lá được 50-60 ngày tuổi. Chỉ số diện tích lá (dt lá/đ.v dt đất) gia tăng nhanh để cây đạt được mức tối đa vào lúc cây được 50-60 tháng (là lúc tán cây che phủ toàn bộ mặt đất) và kéo dài cho đến tháng thứ 81, sau đó giảm dần Lá cao su thường phát triển thành tầng trên thân khi chưa phân cành hoặc trên cành. Sau 3-4 năm sinh trưởng cao su thường biểu hiện đặc tính rụng lá theo mùa (rụng lá sinh lý), thường nhất là vào dịp đầu năm, từ tháng 1 - 4 tùy từng nơi. Sau khi rụng lá cao su sẽ cho lá mới và hoa gần như đồng thời. Thời gian thay lá kéo dài nhanh hay chậm tùy thuộc rất nhiều vào điều kiện ngoại cảnh. Tại Đông Nam Bộ thời gian thay lá trong khoảng 1 tháng, trong khi tại Bắc miền Trung có thời tiết lạnh và mây mù thời kỳ thay lá có thể lên đến 3 tháng rưởi. Trong suốt thời kỳ thay lá, nếu là vườn cây kinh doanh (đã khai thác mủ) nhất thiết không nên cạo mủ vì để cây tập trung dinh dưỡng tạo ra bộ lá mới mà sẽ tồn tại trong suốt một năm. Ở những nơi không có mùa khô rõ rệt sẽ xảy ra hiện tượng rụng lá rải rác. Điều này đã ảnh hưởng lớn đến sản lượng mủ. Hiện tượng này thường thấy ở Malaysia, châu Phi và Bắc miền Trung. IV. HOA, QUẢ VÀ HẠT. 1. Hoa: Hoa cao su có màu vàng và có hương, chúng mọc thành chùm ở nách lá. Nó là 35
  37. loại hoa đơn tính đồng chu, với tỉ lệ 1 hoa cái /60 hoa đực. Hoa đực thường nở trước hoa cái một thời gian nên phần lớn hoa thụ tinh bằng giao phấn chéo thông qua trung gian côn trùng và gió. Do đặc tính này mà cây cao su đời sau có nhiều biến động về di truyền có liên quan trực tiếp đến năng suất mủ. Hoa cao su ra lần đầu tiên trên cây 4-5 năm tuổi. Điều kiện ngoại cảnh càng khắc nghiệt cây càng ra hoa sớm. Nhiều vùng trồng cao su tại Đức Cơ (Gia Lai) hay Dốc Miếu (Quảng Trị) hoa cao su ra lần đầu thường sớm hơn cao su tại các vùng truyền thống (Đông Nam Bộ). Tuy nhiên, sự thụ phấn trên cao su xảy ra với tỉ lệ tương đối thấp. Kết quả nghiên cứu tại Lai Khê cho thấy tỉ lệ thụ quả là 8,46% khi có trợ giúp kích thích sinh trưởng (Trần Thị Thuý Hoa et al., 2001). Kết quả nghiên cứu tai Puerto Rico cho thấy những tỉ lệ thấp hơn là 5% và tại Malaysia tỉ lệ này là 0,2-1,6% (trích từ Nguyễn Thị Huệ, 1997). Đây là một trở ngại lớn cho công tác chọn tạo giống. Hoa đực nhỏ hơn hoa cái, dài khoảng 5mm, có hình chuông và nhọn hơn hoa cái. Hoa đực chỉ có 5 cánh đài, không có cánh tràng, có 10 nhị đực nhỏ không cuống, xếp thành hai hàng, mỗi hàng 5 nhị. Mỗi hoa đực có thể sản xuất 1000 hạt phấn. Hạt phấn hình tam giác có đường kính 25-30 m có vách dày 2-3m. Hạt phấn rất mẫn cảm với môi trường ẩm ướt nên mưa có thể làm hư hại hạt phấn. Hoa cái mọc riêng lẻ từng cái ở đầu cành, có kích thước bình quân 8 mm chiều dài. Hoa cái cũng không có cánh tràng chỉ có 5 cánh đài. Hình 2.4: Hoa, lá cao su. Cấu tạo gồm có một bầu noã n với 3 tâ m b ì, mỗ i tâ m b ì là một buồ ng nhỏ đóngkín chứa 1 noãn, trong bầu noãn có dấu vết của 10 nhị đực bị lép. 36
