Về sinh vật biến đổi gen, nhận thức về lợi ích, những nguy cơ và rủi ro của chúng

pdf 20 trang phuongnguyen 2310
Bạn đang xem tài liệu "Về sinh vật biến đổi gen, nhận thức về lợi ích, những nguy cơ và rủi ro của chúng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfve_sinh_vat_bien_doi_gen_nhan_thuc_ve_loi_ich_nhung_nguy_co.pdf

Nội dung text: Về sinh vật biến đổi gen, nhận thức về lợi ích, những nguy cơ và rủi ro của chúng

  1. TẠP CHÍ SINH HỌC 2013, 35(4): 397-416 VỀ SINH VẬT BIẾN ĐỔI GEN, NHẬN THỨC VỀ LỢI ÍCH, NHỮNG NGUY CƠ VÀ RỦI RO CỦA CHÚNG Khuất Đăng Long Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Viện Hàn lâm KH & CN Việt Nam, khuatdanglong@iebr.ac.vn TÓM TẮT: Thuật ngữ biển đổi gen chỉ việc chuyển gen vào hoặc hoặc tách gen ra khỏi cơ thể một sinh vật để tạo ra một sinh vật bị biến đổi gen. Sinh vật biến đổi gen (GMO) được tạo ra với những mục đích sử dụng khác nhau, thí dụ tạo ra sinh vật kháng bệnh; cây trồng hoặc vật nuôi có năng xuất sinh học cao để sử dụng làm thực phẩm, thuốc chữa bệnh; tạo ra sinh vật sử dụng cho nghiên cứu khoa học. Như vậy, mục đích và tiêu chí của công nghệ gen nhằm tạo ra những sinh vật biến đổi gen để có thể đem lại những lợi ích to lớn cho loài người. Tuy nhiên, ít hay nhiều, mọi cố gắng của khoa học vẫn có mặt trái nhất định, nếu không liên quan đến chi phí cao để tạo ra GMO thì cũng là những chi phí để khắc phục những rủi ro mà GMO có thể sẽ đem đến. Trong bài viết này, dựa vào việc phân tích những điểm mạnh của GMO qua những quan điểm và nhận định khác nhau của các nhà khoa học, các tổ chức sản xuất và buôn bán GMO và người sử dụng để đánh giá những lợi ích cũng như những nguy cơ tiềm ẩn và rủi ro của GMO. Ngoài ra, chúng tôi còn đưa ra những dẫn chứng từ quá trình tạo ra sinh vật biến đổi gen và bản chất của quá trình này, những quan điểm và nhận thức khác nhau về GMO để có thể hiểu lí do vì sao cần những cái nhìn khách quan và thận trọng hơn, không tuyệt đối hoặc cực đoan khi đánh giá lợi ích cũng như những nguy cơ tiềm ẩn hoặc rủi ro xuất hiện từ những sinh vật biến đổi gen. Từ khóa: GMO, cây trồng biến đổi gen, đa dạng sinh học, lợi ích, nguy cơ, rủi ro, thực phẩm biến đổi gen. MỞ ĐẦU thái; sự hình thành các loài dịch hại kháng lại Những năm 1960 giữa thế kỷ XX là thời kỳ thuốc trừ sâu hóa học đột phá về năng xuất nông nghiệp trong cuộc Những tiến bộ trong cuộc cách mạng xanh ở các mạng xanh đã được ủng hộ mạnh mẽ, còn thế kỷ XX đã đưa ra những khái niệm và thuật trong thế kỷ XXI nhiều người đang hi vọng ngữ mới như lai tạo, đột biến, tái tổ hợp thì đến những sinh vật biến đổi gen có thể sẽ là một nay, trong giới khoa học và những người am cuộc cách mạng xanh mới. hiểu về sinh học cũng như những nhà nông học Trong cuộc cách mạng xanh giữa thế kỷ và chăn nuôi, ít ai còn xa lạ với thuật ngữ sinh XX, mọi cố gắng đã tập trung vào lai tạo để tạo vật biến đổi gen (Genetically Modified ra những giống cây trồng hoặc chủng con lai có Organism, viết tắt GMO hoặc Genetically năng xuất và chất lượng cao hơn. Sau hơn 20 Engeneered Organism, viết tắt GEO). Thực năm bền bỉ lai tạo các cây trồng cùng với việc chất, đây là một loài sinh vật mà vật liệu di sử dụng các loại hóa chất nông nghiệp (phân truyền (gen) của nó đã bị biến đổi bằng kỹ thuật bón và thuốc trừ sâu), năng xuất cây trồng đã hoặc công nghệ gen. Những sinh vật biến đổi tăng vượt bậc. Tuy nhiên, cuộc cách mạng xanh gen bao gồm từ vi sinh vật như vi khuẩn, nấm này đã để lại nhiều hậu quả mà trước đó không men, thực vật và các loài động vật. lường hết được. Đó là việc cây trồng năng xuất Hiện nay, sinh vật biến đổi gen đang được sử cao cần nhiều phân bón và thuốc trừ sâu hóa dụng cho nghiên cứu sinh học và y học, các loại học hơn, việc dựa vào các hóa chất nông nghiệp dược phẩm, y học thực nghiệm (chẳng hạn như quá mức và lâu dài đã gây ra ô nhiễm trầm liệu pháp gen) và trong nông nghiệp (chẳng hạn trọng cho môi trường, đây là gánh nặng cho như cây trồng chống chịu với thuốc trừ cỏ dại, nông dân ở các nước đang phát triển vì sự thoái khô hạn và giá lạnh). Những sinh vật biến đổi hóa đất nông nghiệp; ô nhiễm nước và không gen (GMOs) có những tên gọi theo mục đích sử khí; ô nhiễm thực phẩm; đảo lộn các hệ sinh dụng như thực vật biến đổi gen (GM plants), cây 397
  2. Khuat Dang Long trồng biến đổi gen (GM crops) hoặc thực phẩm của GMOs, GM plants, GM crops hay GM foods. biến đổi gen (GM foods) (hay chính xác là thực Vì vậy, trong phạm vi bài viết này, một số nhận phẩm từ những sinh vật biến đổi gen). xét ở cuối bài thay cho phần kết luận và có thể Theo “Cartagena Protocol on Biosafety”, được xem như những bình luận có căn cứ theo được cơ quan thương mại thế giới qui ước về logic khoa học. Những bình luận và nhận xét này những sinh vật sống đã bị biến đổi gen, thuật chắc chắn không bao quát hết khi vẫn còn những ngữ GMO rất gần với thuật ngữ hợp pháp về kỹ tranh luận nóng về GMO như hiện nay. thuật, đặc biệt, bất kỳ sinh vật sống nào được tạo ra với sự kết hợp vật liệu di truyền bằng việc KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN sử dụng công nghệ sinh học hiện đại. Vì vậy, có Lịch sử tạo ra sinh vật biến đổi gen thể hiểu những sinh vật biến đổi gen được sử Phát hiện cấu trúc 3 chiều của chuỗi xoắn dụng rộng rãi trong nghiên cứu khoa học và để kép DNA năm 1953 của hai nhà khoa học sản xuất ra các loại hàng hóa chứ không phải James Watson và Francis Crick đã tạo ra khả thức ăn là một nguồn các thực phẩm biến đổi năng cho các nhà khoa học xác định và ghép gen. các gen từ một sinh vật này vào DNA của sinh Do đặc điểm về phạm vi thương mại hóa vật khác. Nguyên tắc cơ bản để tạo ra một sinh nhanh của cây trồng biến đổi gen so với các vật biến đổi gen là đưa một vật liệu di truyền sinh vật biến đổi gen là động vật, trong bài viết mới từ một sinh vật này vào hệ gen (genome) này chúng tôi chủ yếu bàn luận đến những quan của một sinh vật khác, quá trình này được gọi là điểm ủng hộ và phản đối về nguy cơ tiềm ẩn và kỹ thuật gen và có thể thực hiện được thông qua rủi ro có thể xuất hiện do cây trồng biến đổi gen việc khám phá ra DNA [79]. (GM crops), còn do các loài động vật biến đổi Tác giả tạo ra được tái tổ hợp đầu tiên các gen ít được đề cập hơn. phân tử DNA năm 1972 là nhà sinh hóa Paul TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH Berg (sinh năm 1926) [30]. Berg có ý tưởng sử dụng SV40 như phương tiện để đưa những gen Nguồn tài liệu hiện nay về sinh vật biến đổi mới vào các tế bào động vật có vú theo nhiều gen và những đánh giá về chúng đã có khá cách để vật ăn vi khuẩn chuyển đổi DNA tế bào nhiều và được công bố dưới nhiều hình thức trong số những mô bị nhiễm bệnh. Ông và các khác nhau như báo cáo khoa học tại các hội đồng nghiệp đã thành công trong việc phát triển thảo; các công trình nghiên cứu gốc về quá trình phương pháp cơ bản liên kết in vitro hai phân tử tạo ra sinh vật biến đổi gen và bản chất của DNA, cụ thể một hệ thống gồm 3 genes chịu chuyển đổi gen; cũng như khá nhiều thông tin trách nhiệm chuyển hóa galactose ở chủng vi đã được công bố và đăng tải theo các trang khuẩn E. coli được đưa vào hệ gen SV40 DNA. mạng chính thức. Vì vậy, trong bài viết này, sau Công trình này đã dẫn đến sự xuất hiện công một số vấn đề đưa ra từ các tài liệu trích dẫn, nghệ tái tổ hợp DNA và bằng cách đó đưa ra chúng tôi viết nguyên trang thông tin để bạn đọc một công cụ chính để phân tích cấu trúc và chức có thể tự tra cứu và thẩm định bổ sung ngoài năng gen của động vật có vú và chính nhờ đóng những tài liệu chính thống khác trong phần tài góp này, năm 1980 ông nhận giải Nobel hóa liệu tham khảo. học cùng với hai nhà khoa học khác, đó là Về từ và thuật ngữ, trong bài viết này chúng Walter Gilbert (quốc tịch Hoa Kỳ, sinh năm tôi dựa theo từ điển giải thích Oxford để phân 1932) và Frederick Sanger (quốc tịch Anh, sinh biệt nguy cơ (risk), là một khả năng có thể, còn năm 1918). sự rủi ro hoặc mối nguy hại (hazard) là hậu quả Năm 1973, hai nhà khoa học Herbert Boyer khi nguy cơ là có thực, vì vậy, để đánh giá nguy và Stanley Cohen đã hợp tác nghiên cứu để tạo cơ cần có quá trình để xác định rõ được rủi ro thành công sinh vật tái tổ hợp DNA đầu tiên. (hazard). Đến năm 1986, lần đầu tiên cây thuốc lá biến Rất khó để đưa ra kết luận rõ ràng về sự an đổi gen được thử nghiệm trên đồng ruộng ở Bỉ. toàn tuyệt đối cũng như những nguy cơ và rủi ro Năm 1987, cây thuốc lá và cà chua biến đổi gen 398
  3. TẠP CHÍ SINH HỌC 2013, 35(4): 397-416 được thử nghiệm trên đồng ruộng Hoa Kỳ. Cho tích cây trồng biến đổi gen lên đến hàng trăm tới 2010, đã có 29 nước trên thế giới có diện nghìn hecta (hình 1) [12]. Hình 1. Bản đồ 29 nước với diện tích lớn có cây trồng biến đổi gen năm 2010 (nguồn Clive James, 2010) [12]. Quá trình tạo ra sinh vật biến đổi gen thể gây nhiễm cho các tế bào không bị tách rời, Sự biến đổi gen liên quan đến việc đưa vào vì vậy, chúng là một trong số những phương hoặc bỏ đi những gen, khi những gen được đưa pháp lây nhiễm mang gen. vào thường được lấy từ một loài khác gọi là Các phân tử DNA trung gian được chuyển hình thức biến đổi gen theo chiều ngang. Trong qua các màng tế bào nhờ súng bắn gen đặc biệt, tự nhiên, hiện tượng này cũng có thể xuất hiện xử lý hóa học hoặc bằng các tế bào biểu hiện khi vì một lý do nào đó, DNA ngoại lai thâm dưới trường dòng điện. Sau đó, những phân tử nhập qua màng tế bào. Còn để biến đổi gen trung gian được chuyển vào các nhân tế bào để nhân tạo có thể đòi hỏi việc gắn gen vào một tiêm vào các nhiễm sắc thể của tế bào tiếp nhận. loài virus hoặc đơn thuần cấy ghép vật lý DNA Sự hợp nhất xuất hiện ở những chỗ không dự ngoại lai vào nhân của một vật chủ đích bằng đoán trước được trong nhiễm sắc thể. Dựa vào một loại kim nhỏ hoặc bằng một đoạn rất nhỏ quá trình biến đổi gen để tạo ra một sinh vật được bắn bằng dụng cụ đặc biệt gọi là “súng biến đổi gen, có thể cho rằng những gen được bắn gen” (gene-cannon). gắn vào trong nhiễm sắc thể của một loài vật Tuy nhiên, cũng có những phương pháp chủ mới là một kí sinh di truyền thực thụ. khác khai thác các dạng tự nhiên của chuyển đổi Bản chất biến đổi gen trong cơ thể loài sinh gen, thí dụ như khả năng của loài vi khuẩn vật được biến đổi thuộc chi Agrobacterum có thể chuyển vật liệu Để tiến hành biến đổi gen, sự tái tổ hợp và di truyền vào thực vật [38], hoặc khả năng của vật liệu mang gen cần được thiết lập, vật liệu Lentivirus (một chi thuộc họ Retroviridae) để tiến hành dự kiến để mang gen được đưa an biến đổi gen vào các tế bào động vật [49]. Các toàn vào sinh vật đã lựa chọn và sắp đặt cho gen Lentivirus này có thể mang một lượng đáng kể biểu hiện, nghĩa là sản xuất ra protein mà nó mã RNA virus vào trong DNA tế bào vật chủ và có hóa. Còn vật liệu mang, để bổ sung cho gen khả năng duy nhất trong số các retrovirus để có 399
