Văn học phương Tây 2 (Thế kỷ XIX)

pdf 136 trang phuongnguyen 3320
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Văn học phương Tây 2 (Thế kỷ XIX)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfvan_hoc_phuong_tay_2_the_ky_xix.pdf

Nội dung text: Văn học phương Tây 2 (Thế kỷ XIX)

  1. ĐẠI HỌC AN GIANG KHOA SƯ PHẠM BỘ MÔN NGỮ VĂN  Phùng Hoài Ngọc VĂN HỌC PHƯƠNG TÂY 2 thế kỷ XIX chủ nghĩa lãng mạn chủ nghĩa hiện thực LƯU HÀNH NỘI BỘ AN GIANG 2008 PHN-VHPT 2 trang 1
  2. Mục lục VĂN HỌC PHƯƠNG TÂY 2 (thế kỷ 19) Nội dung Trang Mở đầu 3 Khái quát về biến động cách mạng và những tư tưởng lớn 4 ở nước Pháp thế kỉ XIX Chương 1. CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN TÂY ÂU 1 Văn học Pháp Tác giả Victor Hugo 5 Thơ trữ tình 10 Kịch “Hecnanie” 11 Tiểu thuyết “Nhà thờ Đức bà Paris” 16 Tiểu thuyết “Những người khốn khổ” 18 Tiểu thuyết “Năm 93” 21 2 Văn học Anh 27 Walter Scott và tiểu thuyết “Ivanhoe” 28 Byron nhà thơ, nhà viết kịch và tiểu thuyết 29 30 3. Văn học Đức - Khái quát 35 Chương 2. CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC TÂY ÂU 37 1 Văn học Pháp Stendhale và tiểu thuyết “Đỏ và đen” Honore de Balzac và các tiểu thuyết : 47 Eugenie Grandet 50 Les Père Goriot (Lão Goriot) 51 Les Illusionss perdues (Vỡ mộng) Guy de Maupassant 63 Tiểu thuyết “Một cuộc đời” 64 2 Văn học Anh Charles Dikens và 2 tác phẩm tiêu biểu 65 Thaccerey và tiểu thuyết “Hội chợ phù hoa” 80 3 Văn học Đức – khái quát 82 Chương 3. VĂN HỌC LÃNG MẠN VÀ VĂN HỌC HIỆN THỰC MỸ 3.1. Sơ lược giai đoạn đầu (thế kỉ 17 và 18) 84 101 3.2. Hai tác gia tiêu biểu thế kỉ 19: Jack London và O’Henry 108 Tổng kết văn học Tây Âu thế kỉ XIX 114 Đọc thêm: Thi pháp chủ nghiã lãng mạn & thi pháp chủ nghĩa hiện thực 115 Phụ lục: Tình yêu trong đời và trong thơ , “Bố của Simon”, “Chiếc lá cuối cùng”. 135 Tài liệu tham khảo 136 PHN-VHPT 2 trang 2
  3. Mở đầu Thế kỉ 19, giai cấp tư sản ở nhiều nước Tây Âu lần lượt giành thắng lợi và củng cố chính quyền sau cuộc Cách mạng tư sản Pháp 1789. Công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa diễn ra đồng thời với sự phát triển của các ngành khoa học, công nghệ. Giai cấp vô sản dần dần lớn mạnh trở thành một lực lượng chính trị đối lập với giai cấp tư sản. Từ giữa thế kỉ 19, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển với qui mô lớn. Ðây cũng là thời kì xuất hiện những lý thuyết khoa học và tư tưởng lớn của thời đại như chủ nghĩa xã hội khoa học của Marx và Engels, thuyết tiến hoá của Darwin v.v. Văn học phương Tây thế kỉ này bao gồm nhiều khuynh hướng, trào lưu với nhiều tác phẩm nổi tiếng thế giới. Trong đó, hai trào lưu văn học chủ yếu là chủ nghiã lãng mạn và chủ nghĩa hiện thực đã hình thành ở hầu hết các nước phương Tây. Văn học các nước Tây Âu có những đặc điểm chung và cũng có những sắc thái riêng do hoàn cảnh đấu tranh xã hội, ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và sự kế thừa truyền thống văn nghệ của mỗi nước qui định. Giáo trình này chỉ giới thiêụ thành tựu văn học của một số nước như Pháp, Anh và Mĩ- những nền văn học tiêu biểu cho thời đại. Văn học Mỹ còn được giới thiệu sơ lược hai thế kỷ đầu tiên (XVII, XVIII) để bạn đọc nhìn rõ hơn sự tiếp nối của thế kỷ XIX và XX về sau. Phần văn học Pháp được giới thiệu kĩ nhất vì nó có tính chất tiêu biểu, điển hình và đạt thành tựu mẫu mực nổi bật hơn cả ở khu vực Tây Âu.  PHN-VHPT 2 trang 3