  38. Vào thời điểm hoa chín, nuốm hoa có mà u và ng trắng, ẩ m ướt, sau đó 4 ngà y nuốm chuyển màu nâ u đỏ và k hô đi(hình2.4). 2. Q uả và hạ t Sau khi thụ phấn chừng 4-5 tháng thì quả sẽ chín. Quả cao su thuộc loại quả nang (vỏ quả khô có nhiều mảnh) có đường kính từ 3-5cm. Quả có 3 buồng, mỗi buồng có một hạt. Khi chín quả nứt theo chiều dọc bắn tung hạt ra ngoài. Hạt có thể văng xa đến 15m. Mùa quả chín ở Miền Nam và Tây Nguyên vào tháng 6-7, vụ phụ vào tháng 10- 11. Trong khi ở khu vực Bắc miền Trung lại rơi vào cuối năm hay đầu năm sau. Việc thu hoạch hạt phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện nắng ráo, để vỏ quả có thể khô và quăn lại sau đó bắn hạt tung xuống đất. Quả cao su sau khi hình thành và phát triển được 12 tuần có thể đạt được kích thước lớn nhất, 16 tuần sau vỏ quả có thể hoá gỗ và khoảng 20 tuần thì chín. Hạt có chiều dài 2-3,5cm, trọng lượng 3,5-6g tươi (vừa rụng). Một kg hạt trung bình có 200-250 hạt. Bên ngoài hạt là một lớp vỏ cứng láng. Hạt có dạng gần tròn hay bầu dục với mặt lưng láng và mặt bụng hơi phẳng hơn, tại đây có một lổ nhỏ để giúp cho cây hút nước khi nảy mầm. Nhìn ngoài hạt cao su gần giống trứng cút, hình thái bên ngoài của vỏ hạt là đặc trưng của giống. Bên trong hạt cấu tạo bởi phôi và nội nhủ. Nội nhủ chiếm phần lớn thể tích của hạt và chứa chủ yếu là chất béo, đạm và nước. Do hạt thường chín sinh lý trước khi rụng khá lâu nên sau khi rụng hạt rất dể mất sức nảy mầm, do hiện tượng oxy hóa chất béo và mất nước xảy ra nhanh chóng khi chưa gặp điều kiện thuận lợi cho việc nảy mầm. Vì thế mà hạt thường được gieo ngay sau khi thu từ vườn cây để khắc phục hiện tượng trên. Bài 3. ĐẶC ĐIỂM SINH TRƯỞNG PHÁT TRIỂN VÀ YÊU CẦU SINH THÁI CỦA CÂY CAO SU. I. CÁC GIAI ĐOẠN SINH TRƯỞNG CỦA CÂY CAO SU Cây cao su sau một thời gian trồng từ 3-5 năm tuỳ theo giống, loại cây con và điều kiện ngoại cảnh chúng có thể ra hoa lần đầu và cứ như thế hàng năm cây có thể cho hoa từ 1 đến 2 lần. Tuy nhiên, trong sản xuất vì sản phẩm chính của cao su là mủ nên người trồng thường không quan tâm nhiều đến sự phân loại theo quá trình phát dục của cây mà thường căn cứ vào các giai đoạn cho sản lượng mủ khác nhau của cây và từ đó nắm bắt các đặc tính sinh học của chúng trong từng giai đoạn để thuận tiện cho quản lý sản xuất. Trong suốt chu kỳ trồng trọt kinh doanh cây cao su, nhiều tác giả đã phân chia quá trình này thành 5 giai đoạn gồm: giai đoạn vườn ươm, giai đoạn kiến thiết cơ bản (KTCB), giai đoạn khai thác cao su non, giai đoạn khai thác cao su trung niên và giai đoạn khai thác cao su già. Khi cây cao su tỏ ra năng suất mủ kém, không còn hiệu quả kinh tế nó thường được cưa đốn để phục vụ cho mục đích gỗ-củi (mặc dù đời sống của cây có thể kéo dài hơn rất nhiều). 37
  39. Vào thời điểm hoa chín, nuốm hoa có mà u và ng trắng, ẩ m ướt, sau đó 4 ngà y nuốm chuyển màu nâ u đỏ và k hô đi(hình2.4). 2. Q uả và hạ t Sau khi thụ phấn chừng 4-5 tháng thì quả sẽ chín. Quả cao su thuộc loại quả nang (vỏ quả khô có nhiều mảnh) có đường kính từ 3-5cm. Quả có 3 buồng, mỗi buồng có một hạt. Khi chín quả nứt theo chiều dọc bắn tung hạt ra ngoài. Hạt có thể văng xa đến 15m. Mùa quả chín ở Miền Nam và Tây Nguyên vào tháng 6-7, vụ phụ vào tháng 10- 11. Trong khi ở khu vực Bắc miền Trung lại rơi vào cuối năm hay đầu năm sau. Việc thu hoạch hạt phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện nắng ráo, để vỏ quả có thể khô và quăn lại sau đó bắn hạt tung xuống đất. Quả cao su sau khi hình thành và phát triển được 12 tuần có thể đạt được kích thước lớn nhất, 16 tuần sau vỏ quả có thể hoá gỗ và khoảng 20 tuần thì chín. Hạt có chiều dài 2-3,5cm, trọng lượng 3,5-6g tươi (vừa rụng). Một kg hạt trung bình có 200-250 hạt. Bên ngoài hạt là một lớp vỏ cứng láng. Hạt có dạng gần tròn hay bầu dục với mặt lưng láng và mặt bụng hơi phẳng hơn, tại đây có một lổ nhỏ để giúp cho cây hút nước khi nảy mầm. Nhìn ngoài hạt cao su gần giống trứng cút, hình thái bên ngoài của vỏ hạt là đặc trưng của giống. Bên trong hạt cấu tạo bởi phôi và nội nhủ. Nội nhủ chiếm phần lớn thể tích của hạt và chứa chủ yếu là chất béo, đạm và nước. Do hạt thường chín sinh lý trước khi rụng khá lâu nên sau khi rụng hạt rất dể mất sức nảy mầm, do hiện tượng oxy hóa chất béo và mất nước xảy ra nhanh chóng khi chưa gặp điều kiện thuận lợi cho việc nảy mầm. Vì thế mà hạt thường được gieo ngay sau khi thu từ vườn cây để khắc phục hiện tượng trên. Bài 3. ĐẶC ĐIỂM SINH TRƯỞNG PHÁT TRIỂN VÀ YÊU CẦU SINH THÁI CỦA CÂY CAO SU. I. CÁC GIAI ĐOẠN SINH TRƯỞNG CỦA CÂY CAO SU Cây cao su sau một thời gian trồng từ 3-5 năm tuỳ theo giống, loại cây con và điều kiện ngoại cảnh chúng có thể ra hoa lần đầu và cứ như thế hàng năm cây có thể cho hoa từ 1 đến 2 lần. Tuy nhiên, trong sản xuất vì sản phẩm chính của cao su là mủ nên người trồng thường không quan tâm nhiều đến sự phân loại theo quá trình phát dục của cây mà thường căn cứ vào các giai đoạn cho sản lượng mủ khác nhau của cây và từ đó nắm bắt các đặc tính sinh học của chúng trong từng giai đoạn để thuận tiện cho quản lý sản xuất. Trong suốt chu kỳ trồng trọt kinh doanh cây cao su, nhiều tác giả đã phân chia quá trình này thành 5 giai đoạn gồm: giai đoạn vườn ươm, giai đoạn kiến thiết cơ bản (KTCB), giai đoạn khai thác cao su non, giai đoạn khai thác cao su trung niên và giai đoạn khai thác cao su già. Khi cây cao su tỏ ra năng suất mủ kém, không còn hiệu quả kinh tế nó thường được cưa đốn để phục vụ cho mục đích gỗ-củi (mặc dù đời sống của cây có thể kéo dài hơn rất nhiều). 37
  40. 1. Giai đoạn cây con trong vườn ươm Giai đoạn này bắt đầu từ khi gieo hạt cho đến lúc xuất khỏi vườn, có thể kéo dài từ 6 tháng (bầu non không tầng lá) đến 24 tháng (stump lở, stump bầu ). Đặc điểm của giai đoạn này là cây con tăng trưởng theo chiều cao, sự sinh trưởng các tầng lá theo chu kỳ và mọc ra trên thân chính. Đường kính thân tăng trưởng chậm hơn là chiều cao rất nhiều. Trong vòng 20-30 ngày cây có thể tăng cao 10-15cm trong điều kiện thuận lợi. Bình quân mổi tháng cây có thể cho thêm một tầng lá mới. Trong điều kiện bị lạnh (<180C), khô hạn, hay bị bệnh lá thì tốc độ tăng trưởng chiều cao, số tầng lá và đường kính thân bị chậm lại rất nhiều. Đây là khó khăn cho việc sản xuất cây con trong những vùng có mùa đông lạnh. Cây con trong giai đoạn này cần được chăm sóc cẩn thận với đầy đủ dinh dưỡng và nước để nhanh chóng đạt được đường kính lớn đủ kích thước để ghép và để dự trử dinh dưỡng trong thân nhằm sinh trưởng mạnh sau khi xuất vườn và trồng mới. Tốc độ phát triển tầng lá và đường kính thân được xem là hai chỉ tiêu quan trọng để xác định sức sinh trưởng của cây con