  4. Khuat Dang Long được chọn, sẽ kết hợp một lượng các phần tử tái tổ hợp giữa các loài, mà đối với chúng không DNA khác. Điều này đòi hỏi có một phần tử đối thể hoặc quá ít khả năng tạo ra thế hệ con cháu chứng (chất hoạt hóa=promoter/enhancer) cần tự nhiên. thiết để biểu hiện gen, còn một gen nữa được Những gen ngoại lai mới hoặc các chuỗi mã hóa để kháng lại chất gây chết tế bào khác DNA được đưa vào những vị trí không dự đoán hoặc chất kháng sinh. Một lựa chọn khác cho trước được trong nhiễm sắc thể. Việc gây giống những gen chịu được kháng sinh đang còn phổ thông xê dịch qua lại quanh những phiên nhiều tranh cãi đối với cây trồng biến đổi gen, mã khác thường (các gen tương ứng=alleles) đó là gen CSR-1 đảm bảo tính kháng đối với của những gen giống nhau, trong khi đó những chất diệt cỏ chlorsulfon [5]. gen này được gắn cố định ở những vị trí trong Để lựa chọn một tập hợp tế bào có chứa vật nhiễm sắc thể, chúng được hình thành trong tiến trung gian, chất kháng sinh được bổ sung. Sau hóa. Công nghệ gen đã đưa vào những gen đó, những tế bào không biểu hiện gen kháng của ngoại lai mới, vị trí của các gen trong DNA tế vật trung gian được loại bỏ. Những tế bào sống bào của loài tiếp nhận không thể biết được trước sót là cơ sở để phát triển thành những sinh vật và không có khả năng định trước. Điều này có biến đổi gen, trong đó toàn bộ tế bào của sinh thể dẫn tới những tác động không lường trước vật này chứa đựng DNA vật trung gian đã hợp trong quá trình trao đổi chất, sinh lí và hóa sinh nhất và biểu hiện gen như mong muốn. Ngoài của sinh vật nhận, sinh vật được chuyển gen, ra, người ta có thể thêm bớt, sửa đổi, sắp xếp lại những tác động không hoặc rất khó phát hiện bộ gen khiến cho một loài sinh vật nào đó được bằng những phương pháp kiểm soát truyền không bao giờ có thể bị nhiễm các loại bệnh thống. hoặc kháng lại một loại chất kháng sinh. Những vật trung gian được sử dụng được Sự khác nhau cơ bản về tiến hóa tự nhiên xem như là những kí sinh di truyền hiệu quả, của loài sinh vật do lai tạo hoặc đột biến gen chúng là hệ thống qua lại gen được phát triển để trong loài với sinh vật do chuyển gen ở chỗ, di chuyển và biểu hiện các gen từ những ranh người ta có thể sử dụng hoặc hóa chất hoặc giới loài và các rào cản sinh thái sau: phóng xạ để gây đột biến giới hạn trong hệ gen a. Chúng là những lát cắt các phần tử và của một loài hoặc lai tạo giữa hệ gen của các chuỗi di truyền tách ra từ hầu hết những loài kí loài gần nhau. Kết quả những tính trạng tốt theo sinh có nguồn gốc di truyền (virus, plasmida, ý muốn mới được giữ lại và phát triển, còn các phần tử dễ biến đổi). Rất nhiều trong số đó những tính trạng kém dễ phân li sớm muộn bị có khả năng xâm lấn và truyền DNA của chúng đào thải (tự nhiên hoặc nhân tạo). Trong khi đó, vào các nhiễm sắc thể của bất cứ loại tế bào sinh vật biến đổi gen nhờ được cấy gen ngoại nào, vì vậy, có thể gây tác hại về trao đổi chất lai, thường xa nhau về nguồn gốc phát sinh và di truyền. chủng loại (vi sinh vật với thực vật và động vật, b. Chúng được thiết kế đặc biệt để phá vỡ động vật với thực vật). Rõ ràng, những thay đổi rào cản về loài, khi vượt qua được, chúng có thể về mặt di truyền dù rằng rất nhỏ bên trong sinh nhận được và chuyển những gen từ các vật chủ vật biến đổi gen sẽ rất khó giám sát, vì vậy, khó mới hoặc từ những kí sinh di truyền của chúng. có thể biết được thời gian và vị trí những tính Sau đó, những lát cắt di truyền mới được tạo ra trạng kém xuất hiện. như thế có thể được chuyển vào loài mới hoặc Sự khác biệt giữa biến đổi gen và nuôi trồng tái tổ hợp giữa chúng với nhau để dẫn đến truyền thống những virus gây bệnh với tiềm năng gây bệnh Đã có những tranh luận cho rằng biến đổi sớm hơn cho những vật chủ. Trong số những gen là kết quả của sự chính xác hơn nhưng về sinh vật thay thế như vậy, những đột biến và sắp cơ bản không khác so với cùng loại được nuôi xếp lại gen có thể xuất hiện vào bất cứ lúc nào trồng truyền thống. Quan điểm này khó chấp với những kết quả không dự báo trước được. nhận bởi vì ở đây, sự tái tổ hợp không được tạo c. Chúng mang những gen chống chịu, mà ra một cách tự nhiên, vật liệu di truyền không bản thân những gen này được cho là mới hoặc 400
  5. TẠP CHÍ SINH HỌC 2013, 35(4): 397-416 nâng cao khả năng tồn tại, sức khỏe quần xã và người ta đưa đưa Andenovirus vào nhân, các những vấn đề môi trường (có nghĩa là sức gen ở vùng 1 (E1a và E1b) được sao chép lại, chống chịu được thuốc kháng sinh trong vi bốn vùng của hệ gen không bị lây nhiễm (từ F1 khuẩn gây bệnh hoặc cỏ dại chống chịu được đến F4) biểu hiện vào thời gian đầu của quá thuốc trừ cỏ). trình sao chép. Sử dụng sinh vật biến đổi gen hiện nay và Cây trồng biến đổi gen được đưa vào sử những hạn chế dụng nhiều hơn, đó là ngô (MON 809, MON Các sinh vật biến đổi gen được xem như có 810 và MON 863), khoai tây Amflora (EH92- triển vọng cho những nghiên cứu sinh học và y 527-1), đậu tương GTS 40-3-2 (OECD UI: học, sản xuất dược phẩm, thực nghiệm y học MON-Ø4Ø32-6) và đậu tương ON 87705 (liệu pháp gen) và trong nông nghiệp (cây trồng (Vistive Gold), lúa mì MON 71800, đậu tương, kháng thuốc trừ cỏ). Thí dụ, một gen từ một loài bông, thuốc lá, cà tím Bt. sứa mã hóa protein huỳnh quang GFP, protein Giống ngô biến đổi gen MON 810 được cho được mã hóa này có thể kiên kết vật lý và như là giống có khả năng giảm được thiệt hại do sâu vậy cùng biểu hiện với những gen động vật để hại gây ra do hãng Mosanto đưa ra khắp thế giới xác định vị trí của protein đã được mã hóa bởi [34]. Bản chất của ngô biến đổi gen là do một gen đích GFP trong tế bào động vật. Bằng gen từ chủng vi khuẩn Bacillus thuringensis phương pháp này các nhà sinh học có thể được cấy vào DNA của MON810 đã cho phép nghiên cứu cơ chế các bệnh ở người hay những giống ngô này tạo ra một protein gây hại cho quá trình sinh học cơ bản trong các tế bào có những loài côn trùng ăn chúng, gen từ chủng vi nhân (eukaryotic) và tế bào không nhân khuẩn tạo ra độc tố Bt có độc tính đối với các (prokaryotic). loài sâu bướm hại trong đó có sâu đục ngô châu Mới chỉ có ít loài động vật biến đổi gen Âu (Ostrinia nubilalis). Độc tố Bt được tạo ra được sử dụng, cụ thể sử dụng chuột nhắt đã này che kín biểu mô ở ruột giữa của côn trùng. được khử hoạt tính một gen để nghiên cứu vai Những protein cần có cơ quan tiếp nhận đặc biệt trò của gen tham gia hoặc gây ra bệnh ở người; trong tế bào để tạo ra Cry protein và trở nên sử dụng chuột bạch được đột biến một gen riêng độc, chính vì vậy những độc tố này đặc hữu đối rẽ để nghiên cứu thuốc và dược học. Người ta với các loài côn trùng thuộc bộ cánh Vảy cũng đã cấy gen vào phôi cá sọc vằn cho phép Lepidoptera [33], mặc dù chưa rõ cơ chế tác kết hợp với hệ gen của chúng làm cho phát sáng động của những độc tố này [46]. dưới tác dụng của ánh sáng tự nhiên. Những Ngô biến đổi gen MON 809 là một trong số loài động vật biến đổi gen chưa được sử dụng 25 cây trồng biến đổi gen đã được thương mại như chuột nhắt được cấy gen đặc biệt hóa từ năm 2011 [31], được trồng ở Hoa Kỳ và (oncogene, v-Ha-ras dưới sự kiểm soát của sự Canada từ năm 1997, đến năm 2010, có tới 86% kích thích virus gây ra khối u ở chuột) hoặc lợn là ngô biến đổi gen, năm 2011 có tới 32% ngô dòng Yorshine được biến đổi gen để tạo giống trồng trên thế giới là cây biến đổi gen [57]. Tới lợn với chi phí thức ăn ít và giảm giảm ô nhiếm năm 2011, các giống ngô biến đổi gen chống cỏ chất thải chứa photpho so với lợn thông thường. dại được trồng ở Argentina, Australia, Braxin, Trong số vi sinh vật biến đổi gen được sử Canada, Trung Quốc, Colombia, El Salvador, dụng, người ta đã tách, khuếch đại và khử hoạt EU, Honduras, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, hóa gen tạo băng ở vi khuẩn Pseudomonas Mexico, New Zealand, Philippines, Liên Bang siringae, sau đó cấy trở lại vi khuẩn tạo dòng Nga, Singapore, Nam Phi, Đài Loan, Thái Lan chống lại sự đóng băng tế bào thực vật. Hoặc để và Hoa Kỳ; còn giống ngô chống sâu hại đã tạo được vacxin viêm gan B, một trong những được trồng ở Argentina, Australia, Braxin, protein màng virus, kháng nguyên bề mặt viêm Canada, Chile, Trung Quốc, Colombia, Cộng gan B (HBsAg), chúng được tạo ra bởi các tế hòa Séc, Ai Cập, EU, Honduras, Nhật Bản, Hàn bào nấm men trong đó đã được cấy mã gen của Quốc, Malaysia, Mexico, Hà Lan, New HbsAg. Để có liệu pháp chữa bệnh về gen, Zealand, Philippines, Romania, Liên Bang Nga, 401