  4. Khái quát về biến động cách mạng và những tư tưởng lớn Cuộc cách mạng tư sản Pháp bắt đầu 14 tháng 7 năm 1789 đã mở ra một thời kì phát triển mới trong lịch sử châu Âu. Trong lịch sử thế giới đó là cuộc cách mạng tư sản duy nhất chiến thắng triệt để chủ nghĩa phong kiến lâu đời. Cách mạng Pháp đã mang lại sự thay đổi lớn lao trên tất cả mọi lĩnh vực của xã hội Pháp. Phái Jacobin kiên quyết đập tan tất cả mọi trở ngại phong kiến đã kìm hãm sự phát triển kinh tế, văn hoá xã hội và thiết lập một nền chuyên chính cách mạng. Nhiệm vụ lịch sử của họ là tiêu diệt chế độ phong kiến Pháp, mở đường cho chủ nghĩa tư bản và sự thống trị của giai cấp tư sản (1793). Cuộc đảo chính phản cách mạng ngày 9 Tecmidor (27.7.1794) đã đưa tầng lớp tư sản mới làm giàu bằng cách đầu cơ tích trữ trong mấy năm giao thời cách mạng mới lên nắm chính quyền. Phái Tecmido đã khủng bố những người cách mạng, đưa ra Hiến pháp phản động bãi bỏ quyền tuyển cử phổ thông, “Sự cai trị của viện chấp chính đã tạo điều kiện cho đời sống thật sự của xã hội tư sản mới vươn mạnh và phát triển đầy đủ”(Karl Marx). Thời kì này những cuộc nổi loạn của bọn bảo hoàng muốn phá bỏ nền cộng hoà để khôi phục chế độ quân chủ đã nổ ra ở Paris. Ở Vandet, tướng Napoleon Bonaparte đã nổi danh khi chỉ huy quân đội chống bọn phiến loạn trong nước và đánh thắng quân Áo trong chiến dịch thôn tính Italia. Giai cấp tư sản Pháp định thực hiện một chương trình to lớn dùng Italia làm bàn đạp chiếm toàn bộ châu Âu rồi tiến đánh Ai cập và Syrie. Giai cấp tư sản cần một chính quyền mạnh, dựa vào một tay kiếm vững chắc để trấn áp bọn bảo hoàng và phái cách mạng Jacobin, đồng thời tiến hành cuộc chiến tranh chống liên minh phong kiến châu Âu. Cuộc đảo chính ngày 18 tháng Sương mù (9-11-1799) đã chuyển chính quyền sang tay Napoleon thiết lập chế độ Tổng tài (1799) và nền Ðế chế I (1804). Chính phủ Napoleon là một chính phủ tư sản đã giữ gìn những thành quả cách mạng có lợi cho giai cấp tư sản. Ông đã khuyến khích phát triển công nghiệp, dự thảo bộ Dân luật là một văn bản luật pháp có hệ thống bảo đảm quyền tư hữu của giai cấp tư sản. Ðế chế Napoleon đã tiến hành chiến tranh xâm lược châu Âu và hầu hết các nước châu Âu đều bị đặt dưới quyền cai trị của đế quốc Pháp. “Napoleon đã giương cao ngọn cờ bình đẳng để đi thiết lập bất bình đẳng ở châu Âu”(Karl Marx). “Liên minh thần thánh” châu Âu gồm các nước Anh, Phổ, Aó, Nga, Tây Ban Nha đã chống lại Napoleon I, đặc biệt nhân dân Nga và nhân dân Tây Ban Nha đã anh dũng chiến đấu giải phóng dân tộc mình. Quân đội Pháp thực hiện đường lối xảo quyệt của Napoleon đã tham gia vào việc làm suy yếu các chế độ phong kiến ở châu Âu, tạo điều kiện cho giai cấp tư sản ở nước đó một cơ hội phát triển. Tuy vậy, chế độ áp bức của Napoleon đã thức tỉnh tinh thần dân tộc và sự nổi dậy của phong trào giải phóng dân tộc. Năm 1814, đế chế Napoleon sụp đổ, dòng họ vua Bourbon đưa các thế lực phong kiến lưu vong ở nước ngoài trở lại nắm chính quyền ở Pháp. Dưới chế độ vương chính Louis 18 phục hồi, đẳng cấp quí tộc và tăng lữ đòi chiếm lại ruộng đất đã bị cách mạng tịch thu. Mặc dù đã có bản Hiến chương của một chế độ Quân chủ lập hiến, nhà vua vẫn khuyến khích bọn bảo hoàng cực đoan hoành hành áp chế nhân dân. Dân chúng đã vùng dậy làm cuộc cách mạng tháng Bảy 1830. Một lần nữa, giai cấp tư sản lợi dụng thắng lợi PHN-VHPT 2 trang 4
  5. của nhân dân, thiết lập nền Quân chủ tháng Bảy với thực chất là chế độ tư sản, đứng đầu là Louis Philip ông vua của giai cấp tư sản tài chính. Những cuộc khởi nghĩa của nhân dân liên tục nổ ra những năm 1832, 1835. Giai cấp vô sản dần dần lớn mạnh và đấu tranh trực diện. Cuộc Cách mạng tháng Hai năm 1848 tái lập nền Cộng hoà. Cuộc Cách mạng tháng Sáu năm 1848 là cuộc đụng độ quyết liệt giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản ở nước Pháp. Từ đây một hố sâu ngăn cách những kẻ bảo vệ trật tự tư sản và quần chúng nhân dân lao động. Tính chất cách mạng của giai cấp tư sản Pháp đã tiêu tan và giai cấp vô sản trở thành một giai cấp tự giác bước lên vũ đài lịch sử. Do những mâu thuẫn nội bộ gay gắt, nền cộng hoà sụp đổ và cuộc đảo chính ngày 2 tháng 12 năm 1851 đã đưa Louis Napoleon lên ngôi hoàng đế của nền Ðế chế II. Dưới sự thống trị của Napoleon III, văn nghệ, báo chí bị kiểm duyệt gắt gao, đời sống nhân dân khốn cùng. Những thiệt hại về ngoại giao và quân sự từ sau 1860 đã làm cho Ðế chế II suy yếu và sụp đổ năm 1870. Công xã Paris bùng nổ ngày 18 tháng Ba năm 1871. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, giai cấp vô sản thể nghiệm việc giành và giữ chính quyền của mình. Sau 72 ngày chiến đấu dũng cảm, Công xã đã thất bại. Thế lực tư sản phản động đã khủng bố tàn bạo nhân dân lao động Paris. Công xã Paris đã tạo nên “một thời điểm mới có tầm quan trọng lịch sử toàn thế giới” (K.Marx). Nền cộng hoà Pháp từ những năm 80 sắp kết thúc giai đoạn chủ nghĩa tự do cạnh tranh để chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Và từ đây, cuộc đấu tranh giai cấp giữa tư sản và vô sản ngày càng diễn ra quyết liệt. Văn học Pháp thế kỉ 19 đã phản ánh những biến động cách mạng, những tư tưởng lớn của thời đại như chủ nghĩa xã hội không tưởng đầu thế kỉ và chủ nghĩa xã hội khoa học nửa sau thế kỉ, cuộc sống xã hội chính trị của nhân dân Pháp, nhiều trào lưu và khuynh hướng văn học liên tục xuất hiện qua các thời kì khác nhau với nhiều tác giả danh tiếng. Chương 1. CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN TÂY ÂU 1 Văn học Pháp 1.1 Chủ nghiã cổ điển “mới” và âm vang văn học cách mạng tư sản Trong những năm đầu của Cách mạng Pháp (1789-1794), chủ nghĩa cổ điển lại xuất hiện và ngự trị nền văn học. Dòng văn học này tiếp tục khuynh hướng quay về nghệ thuật cổ đại và có nhiều nét chung với chủ nghĩa cổ điển trước cách mạng. Nhưng về nội dung ý thức hệ, nó hoàn toàn khác biệt. Chủ nghĩa cổ điển “mới”sau Cách mạng phản ánh cuộc đấu tranh của đẳng cấp thứ ba nhằm đạt được tự do chính trị và quyền bình đẳng trong xã hội mới sau khi đã lật đổ giai cấp phong kiến quí tộc. Nó miêu tả những thắng lợi của cách mạng và niềm hân hoan của nhân dân đặt lợi ích chung trên lợi ích riêng tư. Xã hội tư sản mới ra đời cũng cần một chủ nghĩa anh hùng để biểu dương và củng cố chế độ mới. Nhưng những nhân vật tư sản cũng sớm bộc lộ những mặt trái của họ nên nhà văn muốn dựa vào những hình tượng cổ đại. “Họ tìm thấy trong những truyền thống cổ điển của nền cộng hoà La Mã những lí tưởng về hình thức nghệ thuật, những ảo tưởng mà họ cần thay thế cho những nội dung hạn chế tư sản nhằm duy trì sự hân hoan của tấn bi kịch lớn lao” (K.Marx). PHN-VHPT 2 trang 5
  6. Từ đó hình thành các thể loại đa dạng như bi kịch cổ điển, tụng ca, trào phúng, bài ca cách mạng. Cách mạng đã đóng cửa các phòng khách thính văn nghệ (salon), phát triển báo chí để tạo nên dư luận công chúng mới, mở rộng diễn đàn cho các cuộc tranh luận với thể loại mới : văn hùng biện chính trị, xuất hiện một số nhà hùng biện tài năng như Mirabeau. 1.2 Văn học lãng mạn Pháp phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp trong khoảng giữa hai cuộc Cách mạng (1789 và 1848). Ðúng như nhận định của Marx, khuynh hướng lãng mạn là sự phản ứng đầu tiên đối với Cách mạng Pháp và tư tưởng Ánh sáng gắn liền với cuộc cách mạng đó . Văn học lãng mạn đã kế thừa các nhân tố sau : Chủ nghĩa tình cảm, một tư trào văn chương thế kỷ 18 ra đời nhằm cân đối với tính lý trí của văn học Ánh sáng 18 vốn nặng về lý trí. Về triêt học, chủ nghĩa lãng mạn chủ yếu mang tính duy tâm chủ quan. Đặc biệt văn học lãng mạn chịu ảnh hưởng khá sâu của học thuyết “chủ nghĩa xã hội không tưởng“ của Owen và Furier. Về nghệ thuật, thiên về tính trữ tình yêu thiên nhiên như một phương thức giải thoát thư giãn, phản ứng với hiện thực xã hội