trong thời kỳ này. 2. Giai đoạn kiến thiết cơ bản Giai đoạn này được tính từ khi cây con được trồng ngoài đại trà cho đến lúc bắt đầu khai thác mủ. Giai đoạn KTCB có thể kéo dài 10 năm hoặc chỉ ngắn có 6 năm tuỳ thuộc vào giống, loại cây con đem trồng, điều kiện đất đai, thời tiết khí hậu và chế độ chăm sóc. Nhiều giống có tốc dộ tăng trưởng nhanh như PB235, RRIV2 (LH82/156), RRIV4 (LH82/182).v.v. trong điều kiện thuận lợi có thể thu mủ sau 6 năm trồng. Ngược lại những giống có tốc độ tăng trưởng trung bình hoặc kém như GT1, PR261 hay RRIM600. Những cây con có thời gian dài trong vườn ươm (trên 18 tháng) có khả năng tăng trưởng nhanh hơn những cây con dưới 12 tháng trong vườn ươm, vì thế có thể rút ngắn thời gian KTCB đến 6 tháng. Những vùng có đất đai kém màu mỡ, khí hậu khắc nghiệt (lạnh và thiếu ánh sáng, gió mạnh) cây thường sinh trưởng chậm hơn cao su trồng trong Cơ vùng thuận lợi rất nhiều đặc biệt trong giai đoạn đầu (trồng mới). Cao su KTCB tại Cơ vùng Bắc Miền Trung thường chỉ cho tăng trưởng mạnh ở năm thứ 3-4 sau khi trồng mới. Vì thế, thời kỳ này có thể kéo dài thêm 1-3 năm. Chế độ bón phân và làm cỏ tốt có thể rút ngắn khoảng 1 năm. Sau một năm tuổi cao su có thể phân cành, tuy nhiên thời kỳ rộ nhất vẫn là 3 năm sau trồng. Trong năm, cao su thường phân cành trong những tháng có biên độ nhiệt ngày và đêm lớn, ở nhiều vùng trong cả nước cao su thường phân cành mạnh mẽ từ tháng 1-4. Cành cao su thường gây cản trở cho việc cạo mủ khi chúng xuất hiện trong khoảng từ 0-3m tính từ mặt đất. Vì thế, nó thường được tỉa loại ngay khi vừa thấy xuất hiện trong đoạn thân từ 0-3m. Trong thời kỳ tạo tán rộ nhiều giống cao su như RRIM600 rất mẩn cảm với bệnh nấm hồng rất nguy hiểm. Vào giữa hoặc cuối thời kỳ KTCB là giai đoạn cây cây su bắt đầu thành thục có thể cho hoa và quả (khoảng 5 năm 38
  41. sau khi trồng). Cây cao su vào lúc này sinh trưởng khoẻ về đường kính thân, cành lá phát triển mạnh về tổng diện tích lá và số lượng lá. Tuy nhiên, kích thước lá có nhỏ lại. Trong khi vào đầu thời kỳ KTCB cây thường phát triển mạnh về chiều cao hơn, tốc độ ra lá chậm hơn, số lượng lá cũng ít hơn rất nhiều nhưng diện tích mỗi lá lại lớn hơn. Phần dưới mặt đất có sự phát triển chậm trong 1-2 năm đầu nhưng sau đó sinh trưởng rất mạnh. Khi cây cao su giao tán, các rễ tơ có thể được nhìn thấy ở giữa hai hàng cao su (3-5 năm sau trồng). Nhu cầu dinh dưỡng của cây trong thời kỳ này đặc biệt cần thiết, vì nếu thiếu dinh dưỡng trong thời kỳ này cây sẽ cho mủ kém và sinh trưởng kém. Hơn thế nữa, việc bù đắp những thiếu hụt dinh dưỡng của cây khi cây đã bước vào giai đoạn kinh doanh thường không mang lại hiệu quả cao và tốn kém hơn nhiều. Cây cao su ở giai đoạn này có thể tự cân đối nhu cầu nước của mình trong điều kiện mùa khô kéo dài 4-5 tháng. Vì thế, không cần phải cung cấp nước cho cây như đối với nhiều cây công nghiệp dài ngày khác như tiêu và cà-phê. Thời kỳ KTCB là một thời kỳ dài mà nhà nông chỉ đầu tư chứ không thu lợi từ cây cao su. Vì thế, việc tìm mọi cách để rút ngắn giai đoạn này là hướng quan trọng trong việc phát triển diện tích cao su tại nước ta hiện nay. Những giải pháp về giống và cây con được xem là then chốt nhất có thể đáp ứng những đòi hỏi trên. 3. Giai đoạn khai thác mủ (hay G.