Xây dựng lưới GNSS thường trực tại Việt Nam dưới góc nhìn địa kiến tạo

pdf 7 trang phuongnguyen 3750
Bạn đang xem tài liệu "Xây dựng lưới GNSS thường trực tại Việt Nam dưới góc nhìn địa kiến tạo", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfxay_dung_luoi_gnss_thuong_truc_tai_viet_nam_duoi_goc_nhin_di.pdf

Nội dung text: Xây dựng lưới GNSS thường trực tại Việt Nam dưới góc nhìn địa kiến tạo

  1. T¹p chÝ KHKT Má - §Þa chÊt, sè 41, 01/2013, (Chuyªn ®Ò Tr¾c ®Þa cao cÊp), tr.58-64 XÂY DỰNG LƯỚI GNSS THƯỜNG TRỰC TẠI VIỆT NAM DƯỚI GÓC NHÌN ĐỊA KIẾN TẠO TRẦN ĐÌNH TÔ, PHẠM VĂN HÙNG Viện Địa chất, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam Tóm tắt: Hiện nay nước ta đang xúc tiến việc xây dựng mạng lưới GNSS thường trực trên toàn lãnh thổ. Đây là một dự án đa chức năng và đa mục tiêu, liên quan tới nhiều lĩnh vực khoa học.Bài báo trình bày trước hết những căn cứ Địa kiến tạo trong việc lựa chọn bố trí các trạm của lưới GNSS, tiếp đến khái quát một sơ đồ các khối kiến tạo lớn lãnh thổ Việt Nam và cuối cùng giới thiệu một sơ đồ lưới các trạm GNSS cơ sở. 1. Đặt vấn đề Dưới đây các tác giả giới hạn trình bày một Hiện nay, lưới GNSS thường trực quy mô số vấn đề liên quan tới nhiệm vụ trên dưới góc toàn cầu (thường được gọi tắt theo tiếng Anh là nhìn Địa kiến tạo, trước hết là các cơ sở Địa lưới IGS) hình thành từ những năm cuối 70 của kiến tạo nhằm lựa chọn số lượng và phân bố các thế kỷ trước hiện không ngừng được mở rộng và trạm GNSS thường trực, tiếp đến sơ đồ các khối nâng cấp đã tạo ra những thành quả khoa học kiến tạo chính lãnh thổ Việt nam và cuối cùng công nghệ mang tính cơ sở, góp phần hỗ trợ các là một sơ đồ các điểm cơ sở (CORS) của lưới ứng dụng đòi hỏi độ chính xác rất cao và đang là GNSS thường trực. khuôn mẫu và đồng thời tạo ra nền tảng để hình 2. Các căn cứ Địa kiến tạo thành các lưới GNSS khu vực và quốc gia. Theo thuyết kiến tạo mảng [9], lớp ngoài Tại Châu Á-Thái Bình Dương, dự án xây cùng của Trái đất (thạch quyển) cư xử như là dựng hạ tầng dữ liệu không gian với việc xây chất rắn gắn kết nằm trên một quyển yếu hơn dựng khung quy chiếu trái đất động khu vực trong Manti gọi là quyển mềm. Thạch quyển vỡ đang trong quá trình triển khai. ra làm nhiều phần được gọi là mảng. Các mảng chuyển động theo các hướng khác nhau với vận Tại Việt Nam, Cục Đo đạc và Bản đồ Việt tốc từ 1 đến 16 cm/năm, va mạnh và nghiền nát Nam cũng đang xúc tiến xây dựng mạng lưới trạm lẫn nhau tại ranh giới mảng. Các lực được tạo ra GNSS thường trực trên lãnh thổ Việt Nam [1]. tại các ranh giới làm hình thành các dãy núi, gây Xây dựng lưới GNSS thường trực tại Việt nên núi lửa phun trào và động đất. Các quá trình Nam nhằm đáp ứng các mục tiêu khác nhau: và hiện tượng này được gọi là hoạt động kiến hình thành Khung tham chiếu Trái đất cho lãnh tạo. Trái ngược với hoạt động tích cực tại các thổ Việt Nam, hỗ trợ công tác đạo hàng và định ranh giới, hoạt động kiến tạo ở sâu trong nội vị bằng GNSS, nghiên cứu khoa học. mảng khá yên tĩnh vì nó nằm xa