  6. Khuat Dang Long Nam Phi, Thụy Sĩ, Đài Loan, Hoa Kỳ và [48]. Gen mã hóa đối với độc tính Bt đã được Uruguay [62]. chuyển vào cây bông giúp cho cây bông tạo ra Khoai tây chuyển gen Amflora (còn có tên thuốc trừ sâu tự nhiên trong mô thực vật, những EH92-527-1) của hãng BASF tạo ra tinh bột cây bông này có chất gossypol (phenol tự chứa amylopectin thuần khiết vượt trội so với nhiên=phenolic aldehyde), một loại độc tố khoai tây sáp, giống khoai tây này đã được sử không ăn được. Tuy nhiên, gen tạo ra độc tố lại dụng trong công nghiệp ở các nước thuộc Cộng không được nhắc đến mà tiềm năng có thể có đồng châu Âu năm 2010 [51]. trong thực phẩm [57]. Đậu tương GTS 40-3-2 (OECD UI: MON- Một số nghiên cứu năm 2006 ở Trung Quốc Ø4Ø32-6 hay Roundup Ready Soybean) của đã cho thấy, bông chuyển gen Bt tạo ra để hãng Monsanto được trồng thương mại ở Hoa kháng với các loài bọ xít và rệp bông, một số Kỳ 1994, đưa vào Canada 1995, Nhật Bản và loài sâu hại thứ cấp trước đây có thể phòng Arhentina 1996, Uruguay 1997, Mexico và chống bình thường, nhưng sau 7 năm trên bông Brazil 1998 và Nam Phi 2001 [76]. Cà chua biến đổi gen, những loài này đã phải sử dụng Flavr Savr (còn có tên CGN-89564-2) của hãng thuốc ngang với cây bông truyền thống, đó là Calgene (California) tạo ra năm 1992 và được chưa kể đến giá thành hạt giống bông biến đổi tổ chức dược phẩm và lương thực Hoa Kỳ đánh gen cao hơn bình thường [68]. giá mức độ an toàn năm 1994 và phải đến năm Gen mã hóa đối với độc tính Bt đã được 1997 mới đưa vào sản xuất [49]. chuyển vào cây bông giúp cho cây bông tạo ra Lúa vàng (Golden rice) biến đổi gen từ thuốc trừ sâu tự nhiên trong mô thực vật, những giống lúa thông thường Oryza sativa, được tạo cây bông này có chất gossypol (phenol tự bởi công nghệ gen để tổng hợp beta-caroten nhiên=phenolic aldehyde), một loại độc tố (tiền thân của vitamin A) trong những phần ăn không ăn được, tuy nhiên gen tạo ra độc tố lại được của lúa [34]. Nghiên cứu được tiến hành không được nhắc đến mà tiềm năng có thể có với mục đích tạo ra thực phẩm bổ dưỡng được trong thực phẩm [57]. trồng và tiêu thụ ở những vùng có chế độ ăn Cây thuốc lá được sử dụng như sinh vật thiếu vitamin A [38]. Lúa vàng biến đổi gen mẫu trong nghiên cứu di truyền học. Các tế bào khác so với dòng lúa bố mẹ do được bổ sung BY-2 thuốc lá tách từ thuốc là N. tabacum, những gen tổng hợp beta-caroten 3. Riêng đối giống ‘Bright Yellow-2’ được sử dụng trong với lúa biến đổi gen được tạo ra bởi kỹ thuật di nghiên cứu tế bào học. Thuốc lá đóng vai trò truyền để sinh tổng hợp beta-carotene nhằm tiên phong trong nghiên cứu nuôi cây tế bào và khắc phục tình trạng thiếu vitamin A ở trẻ em làm rõ cơ chế hoạt động của kinetin (một loại nhưng chưa được sử dụng. Mặc dù ước tính, có cytokinin thuộc lớp hormone thực vật), là cơ sở tới 670.000 số trẻ em dưới 5 tuổi thiếu vitamin đối với công nghệ sinh học nông nghiệp hiện A [49]. đại. Thuốc lá chuyển gen được tạo ra năm 1982 Cây bông biến đổi gen tạo ra được đánh giá bằng việc sử dụng Agrobacterium tumefaciens là có triển vọng hơn cả, đó là trường hợp để tạo ra thuốc lá có khả năng kháng lại kháng chuyển gen mã hóa với độc tố BT (Bacillus sinh [39]. Thuốc lá chuyển gen được thử thuringiensis) vào cây bông có khả năng tạo ra nghiệm năm 1986 ở Hoa Kỳ và Pháp, sau đó thuốc trừ sâu tự nhiên trong mô tế bào chống lại năm 1993 Trung Quốc là nước đầu tiên trên thế các loài côn trùng gây hại. Năm 2011, Ấn Độ có giới đưa vào trồng đại trà thuốc lá biến đổi gen diện tích trồng bông biến đổi gen lớn nhất thế [20]. giới (12,1 triệu hecta), sau đó là Hoa Kỳ (4,0 Hiện nay, mô một loài cải dầu thuộc chi triệu ha), Trung Quốc (3,9 triệu ha), Pakixtan Arabidopsis [34] (A. thaliana) đã được nuôi cấy (2,6 triệu ha), các nước khác có diện tích lớn trong các dụng cụ siêu lỏng để nhằm tìm hiểu trồng bông biến đổi gen lần lượt là: Australia, cơ chế sinh sản giới tính ở loài A. thaliana. Năm Argentina, Myanmar, Burkina Faso, Brazil, 1995, lần đầu tiên một giống hạt cải dầu biến Mexico, Colombia, Nam Phi và Costa Rica đổi gen khác là Canola được đưa vào Canada, 402
  7. TẠP CHÍ SINH HỌC 2013, 35(4): 397-416 đến năm 2009, có 90% cây trồng chống chịu với trường hợp lợn phát sáng huỳnh quang được tạo thuốc trừ cỏ [40], còn vào năm 2005 có tới 87% ra năm 2000 ở Hoa Kỳ [11], Hàn Quốc năm là cải hạt dầu Canola biến đổi gen [6]. 2002 [36], Đài Loan năm 2006 và Trung Quốc Cà tím biến đổi gen của hãng Monsanto, vì 2009 [27]. Chúng được sử dụng để nghiên cứu có gen vi khuẩn Baccillus thuringensis (Bt) cấy ghép các cơ quan của người [63], phục hồi trong mô tế bào khi sâu đục quả và cắn rễ cây tế bào thụ cảm thị giác hoặc tế bào thần kinh chúng sẽ nuốt phải protein Cry1Ac của Bt từ trong não [53], thuốc phục hồi thông qua tế bào mô tế bào thực vật, trong ruột côn trùng, với gốc. Năm 2011, một nhóm nhà khoa học của pH>9,5 protein được hòa tan và hoạt hóa nhờ Nhật Bản và Hoa Kỳ đã tạo được mèo phát men proteasa, protein Bt kết hợp với những huỳnh quang xanh để tìm liệu pháp điều trị protein tiếp nhận đặc biệt có trong màng nhầy HIV/AIDS và một số bệnh khác [64]. Năm của côn trùng tạo ra các lỗ thủng ở màng, điều 2009, các nhà khoa học Nhật Bản thông báo này làm đảo lộn quá trình tiêu hóa, gây ra tình rằng họ đã chuyển thành công một gen vào cơ trạng tê liệt và gây chết cho sâu hại [49]. thể một loài khỉ đuôi sóc châu Mỹ và lần đầu tiên tạo ra được dòng ổn định loài khỉ biến đổi Những cây trồng biến đổi gen được tạo ra gen [56], được sử dụng với mục đích để nghiên nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, cụ thể cứu bệnh parkison, bệnh sơ cứng gây teo cơ và việc tạo ra các màu sắc mới cho thực vật, hoặc bệnh Huntington [14]. tạo ra những cây trồng khác nhau. Trong nghiên cứu, những thực vật được tạo ra nhờ kỹ thuật Hiện tượng biến đổi gen không theo ý muốn biến đổi gen giúp làm rõ các chức năng của một trong kỹ thuật biến đổi gen gặp trong số các cây gen nhất định. Một phương pháp làm được là trồng biến đổi gen để làm cảnh, trong đó hoa làm đứt gãy (knock out) gen được chú ý để xem hồng xanh là một thí dụ. Sau 13 năm hợp tác loại hinh nào phát triển. Một cách nữa là gắn nghiên cứu giữa công ty Florigene của Australia gen vào một chất hoạt hóa (promoter) mạnh để và Suntory của Nhật Bản, năm 2004 người ta đã xem điều gì xảy ra khi gen này biểu hiện. Một sử dụng kỹ thuật nạp gen chứa sắc tố màu xanh, kỹ thuật phổ biến được sử dụng đế tìm vị trí gen nhưng kết quả lại nhận được màu xanh nhạt này biểu hiện là gắn nó với GUS hoặc một gen phớt đỏ hoặc màu hoa cà [46]. biểu hiện (reporter gene) cho phép thấy được vị Khi kỹ thuật tái tổ hợp DNA được phát triển trí [33]. từ những năm 1980, công trình nghiên cứu đã Trong nông nghiệp, những cây trồng tạo ra tạo ra lúa mì đầu tiên, trùng hợp với cuộc cách bằng kỹ thuật biến đổi gen nhằm có được một mạng xanh lần thứ 3 [33]. Trong số ba loại cây số giống cây mong muốn, cụ thể chống chịu với lương thực quan trọng trên thế giới (ngô, lúa dịch hại, thuốc trừ cỏ hoặc những điều kiện gạo và lúa mì), lúa mì là cây cuối cùng được khắc nghiệt, sản phẩm có thời gian giữ lâu hơn, chuyển gen bằng phương pháp chuyển gen tăng giá trị dinh dưỡng hoặc sản xuất các sản biolistic năm 1992 và bằng phương pháp phẩm có giá trị như thuốc chữa bệnh. Từ năm Agrobacterium năm 1997 [46]. 1996, việc trồng thương mại những thực vật Sử dụng làm thực phẩm biến đổi gen chống chịu được với các loại thuốc Ở Hoa Kỳ, có khoảng 40 loài thực vật biến trừ cỏ glufosinate và glyphosate, kháng được đổi gen được chấp nhận sử dụng như hàng hóa. bệnh khảm virus như đu đủ biến đổi gen ở Trong số cây trồng sau khi được đưa vào sản Hawaii và tạo ra được độc tố Bt mà không gây xuất từ năm 1996, các giống đậu tương kháng độc cho động vật [86]. Những loài thực vật như cỏ dại đã chiếm gần 27%, ngô biến đổi gen tảo, dầu mè, ngô và một số thực vật khác được chiếm khoảng 25% [69]. Số lượng cây trồng biến đổi gen để sản xuất nhiên liệu sinh học. kháng cỏ dại chiếm tới 54%, kháng sâu hại Các nhà khoa học đang cố gắng tạo ra một chiếm 37%, kháng bệnh virus chiếm 14%. Theo số sinh vật biến đổi gen với mục đích nghiên James (1997) [32], một số lượng lớn chủ yếu là cứu y học, trong đó có protein phát quang màu cây trồng biến đổi gen, trong khi những cải xanh lá cây (green fluorescent protein). Đó là thiện về chất lượng của cây trồng để đáp ứng sự 403
  8. Khuat Dang Long tăng trưởng và thành phần dinh dưỡng chỉ đoán bệnh về gen nhắm tới các tế bào sinh chiếm dưới 1%. Đây là chủ ý của các công ty đa dưỡng, được gọi là “Chẩn đoán bệnh về gen ở quốc gia chào bán trọn gói thuốc trừ sâu và thực dạng phôi thai” và còn đang gây nhiều tranh cãi vật biến đổi gen [26]. và dường như không chắc sẽ được phát triển Năm 2011, các nhà khoa học Trung Quốc trong tương lai gần. đã tạo ra được bò sữa biến đổi gen với các gen Sử dụng cho nghiên cứu khoa học như người để tạo ra được sữa như ở người [66]. Động vật biến đổi gen phục vụ nghiên cứu Họ tuyên bố rằng những con bò này không khác những ảnh hưởng của sự thay đổi gen ở loài so với bò bình thường không được biến đổi gen. ruồi Drosophila melanogaster bởi vì chúng có Điều này được cho là có lợi ích tiềm tàng đối vòng đời ngắn, có hệ gen tương đối đơn giản có với những người mẹ không có thể tạo ra sữa thể so sánh với những loài động vật không nhưng không muốn sử dụng sữa tổng hợp. Cùng xương sống [74]. Người ta đã thống kê hàng năm 2011, kết quả tương tự cũng nhận được ở năm có từ 50-100 triệu người trên thế giới các nhà khoa học ở Arhentina và ở New nhiễm dịch sốt xuất huyết, trong đó mỗi năm có Zealand năm 2012 [29]. tới 40.000 người bị chết [44]. Năm 2010, muỗi Sử dụng làm thuốc chữa bệnh kháng được bệnh sốt rét đã được nghiên cứu trong phòng thí nghiệm [13, 20, 70]. Con đực ở Hóa chất trong thuốc lá gây hại cho sức loài muỗi biến đổi gen này có chứa một gen gây khỏe, nhưng cây thuốc lá biến đổi gen có thể chết được phát triển để chống lại tốc độ lan cung cấp loại kháng sinh chống virus gây bệnh bệnh sốt xuất huyết do loài muỗi vằn Aedes dại. Chi phí rất lớn để sản xuất các loại kháng aegypti gây ra [71]. sinh chữa bệnh dại tại các