Đ kinh doanh) Đây là giai đoạn dài nhất, bắt đầu từ khi cây có thể khai thác mủ đến lúc cây bị thanh lý (loại bỏ). Căn cứ vào sự biến thiên về năng suất hằng năm người ta chia thành 3 thời kỳ là: thời kỳ khai thác cao su non (tơ- KTCSN), thời kỳ khai thác cao su trung niên (KTCSTN) và thời kỳ khai thác cao su già (KTCSG). +Thời kỳ KTCSN: Cây vẫn tiếp tục sinh trưởng mạnh về số lượng cành nhánh, chu vi thân (vanh), độ dày vỏ, sản lượng mủ tăng nhanh theo năm. Tốc độ tăng sãn lượng hằng năm phụ thuộc nhiều vào giống, chế độ khai thác và chăm sóc. Thời kỳ này kéo dài chừng 10-12 năm. Nhiều giống có thể đạt đến năng suất cao chỉ trong vòng vài năm từ khi khai thác như giống PB235, RRIV1 trong khi GT1 lại cần đến 6-7 năm để có thể đạt được năng suất cao. Đặc tính cho năng suất cao chậm làm cho người trồng dể nản lòng và hiển nhiên là kém hiệu quả kinh tế. Do vỏ của thân trong thời kỳ này còn mỏng, đang tăng trưởng mạnh nên việc khai thác mủ cần có tay nghề cao để tránh phạm vào thân. Vườn cây trong giai đoạn này thường trở nên âm u và ẩm thấp nên rất thuận lợi cho nhiều loại bệnh lá phát triển mạnh thành dịch, đặc biệt là bệnh Phấn Trắng (Oidium hevea) và bệnh rụng lá mùa mưa (Phytophtora palmivora và P. botrioza). Bệnh thường xuất hiện nhiều trong mùa mưa tại khu vực Bắc Miền Trung làm thiệt hại nặng nề đến sản lượng mủ. + Thời kỳ khai thác cao su trung niên (KTCSTN): Khi năng suất không còn tăng thêm nữa và giử vững mức năng suất đó theo năm thì cây cao su đã bước vào thời kỳ CSTN. Tuỳ theo chế độ chăm sóc, khai thác trước đó, hiện tại và giống mà thời kỳ 39
  42. này dài hay ngắn. Nếu vườn cây không được chăm bón tốt trong giai đoạn KTCB và KTCSN khi cây bước vào thời kỳ này chỉ duy trì năng suất cao trong một khoảng thời gian ngắn và sau đó giảm năng suất. Việc khai thác thái quá trong giai đoạn trước cũng có thể làm cho tỷ lệ cây khô mủ nhiều hơn xảy ra trong thời kỳ này. Lớp vỏ tái sinh trên đoạn thân khai thác bị thương tổn nhiều sẽ là trở ngại lớn cho việc khai thác mủ trong thời kỳ này. + Thời kỳ khai thác cao su già (KTCSG): Khi vườn cây có hiện tượng giảm năng suất trong nhiều năm liền thì vườn cây đã bước vào thời kỳ này. Tốc độ giảm năng suất nhanh hay chậm còn tuỳ vào giống và chế độ chăm sóc và khai thác trước đó. Vườn cây lúc này thường rất âm u, ẩm độ không khí cao nên để mẩn cảm với bệnh rụng lá mùa mưa, có thể làm giảm sản lượng nhanh chóng. III. YÊU CẦU NGOẠI CẢNH CỦA CÂY CAO SU. 1. Các yếu tố khí hậu: Cao su là cây lâu năm vì thế nó thường phải trải qua tất cả những ảnh hưởng về thời tiết xảy ra trong suốt năm và trong nhiều năm, khác với cây ngắn ngày mà có thể tránh được những giai đoạn thời tiết khắc nghiệt trong năm. Mặt khác việc đầu tư ban đầu (giai đoạn kiến thiết cơ bản: KTCB) cho cao su thường tốn nhiều thời gian và vốn. Vì thế, cần có sự xem xét cẩn thận các yếu tố khí hậu trước khi quyết định trồng loại cây dài ngày này để có thể thu được kết quả tốt đẹp. Vùng xuất xứ cây cao su hoang dại (Amazone) là một vùng nhiệt đới ẩm ướt, lượng mưa trên 2000mm/năm, có nhiệt độ cao và đều quanh năm. Mùa khô kéo dài từ 