đới tương tác Khung tham chiếu Trái đất Việt Nam sẽ giữa các mảng. hiện thực hóa định nghĩa hệ tọa độ quốc gia Cho dù hoạt động kiến tạo lục địa kém Việt Nam thông qua các trạm thường trực mạnh mẽ so với đới ranh giới mảng, song trong GNSS bố trí thích hợp trên toàn lãnh thổ mà khuôn khổ kiến tạo khu vực và nhất là kiến tạo tọa độ và vận tốc chuyển động của từng điểm địa phương, biến dạng lục địa từ lâu được coi là cần được xác định không chỉ chính xác và tin rất phức tạp. Để đơn giản hóa việc lập mô hình cậy mà còn phải ổn định theo thời gian. Để đảm biến dạng thạch quyển lục địa, một cách tiếp bảo được tính ổn định này và đồng thời để đáp cận khá phổ biến là nhấn mạnh vai trò của các ứng mục tiêu nghiên cứu Địa động học, việc đứt gãy đồng thời thừa nhận mô hình biến dạng thiết kế lưới thường trực GNSS đương nhiên gián đoạn trong lớp vỏ trên dễ vỡ hoặc đàn hồi phải tính đến các đặc điểm cơ bản của Địa kiến và ứng dụng phương pháp tiếp cận khối [8]. tạo Việt Nam. Theo cách này, thạch quyển lục địa được chia ra 58
  2. các khối, phân cách nhau bằng đường đứt gãy tốc chuyển động của điểm nằm trong đới biến và tuân thủ mô hình biến dạng khối lục địa [8]. dạng sẽ là tổng hợp của véc tơ Ơ-le của mảng Nói cách khác, mỗi khối bao gồm vùng nội khối và véc tơ chuyển dịch điểm do hoạt động kiến ổn định nằm xa đứt gãy và đới biến dạng nằm tạo tại ranh giới mảng gây nên [9]. kề đứt gãy. Bản chất vấn đề cũng tương tự như trên Trong các mô hình động học thạch quyển, trong trường hợp khối kiến tạo. Vận tốc chuyển chuyển động của mảng (hay khối) được đại diện động của nội khối đại diện cho chuyển động của bởi vận tốc quay của phần nội mảng (nội khối) khối trong mô hình động học lục địa, trong khi ổn định và được mô tả bằng véc tơ Ơ-le bao gồm đó, véc tơ vận tốc chuyển động của điểm trong 3 thành phần tọa độ điểm gốc và 3 thành phần đới biến dạng sẽ là tổng hợp của véc tơ chuyển vận tốc góc quay của véc tơ. Có thể xác định động khối và véc tơ chuyển động do hoạt động chuyển động của mảng hoặc khối kiến tạo bằng đứt gãy gây nên. Thực tiễn quan trắc GNSS tại các phương pháp khác nhau, tuy nhiên hiện nay nhiều lưới trên thế giới đã xác nhận mô hình phương pháp trắc địa được coi là chính xác và biến dạng khối này [8]. Cách thức lựa chọn bố tin cậy hơn cả. Chính từ số liệu quan trắc nhiều trí các trạm GNSS thường trực tại nội khối cũng năm tại các điểm GNSS thường trực bố trí tại nội tương tự như đối với nội mảng đã nói ở trên. mảng (nội khối) ta xác định véc tơ Ơ-le. Trong Trong kiến tạo địa phương, thuật ngữ “khối hệ tọa độ vuông góc không gian, với 6 thành kiến tạo” còn được dùng để chỉ những khối cấu phần cần xác định, biết vận tốc chuyển động tại trúc là yếu tố cấu thành của một khối trong kiến 2 điểm quan trắc là đủ để xác định véc tơ Ơ-le. tạo khu vực và cách tiếp cận khối trong nghiên Khi số điểm quan trắc tăng lên, phương pháp cứu về cơ bản tương tự nhau. bình phương tổi thiểu giúp tính 6 thành phần véc Các mục tiêu nghiên cứu địa động học rất đa tơ Ơ-le chính xác và tin cậy hơn. dạng, song tựu chung lại bao gồm hai nhóm Cần lưu ý rằng, khái niệm “ổn định” của chính là (1) nghiên cứu hoạt động đứt gãy và các mảng được định nghĩa dựa trên khả năng của thảm họa liên quan và (2) nghiên cứu động học. con người phát hiện biến dạng bé nhất xẩy ra tại Đứt gãy kiến tạo được đặc trưng bởi các mảng một cách chính xác và tin cậy, mà dưới đặc điểm hình học, tính hoạt động và kiểu hoặc góc độ Trắc địa, giá trị 3 mm đối với tọa độ và loại đứt gãy: đứt gãy trượt bằng phải hay trái, 3mm/năm đối với vận tốc hiện nay được nhận đứt gãy thuận hay nghịch, đứt gãy bị khóa hoặc là giới hạn [2]. Chính các trạm GNSS bố trí tại không bị khóa. Mỗi loại đứt gãy đặc trưng một nội mảng ổn định đã tạo nên mạng lưới các kiểu mô hình biến dạng riêng (Hình 1a và Hình trạm thu liên tục tham khảo CORS 1b). Nghiên cứu hoạt động đứt gãy bằng (Continuously Operating Reference Stations) phương pháp trắc địa nhằm cung cấp những lời của lưới IGS. Ta có thể thấy rõ vai trò quan giải định lượng liên quan tới các đặc tính trên trọng của các điểm CORS đối với việc hình và thông thường phải trả lời câu hỏi đứt gãy thành các khung tham chiếu trái đất quốc tế hiện tại hoạt động hay không hoạt động và đặc (ITRF) trong [2] cũng như để xây dựng mô hình điểm hoạt động của nó ra sao. động học toàn cầu trong [6]. Trong khi đó, vận A; mô hình đứt gãy trượt bằng bị khóa ở độ sâu D; B: Biểu đồ biến dạng tại đới đứt gãy trượt bằng bị khóa; C: Biểu đồ chuyển dịch tại A B C đới biến dạng đứt gãy bị khóa. Hình 1a. Mô hình biến dạng quanh đứt gãy trượt bằng bị khóa (theo Savage and Burford, 1973) 59
  3. A; mô hình đứt gãy trượt bằng trong khối rắn kết; B: Biểu đồ biến dạng tại đới đứt gãy trượt bằng không bị khóa; C: Biểu đồ chuyển dịch tại đới biến dạng đứt gãy A B C không bị khóa. Hình 1b. Mô hình biến dạng khối rắn kết (không bị khóa) (theo [5]) Như vậy, khi thiết kế lưới quan trắc chuyển gia tăng hay giảm đi của các vùng băng, tác động của một đứt gãy tại đọan bị khóa (Hình động của tích hoặc xả nước tại các hồ chứa, và 1a), cần lưu ý bố trí các điểm đủ xa đứt gãy để sự dâng lên của dòng mác ma [8]. có thể “bắt được” toàn bộ đới tích lũy biến Xét dưới góc độ chuyển động mặt và vỏ dạng. Theo [5], 50% chuyển dịch tương đối tập Trái đất liên quan tới động đất người ta phân trung trong đới rộng 2 lần độ sâu D bao quanh biệt chuyển dịch đồng thời với động đất đứt gãy và có tới 90% chuyển dịch tương đối (coseismic displacement) và chuyển dịch giữa xẩy ra trong đới với đường biên cách đứt gãy hai lần động đất (interseismic displacement). khoảng 6,3 D về mỗi phía. Trong khi đó, đối Mô hình chuyển dịch mặt đất do động đất phụ với khối rắn kết (đứt gãy không bị khóa), không thuộc vào từng loại đứt gãy gây nên động đất và cần quan tâm đến khoảng cách từ điểm đến đứt đây là căn cứ quan trọng cần tính đến khi thiết gãy. kế lưới GNSS quan trắc biến dạng. Chuyển Đứt gãy kiến tạo, nhất là những đứt gãy động của khối kiến tạo được coi là tổng của lớn, chạy dài