nước đang phát triển nên đôi khi ngay cả người giàu cũng không thể Đến nay, người ta mới thử tạo ra cá biến đổi tiếp cận những biện pháp điều trị bệnh dại tiên gen để tiến hành nghiên cứu di truyền học và sự tiến nhất. Vì vậy, giảm chi phí sản xuất kháng phát triển của chúng. Có hai loài cá nhỏ được sinh chống bệnh dại để nhiều người có thể tiếp biến đổi gen là các sọc và cá chọi, cả hai loài cận những phương pháp điều trị tiên tiến là giải này có lớp da trong suốt và phát triển nhanh, pháp tối ưu và lâu dài đối với các nước nghèo. phôi một tế bào của chúng dễ quan sát và vi Để làm được điều này, các nhà khoa học Anh đã phẫu với kỹ thuật DNA [24]. Mặc dù không gây đột biến gen của cây thuốc lá để chúng sản phải nguyên gốc được phát triển để buôn bán xuất một loại kháng sinh trong lá. Loại kháng làm cảnh, chúng chỉ là loài động vật được biến sinh này, được tạo nên bởi một số loại đường và đổi gen đầu tiên như loài vật nuôi, nhưng khi protein, có khả năng ngăn chặn sự di chuyển được đưa ra thị trường năm 2003 liền bị cấm ở của virus dại tới hệ thần kinh của người. Thậm California (Hoa Kỳ) [16]. chí nó còn ngăn cản virus tiếp xúc với những Đến nay, việc sử dụng hormone sinh trưởng dây thần kinh xung quanh vết cắn của động vật trong các cơ sở công nghiệp nuôi cá hồi được nhiễm bệnh dại. phát triển ít nhiều đã là áp lực cho cơ sở nuôi cá hồi hoang dã, bởi vì kỹ thuật sử dụng hormone Chẩn đoán bệnh về gen ở con người dẫn đến sự tăng đột ngột các loài cá như cá hồi Chẩn đoán bệnh về gen sử dụng các virus đỏ [59], cá hồi thông thường [15] và cá diêu biến đổi gen để đưa những gen có thể điều trị hồng [52]. Còn hãng công nghệ sinh học thông được bệnh của con người. Mặc dù chẩn đoán báo rằng, cá hồi biến đổi gen phát triển nhanh bệnh về gen còn tương đối mới, nhưng đã đạt chỉ bằng nửa thời gian so với cá hồi bình được một số kết quả. Việc tiến hành điều trị thường, kích thước cơ thể lại tăng gấp 2 lần, những rối loại về gen như thiều khả năng miễn loài cá hồi này đang nộp đơn xin được đưa ra dịch phối hợp trầm trọng và các liệu pháp được thị trường ở Hoa Kỳ, nhưng cho đến năm 2012 phát triển để chữa các bệnh nan y khác, thí dụ đơn này chưa được chấp thuận [1]. chứng xơ nang, thiếu máu di truyền, bệnh Một số cơ sở nghiên cứu khoa học trên thế parkinson và bệnh teo cơ [18, 20, 39, 50]. Chẩn giới phát triển loài cá sọc biến đổi gen (có các 404
  9. TẠP CHÍ SINH HỌC 2013, 35(4): 397-416 sọc màu đỏ, xanh lá cây, vàng cam, xanh da trời có được sự chính xác hơn trong phương pháp và đỏ tía) với mục đích theo dõi ô nhiễm nước mà các gen được lựa chọn tương phản với qua sự thay đổi màu sắc của chúng phụ thuộc những kỹ thuật đột biến bằng việc sử dụng tia vào các chất gây ô nhiễm và được sử dụng như phóng xạ hoặc hóa chất có thể trải qua những một loại cảm biến [9, 41, 43, 75]. thay đổi về gen không mong muốn và không Những quan điểm ủng hộ sinh vật biến đổi gen kiểm soát cho thế hệ con cháu (mặc dù những biện pháp này vẫn được sử dụng rộng rãi và Hiện nay, những người ủng hộ nhiệt tình được chấp nhận trong canh tác hơn phương việc sử dụng sinh vật biến đổi gen đều dựa vào pháp biến đổi gen). những lý lẽ cho rằng: có thể sản xuất được hạt giống chống lại những điều kiện khắc nghiệt Những quan điểm phản đối sinh vật biến đổi gen của môi trường; tạo ra thực phẩm chủ yếu giàu Những người phản đối việc sử dụng sinh vật dinh dưỡng hơn; tạo ra các động vật nuôi có biến đổi gen lại đưa ra những lý lẽ cho rằng: năng xuất hơn; tạo ra nhiều thực phẩm trên diện gen có thể chuyển từ loài này sang loài gần gũi tích nuôi trồng nhỏ hơn và ở đất nghèo dinh khác (từ cây kháng cỏ dại sang cỏ dại) và làm dưỡng; giảm được nhu cầu sử dụng hóa chất; tăng tính kháng của chính cỏ dại; gen được thực phẩm được bảo quản lâu hơn; có thể tạo ra chuyển có thể làm tăng tính đột biến có hại khó vacxin hoặc dễ dàng hơn trong việc xác định lường trước; những gen lặn có thể xuất hiện những căn bệnh bằng sử dụng dấu hiệu của gen ngẫu nhiên, còn gen hoạt hóa biến mất có thể hoặc xác định sớm các gen dị tật. tạo ra những hiệu ứng nhất định khi gen lặn Lý lẽ duy nhất để ủng hộ cho việc sử dụng xuất hiện bởi các tác nhân kích thích làm cho lúa mì biến đổi gen là sự cần thiết nuôi sống chúng cùng hoạt động, những gen mới có thể nhiều người đang bị đói ăn trên thế giới [21], thay đổi các kiểu tập tính vốn có trong các chức người ta cho rằng chỉ có phương pháp chuyển năng tự nhiên; những cây trồng biến đổi gen có gen mới có thể tin chắc phát triển nhanh những thể thay thế các giống cây trồng truyền thống dòng lúa mì đủ có năng xuất thích hợp duy trì hoặc cạnh tranh với thực vật tự nhiên và thay được dân số trái đất. thế chúng bằng phiên bản biến đổi gen; các cây trồng biến đổi gen có tính kháng với loài sâu hại Những gen chịu trách nhiệm với tuổi thọ có thể có hại đối với các loài côn trùng có ích của lúa mì có thể đảo ngược được sử dụng bằng khác (thiên địch của sâu hại) hoặc cho loài thụ các cách chuyển gen tạo ra lúa mì với rễ mọc tự phấn cho cây trồng; những gen dị tật có thể nhiên, sản lượng hạt tốt và có thể phát triển được chuyển giữa gen thực vật và động vật; quanh năm [8]. Ngoài việc năng xuất cây biến sinh vật biến đổi gen được chứng minh an toàn đổi gen tăng lên, thực nghiệm tiếp theo về cây cho động vật nhưng có thể đảo lộn chuỗi dinh biến đổi gen đang hướng đến thay đổi lúa mì dưỡng của người; những gen đánh dấu mang lại đảm bảo nhiều dinh dưỡng hơn [4]. Những cố sức đề kháng với kháng sinh cũng có thể làm gắng tăng giá trị dinh dưỡng của lúa mì tập tăng sự chống chịu kháng sinh ngoài ý muốn và trung vào việc bổ sung các axit amin, các cuối cùng các công ty đa quốc gia có thể tăng sự vitamin và khoáng chất và các dầu đặc biệt [77]. độc quyền trong kiểm soát hạt giống và sản Nhằm hấp dẫn người tiêu dùng, những kỹ phẩm lương thực. thuật chuyển gen cố gắng tăng hàm lượng Những ý kiến phản đối việc sử dụng lúa mì gluten để sử dụng trong các sản phẩm bánh mì biến đổi gen cho rằng loài người đối mặt với [27, 36, 63] và giảm ảnh hưởng gây dị ứng [35]. nguy cơ thiếu lương thực là do việc khai thác Những phương pháp biến đổi gen thậm chí còn không bền vững hệ sinh thái, ngay cả việc sử được sử dụng để làm tăng sức khỏe bằng việc dụng sinh vật biến đổi gen cũng không giải nâng cao lignin trong lúa mì được cho là có các quyết được những vấn đề khác của loài người đặc tính kháng ung thư. như bùng nổ dân số, sự can thiệp vào nông Nhằm hấp dẫn các nhà môi trường, những nghiệp quá mức, thiếu năng lượng. Vì vậy, điều kỹ thuật chuyển gen đã cố gắng chứng minh là cần không phải sinh vật biến đổi gen mà là 405
  10. Khuat Dang Long những phương pháp nông nghiệp hiện đại [64]. Âu bảo vệ nguồn giống hữu cơ và cổ truyền Hơn nữa, sử dụng lúa mì biến đổi gen có thể khỏi bị nhiễm sinh vật biến đổi gen để thiết lập đưa những thay đổi DNA vào người mà chưa có những vùng không sinh vật biến đổi gen; biến thể dự báo trước được [56]. Tạo ra những thay đổi gen hay không biến đổi gen? quyền và cơ đổi nhanh hơn nhiều có thể không cho phép con hội của việc tự định đoạt trong khu vực; thực người có thời gian tiến hóa cùng với thực vật. vật cho tương lai-cách nhìn nhận khác nhau của Việc trồng lúa mì biến đổi gen ở phạm vi kinh tế sinh học và những thách thức phía trước; rộng sẽ tạo ra hiện tượng độc canh, điều này ủng hộ vùng không có sinh vật biến đổi gen như làm đảo lộn các sinh cảnh và hệ sinh thái và làm những vấn đề nóng, tương tự như những tác giảm đa dạng sinh học. Lý do ở đây là các loài động của năng lượng nông nghiệp đến nông sinh vật khác không thể thích nghi nhanh với nghiệp bền vững; ủng hộ đa dạng nông nghiệp việc sử dụng ngay cây biến đổi gen làm thức ăn không có GMO; các vùng không sinh vật biến được [58]. đổi gen; ủng hộ quan điểm “Thực phẩm và Dân chủ” trong việc lựa chọn một hình thái nông Kịch bản khác trong việc sử dụng cây trồng nghiệp gắn với tự nhiên không có sự can thiệp; biến đổi gen chống chịu với bệnh hoặc thuốc trừ giải quyết những vấn còn tranh cãi với Tổ chức cỏ sẽ tạo ra siêu cỏ dại mà khi đó không có biện An toàn Thực phẩm châu Âu. pháp nào để phòng chống chúng [44], hoặc cây biến đổi gen có thể truyền DNA cho các loài Những quan điểm về khả năng xuất hiện rủi hoang dã như các loài côn trùng khó kiểm soát ro và nguy cơ việc sử dụng sinh vật biến đổi [40]. gen hiện nay và việc đánh giá nguy cơ của chúng Người dân ở một số nước đang lo lắng về việc chính phủ nhiều nước hoãn thu mua lúa mì Hiện nay, có thể thấy được khá rõ hai quan biến đổi gen khi họ đã làm ra [6], trong khi họ điểm khác nhau rõ rệt trong cách ứng xử với hoàn toàn phụ thuộc vào nhà cung cấp hạt giống những sinh vật biến đổi gen và việc sử dụng nó. cây biến đổi gen, vì lý do bản quyền, họ không Trong nhiều tài liệu, đặc biệt ở các nước có còn khả năng tạo ra và giữ lại được giống từ công nghệ sinh học phát triển như Hoa Kỳ và chính cây do họ trồng để dùng cho những năm một số nước thuộc EU, mặc dù đây là những tiếp theo [73]. Đó là trường hợp ở Thái Lan vào nước tạo ra được những sinh vật biến đổi gen năm 1999, các nhà khoa học thông báo họ đã mang tính thương mại toàn cầu, nhưng những phát hiện được lúa mì biến đổi gen đến từ Hoa quan điểm về việc cần phải đánh giá toàn diện Kỳ mặc dù lúa mì biến đổi gen chưa từng được nguy cơ tiểm ẩn và mức độ rủi ro của GMO chấp nhận cho bán mà chỉ được trồng trong các thường được đưa ra thảo luận một cách công ô thí nghiệm nhưng không ai giải thích được tại khai và thẳng thắn, đặc biệt những nguy cơ mà sao lúa mì biến đổi gen lại có trong nguồn thức GMO có thể trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra cho ăn [23]. người và vật nuôi, cho môi trường, giảm đa dạng sinh học, gây tổn hại cho ngành kinh tế Những ý kiến phản đối cây trồng biến đổi khác . Những quan điểm này thường được số gen không chỉ giới hạn trong một quốc gia và đông ủng hộ nhiều khi đi ngược lại lợi ích của tồn tại trong cộng đồng các nước phát triển, những công ty tạo ra cây trồng hoặc thực phẩm bằng chứng là từ năm 2003 đến 2012, ở các biến đổi gen. quốc gia thuộc EU lần lượt đã có 8 Hội thảo quốc tế về những vùng không sinh vật biến đổi Còn ở những quốc gia chậm phát triển hoặc gen (GE/GMO free regions). Đại biểu tham gia đang phát triển, do sức ép về tăng dân số, cạn các hội thảo có những quan điểm: ủng hộ hành kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, nhu cầu về động thực tiễn và chiến lược của các tổ chức xã lương thực và thực phẩm là một vấn đề cấp thiết hội khuyến khích sản xuất nông nghiệp và thực và luôn được ưu tiên hơn so với những vấn đề phẩm truyền thống không cần biến đổi gen và về môi trường, năng lượng và sức khỏe con phản đối sức ép buộc chấp nhận biến đổi gen người. Cũng chính vì lý do này, ở những quốc trong nông nghiệp; kêu gọi các tổ chức ở châu gia nghèo, người ta có thể không quan tâm hoặc 406