3-4 tháng, đất thuộc loại đất sét tương đối giàu chất dinh dưỡng, pH đất từ 4,5-5,5 với tầng đất canh tác sâu, thoát nước trung bình. Tuy nhiên có sự khác biệt ít nhiều trong những vùng trồng cao su hiện nay. + Nhiệt độ: Nhiệt độ được xem là yếu tố khí hậu quan trọng, tiên quyết nhất vì nó qui định giới hạn tổng quát vùng trồng. Cao su là cây trồng nhiệt đới điển hình nên thường sinh trưởng bình thường trong khoảng nhiệt độ từ 22-300C, và khoảng nhiệt độ tối thích là 26-280C. Nhiệt độ thấp sẽ ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây và gây trở ngại cho quá trình chảy mủ khi khai thác. Ở nhiệt độ nhỏ hơn 180C sẽ ảnh hưởng đến sức nảy mầm của hạt một cách rõ rệt do làm giảm khả năng hút nước của hạt giống, tốc độ sinh trưởng của cây cũng chậm lại, cụ thể là chậm tăng chu vi thân, kéo dài thời kỳ hình thành 1 tầng lá, mủ sẽ bị chảy dai khi khai thác. Nếu nhiệt độ thấp hơn 100C hạt giống sẽ mất sức nảy mầm hoàn toàn, nhiệt độ này kéo dài còn gây rối loạn hoạt động trao đôi chất và cây sẽ chết. Ở nhiệt độ thấp hơn 50C cây sẽ bị nứt vỏ chảy mủ hàng loạt đỉnh sinh trưởng bị khô và cây chết. Tuy là cây nhiệt đới nhưng nếu nhiệt độ lớn hơn 300C cũng gây một số trở ngại cho cây như hiện tượng mủ chóng đông khi khai thác, làm giảm năng suất mủ cho lần khai thác đó. Theo Nguyễn Năng et al., (2001) điều kiện nhiệt độ có tương quan nghịch với sản lượng mủ trong tất cả Cơ tháng. Nhiệt 40
  43. độ cao hơn 400C cũng gây ra hiện tượng khô vỏ ở gốc cây, làm cho cây chết tương tự như hiện tượng khi cây ở nhiệt độ thấp hơn 50C tuy nhiên tỉ lệ cây chết ít hơn. + Lượng mưa và ẩm độ không khí: Cao su thường được trồng trong những vùng có lượng mưa từ 1800-2500mm/năm. Theo Nguyễn Thị Huệ (1997) nhu cầu về lượng mưa hàng năm của cây cao su còn thay đổi tuỳ thuộc vào điều kiện đất đai, cụ thể là khả năng giữ nước và thành phần sét trong đất. Bên cạnh đó, sự phân bố mưa và tính chất của cơn mưa còn quan trọng hơn. Số ngày mưa thích hợp nhất trong năm từ 100-150 ngày. Vì việc khai thác mủ luôn xảy ra vào buổi sáng nên nếu số ngày mưa buổi sáng nhiều sẽ hạn chế năng suất mủ do số lần khai thác bị giảm, mất sản lượng khi cạo muộn, hoặc mất sản lượng khi gặp mưa trong lúc khai thác. Tính chất cơn mưa cũng có những ảnh hưởng đến sinh trưởng phát triển của cao su. Mưa phùn, thường thấy tại vùng Bắc Trung Bộ, tạo điều kiện cho nấm của các bệnh héo đen, rụng lá mùa mưa, nấm hồng hay loét sọc miệng cạo hơn là giúp cây sinh trưởng tốt. Ẩm độ không khí bình quân thích hợp cho sinh trưởng của cao su là trên 75%, ẩm độ không khí còn thể hiện tương quan thuận với dòng chảy mủ khi khai thác (Nguyễn Năng et al., 2001). Về khả năng chịu hạn của cao su, cây cao su có một ưu thế hơn cà phê và tiêu về phương diện này, và vì thế nó thường được ưa chuộng hơn tại những vùng mà phương tiện tưới và nguồn nước tưới không sẵn có. Đối với cao su trồng mới lớn hơn 6 tháng thường có khả năng chịu hạn 4-5 tháng, tuy nhiên cao su trong vườn ươm không thể chịu hạn nhiều hơn 1 tháng, cao su vừa trồng mới cũng không thể chịu hạn tốt do bộ rễ chưa được ổn định. + Ánh sáng: Khác với tiêu và cà phê, cao su là cây ưa sáng. Thời gian và cường độ chiếu sáng