hàng trăm, hàng ngàn cây số qua chuyển dịch đồng thời với động đất và chuyển nhiều vùng lãnh thổ với địa hình và kiến tạo dịch giữa hai lần động đất [4]. khác nhau. Việc bố trí các điểm quan trắc Blewitt [3] đã giới thiệu khá chi tiết quan GNSS chỉ đơn giản và không cần nhiều điểm hệ giữa hiệu ứng của động đất tới vị trí điểm khi đứt gãy không bị phân đoạn và biểu hiện mặt đất theo khoảng cách tới đứt gãy dựa trên hoạt động đồng nhất trong suốt chiều dài của giá trị chuyển dịch tương đối giữa hai điểm nằm nó. Trong trường hợp ngược lại, từng phân đối xứng qua đứt gãy cho một kịch bản giả đoạn đứt gãy cần thiết phải có điểm quan trắc. định. Theo đó, trong trường hợp cách đứt gãy Có như vậy, số liệu đo GNSS mới có thể cho trượt bằng đang xét 1000 km trở lại không có phép xác định được mô hình biến dạng phản đứt gãy nào khác hoạt động và hai trận động đất ánh chính xác và chi tiết hoạt động của đứt gãy. đều có cường độ Mw ~ 7, thì muốn đo được Hoạt động của đứt gãy tích cực được coi là chuyển dịch đồng thời với động đất điểm đo cần nguyên nhân của nhiều tai biến và thảm họa bố trí cách đứt gãy trong vòng 100m và muốn thiên nhiên mà động đất là một dạng tiêu biểu. đo được chuyển dịch giữa hai lần động đất, Theo lý thuyết kinh điển, động đất là kết quả điểm quan trắc cần cách xa đứt gãy từ 10 km trở của dịch trượt nhanh dọc mặt đứt gãy; sự dịch lên. Sơ đồ kiến tạo thực tế phức tạp hơn rất trượt này gây nên bởi sự giải phóng đột ngột nhiều và trong điều kiện Việt Nam, động đất năng lượng (chủ yếu được sản sinh do biến thường xẩy ra với cường độ bé hơn. Điều này dạng đàn hồi) tại một vùng giới hạn trong vỏ đòi hỏi phải vận dụng thích hợp các kết luận Trái đất. Động đất chủ yếu (chiếm 95%) xẩy ra trên trong thiết kế cũng như phân tích số liệu tại ranh giới giữa các mảng kiến tạo. Tuy nhiên quan trắc sau này. động đất cũng xẩy ra tại phần trong của mảng Lưới GNSS thường trực cung cấp ba thành mà nguyên nhân trước hết được cho là liên quan phần vị trí điểm từng ngày với độ chính xác cao tới chuyển động mảng kiến tạo và căn do tiếp trong một khung quy chiếu thống nhất và ổn theo mang tính địa phương là hậu quả của sự định. Chính vì vậy số liệu đo lưới cho phép 60
  4. nghiên cứu các quá trình biến dạng tức thời tại khối. Trong khi đó số liệu GNSS tại các điểm các vùng hoạt động địa chấn, kiến tạo và núi (chu kỳ hay liên tục) quanh đứt gãy cho phép lửa, tạo các tiền đề để dự báo các thảm họa liên xác định được trường vận tốc chuyển dịch tại quan. Tuy nhiên, việc xây dựng lưới GNSS các điểm trong đới biến dạng của khối, đồng thường trực tốn kém hơn rất nhiều so với lưới thời kết hợp với các dữ liệu kiến tạo, địa vật lý GNSS đo chu kỳ. khác xác định ranh giới của khối kiến tạo. Thực tiễn chung toàn cầu cho thấy lưới 3. Sơ đồ các khối kiến tạo lãnh thổ Việt Nam GNSS quan trắc hoạt động đứt gãy thông thường được thiết lập dưới dạng các điểm đo Hoàn cảnh địa động lực khu vực Đông Nam theo chu kỳ, bởi nó cho phép bố trí một số Á nói chung và Việt Nam nói