  11. TẠP CHÍ SINH HỌC 2013, 35(4): 397-416 nhiều khi dễ dàng chấp nhận nguy cơ tiềm ẩn trúc và chức năng của các protein. Hiện nay, hoặc rủi ro của những sinh vật biến đổi gen mà những kết luận đã được công bố cho rằng sữa từ theo họ xảy ra chậm hơn so với việc thiếu lương những con bò được xử lý bằng hoocmon BGH thực và thực phẩm đang xảy ra hàng ngày (!). có thể góp phần cho rủi ro ung thư tuyến vú do Chính vì vậy, việc đánh giá nguy cơ rủi ro của tăng nồng độ IGF-1 trong sữa [22, 25, 47]. GMO chỉ được tiến hành sau khi được cảnh báo Một thí dụ nữa về sự khác biệt giữa thuốc lá hoặc sau khi đã đưa vào sử dụng rộng rãi. biến đổi gen tạo ra axit gamma-linolenic, thay Hiện nay, còn có rất ít kinh nghiệm về sản vì cây thuốc lá chủ yếu tạo ra chất độc là axit xuất và tiêu thụ GMO ở phạm vi lớn, việc đề octadecatetraenic, còn thuốc lá thông thường xướng thương mại hóa trước tiên cây trồng biến không có chứa chất này [54]. Khi nấm men đổi gen đang tập trung vào những tiến bộ giả được biến đổi gen để thu được quá trình lên định, đặc biệt trong bối cảnh về tình trạng thiếu men tăng lên, người ta nhận thấy ngoài mong trầm trọng dinh dưỡng toàn cầu [7]. Những ý đợi là methyl-glyoxal chuyển hóa tích lũy trong kiến chống đối lại chưa có được cơ sở, chưa độc tố và tập trung gen đột biến [28]. chắc chắn về mối nguy hại tiểm tàng cho sức khỏe của cộng đồng và môi trường, còn nếu Khi một gen từ một loại quả hạch Braxin khăng khăng nguyên tắc cảnh báo có thể chỉ được cấy vào những cây đậu tương, người ta ghi mang tính chất cầu khẩn [26, 55]. Nhận thức về nhận được những phản ứng do dị ứng gây ra lợi ích và rủi ro cũng như nguy cơ tiềm ẩn của mạnh ở những người chưa bao giờ gặp bất cứ sinh vật chuyển gen, cả hai phía (ủng hộ và vấn đề với các sản phẩm đậu tương, còn gen phản đối) còn tranh cãi nhau nhằm thu hút sự được cấy vào không cung cấp thông tin gì về chú ý của các nhà chính trị, các chuyên gia, gen dị ứng đã biết [45]. người buôn bán và khách hàng. Khi vi khuẩn Bacillus amyloliquefaciens Chưa có tài liệu nào đề cập đến những rủi ro được sử dụng biến đổi gen để tạo được mức độ của cây trồng biến đổi gen được trồng ở Việt tăng amino axit L-tryptophan, mà amino axit Nam [37], nếu có cũng mới chỉ là một số ít dẫn này được sử dụng rộng rãi trong thuốc như một chứng hoặc những nhận định về khả năng có thể thực phẩm bổ sung dinh dưỡng. Trong những xảy ra về nguy cơ trong việc phát tán gen tạo ra thuốc đó, lượng nhỏ của một loại độc tính, đó là loài cỏ dại mới (cải dầu và cải hoang dã, lúa phân tử có liên quan đến tryptophan đã được biến đổi gen); xuất hiện nòi sâu hại kháng Bt; xác định [60]. Liệu điều này có phải là nguyên thay đổi cấu trúc quần xã chân khớp do thiếu nhân của hội chứng đau cơ easinophilia (EMS) hụt thiên địch chuyên tính của sâu hại chủ đích đã gây ra cho 1.500 trường hợp có dấu hiệu đau hoặc gia tăng sâu hại không chủ đích, giảm số thần kinh kinh niên chưa bao giờ được làm rõ, lí lượng các loài bắt mồi (bông biến đổi gen Bt) so do vì nguồn gốc biến đổi gen từ vi khuẩn không với bông bình thường; gen Bt đối với ong mật, sẵn có để điều tra [3]. loài thụ phấn, tằm; với sinh vật trong đất (độc tố Những tác động về môi trường Bt do cây có biến đổi gen Bt tiết vào đất). Các nhà khoa học từ Viện nghiên cứ cây Rủi ro từ những thay đổi trong sinh vật trồng Xcốtlen ở Dundee đã chứng minh ảnh chuyển gen và sản phẩm của chúng hưởng sinh thái trực tiếp của khoai tây biến đổi Trong thời gian dài khi hoocmon tăng gen. Khoai tây biểu hiện gen lecthin được cấy trưởng bò (BGH) bằng kỹ thuật gen được tiêm vào để ngăn sự gây hại của rệp muội, trên khoai cho những con bò để tăng sản lượng sữa, những tây, loài bò rùa ăn rệp hại ở giống khoai tây nhà sản xuất tuyên bố là việc này giống hệt với chứa lecthin kéo dài thời gian sống và khả năng bò tự nhiên. Sau đó một nghiên cứu độc lập cho sinh sản giảm đáng kể. Tương tự, các nhà thấy rằng epsilon-N-acethyllisine đã được thay nghiên cứu ở Trung tâm Hoàng gia Thụy Sĩ thế cho lysine trong hoocmon được truyền [67]. nghiên cứu Sinh thái học nông nghiệp ở Zurich Những thay thế các aminoacid có thể gây những đã chứng minh thiệt hại nặng đối với một loài hậu quả không lường trước được đối với cấu côn trùng có ích, thuộc nhóm cánh lưới ăn rệp 407
  12. Khuat Dang Long muội, bị ảnh hướng bởi độc tính Bt có trong ngô Đa dạng sinh học là tổng cộng những sinh biến đổi gen [69]. Đây hoàn toàn là một vấn đề vật sống từ vi sinh vật, thực vật và động vật ở cả nông nghiệp toàn cầu khi biến mất các loài kẻ ba cấp độ đa dạng gen, đa dạng loài và đa dạng thù tự nhiên của loài hại cây trồng, quá trình hệ sinh thái. Kết quả điều tra đa dạng sinh học này xảy ra nhanh sẽ là một bi kịch. đã chỉ ra rằng, sự đa dạng loài tập trung cao ở Những thí nghiệm ở Đan Mạch và Xcốtlen những vùng nóng ẩm gần về phía xích đạo. Rõ đã chỉ ra rằng một loài cải dầu biến đổi gen có ràng, sự đa dạng của thảm thực vật đã kéo theo thể lan truyền gen được cấy qua thụ phấn chéo các loài động vật khác sử dụng thực vật làm với cây cải dầu hoang dại [42]. Trong khi đó, thức ăn, điều này cũng dẫn đến sự đa dạng của những thí nghiệm ở Pháp đã chứng minh việc các loài sử dụng các loài động vật ăn thực vật. chuyển gen chống chịu từ cải dầu qua thụ phấn Như vậy, khi cây trồng biến đổi gen tạo ra một chéo với củ cải [10]. Những thí dụ tương tự với hệ sinh thái hoặc sinh quần thuần khiết với cây tốc độ chuyển gen với khoảng cách xa đã được trồng biến đổi gen như ở trên sẽ không thể tạo chứng minh ở các loài thực vật biến đổi gen ra được một hệ sinh thái đa dạng cũng như đa khác. Trên cơ sở này, ở các nước thuộc EU, các dạng về loài. nông trại cây trồng hữu cơ gần với vùng trồng Ở một số nước phát triển, sau khi đưa một cây biến đổi gen đã có những hành động hợp số cây trồng biến đổi gen vào sản xuất như ngô, pháp bước đầu khi những sản phẩm dán nhãn cà chua, khoai tây, bông và thuốc lá, một nỗi lo “hữu cơ” của họ có thể bị thu hẹp. lắng chưa được giải thích thỏa đáng cho những Hiện tượng tự thụ phấn giữa thực vật biến người nuôi ong mật ở đây là liệu từ mật và phấn đổi gen và thụ phấn chéo với thực vật không hoa của những cây trồng biến đổi gen nói trên biến đổi gen đã ngày càng tăng lên [5]. Thí dụ được ong đem về có gây hại cho chính đàn ong điển hình ở cây cải dầu Arabidopsis thaliana, cũng như sức khỏe của con người sử dụng sản bởi vì gen CSR-1 được cấy ghép vào những cây phẩm từ mật và phấn hoa này. Nhiều ý kiến cho khác nhau như một cây được lựa chọn biến đổi đây hoàn toàn có thể được xem như một nguy thay thế những gen chống chịu với kháng sinh. cơ tiềm ẩn chưa được đánh giá về mức độ suy giảm trong quần thể ong mật ở những vùng có Cây bông biến đổi gen với các gen kháng cây trồng biến đổi gen [79, 80, 81, 82]. được chất trừ cỏ đã chứng minh hai kiểu trục trặc, một số trường hợp cây bị rụng quả nang, ở Điều này hoàn toàn có thể xảy ra đối với một số cây không có biểu hiện gen kháng, ong mật khi bị nhiễm bệnh vi bào tử nosema, những cây này bị chết khi phun thuốc trừ cỏ dại, nhưng nếu ăn phấn hoa của cây trồng biến đổi trong khi những nhà cung cấp giống cây biến gen sẽ giảm thế đàn nhanh hơn so với những đổi gen lại cho rằng đó là do điều kiện khí hậu đàn ong mật ăn phấn hoa của ngô thông thường. khắc nghiệt [19]. Một số ý kiến cho rằng mặc dù chưa thể khẳng Nguy cơ tiếm ẩn đối với suy giảm đa dạng định tác dụng gây chết trực tiếp của Bt có trong sinh học (động vật, thực vật khác) phấn hoa ngô biến đổi gen đối với ong mật, nhưng đã chỉ ra được sự xuất hiện cao hơn của Có một thực tế không thể phủ nhận, khi vi bào tử nosema có liên quan đến áp lực khi chấp nhận cây trồng biến đổi gen, trong các hệ cùng tồn tại với Bt. sinh thái nông nghiệp, diện tích cây trồng đơn canh tăng lên, số lượng các loài thực vật giảm đi Hiện nay còn một nghịch lý giữa tiến bộ kéo theo sự giảm số lượng của các loài động khoa học và thực tiễn, đó là những cây trồng vật. Chính những cây trồng biến đổi gen làm biến đổi gen được tạo ra do tiến bộ của khoa tăng tính thuần khiết về di truyền và làm tăng sự học công nghệ nhưng có thể vì một lý do nhạy độc canh cây trồng trong một phạm vi rộng, cảm nào đó lại không công bố những kết quả những cây trồng này góp phần cho sự suy giảm nghiên cứu về rủi ro của những cây trồng biến về đa dạng sinh học và làm tăng tính chất dễ bị đổi gen [83]. tổn thương của cây trồng đối với biến đổi khí Nguy cơ tiềm ẩn cho sinh kế hoặc một ngành hậu, sâu bệnh hại. kinh tế khác 408