ngột ngạt bon chen. Văn học lãng mạn vẫn có chú ý ít nhiều đến hiện thực đau khổ của người lao động. Nghệ thuật xây dựng nhân vật chưa chú ý xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình, nó là cá nhân dị biệt, ngẫu nhiên, bất chấp sự vận động của hoàn cảnh khách quan. Tính chất nhân đạo tràn ngập các tác phẩm lãng mạn. Các tác giả tiêu biểu Bà De Stan (1767-1817)- nhà tiểu thuyết Ở đầu thế kỉ, bà là nhà văn góp phần định hướng cho nền văn học mới về mặt lí luận. Bà đã khẳng định những ưu thế của xúc cảm trong văn học và mở ra chân trơi của sự giải phóng văn học khỏi những qui phạm của chủ nghĩa cổ điển. Bà đã mở rộng ý niệm về cái đẹp khi quan tâm đến những kiệt tác văn chương của nước Pháp và các dân tộc khác. Bà có khả năng kết hợp sự hiểu biết và sáng tạo khi giới thiệu văn học Ðức với công chúng Pháp qua những tác phẩm lí luận và hai cuốn tiểu thuyết lãng mạn “Delphin” và “Corin hay là Italia”, chỉ ra nội dung tình cảm cao thượng và chất trữ tình tràn trề, sống động của nó. Trong một bức thư gửi W.Goethe, nhà văn Schiller viết : “không có gì là vay mượn, sai lạc và yếu đuối ở bà Stan, bà là tinh thần Pháp đầy trí tuệ và thuần khiết. Bà muốn soi sáng, thâm nhập, đo lường tất cả. Bà không chấp nhận một điều gì tối tăm và tắc tị. Bà kinh sợ chủ nghĩa thần bí và sự mê tín”. Chateaubriand (1768-1848) - nhà văn Nhà văn lớn thứ hai mở đầu chủ nghĩa lãng mạn là Chateaubriand. Ông là nhà văn tiêu biểu của khuynh hướng lãng mạn tiêu cực ở Pháp. Xuất thân dòng dõi quí tộc, rơi đất nước sau cách mạng và năm 1791 ông đến Bắc Mĩ với danh nghĩa tham gia một cuộc thám hiểm khoa học. Năm 1792 ông trở về nước, tình nguyện gia nhập quân bảo hoàng chống lại cách mạng. Bị thương ở Tiongvin, ông say sưa trú ngụ ở nước Anh. Ông đối lập với Ðế chế I vì họ không chấp nhận khuynh hướng chính trị PHN-VHPT 2 trang 6
  7. quá khích và bảo thủ của ông. Thời Trung hưng, ông được cử làm sứ thần ở London và một thời gian làm bộ trưởng ngoại giao. Thực hiện chính sách phản động của hoàng tộc Bourbon, năm 1823 ông chủ trương đàn áp cách mạng Tây ban nha. Ông được bầu vào Viện Hàn lâm năm 1811 và rời bỏ chính trường sau Cách mạng tháng Bảy 1830. Năm 1787, Chateaubriand đã xuất bản ở London tác phẩm Tiểu luận lịch sử chính trị và đạo đức bàn về những cuộc cách mạng cũ và mới, nhận thức trong những mối quan hệ với Cách mạng Pháp. Trong tác phẩm này, ông chỉ ra ảnh hưởng của các triết gia thế kỉ 18 đối với bản thân ông. Ông ca ngợi nhận thức tự nhiên của Rousseau và vận dụng tư tưởng duy lí để chống lại niềm tin Thiên chúa giáo. Thế nhưng ông vẫn thù địch với Cách mạng, không tin vào sự tiến hoá của lịch sử nhân loại như các nhà tư tưởng Ánh Sáng. Ông bảo vệ tàn tích của chế độ phong kiến và hồi phục cảm hứng tín ngưỡng trong nhiều tác phẩm: Atala (1801). Thần lực sáng tạo của đạo Gia tô (1802), Những người tử vì đạo (1809) và đặc biệt Reunet (1802) ông miêu tả chàng quí tộc Reunet bỏ nước Pháp sang châu Mĩ sống với bộ lạc da đỏ và thích nghi với đời sống cộng hoà nguyên thuỷ. Ông ca ngợi đạo Gia tô: “Trong tất cả những tôn giáo đã tồn tại thì đạo Gia tô thơ mộng nhất, nhân đạo nhất, hoà hợp nhất với tự do, nghệ thuật và văn chương; tất cả thế giới đều cần đến nó, từ công việc nông trang cho đến những khoa học trừu tượng, từ những nhà cứu tế cho kẻ khốn cùng đến những cung điện do Mikenlangelo xây dựng và Raphael trang hoàng”. Ông đối lập nền nghệ thuật Thiên chúa giáo với nghệ thuật cổ đại, cho rằng nghệ thuật thiên chúa của thời trung đại phong kiến đã thể hiện sự xung đột giữa khát vọng tinh thần và bản năng con người, đã “thuần khiết hoá” con người. Với giọng văn hài hoà, du dương đầy nhạc điệu, ông thể hiện căn bệnh của thời đại và nỗi buồn nản do bao điều hi vọng tan vỡ của một thế hệ quí tộc và tiểu tư sản bảo thủ trong những tiểu thuyết Atala, Reunet. Atala tiêu biểu cho cuộc đấu tranh giữa niềm tin tôn giáo và dục vọng trần tục. Atala day dứt đau khổ vì vừa yêu Sacta vừa muốn giữ trọn lời thề hiến dâng cuộc đời cho Chúa. Chateaubriand là nhà văn lãng mạn có ảnh hưởng rộng rãi ở Pháp và châu Âu thế kỉ 19 khi ông khai thác sâu cái tôi cô đơn qua các hình tượng sống động và những trang văn xuôi đổi mới, lưu loát và đầy chất thơ. Từ những năm 20, phong trào văn học lãng mạn ở Pháp đã phát triển mạnh mẽ với các nhà văn nổi tiếng: Lamartine, Vigny, Hugo, G.Sand và Musset. Anfonce de Lamartine (1790-1869) – nhà thơ Là nhà thơ tiêu biểu của chủ nghĩa lãng mạn Pháp. Xuất thân trong gia đình quí tộc sa sút, Lamartine sống thời thơ ấu ỏ trại ấp của cha, lớn lên đi học trường trung học công giáo. Dưới thời Trung hưng ông gia nhập quân đội một thời gian ngắn, sau đó làm lãnh sự ở Italia. Mối tình với bà July ở Paris, nhưng một năm sau July chết vì bệnh. Lamartine làm những tập thơ trữ tình nổi tiếng như: Trầm tư (1802), Trầm tư mới (1823), Những hài hoà (1830). Các tác phẩm thơ bộc lộ tâm tình của Lamartine qua các thời kì khác nhau: nỗi đau đớn trước cái chết của người yêu trong các bài thơ Bên hồ, Sự bất tử, nỗi cô đơn trong bài “Một mình”, nỗi nhớ khôn nguôi trong “Chiều kỉ niệm”, “Thung lũng nhỏ”, “Mùa thu”, niềm tin tôn giáo trong Niềm tin, Tuần lễ thánh, Chúa, Lời cầu nguyện. Lamartine là người khai phá một giọng thơ ca mới, nhà thơ trữ tình xuất sắc về thiên nhiên gắn với tâm tình con người, là sự gặp gỡ những tâm hồn đồng điệu. Sau Cách mạng tháng Bảy năm 1830, Lamartine tham gia các hoạt động chính trị với tư cách là đại biểu Viện lập pháp. Ðến cách mạng tháng Hai 1848, ông đứng đầu nhà PHN-VHPT 2 trang 7
  8. nước của phái tư sản ôn hoà. Sự nghiệp chính trị của ông kết thúc sau cuộc Cách mạng tháng Sáu 1848 khi giai cấp tư sản phản động đàn áp đẫm máu quần chúng khởi nghiã. Về già, ông còn làm việc vất vả để trả nợ. Tác phẩm Giojelain (1836) là một trường ca hai ngàn câu thơ nhằm tái hiện số phận kịch sử của toàn nhân loại. Nhân vật trữ tình Giojelain tượng trưng cho sự đấu tranh của tâm hồn con người vươn tới Thượng đế bằng sự thanh khiết hoá trong nỗi đau khổ. Alfred De Vigny (1797-1863) - nhà thơ Xuất thân trong một gia đình quí tộc phá sản vì Cách mạng. Chế độ Trung hưng đem lại hy vọng ông có thể tiến thân trong quân đội. Là sĩ quan có nhiệm vụ canh giữ ở biên giới, chẳng bao lâu ông xin từ chức vì không còn khát vọng chinh chiến như thời Napoleon. Vigny bắt đầu sáng tác từ 1820 và dần dần nổi tiếng với các tập thơ Moise, Eloa, Saint Mac, Stenle, Saterton, Daphnee, Vigny hướng về thời đại cổ xưa tìm đề tài như thơ ông đã mô tả số phận nhà quí tộc trẻ tuổi Richielieur hoặc các bậc tiên tri trong Kinh thánh. Phản ứng với thắng lợi của Cách mạng, rồi lại bất mãn với chế độ Bourbon, ông đi tìm nhân vật trong quá khứ để thể hiện thái độ hoài nghi và bi quan. Suy tưởng về thân phận con người, ông cho rằng con người không thể tránh được định mệnh thần bí. Nhân vật của ông đều thất bại, ngã xuống như Saint Mac, cô đơn với thiên tài như Moise, đơn độc như Siva, chìm đắm trong tình yêu như Samson ”Nhà thơ thì cảm thấy thiên nhiên hoang vắng, lạnh lùng; Chúa thì câm, mù, điếc trước tiếng kêu của chúng sinh. Ai có cuộc sống cao thượng thì đau khổ nhiều”. Vigny đưa ta một triết lí thất vọng, ca ngợi sự nhẫn nhục và sự yêu thương, khắc kỉ, hư vô chủ nghĩa. George Sand (1804-1876) – nhà tiểu thuyết Tên thật của nữ văn sĩ là Aurore Dupin, xuất thân dân nghèo thành thị. Sớm mồi côi cha, Dupin được bà nội nuôi ăn học ở miền quê. Năm 18 tuổi, Dupin kết duyên với bá tước