trong ngày càng lớn thì việc sinh tổng hợp được càng nhiều. Ánh sáng còn ảnh hưởng đến khả năng đề kháng của cây, nhất là tính chống chịu của cây. Các vườn ươm trong mùa đông ở những vùng có ánh sáng đầy đủ thường chịu rét khỏe hơn các vườn khác (Lê Minh Xuân, 1986). Quá trình ra lá mới thường bị kéo dài tại những vườn cao su được trồng ở vùng Bắc Miền Trung do mây mù. Số giờ chiếu sáng trong năm được gọi là tốt cho cao su bình quân từ 1800-2800 giờ/năm. Sương mù tạo điều kiện cho nấm bệnh phát triển. + Gió: Gió lớn thường gây đổ ngã, đứt rễ, tác nhân đầu tiên cho các bệnh về thân cành do đó làm giảm mật độ vườn cây và giảm năng suất mủ. Gió khô như gió lào sẽ làm giảm mức độ sinh trưởng của cây đáng kể, cụ thể là tăng vanh chậm và kéo dài thời kỳ hình thành 1 tầng lá. Đặc biệt khi gió khô kéo dài còn gây ra những vụ cháy rừng và giảm năng suất mủ đáng kể. Những nơi có gió với tốc độ lớn hơn 3m/s cây cao su thường sinh trưởng rất chậm, và sản lượng thấp. Tuy nhiên gió nhẹ có thể điều hòa được sinh trưởng. Mức độ gió thích hợp cho cao su là 1-2 m/s (xem thêm chi tiết về yếu tố này tại qui trình kỹ thuật trồng cao su, 1997, Tổng Công Ty Cao Su Việt Nam). 41
  44. 1.1. Đặc điểm khí hậu một số vùng trồng cao su trên thế giới: Bảng 3.1: Khí hậu một số vùng trồng cao su trên thế giới Nư ớc và địa Brasil Malaysia Thailan China China điể m Manaus K.Lumpur Songkla H. nam V. nam Yếu tố khí hậu Vĩ độ 3008 N 3007 N 7012 N 130 B 21052 B N.độ TB(0C) 26,9 27,1 27,4 23,4 21,7 N.độ thấp TB(0C) 26,2 26,6 26,5 17,0 15,6 N.độ thấp C.đại (0C) 17,6 17,1 19,1 1,5 2,7 L.mưa (mm/năm) 1996 2499 2163 1766 1209 Số ngày mưa 171 195 159 162 - Số ngày có gió cấ 8(ngày) - 3 - 7 4 Tốc độ gió cực đại (m/s) - - 39 28 20 Giờ chiếu sáng(giờ) 2125 2200 - 2177 2153 Saengruksowong, 1983 Bảng 3.1 cho thấy ở những vùng vĩ độ cao như Vân Nam, Trung Quốc (220-240 bắc) cây cao su vẫn sinh trưởng phát triển được nhưng phải chịu đựng nhiều điều kiện không thuận lợi. Tuy nhiên, hầu hết các vùng trồng cao su khác trên thế giới đều nằm trong khu vực nhiệt đới điển hình. Lượng mưa bình quân tại 17 vị trí trồng tại Malaysia là 2430mm/năm với 37% thời gian mưa rơi trong khoảng từ 0-12 giờ sáng, 63% thời gian mưa rơi vào buổi chiều. Kết quả của nghiên cứu này cũng cho thấy có đến 15,8% số ngày cạo bị ảnh hưởng do mưa. Lượng mưa tại các vùng khác nhau của Thái Lan biến động lớn từ 1200-2000mm/năm, số ngày mưa bình quân là 120 ngày, nhiều nơi có mùa khô kéo dài đến 6 tháng và những vùng phía bắc (180 B) nhiệt độ bình quân có thể rơi xuống 50 C trong một số ngày trong năm. 1.2. Đặc điểm khí hậu một số vùng trong nước + Đông Nam Bộ: Đông Nam Bộ gồm 5 tỉnh (Đồng Nai, Bà Rịa, Bình Long, Bình Dương và Tây Ninh) và thành phố Hồ Chí Minh. Đây là vùng trồng cao su truyền thống lâu đời nhất tại nước ta, nó cũng chiếm tổng diện tích lớn nhất 210.000ha. Đó là một gò đất cao nằm trong khoảng vĩ độ thích hợp, với hai thềm đất song song. Thềm thứ nhất cao 0-100m và thềm kia cao từ 100-200m. Khí hậu điển hình nóng và ẩm, nhưng vì tương đối gần xích đạo nên có pha lẫn một số tính chất của khí hậu xích đạo với hai tối đa và hai tối thiểu về nhiệt độ và lượng mưa. Ở xích đạo thì hàng năm người ta ghi được hai nhiệt độ cực đại thường xảy ra không bao lâu sau ngày xuân phân và 42