  13. TẠP CHÍ SINH HỌC 2013, 35(4): 397-416 Ngay cả phấn hoa có trong mật ong và phấn hưởng sức khỏe nghiêm trọng và kinh niên; từ hoa từ cây trồng biến đổi gen chưa được đánh việc trồng và tiêu thụ lúa LLRICE601 biến đổi giá về mức độ rủi ro liệu có thể xếp ngang hàng gen dị ứng; bệnh và cái chết của động vật được với thực phẩm dinh dưỡng bổ sung nguyên chất. kiểm nghiệm với thực phẩm biến đổi gen. Khi Vì vậy, sản phẩm này chưa được chấp thuận gen của vi khuẩn Baccillus thuringensis (Bt) thay thế trên thị trường. Lý do ở chỗ nguy cơ được đưa vào cây trồng biến đổi gen nhằm tạo của việc chuyển gen theo chiều ngang từ phấn ra cây kháng lại các loài sâu hại thì liệu gen này hoa lẫn vi khuẩn axit lactic trong ruột ong mật qua thực phẩm từ cây trồng biến đổi gen vào cơ vẫn chưa được nghiên cứu. thể của người và vật nuôi có khả năng kháng lại Sự lo lắng của những người nuôi ong đều có các chất kháng sinh, hậu quả là không sử dụng cơ sở khoa học, bởi vì trong tự nhiên, phạm vi được kháng sinh cho những bệnh mắc phải ở kiếm ăn của ong mật thường từ 3-5 km, chính vì người và động vật. vậy, mặc dù một số cây trồng chuyển gen đã Sự ô nhiễm di truyền của các giống lúa địa được thông qua bằng những qui định chính thức phương bởi LLRICE601ở Hoa Kỳ, từ cuối năm của EU, việc đánh giá nguy cơ và những rủi ro 2007, LLRICE601 bị phát hiện trong lúa và sản của các sản phẩm phụ khác nhau từ cây trồng phẩm gạo ở 32 quốc gia. Nông dân ở Hoa Kỳ đã chuyển gen như mật và phấn hoa vẫn chưa được mất hàng triệu đô la do sự giảm mạnh về giá, thông qua. Hậu quả là trong hoặc gần vùng lệnh cấm gạo hạt dài của Hoa Kỳ và mất thị trồng cây biến đổi gen, sản phẩm mật và phấn trường. Nông dân ở Arkansas không có khả hoa có nguy cơ mất thị trường. Một bằng chứng năng tìm đủ hạt giống không bị ô nhiễm di khá rõ về rủi ro từ cây trồng chuyển gen ở châu truyền. Thu hoạch thấp hơn, những tổn thất do Âu là những người nuôi ong ở gần vùng có cây người cung cấp và người bán lẻ thực phẩm đó là trồng biến đổi gen không bán được hoặc gặp chưa kể lãng phí nguồn vốn của công chúng cho khó khăn trong việc trao đổi buôn bán các sản việc khảo sát, kiểm tra, kiểm soát, thu hồi, loại phẩm từ mật và phấn hoa. bỏ, kiện tụng vv Cần phải xét đến những nguy cơ của cây Về những nguồn cung cấp cây trồng biến đổi trồng biến đổi gen cho một ngành kinh tế khác, gen hiện nay nguy cơ sẽ lớn hơn khi ngành kinh tế này từ cây Hiện nay, có một sự trùng lặp rất đáng quan trồng hoặc vật nuôi truyền thống có sản phẩm tâm, đó là cả 5 công ty lớn cung cấp giống cây xuất khẩu chủ yếu của một quốc gia. Vì vậy, trồng biến đổi gen đều là những nhà sản xuất hiện nay ngô biến đổi gen MON 810 của hãng thuốc hóa học có danh tiếng hoặc ít nhất trong Monsanto chưa có được giấy phép đưa ra bán quá khứ, mỗi công ty cũng đã để lại những hậu trên thị trường thực phẩm ở châu Âu. Kết luận quả tai hại không được kiểm soát của những hóa về sự an toàn của cây trồng biến đổi gen mới chỉ chất độc dưới thương hiệu của họ. dựa vào kết quả thí nghiệm phấn hoa của những Bắt đầu từ Monsanto, công ty sản xuất hạt cây này không hấp dẫn côn trùng hơn cây tự giống lớn nhất thế giới cũng là công ty thuốc trừ nhiên (hiện tại, ở Cộng hòa liên bang Đức, hãng sâu lớn thứ 4 thế giới. Monsanto chiếm 25% thị Monsanto đã bị cấm thử nghiệm ngô biến đổi trường hạt giống độc quyền và 10% thị trường gen của họ). Chính vì vậy, hiện nay ở châu Âu, thuốc trừ sâu. Đây là nhà sản xuất chất DDT để đưa một loại cây trồng biến đổi gen ra thị (1944), Agent Orange, kích thích tố tăng trưởng trường, những qui định mới được đưa ra phải có giống bò tái tổ hợp DNA, đường hóa học và bằng chứng khẳng định được sự an toàn của các thuốc trừ cỏ Roundup (glyphosate). Trong số đó sản phẩm của ong mật từ vùng trồng ngô biến Agent Orange của Monsanto đã được sử dụng đổi gen, nếu không những người nuôi ong có trong chiến tranh Việt Nam, với 1.000x chất thể yêu cầu hãng sản xuất bồi thường thiệt hại dioxin đậm đặc hơn các dạng hợp chất khác mà cho họ [85]. hậu quả của nó cả thế giới đều đã biết. Nguy cơ tiềm ẩn đến sức khỏe con người có Tiếp theo là hãng Syngenta, nhà cung cấp thể kể đến việc sử dụng và phun glufosinate ảnh thuốc trừ cỏ Atrazine, một chất có thể làm rối 409
  14. Khuat Dang Long loạn nội tiết các loài động vật lưỡng cư. Còn chúng ta có thể mua hóa chất và giống cây trồng hãng danh tiếng Bayer, công ty nông dược lớn biến đổi gen được bán dưới các thương hiệu của thứ 2 thế giới và là công ty hạt giống đứng thứ 7 các công ty hóa chất nói trên nhưng chưa rõ trên thế giới. Những hóa chất của công ty này sản thế giới đã có bao nhiêu phần trăm người tiêu xuất cần quan tâm như Endosulfan, Methyl dùng đã mua lương thực, thực phẩm và thuốc parathion và đặc biệt khí độc Sarine có thể gây chữa bệnh dưới thương hiệu của các công ty chết hàng loạt trong quá khứ, còn Endosulfan có này. thể gây ô nhiễm toàn cầu liên quan đến sự tổn THẢO LUẬN hại lâu dài. Ngoài ra, hãng Beyer còn sản xuất Khi con người tạo ra được những sinh vật và bán Imidacloprid và Clothianidin, được sử biến đổi gen (GMO), mặc dù chưa có nhiều dụng rộng rãi như thuốc diệt côn trùng, thuốc nghiên cứu đánh giá về rủi ro và mối nguy hiểm trừ sâu thuộc nhóm Neonicotinoids gây hại cho do chúng gây ra nhưng các nhà khoa học có tư loài ong. Hãng này đã tạo ra lúa biến đổi gen tưởng phê phán đều khẳng định việc còn thiếu LLRICE601 để kháng với thuốc trừ cỏ những bằng chứng về rủi ro của GMO không Glufosinate-ammonium (Bayer là nhà sản xuất phải là bằng chứng về mức độ an toàn của lớn loại thuốc cỏ này), nhưng chất này lại có thể chúng [1]. gây tác hại về thần kinh và sinh sản và không có thuốc giải độc cho Glufosinate-ammonium. Khi tìm hiểu giá trị và những đặc tính tốt của sinh vật biến đổi gen, rất ít người quan tâm Còn hãng BASF, một công ty hóa chất lớn đến rủi ro hoặc mức độ nguy hại mà chúng có nhất thế giới và công ty hóa chất nông nghiệp thể đem đến cho con người, cả những rủi ro có thứ 3 thế giới, BASF có quan hệ đối tác với thể nhận dạng được và những rủi ro tiềm ẩn công ty giống lớn nhất thế giới TNCs. Những chưa xuất hiện. Quan điểm này thường gặp ở hóa chất độc của công ty này đã được sử dụng những nước nghèo và chậm phát triển như ở trong chiến tranh có thể kể đến như trên đã đề cập. Ammonium, Chromium. Công ty này cung cấp cây trồng Clearfield, được sản xuất bởi BASF Trước hết, sinh vật biến đổi gen đều là gồm lúa gạo, ngô, lúa mì, hướng dương, cây hạt những sinh vật sống, được sản xuất hàng loạt cải dầu và được trồng ở nhiều nước. Cây trồng như một loại hàng hóa, chúng chắc chắn sẽ làm Clearfield chống chịu thuốc trừ cỏ phong phú cho đa dạng sinh học, có thể xếp Imidazolinones được bán dưới thương hiệu GMO thuộc đa dạng gen. Về tương lai lâu dài, BASF. Nguy hiểm của thuốc trừ cỏ trong quá trình phát triển, GMO sẽ có sự thích imidazolinones ở chỗ nó tồn đọng lâu trong nghi với môi trường mới, chúng hoàn toàn có nước, làm tổn thương mắt nghiêm trọng và gây khả năng lai tạo tự nhiên, có thể do sự biến đổi tổn thương não. các yếu tố môi trường, những sinh vật biến đổi gen sẽ có những thích nghi với những điều kiện Hai công ty còn lại cũng cần được lưu ý là mới để tồn tại và phát triển. công ty hóa chất DOW và DUPONT. Vụ nổ nhà Với một cây trồng biến đổi gen (GM crops) máy thuốc trừ sâu ở Bhopal (Ấn Độ) đã gây hậu rất có hiệu quả trong việc kháng lại các loài quả nguy hiểm do việc tràn hóa chất, còn thuốc dịch hại cũng như thuốc trừ cỏ. Về lý thuyết, diệt cỏ Bromacil và Diuron của DUPONT được điều này rất có lợi cho các nhà trồng trọt, loài sử dụng trong trang trại dứa ở Costa Rica đã cây trồng biến đổi gen này đang được chào đón. làm ô nhiễm nặng nguồn nước uống ở vùng Tuy nhiên, để có thể thích nghi với điều kiện nông thôn. mới, những loài sâu hại đích (loài hại vẫn sử Mặc dù hỗ trợ cho hoạt động của công ty dụng cây trồng này trước khi có sự xuất hiện trên là những tổ chức hợp pháp như Ngân hàng cây trồng biến đổi gen) và theo quy luật của Thế giới (WB), Tổ chức Thương mại toàn cầu chọn lọc tự nhiên, các loài côn trùng hại sẽ có (WTO), Tổ chức Tiền tệ quốc tế (IMF), Viện phương thức sống mới bằng cách lựa chọn loài nghiên cứu lúa Quốc tế (IRRI) và tổ chức Phát cây khác làm thức ăn mà không phải cây trồng triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID). Tuy nhiên, biến đổi gen. Kết quả cuối cùng, hoặc chúng sẽ 410
  15. TẠP CHÍ SINH HỌC 2013, 35(4): 397-416 hình thành nhanh các biotype mới hoặc chúng lắng chưa được giải thích thỏa đáng cho những sẽ trở thành loài hại chủ đích trên những cây người nuôi ong mật ở đây là liệu mật và phấn trồng gần gũi khác, gặp điều kiện thuật lợi, hoa từ những cây trồng biến đổi gen nói trên chúng có thể gây hại trầm trọng hơn. Trong điều được ong mật lấy về có gây hại cho đàn ong kiện sử dụng gen kháng hoặc phun quá mức cũng như sức khỏe của con người sử dụng sản thuốc trừ sâu hóa học, đã thúc đẩy việc hình phẩm từ mật và phấn hoa này. Đây cũng có thể thành nhanh các biotype ở rầy nâu hại lúa, ở các được xem như một nguy cơ chưa được đánh giá loài bọ phấn Bemesia; hoặc tăng khả năng các khi chưa có những nghiên cứu nghiêm túc. loài côn trùng hại cây cỏ dại (đã bị thuốc trừ cỏ Tạo ra sản phẩm, chào bán hàng và tiêu thụ tiêu diệt) chuyển sang gây hại cây trồng khi mất thực phẩm biến đổi gen còn gây nhiều tranh cãi. cây cỏ dại này làm thức ăn. Việc gắn nhãn cho thực phẩm biến đổi gen ở Khi có loài cây trồng kháng được thuốc trừ EU vấp phải những tranh cãi nghiêm túc xoay cỏ, người sản xuất có thể sẽ thoải mái hơn trong quanh mối quan tâm và quan điểm của mỗi việc sử dụng các loại thuốc trừ cỏ để phòng quốc gia thành viên. Vương quốc Anh, Áo, chống cỏ dại trên đồng ruộng của họ. Còn rất ít Luxembourg, Pháp và Hy Lạp đưa ra quy định nghiên cứu chỉ rõ mức độ ô nhiễm đất hay nước tạm ngừng sử dụng thực vật biến đổi gen, còn ngầm ở những vùng mà thuốc trừ cỏ được sử Hội đồng tư vấn môi trường của Nghi viện châu dụng với lượng không được kiểm soát. Cuối Âu kêu gọi một qui định tạm ngừng có hạn chế. cùng, lợi ích kép