Davant nhưng cuộc sống bất hạnh. Tám năm sau li thân, bà về Paris theo nghề văn và nuôi hai con. Những tiểu thuyết thời trẻ như Indiana, Lelia, viết về đề tài tự do yêu đương, bênh vực nữ quyền, bình đẳng nam nữ trong hôn nhân và gia đình. Giai đoạn sau, bà viết những tiểu thuyết thể hiện những phẩm chất tốt đẹp của người đau khổ, mô tả cuộc đấu tranh của họ chống áp bức bất công. Bà nhìn thấy sự vươn dậy của quần chúng lao động và phê phán ách nô dịch của đồng tiền tư bản chủ nghĩa. Tuy vậy nữ văn sĩ George Sand vẫn mơ ước giải hoà xung đột giai cấp bằng tình thương yêu. Alfred De Musset (1810-1857) - nhà thơ Xuất thân trong một gia đình có truyền thống văn học và không phải trải qua khủng hoảng trước thắng lợi Cách mạng. Học xong trung học lúc 18 tuổi, Musset được giới thiệu vào Hội tao đàn do Hugo đứng đầu. Rất yêu văn chương và tự tin, Musset viết “Hoặc là tôi không viết gì, hoặc là Shakespeare hay Shelli”. Những vần thơ đầu tiên trong tập Truyện kể Tây ban nha và Italia được hoan nghênh nhiệt liệt. Thất vọng trước sự thắng thế của giai cấp tư sản phản động, thơ ông mất dần sự tươi vui, yêu đời, xuất hiện “mặc cảm về sự tước đoạt và sự lưu đày” của thân phận con người. Năm 1831, ông làm công tác phê bình văn nghệ của tờ báo “Thời gian”. Cuộc tình duyên giữa Musset và nữ văn sĩ George Sand từ 1833 đến 1835 là cuộc tình duyên sóng gió và say đắm. Vì những bất đồng chính kiến, mối tình của họ đành dang dở sau những va chạm đau lòng. Musset viết bài thơ “Ðêm” nổi tiếng. Ðêm là người bạn trầm tư yên PHN-VHPT 2 trang 8
  9. lặng nghe nhà thơ bộc bạch nỗi lòng (Các bài Ðêm tháng Năm, Ðêm tháng Tám, Ðêm tháng Mười, Ðêm tháng Chạp). Con người đi học việc, sự đau khổ là bậc thầy Chẳng ai tự biết mình nếu chẳng bao giờ đau khổ. Musset còn viết tiểu thuyết Tâm sự của một đứa con thời đại, một số vở kịch (Ðêm Venise, Các cô thiếu nữ ước mơ gì ? )” Là một trong những nhà văn lãng mạn tiến bộ đầu tiên, với “trái tim hào hiệp” Musset căm ghét chế độ chuyên chế và say mê tự do, suốt cuộc đời ông đi tìm lí tưởng và hạnh phúc chân chính nhưng không toại nguyện. [Xem thêm Phụ lục về cuộc tình Musset – George Sand ở cuối tài liệu này] Victor Hugo (1802-1885) Là nhà văn, nhà thơ lãng mạn tiến bộ của nền văn học Pháp. Trong hơn sáu chục năm sáng tác, ông đã để lại hơn 20 vở kịch, 10 tiểu thuyết lớn và truyện ngắn, 15 tập thơ, hàng trăm bài văn chính luận, lí luận văn học, hàng nghìn bức thư tình và vài ba nghìn tranh vẽ. Sự phong phú về sáng tác của Hugo bắt nguồn từ mối liên hệ của nhà thơ với đời sống rộng rãi đa dạng của nhân dân, sự tham gia trực tiếp vào các phong trào chính trị và văn hoá tiến bộ. Những tập thơ đầu tay Ðoản thi, Về phương Ðông đã rung lên niềm yêu thương của nhà thơ lãng mạn với quá khứ xa xăm hoặc những miền xa lạ. Những tập thơ trữ tình sau năm 1830 như Lá mùa thu,Tiếng hát buổi hoàng hôn, Tiếng nói bên trong, Tia sáng và bóng tối. Ông mở rộng suy tưởng về lẽ sống, về tình đồng loại, về nỗi đau khổ và sức mạnh của nhân dân. Ðến những năm 50, viết những tập thơ chiến đấu và hùng ca như “Trừng phạt, Chiêm ngưỡng, Truyền kì các thời đại” đã vươn lên tầm khái quát xã hội, ông nhìn ra hai nước Pháp: một nước Pháp của nhân dân nghèo khổ và một của bọn giàu sang quyền quí. Tình yêu thương con người khốn khổ bị đoạ đày như được gieo mầm khắp các tập thơ để kết đọng thành những rung động âm vang qua các hình tượng lớn trong tiểu thuyết và kịch của Hugo. Sự kết hợp tài tình giữa các yếu tố nghệ thuật đó đã giao hoà tình thương cảm giữa tác phẩm và bạn đọc, gây ấn tượng mạnh mẽ về tấm lòng nhân đạo bao la của nhà văn. Hugo bênh vực người da đen cầm đầu nghĩa quân chống lại bọn thực dân da trắng và những luật lệ khắc nghiệt Trong