riêng chủ yếu lượng điểm đủ để áp ứng mục tiêu nghiên cứu được hình thành bởi hoạt động kiến tạo tại ranh trong điều kiện kinh phí giới hạn. Mặt khác, giới các mảng hay khối bao quanh, được thể thực tiễn cũng đã cho thấy, dù với độ chính xác hiện rõ trên Hình 2 [7]. Ở phía Tây Bắc, mảng tương đối thấp hơn, số liệu đo chu kỳ hoàn toàn Ấn-Độ xô húc vào lục địa Trung Hoa. Ở phá đáp ứng được yêu cầu nghiên cứu này. Tuy tây, mảng Philipin bị hút chìm dưới khối Sunda nhiên ta nên bố trí điểm GNSS thường trực theo hướng Tây Bắc với tốc độ 7 cm/năm ở gần trong đới biến dạng đứt gãy trong một số trường Đài Loan, trên 9 cm/năm ở Mindanao. Ở phía hợp, chẳng hạn vùng cần quan tâm đặc biệt, nam, mảng Australia bị hút chìm dưới khối vùng có hoạt động địa chấn cao hay nơi có các Sunda theo hướng bắc-đông bắc với tốc độ trên đứt gãy giao nhau tiềm ẩn khả năng lớn xẩy ra 9 cm/năm. Có thể nhận thấy, lãnh thổ Việt Nam động đất. nằm trên hai khối kiến tạo liền kề, khối Nam Số liệu GNSS tại các trạm thường trực bố Trung Hoa (South China Block) và khối Sunda trí trên nội khối cho phép tính được véc tơ Ơ-le (Sundaland Block), mà ranh giới là đứt gãy quay đặc trưng cho vận tốc chuyển động của Sông Hồng. Hình 2. Bối cảnh địa động lực hiện đại khu vực Đông Nam Á (theo [7]) 61
  5. Xét trong bối cảnh địa động lực khu vực và Khối Đông Bắc, khối Mường Tè, khối Tây Bắc- dựa trên các kết quả nghiên cứu địa chất và kiến Bắc Trung Bộ, khối Nam Trung Bộ-Nam Bộ và tạo Việt Nam, lãnh thổ Việt Nam có thể chia ra khối Biển Đông (Hình 3), mỗi khối hình thành 5 khối cấu trúc kiến tạo, dưới đây được gọi là và phát triển với những đặc trưng riêng. Hình 3. Sơ đồ các khối kiến tạo lãnh thổ Việt Nam 62
  6. Khối cấu trúc Đông Bắc có ranh giới phía Paleozoi, Mezozoi và Kainozoi. Các cấu trúc tây nam là đứt gẫy sâu Sông Hồng, hình thành bậc cao phân bố chủ yếu theo phương Tây Bắc- và phát triển trên nền các thành tạo Đông Nam. Cấu trúc địa hình phát triển trên Neoproterozoi, Paleozoi, Mezozoi và Kainozoi. nền của cấu trúc kiến tạo. Các dãy núi và trũng Bình đồ cấu trúc khối Đông Bắc Việt Nam nổi thung lũng xen kẽ nhau và phát triển theo rõ các cấu trúc bậc cao phát triển có dạng phương Tây Bắc-Đông Nam. “front” theo hướng vòng cung á vỹ tuyến lồi về Khối cấu trúc Biển Đông có ranh giới phía phía đông, đông nam. Địa hình hiện đại bề mặt tây là đứt gãy kinh tuyến 110. Trái đất phát triển theo sự phân dị của các cấu 4. Đề xuất sơ đồ lưới các trạm CORS tại Việt trúc bậc cao. Các dải núi xen kẽ các thung lũng Nam sông, trũng giữa núi có dạng vòng cung á vỹ Từ gần vài chục năm nay, các lưới GPS đo tuyến (các vòng cung sông Gâm, Ngân Sơn, chu kỳ đã được thiết lập dọc các đứt gãy tiêu Bắc Sơn và Đông Triều). biểu của Việt Nam [10]. Hiện nay, số lượng Khối cấu trúc Tây Bắc-Bắc Trung Bộ có mạng lưới kiểu này đang không ngừng được ranh giới với khối cấu trúc xung quanh là các phát triển trên cả nước, đặc biệt trên phần lãnh đứt gẫy: Sông Hồng ở phía đông bắc, Lai Châu- thổ phía Bắc. Đây là cơ sở hạ tầng quý giá cần Điện Biên ở phía tây, Thà Khẹt-Hải Vân ở phía được tiếp tục sử dụng. Nói cách khác, trong các nam, tây nam và đứt gẫy Kinh tuyến 110 ở phía điều kiện hiện hữu của nước ta, lưới GNSS đông. Khối cấu trúc này phát triển trên nền các thường trực không cần thiết phải đặt ra mục tiêu thành tạo Paleozoi, Mezozoi và Kainozoi. Bình quan trắc hoạt động đứt gãy mà chủ yếu phân đồ cấu trúc có đặc trưng khác biệt với khối cấu bố các trạm thu tại các địa điểm nội khối ổn trúc Đông Bắc Việt Nam, các cấu trúc bậc cao định, để tạo nên các điểm CORS. Số liệu đo tại phát triển chủ yếu theo phương Tây Bắc-Đông các điểm này cũng sẽ có những đóng góp nhất Nam, phân dị mạnh mẽ theo phương Đông Bắc- định trong nghiên cứu hoạt động đứt gãy, đặc Tây Nam. biệt trong công tác xử lý số liệu. Địa hình bề mặt trái đất phân dị mạnh mẽ theo hướng phát triển của các cấu trúc bậc cao. Dựa trên những cơ sở lý thuyết Địa kiến Các dải núi xen kẽ các thung lũng sông, trũng tạo, sơ đồ các khối cấu trúc lãnh thổ Việt Nam giữa núi phát triển theo phương Tây Bắc-Đông và cơ sở hạ tầng GNSS hiện có, chúng tôi đề Nam. xuất các tiêu chí sau để thiết lập mạng lưới Khối cấu trúc Nam Trung Bộ-Nam Bộ ngăn CORS cho nước ta. cách với khối cấu trúc Tây Bắc-Bắc Trung Bộ Tiêu chí 1: Các trạm CORS chỉ bố trí tại là đứt gẫy Thà Khẹt-Hải Vân ở phía bắc, với phần ổn định của mỗi khối. khối Biển Đông là đứt gẫy Kinh tuyến 110 ở Tiêu chí 2: Mỗi cấu trúc lớn cần bố trí 3 phía Đông. Khối cấu trúc này hình thành trên trạm CORS. Khi lựa chọn ví trí cho từng trạm nền của các thành tạo Arkei, Paleo-Mezo- này, cần tính đến hoạt động của các đứt gãy cấp Neoproterozoi, Paleozoi, Mezozoi và Kainozoi. thấp hơn cũng như những phân dị (nếu có) Các cấu trúc bậc cao trong khối cấu trúc Nam chuyển động của các phân khối. Trung Bộ-Nam Bộ phát triển theo phương á Tiêu chí 3: Coi các điểm GNSS đo chu kỳ kinh tuyến ở phía Bắc và Đông Bắc-Tây Nam ở đã và đang được thiết lập trên các đới biến dạng phía Nam. Cấu trúc địa hình hiện đại bề mặt dọc các đứt gãy như là một bộ phần cấu thành Trái đất phát triển phù hợp với bình đồ cấu trúc mạng lưới GNSS quốc gia và sử dụng ngân kiến tạo, phân bố theo phương á kinh tuyến và hàng dữ liệu đo đã thu thập trong xử lý kết hợp Đông Bắc-Tây Nam. với số liệu đo tại các điểm CORS. Khối cấu trúc Mường Tè có ranh giới với Với quan niệm trên, đã đề xuất lưới các các khối cấu trúc xung quanh là đứt gẫy Lai điểm CORS trên toàn lãnh thổ Việt Nam như Châu-Điện Biên ở phía Đông. Khối cấu trúc giới thiệu trên Hình 3. Lưới bao gồm 11 trạm này hình thành trên nền của các thành tạo thu GNSS thường trực, phân bố sơ bộ như sau: 63