vẫn thuộc về các công ty vừa Những nhà trồng trọt cây trồng hữu cơ ở một số sản xuất cây trồng biến đổi gen vừa cung cấp nước trong EU đã kiện một số tổ chức nhà nước thuốc trừ cỏ dại, còn trong trường hợp có hai và thương mại với lý do những đánh giá rủi ro công ty độc lập nhau giữa sản xuất GM crops và của cây trồng biến đổi gen dựa trên cơ sở khoa thuốc trừ cỏ, chắc chắn họ sẽ hợp tác chặt chẽ học không loại trừ khả năng thụ phấn chéo của để cùng hưởng lợi do GM crops đem lại. các cây trồng biến đổi gen. Còn ở Hoa Kỳ, sự Đến nay chưa có bằng chứng rõ ràng về khả thương mại hóa thực vật biến đổi gen gặp ít sự năng của các loài động vật và thực vật biến đổi phản đối từ phía chính phủ hoặc người tiêu gen có thể sản sinh ra được thế hệ con cháu hay dùng, còn ở các nước bán đảo Scandinavia hầu hạt giống hay chưa, và điều này sẽ đem lại lợi như không có sự phản đối của công chúng [76]. thế tuyệt đối hoặc sự độc quyền cho các công ty Đến nay, mặc dù những cây trồng biến đổi tạo ra cây trồng biến đổi gen, làm mất đi dự lựa gen đã được thông qua bằng những nghị định chọn của người trồng trọt và chăn nuôi tự tạo ra chính thức của EU, nhưng việc đánh giá rủi ro loài vật nuôi và cây trồng truyền thống của của các sản phẩm phụ khác nhau từ cây trồng mình. Như vậy, mỗi sinh vật biến đổi gen được biến đổi gen như mật và phấn hoa lại chưa được tạo ra sẽ có khả năng thúc đẩy nhanh hơn sự thông qua. Phấn hoa có trong mật ong và phấn mất đi sự đa dạng sinh học trong tự nhiên. hoa nguyên chất được coi như thực phẩm dinh Nếu như tạo ra được các loài ong mật biến dưỡng bổ sung chưa từng được đánh giá rủi ro, vì đổi gen có năng xuất mật cao, với khả năng bay vậy, chưa được chấp thuận thay thế trên thị xa và có tần suất hoạt động mạnh dường như sẽ trường. Hơn nữa, nguy cơ của việc biến đổi gen hấp dẫn những người nuôi ong. Tuy nhiên, khi theo chiều ngang từ phấn hoa lẫn vi khuẩn axit tần suất hoạt động mạnh, ong mật có thể sục sạo lactic trong ruột ong mật vẫn chưa được xét đến. và tàn phá không thương tiếc những cánh đồng Nếu như chưa sử dụng protein trực tiếp từ hoa, những vườn cây ăn quả và nhiều loài thực động vật biến đổi gen thì không có bằng chứng vật có hoa lưỡng tính. Bài học về hiệu quả ngược về tác hại và những rủi ro mà chúng đem lại, do việc thả tràn ngập ong mật để thụ phấn cho nhưng ít ra chúng ta đang hướng đến việc sử cây trồng cũng đã được khẳng định [17]. dụng một cách gián tiếp các nguồn thức ăn và Ở một số nước phát triển, sau khi đưa một thực phẩm (sữa, thịt, cá, mật ong, vitamin và số cây trồng biến đổi gen vào sản xuất như ngô, các loại thực-dược phẩm khác). Đây là các loại cà chua, khoai tây, bông và thuốc lá, một nỗi lo thực phẩm từ các loài động vật hoặc sản phẩm 411
  16. Khuat Dang Long của chúng được dinh dưỡng thực vật biến đổi và cần được đảm bảo bằng những hợp đồng bảo gen. Tuy nhiên, chưa có bằng chứng nào khẳng hiểm thận trọng khi xảy ra rủi ro mà chúng ta định được sự vô hại của những sản phẩm này, vẫn chưa biết thế nào là vừa và đủ. hoặc rủi ro vẫn còn dưới dạng tiểm ẩn như Thực tế, việc tạo ra những sinh vật biến đổi những khuyết tật bẩm sinh mà hiện nay con gen, cây trồng biến đổi gen (GM crops) hoặc người chưa hoặc rất khó giám sát được. thực phẩm từ GMO bằng phương pháp công Khi đưa ra một nghị định chấp thuận sản nghệ gen chính xác và phức tạp đã bổ sung cho xuất lớn bất cứ một loại sinh vật biến đổi gen kho từ vựng những từ được ưu ái trong đời sống nào, nếu không có những quy định bổ sung về hiện nay, hy vọng điều này sẽ không làm xuất đánh giá tác động của các sản phẩm phụ từ hiện những khái niệm hay thuật ngữ mới để chỉ chúng, mọi nguy cơ do sinh vật biến đổi gen nguy cơ và rủi ro cho con người, vật nuôi và gây ra đều hoàn toàn là có thực. Thí dụ để nhập môi trường hoặc làm suy giảm đa dạng sinh học con giống hay hạt giống cây trồng biến đổi gen mà chúng ta sẽ gặp và phải khắc phục. từ nơi khác đến đã tiến hành đánh giá nguy cơ Như vậy, khi bàn về mức độ an toàn của những loài dịch hại có khả năng đi theo loại những GMO, cây trồng biến đổi gen hoặc thực hàng hóa đặc biệt (con/hạt giống) này hay phẩm từ sinh vật biến đổi gen, nếu chỉ dựa vào lí không (?); hay việc nuôi trồng cây biến đổi gen luận theo logic thông thường có thể sẽ đưa ra có làm giảm diện tích cây trồng truyền thống và những nhận xét hoặc kết luận chủ quan hoặc cực tự nhiên khác đến mức dẫn tới giảm diện tích đoan. Đơn giản là cho tới nay, chưa có phương nuôi thả ong hoặc khi chưa có nghiên cứu pháp định lượng chuẩn xác trong nghiên cứu nghiêm túc và kết luận về ảnh hưởng trực tiếp giám sát và đánh giá nguy cơ và những rủi ro của của cây trồng biến đổi gen qua mật và phấn hoa. sinh vật biến đổi gen. Chính vì vậy, thử nghiệm Về khía cạnh này hầu như chưa có nghiên cứu về tác dụng phụ của sinh vật biến đổi gen mang liên tục nào về ảnh hưởng trực tiếp từ thực tính chất thương mại không nên xem là công phẩm từ sinh vật biến đổi gen, vì vậy, chưa có trình nghiên cứu khoa học thực thụ. một tổ chức hoặc cá nhân nào có thể khẳng định chắc chắn và bảo đảm tuyệt đối về mức độ an Nhằm đánh giá nguy cơ và rủi ro của sinh toàn của các sản phẩm phụ do cây trồng biến vật biến đổi gen để có đủ bằng chứng khoa học, đổi gen đem lại như đã đề cập ở trên. ngoài những phương pháp nghiên cứu khách quan và chính xác, những số liệu khoa học MỘT SỐ NHẬN XÉT khách quan và đầy đủ này cần phải được chia sẻ Những thông tin trong bài viết này đều dựa trước khi kết luận chúng sẵn sàng là thực phẩm theo các tài liệu tham khảo đã được công bố, cho con người sử dụng. Nếu không, người tiêu qua hệ thống từ khóa, độc giả có thể biết thêm dùng sẽ luôn có sự phân biệt giữa thực phẩm nhiều hơn về sinh vât biến đổi gen (GMO). Tuy không biến đổi gen (GMO-free food) với thực nhiên, có thể tin chắc rằng, những thông tin về phẩm biến đổi gen (GMO food), cũng giống số lượng chủng loại GMO, bản chất hoặc lợi ích như việc phân biệt cây trồng hữu cơ (organic của chúng thường gặp nhiều hơn những thông crops), thực phẩm sạch không có thuốc trừ sâu tin về đánh giá nguy cơ hoặc ghi nhận những rủi (pesticide-free food) với thực phẩm có sử dụng ro của chúng. thuốc trừ sâu. Ở đây, cần nhắc lại việc thiếu hoặc chưa có Nhìn chung, các sinh vật biến đổi gen (động bằng chứng về rủi ro của sinh vật biến đổi gen vật và thực vật) đều tiềm ẩn những nguy hại không phải là bằng chứng cho sự an toàn của chưa thể lường hết được đối với sức khỏe con chúng. Có thể còn nhiều người chưa tin có nguy người và hệ sinh thái, vì vậy, cần phải có đủ cơ hoặc rủi ro từ GMO, nhưng cũng cần phải thời gian để nhận diện hết các mặt trái này. nhận ra rằng nguy cơ là chính đáng và khách Cũng vì con người chưa từng có tiền lệ sử dụng quan. Về sự an toàn của GMO, cần có những thực phẩm từ GMO nên không một tổ chức, cá phương pháp thử nghiệm chính xác (cũng chính nhân nào có thể đảm bảo tính an toàn tuyệt đối xác và chi tiết như phương pháp tạo ra chúng) của chúng. So với các loài động, thực vật truyền 412
  17. TẠP CHÍ SINH HỌC 2013, 35(4): 397-416 thống thì sinh vật biến đổi gen khó kiểm soát 2. Anne Ingeborg Myhr, Terje Traavik, 2003. hơn nhiều, mà nguyên nhân cơ bản nhất vẫn là Journal of Agricultural and Environmental vì con người tuy tạo ra chúng, nhưng lại chưa Ethics, 16: 227-247. hiểu hết về chúng. 3. Australian Gen-Ethics Network, 1994. The Những người ủng hộ thực phẩm từ sinh vật troubled helix. Vol. 3, (ISBN 0-85802-115- biến đổi gen cho rằng, đã đến lúc con người cần 3 08502-095-5. mạnh dạn hơn trong suy nghĩ về loại thực phẩm 4. Baur A., Reski R., Gorr G., 2005. Plant mới này. Vì chỉ can thiệp vào một số gen cụ thể, Biotech. J. 3: 331-340. chẳng hạn như gen miễn dịch với bệnh sốt ở "lợn 26", hay gen tăng trưởng ở cá hồi 5. Bergelson J., Purrington C. B., Wichmann Aquabounty, nên các động vật biến đổi gen vẫn G, 1998. Promiscuity in transgenic plants. giữ được gần như nguyên vẹn bộ gen di truyền Nature, 395: 25. gốc. Chỉ có xét nghiệm DNA toàn phần mới 6. Britt Erickson, 2009. For Chemical & phân biệt được sự khác biệt rất nhỏ này, từ đó Engineering News. FDA Approves Drug nhiều nghiên cứu đã cho rằng chúng là những From Transgenic Goat Milk. thực phẩm an toàn. 7. Brown L. R. (ed), 1997. State of the world. Các động vật biến đổi gen nhìn chung có Worldwatch Institute, Washington. Norsk tính thân thiện với môi trường rất cao khi việc utgave: Jordens tilstand. H. Aschehoug & trồng trọt hoặc chăn nuôi chúng tốn ít hơn các Co (W. Nygaard), Oslo. tài nguyên thiên nhiên, như đất đai và nước 8. Büttner-Mainik A. et al., 2011. Plant ngọt. Lấy cá hồi biến đổi gen Aquabounty làm Biotechnology Journal, 9: 373-383. thí dụ, sự ra đời của chúng đã góp phần làm giảm số lượng cá bị đánh bắt trong tự nhiên, từ 9. Carvan M. J. et al., 2000. Transgenic đó bảo vệ được tính đa dạng sinh học. zebrafish as sentinels for aquatic pollution. Ann N Y Acad Sci., 919: 133-47. Giữa thực phẩm không biến đổi gen (GMO- free food) và thực phẩm từ sinh vật biến đổi gen 10. Chevre A. M., Eber F., Baranger A., Renard (GMO food) chừng nào còn tồn tại hai luồng M., 1997. Gene flow from transgenic crops. quan điểm tán thành và phản đối thì phán quyết Nature, 389: 924. cuối cùng chỉ khi đã thống nhất được hai quan 11. Cabot R. A., Kühholzer B., Chan A. W. S., điểm. Trong nhiều năm tới, có lẽ thực phẩm Lai L., Park K.-W., Chong K.-Y., Schatten truyền thống không biến đổi gen vẫn chiếm ưu G., Murphy C. N. et al., 2001. Animal thế, bởi vì nguy cơ (risk) vẫn được hiểu như Biotechnology, 12(2): 205-214. một khả năng có thể, còn rủi ro hoặc mối nguy doi:10.1081/ABIO-100108347. hại (hazard) là hậu quả khi nguy cơ là có thực. 12. Clive James, 2010. Global Status of Đánh giá nguy cơ cần được dựa trên những khả Commercialized Biotech/GM Crops: 2010. năng xảy ra rủi ro (hazard), phân tích hoặc đánh ISAAA Brief No. 42. ISAAA: Ithaca, NY. giá nguy cơ (risk) có liên quan đến những điều kiện chủ quan và khách quan làm tăng khả năng briefs/42/. xảy ra rủi ro, và vì vậy, cần có các phương pháp chính xác nhằm dự báo và kiểm soát được rủi 13. Corby-Harris V., Drexler A., Watkins De ro, khi đó tương lai của thực phẩm từ sinh vật Jong L., Antonova Y., Pakpour N., Ziegler biến đổi gen, việc chấp nhận hay từ chối chúng R., Ramberg F., Lewis E. E. et al., 2010. mới có câu trả lời cuối cùng. Vernick, Kenneth D ed. PLoS Pathogens, 6(7): e1001003. doi:10.1371/journal.ppat. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1001003. 1. Andrew Pollack for the New York Times, 14. Cyranoski D., 2009. Nature, 459(7246): 2012. An Entrepreneur Bankrolls a 492-492. doi:10.1038/459492a. Genetically Engineered Salmon. 15. Devlin R. F. et al., 2001. Growth of 413