tác phẩm “Nhà thờ Đức bà Paris”, Hugo ca ngợi tình thương yêu của những con người bình thường: cô vũ nữ Esmeralda, anh gù kéo chuông Quazimodo. Tác phẩm “Những người khốn khổ” miêu tả những tình cảm đau lòng dưới đáy xã hội Pháp với cả chiều rộng và chiều sâu. Hugo hi vọng giải quyết ba vấn đề “Sự sa đoạ của đàn ông vì bán sức lao động, sự truỵ lạc của đàn bà vì đói khát, sự cằn cỗI của trẻ thơ vì tối tăm”. Những con người bị vùi dập hiện ra trong tác phẩm với những vẻ đẹp cao cả. Những rung động đầy chất thơ và sự suy tưởng khát vọng xoá bỏ nỗI đau khổ của loài người. Nhà văn tin rằng lòng thương yêu tuyệt đối có khả năng tiêu diệt cái ác và mang lại hạnh phúc cho những người khốn khổ. PHN-VHPT 2 trang 9
  10. TÁC GIẢ VICTOR HUGO Hoàn cảnh gia đình Victor Marie Hugo sinh ngày 26/1/1802 ở Bizanson, một thành phố ở Tây Ban Nha. Cậu bé lúc mới sinh ốm đau quặt quẹo sớm phải chịu cảnh “nếu có cha thì không có mẹ ở bên mình”. Hoàn cảnh chinh chiến của người cha, một sĩ quan của Napoleon I, khi ở Italy, khi qua Tây ban nha khiến ông phải theo sang Italia, khi lại đi Tây ban nha. Thơ của ông sau này không chỉ bắt nguồn từ những nét trái ngược, từ sự đan chéo cái thô kệch tầm thường và cái cao cả trong cảnh vật, từ sự rối loạn ở đất nước Tây ban nha dưới gót giày quân đội Pháp do Hugo giữ lại ấn tượng mạnh mẽ từ tuổi thơ, mà còn phản ánh những giằng xé bắt nguồn từ cuộc sống gia đình: mâu thuẫn giữa mẹ và cha của Hugo kết thúc bằng sự chia rẽ hoàn toàn vào lúc Hugo 16 tuổi. Hugo giải thích “cha tôi là người chiến binh dày dạn, mẹ tôi người xứ Vandet (vùng Vandet có những cuộc nổi loạn cách mạng và cha Hugo được phái đến để dẹp loạn, đã gặp gỡ cô Sophie Trebuse vốn thường che chở một số nhà tu hành chống cách mạng, cô trở thành mẹ Hugo sau này). Sự xích mích giữa cha mẹ Hugo xảy ra chủ yếu do không hợp về khí chất và quan điểm chính trị giữa hai người. Mẹ Hugo đã yêu Laorie một người có học thức hơn, hợp xu hướng chính trị với bà và ông ta cũng là một viên tướng (như cha Hugo) lại bị thất sủng nên lúc đó đang âm mưu chống lại Napoleon. Bị phát giác, ông trốn tránh ở nhà mẹ con Hugo và chính thức cưới cô năm 1821 không lâu trước khi mẹ Hugo mất. Thực ra sự đối lập về tư tưởng của hai vợ chồng chưa đến mức dữ dội. Mẹ Hugo mặc dù gọi là “bảo hoàng” vẫn được coi là “bảo hoàng theo kiểu Voltaire” nghĩa là vẫn gần gũi với tư tưởng Ánh sáng hơn là kiểu Nhà thờ. Bà vẫn là đứa con của một thời đại mãnh liệt. Còn Hugo chỉ nhận thấy cha đẻ có những phẩm chất cao thượng sau khi mẹ mất. Tuy nhiên ảnh hưởng của người cha đỡ đầu - là người tình của mẹ - cũng có những khía cạnh lành mạnh, mang hơi thở thời đại. Laorie dạy cậu bé Victor đọc sách La tinh, đồng thời đã dạy cậu bé trước hết, cái quí nhất vẫn là Tự do. Thiên tài Hugo bộc lộ từ rất sớm. Nhà văn lãng mạn Chateaubriand khi dạy cậu bé đánh vần và phát hiện Hugo đã biết đọc từ lâu rồi, đã gọi Hugo là “cậu bé trác việt”. Mười tuổi, Hugo đã làm thơ, 14 tuổi viết một vở kịch, 15 tuổi được bằng khen của Viện Hàn lâm Pháp, 17 tuổi được giải Bông huệ vàng trong cuộc thi thơ ở Tulouse Hugo thoát khỏi sự áp đặt của người cha, không đi theo hướng khoa học, đã cùng người anh là Engene Hugo lập ra tờ báo “Người bảo thủ văn học”. Năm 1820, một cuốn tiểu thuyết của Hugo ra đời. Trong đời sống gia đình, Hugo đã phải chịu một cái tang đau đớn : người mẹ qua đời. Rồi mối ám ảnh đầu tiên về huyền thoại Aben và Cain (hai anh em thù nghịch về sự phạm tội ngoài ý muốn: người anh là Engene Hugo sau nhiều dấu hiệu của bệnh điên đã phát điên thật sự khi Victor Hugo cưới Adele Fuset, cô bạn gái mà từ nhỏ hai anh em đã cùng yêu). Nhưng vinh quang đã đến sớm khi ông nổi lên như một nhân vật đầy hứa hẹn với nhiều ý niệm mới mẻ trong thi ca. Các vua chúa thời Trung hưng cũng chú ý tới nhà thơ trẻ này và muốn biến ông thành một loại thi sĩ cung đình. Vua Louis 18 cấp cho Hugo hai món lương bổng đặc biệt, nhờ đó chỗ dựa kinh tế gia đình được bảo đảm; sau đó vua Charles 10 lại ban cho ông huân chương Bắc đẩu bội tinh và mời nhà thơ tới dự lễ đăng quang của mình (1825). PHN-VHPT 2 trang 10