  7. Trên khối Đông Bắc sẽ có 3 trạm là HG earth science applications. Journal of (đặt tại Hà Giang), LS (Lạng Sơn) và BLV (đảo Geophysical Research, Vol. 107, No. B10. Bạch Long Vĩ). [3]. Blewitt G, 2007. GPS and Space Based Khối Mường Tè sẽ có điểm MT đại diện. Geodetic Methods, in Treatise on Geophysics, Trên khối Tây Bắc-Bắc Trung Bộ sẽ phân Vol. 3, Geodesy, Volume Editer Tom Herring, bố 3 điểm: SL tại Sơn La, NA tại Nghệ An và Editer in Chief Gerald Schubert. QB tại Quảng Bình. [4]. Brendan J. Meade and Bradford H. Hager, Khối Nam Trung Bộ-Nam Bộ bố trí 3 điểm: 2005. Block models of crustal motion in GL tại Gia Lai, LĐ (Lâm Đồng) và KG (Kiên southern California constrained by GPS Giang). measurements. Journal of Geophysical Trên khối Biển Động bố trí trạm thu TS tại Research, Vol. 110, 2005. quần đảo Trường Sa. [5]. J. C. Savage and R. O. Burford, 1973. 5. Kết luận Geodetic Determination of Relative Plate motion Cục Đo đạc và Bản đồ Việt Nam đang in Central California. Journal of Geophysical trong quá trình xây dựng mạng lưới các trạm Research, Vol. 78, No. 5, February 10. GNSS thường trực tại Việt Nam. Đây là một đề [6]. Sella G. F., T. H. Dixon, and Ailin Mao, án khoa học công nghệ quy mô lớn và phức tạp, 2002. REVEL: A model for Recent plate đòi hỏi phải nghiên cứu nhiều mặt để thỏa mãn velocities from space geodesy. Journal of được các mục tiêu khác nhau. Sơ đồ lưới các Geophysical Research, Vol. 107, No. B4. trạm CORS đề xuất ở trên có thể đáp ứng mục [7] Simons W. J. F, A. Socquet, C. Vigny, B. A. tiêu nghiên cứu Địa động lực lãnh thổ cũng như C. Ambrosius, s. Haji Abu, Chaiwat góp phần tích cực và hiệu quả trong việc hình Promthong, C. Subarya, D. A. Sarsito, S. thành khung quy chiếu động trên cơ sở ITRF Matheussen, P. Morgan, and W. spakman, cho lãnh thổ Việt Nam. Quan trọng hơn, nó giới 2007. A decade of GPS in Southeast Asia: thiệu một cách tiếp cận ứng với góc nhìn Địa Resolving Sundaland motio and boundaries. kiến tạo trong việc lựa chọn sơ đồ các trạm Journal of Geophysical Research, Vol. 112. GNSS thường trực. [8]. Thatcher Wayne, 2009. How the Continents Deform: The Evidence from Tectonic Geodesy. TÀI LIỆU THAM KHẢO [9]. Thompson and Turk. Introduction to physical geology [1]. Cục Đo đạc và Bản đồ Việt Nam, 2011. [10]. Tran Dinh To, Nguyen Trong Yem, Quy hoach mạng lưới trạm định vị toàn cầu Duong Chi cong, Vy Quoc Hai, Zuchiewicz bằng vệ tinh trên lãnh thổ Việt Nam. Witold, Nguyen Quoc Cuong, Nguyen Viet [2]. Altamini Z., P. Sillard, and C. Boucher, Nghia, 2012. Recent Crustal movements of 2002. ITRF2000: A new release of the northern Vietnam from GPS data. Journal of International Terrestrial Reference Frame for Geodynamics. SUMMARY Setting up a GNSS permanent network for Vietnam under the geotonic view Tran Dinh To, Pham Van Hung Institute of Geological sciences – Vietnam Academy of Science and Technology It is currently carrying a big and multifunctional project of establishing GNSS permanent network in Vietnam. In this context, the paper first considers geotectonic basis principles for establishing a GNSS network of continuously operating reference stations (CORS), next presents a simplied schema of tectonic structure of Vietnam and in final proposes a GNSS network of 11 CORS which could meet purposes of gedynamic researches as well as of producing ITRF for Vietnam. 64