  18. Khuat Dang Long domesticated transgenic fish. Nature, 409: 32. James C., 1997. Global status of transgenic 781-782. plants in 1997. ISAAA Briefs, 5. ISAAA, 16. Eric Hallerman Glofish, 2004. The First GM Ithaca, New York. Animal Commercialized: Profits amid 33. Jefferson R. A., Kavanagh T. A., Bevan M. Controversy. W., 1987. EMBO journal, 6(13): 3901- 17. Ernesto I. Badano, Carlos H. Vergara, 2011. 3907. Agricultural and Forest Entomology, 13(4): 34. Johnston S. A, Tang D. C., 1994. Methods 365-372. DOI: 10.1111/j.1461-9563.2011. in Cell Biology, 43 Pt A: 353-365. 00527.x. 35. Kawarasaki T., Uchiyama K., Hirao A., 18. Foster K., Foster H., Dickson J. G., 2006. Azuma S., Otake M., Shibata M., Tsuchiya Gene Ther., 13(24): 1677-85. doi:10.1038/ S., Enosawa S. et al., 2009. Journal of sj.gt.3302877. Biomedical Optics, 14(5): 054017. 19. Fox J. L., 1997. Nature Biotechnol, 15: doi:10.1117/1.3241985. 1233. 36. Lai L., Park K. W., Cheong H. T., Holzer 20. Gallagher James, 2011. GM mosquitoes B., Samuel M., Bonk A., Im G. S., Rieke A. offer malaria hope BBC News, Health. et al., 2002. Molecular Reproduction and Development, 62(3): 300-306. doi:10.1002/ 21. Gasdaska J. R. et al., 2003. BioProcessing mrd.10146. Journal, 49-56. 22. Gebauer G., JŠger W., Lang N., 1998. 37. Phạm Văn Lầm, 2012. Côn trùng và động Anticancer Res, 18(2A): 1191-1195. vật hại nông nghiệp Việt Nam. Nxb. Nông nghiệp, 492-507. 23. Guelph, 2010. Enviropig. Canada: 38. Lee L. Y., Gelvin S. B., 2008. Plant ml/. Physiol., 146(2): 325-332. 24. Hackett P. B., Ekker S. E., Essner J. J., 39. Lewitt P. A., Rezai A. R., Leehey M. A., 2004. Fish Development and Genetics (Z. Ojemann S. G., Flaherty A. W., Eskandar E. Gong and V. Korzh, eds.) World Scientific, N., Kostyk S. K., Thomas K. et al., 2011. Inc., Chapter 16: 532-580. The Lancet Neurology, 10(4): 309-319. doi:10.1016/S1474-4422(11)70039-4. 25. Hawkinson S. E., Willett W. C., Colditz G. A., Hunter D. J., Michaud D. S., Deroo B. et 40. Louis-Marie Houdebine, 2009. Comparative al., 1998. Lancet, 351: 1393-1396. Immunology, Microbiology & Infectious 26. Ho M. W., 1998. Genetic Engineering: Diseases, 32(2): 107-121. Dream or Nightmare? Gateway Books, 41. Mattingly C. J. et al., 2001. Environ Health Bath, UK. ISBN 1-85860-051-0. Perspect, 109(8): 845-9. 27. Hogg Chris, 2006. Taiwan Breeds Green- 42. Mikkelsen T. R., Andersen B., JØrgensen Glowing Pigs BBC. R.B., 1996. Nature, 380: 31. 28. Inose T. Murata K., 1995. Int. J. Food 43. Nebert D. W. et al., 2002. Environmental Science Tech., 30: 141-146. Health Perspectives, 110(1): A15. 29. Jabed A., Wagner S., McCracken J., Wells 44. Nicholls H., 2011. Swarm troopers: Mutant D.N., Laible G., 2012. Proceedings of the armies waging war in the wild The New National Academy of Sciences. Scientist. doi:10.1073/pnas.1210057109. 45. Nordlee J. A., Taylor S. L., Townsend J. A., 30. Jackson D. A., Symons R. H., Berg P., Thomas L. A., Bush R. K., 1996. New Engl 1972. PNAS, 69(10): 2904-2909. J. Med., 14: 688-728. 31. Jaenisch R., Mintz B., 1974. Proc. Natl. 46. Nosowitz Dan, 2011. Suntory Creates Acad. Sci., 71(4): 1250-1254. Mythical Blue (Or, Um, Lavender-ish) Rose 414
  19. TẠP CHÍ SINH HỌC 2013, 35(4): 397-416 Popular Science Lepidopteran-resistant An Assessment of the Benefits, Safety, and transgenic plants (US Patent 6313378, Nov. Oversight of Plant Genomics and 2001, Monsanto). Agriculture Biotechnology. For the One 47. Outwater J. L., Nicholson A., Barnard N., Hundred and Sixth Congress Second 1997. Med Hypotheses, 48: 453-61. Session. 48. Panesar Pamit et al., 2010. Enzymes in Food 62. Spencer L., Humphries J., Brantly M., 2005. Processing: Fundamentals and Potential New England Journal of Medicine, 352: 19. Applications, Chapter 10, I K International 63. Staff, 2008. Fluorescent Chinese pig passes Publishing House, ISBN 978-9380026336. on trait to offspring AFP. 49. Park F., 2007. Physiol. Genomics, 31(2): 64. Staff, 2012. Biology of HIV National 159-173. doi:10.1152/physiolgenomics. Institute of Allergy and Infectious Diseases. 00069.2007. 65. Schatten G., Mitalipov S., 2009. Nature, 50. Persons D. A., Nienhuis A. W., 2003. Curr. 459(7246): 515-516. doi:10.1038/459515a. Hematol. Rep., 2(4): 348-55. 66. Stevenson Heidi, 2011. 51. Proceedings of the National Academy of health.com/articles401/000433-human- Sciences, 2001. 98(21): 11931-11936. genes-cows-produce-human-milk.shtml/. 52. Rahman M. A. et al., 2001. Growth and 67. Violand B. N., Schlittler M. R., Lawson C. nutritional trials on transgenic Nile tilapia Q., Kane J. F., Siegel N. R., Smith C. E., containing an exogenous fish growth Kolodziej E. W., Duffin K. L., 1994. Protein hormone gene. Journal of Fish Biology, Sci., 3: 1089-97. 59(1): 62-78. 68. Walsh Gary, 2005. Appl. Microbiol. 53. Randall S. et al., 2008. Biotechnology and Biotechnol., 67(2): 151-159. doi:10.1007/ Genetic Engineering Reviews, 25: 245-266. s00253-004-1809-x. 54. Reddy S. A., Thomas T. L., 1996. Nature 69. Williams N., 1998. Science, 281: 768-71. Biotechnol, 14: 639-42. 70. Windbichler N., Menichelli M., Papathanos 55. Rissler J., Mellon M., 1996. The ecological P. A., Thyme S. B., Li H., Ulge, U. Y., risks of engineered crops. The MIT Press, Hovde B. T., Baker D. et al., 2011. Nature, Cambridge, Massachusetts. 473(7346): 212-215. doi:10.1038/ 56. Sasaki E., Suemizu H., Shimada A., nature09937. Hanazawa K., Oiwa R., Kamioka M., 71. Wise De Valdez M. R., Nimmo D., Betz J., Tomioka I., Sotomaru Y. et al., 2009. Gong H.-F., James A. A., Alphey L., Black Nature, 459(7246): 523-527. W. C., 2011. Proceedings of the National doi:10.1038/nature08090. Academy of Sciences, 108(12): 4772. 57. Sathasivam K., Hobbs C., Mangiarini L. et doi:10.1073/pnas.1019295108. al., 1999. Philos. Trans. R. Soc. Lond., B, 72. Americanradioworks.publicradio.org/feature Biol. Sci., 354(1386): 963-969. doi:10.1098/ s/gmos_india/history.html. rstb.1999.0447. 73. Canada. Enviropig-Environmental Benefits | 58. Schatten G., Mitalipov S., 2009. Nature, University of Guelph. Uoguelph.ca. 459(7246): 515-516. doi:10.1038/459515a. 74. First Transgenic Mice and Fruit Flies. 59. Shao Jun Du et al., 1992. Nature 75. National University of Singapore Enterprise Biotechnology, 10: 176-181. webpage. 60. Sidransky H., Verney E., Cosgrove J.W., 76. Phys. Org website, 2005. Plant gene Latham P. S., Mayeno A. N., 1994. Toxicol replacement results in the world's only blue Appl. Pharmacol., 126: 108-13. rose. 61. Smith Nick, 2000. Seeds of Opportunity: 77. Protalix website - technology platform. 415
  20. Khuat Dang Long 78. Zebra Fish as Pollution Indicators. 82. com_content&view=article&id=11556:letti 79. ng-science-do-its-job). com_content&view=article&id=11573:gm- industrys-strong-arm-tactics-with- 83. researchers-nature-biotechnology. kaatz-hh/. 80. 84. news-items/11406-seedy-research- /risk-reloaded_engl.pdf. restriction–global-food-security. 85. 81. world.de/dw/article/0,,14843153,00.html. t/article/11311-scientific-american- 86. condemns-restrictions-on-gm-research. ets/bt.pdf NOTES ON GENETICALLY MODIFIED ORGANISMS, PERCEPTION OF THEIR BENEFITS, RISKS AND POTENTIAL HAZARDS Khuat Dang Long Institute of Ecology & Biological Resources, VAST SUMMARY Today, modern biotechnology refers usually the use of genes, and the process of genetic modification is emerging and advancing throughout the world that created genetically modified organisms (GMOs), including GM crops or GM foods, based on the pros and cons of GM organisms came up with the controversal points, this papper discussed about why it is no wonder that genetically modified foods are surrounded by public debate and concern. Arguments for the use of GMOs were often based on their preeminent characteristics that are beneficial to human. On the contrary, with this technology being so new, long term studies have not been conducted to confirm that this process is in fact safe, the arguments against GMOs were that genes may jump from one species to another, one of the greatest concerns is the long-term health affects that genetically modified foods will have on human health. Since gene technology introduces new, exotic genes, their location within the recipient cell DNA is unpredictable and with no possibility of targeting. This may result in unpredictable effects on the metabolism, physiology and biochemistry of the recipient, transgenic organism, effects not detected with traditional methods of control. When production, marketing and consumption of GM food are highly controversial, weighing the benefits and risks associated with emerging GM foods will be necessary to understand the degree to which society embraces or rejects genetically modified foods in the future. Keywords: GMO, GE/GM crops, GM plants, GM foods, benefits, biodiversity, hazards, risks. Ngày nhận bài: 18-4-2013 416