  45. thu phân, và tiếp theo sau hai thời kỳ nóng bức là hai thời kỳ lượng mưa cực đại. Ở Đông Nam Bộ ta cũng thấy có hai nhiệt độ cực đại, thí dụ thành phố Hồ Chí Minh có cực đại thực sự (28,840C) rất rõ, vào tháng 4 và điểm cực đại vào tháng 8 nhưng không cao lắm (270C), còn hai cực tiểu rất rõ xảy ra vào tháng 12 (25,670C) và cực tiểu không thấp lắm vào tháng 7 (26,70C). Nhiệt độ quanh năm tại vùng này rất điều hòa, biên độ nhiệt hàng năm tại thành phố Hồ Chí Minh là 3,10C nhiệt độ tháng nóng nhất (tháng 4) 28,80 C và tháng mát nhất (tháng 12) 25,70C. Biên độ nhiệt ngày và đêm được xem là khá cao 90C-110C và không giao động nhiều trong năm. Cả hai chỉ số về biên độ nhiệt và những cực đại, cực tiểu về nhiệt độ nói lên một sự lý tưởng về mặt nhiệt độ đối với sinh trưởng và phát triển của cây trồng nhiệt đới nói chung và cao su nói riêng. Về chế độ mưa của Đông Nam Bộ có liên quan mật thiết đến gió mùa và núi non trong vùng. Chế độ gió mùa làm cho Đông Nam Bộ có hai mùa rõ rệt, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 chịu gió mùa đông có hướng Đông Bắc và mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10 chịu ảnh hưởng của gió Tây Nam thổi từ Ấn Độ Dương vào. Ngoài ra, chế độ mưa còn chịu ảnh hưởng một phần của khí hậu xích đạo và cũng giống như nhiệt độ cũng có hai cực đại phân bố không đều trong năm và cao thấp khác nhau, một trước ngày hạ chí (23/6) khá cao (313mm tại thành phố Hồ Chí Minh), cưc đại thứ 2 sau ngày hạ chí một thời gian khá dài (tháng 9), cao (333mm). giữa hai cực đại có một thời gian tương đối khô ráo dài chừng 1 tuần hay 10 ngày và được gọi là hạn nhỏ hay “hạn bà chằng”, lượng mưa vào khoảng 100-130mm trong tháng hạn, thường xảy ra vào cuối tháng 7 hay đầu tháng 8. Lượng mưa này không đủ cho sinh trưởng của cây cao su còn non hay mới trồng mới. Nó gây cản trở cho việc trồng mới nên người ta thường gọi là hạn bà chằng. Cũng có khi trong một năm xảy ra liên tiếp hai hạn nhỏ, trong những năm đó mùa mưa thường đến sớm hơn thường lệ, mưa nhiều trong tháng 4 và tháng 5 kết quả là hạn nhỏ thứ nhất rơi vào tháng 6 “hạn bà chằng” và hạn thứ hai rơi vào tháng 9 “hạn bông tranh”. Như vậy khí hậu của Đông Nam Bộ phần nhiều là thuận lợi cho sinh trưỏng và phát triển của cao su. Đặc biệt ở đây không có muối sương giá, nhiệt độ và gió khá thích hợp. Tuy nhiên, cũng cần quan tâm đến chế độ mưa mà đặc biệt là các tiểu hạn có ảnh hưởng sống còn đối với cây con trong vườn ươm và mới trồng. + Đặc điểm khí hậu Tây Nguyên: Vùng trồng cao su Tây Nguyên gồm các tỉnh Đắc Lắc, Đăc Nông, Gia Lai, và Kon Tum. Nhìn chung, có cùng một đặc điểm của khí hậu vùng cao, tuy nhiên tùy theo từng địa thế, từng vùng mà nó có những khác biệt đáng kể. Diện tích trồng cao su tại đây chỉ đứng sau Đông Nam Bộ và gấp nhiều lần khu vực Bình Trị Thiên (Bắc miền Trung). Vì Tây Nguyên xa xích đạo và gần phía Bắc hơn Đông Nam Bộ, đồng thời lại ở địa hình núi cao nên nó chịu ảnh hưởng hai yếu tố mới là vĩ độ và cao trình mặc dù vẫn còn nằm trong vùng nhiệt đới. Về vĩ độ, càng lại gần chí tuyến 23027’ B thì hai cực đại 43