  11. Hugo xuất hiện như một ngôi sao mọc sớm và lặn rất muộn ở chân trời thế kỉ. Mãnh liệt và cường tráng, thiên tài ấy đã được khẳng định ngay từ đầu như chủ soái của trường phái văn học lãng mạn. Cho đến nửa sau thế kỉ dù khi trào lưu lãng mạn đã vượt quá thời vàng son của nó thì bản thân Hugo vẫn làm mờ nhạt tài năng của nhiều thứ “chủ nghĩa” nở nhanh và mau tàn ở cuối thế kỉ, đến nỗi những người thất bại phải than rằng “cây sồi già cứ xanh ngắt cho đến lúc chết” đã làm cớm nắng cả một vùng rộng lớn.Tuy rằng những tập thơ và tiểu thuyết xuất hiện lúc này như Đoản thi và tạp thi, “Đoản thi và ballade” chỉ là một chùm sáng mơ hồ” nhưng sáng tác này vẫn không thể coi là chìm trong bóng tối của những tư tưởng bảo hoàng mà ở đây đã ló ra một quan niệm về sứ mệnh cao cả của nhà thơ, sau này sẽ phát triển mạnh mẽ và liên tục trong sáng tác của ông: hình tượng nhà thơ Ánh sáng “được cảm thông khi trái đất còn mù mịt”. Những dấu hiệu thiện cảm đầu tiên của Hugo đối với Napoleon I không thể giải thích bằng việc tìm lại người cha và qua hình tượng nhân vật Marius trong tác phẩm “Những người khốn khổ’. Thực ra trong bối cảnh giai đoạn đó, hướng về huyền thoạI Napoleon chính là biểu hiện của sự phủ nhận thời Trung hưng của dòng hoàng tộc Bourbon. Bởi vậy có thể nói ngay từ giai đoạn này, nhà thơ trẻ Hugo đã bộc lộ một niềm khát khao “hướng tới những vầng ánh sáng cứ mãi lùi xa”. Cùng một lúc, Hugo xuất hiện trên cả ba lĩnh vực: thơ, kịch và tiểu thuyết. Mới bước chân vào văn đàn, Hugo tuyên bố rằng “Tôi sẽ là Chateaubriand hoặc chẳng là gì cả !” Ngày nay các nhà phê bình đã tin rằng ngay khi pháttuyên ngôn ấy, Hugo đã là Hugo. Thơ của Hugo Trong tập thơ đầu, Hugo đã dựng nên một cấu trúc song đôi là “cảm xúc của một tâm hồn” tương giao với “cách mạng của một Đế chế”. Đến tập thơ “Những bài thơ phương Đông” ông đã viết Lời Tựa, giới thiệu nó là tác phẩm “vô bổ” và “chỉ là thơ thuần tuý” thì phương Đông ở đây không chỉ là sự quên lãng, sự đối lập với thực tại, lối thoát về cái ngoại lai mà đã có âm hưởng thời sự. Cuộc chiến đấu giải phóng của nhân dân Hi Lạp đã khơi dậy cả một nền Phục hưng phương Đông với thi sĩ Anh Byron, với hoạ sĩ De Lacrois, với hai bài thơ “Em bé Hi Lạp”, “Nhiệt tình” của Hugo : Tới Hy Lạp ! Tới Hy Lạp ! Giã từ tất cả Ta phải đi ! Rốt cuộc đã đến lúc, bởi lẽ máu dân tộc bị hy sinh, đã đổ phải khiến bọn đao phủ máu tuôn trào Bonaparte : người nói hãy đứng dậy Mỗi thế kỉ bỗng vùng đứng dậy Tập thơ “Những bài thơ phương Đông” là dấu hiệu của một khuynh hướng nghệ thuật rõ ràng và tươi trẻ, mới lạ dù còn thiếu một chiều sâu tư tưởng. Hiếm có một tập thơ mà người đọc thưởng thức được màu sắc, cảm giác hình hài và hình ảnh phong phú đến như thế. “Đó là ngày hội của ánh sáng, đúng là ánh sáng nhiều hơn ánh mặt trời và ngày hội của từ ngữ âm vang, của nhịp điệu nhảy nhót”. Thời kì này, trong nhóm “Nàng thơ Pháp”, Hugo kết giao với nhiều hoạ sĩ trẻ, tài năng và Hugo chủ truơng thơ phải là hội hoạ (bản thân Hugo cũng vẽ cả ngàn bức tranh). Sau đó hai năm, tập thơ “Lá thu” cùng với Những bài thơ phương Đông được coi như khai nguồn cho dòng thác thơ Hugo sau này. Ở giữa hai tập thơ, xã hội có cuộc cách mạng 1830 (xảy ra và thất bại) còn Hugo PHN-VHPT 2 trang 11
  12. người chủ soái của nhóm “Bạn trẻ Pháp” còn đến với khán giả và công luận bằng tác phẩm sân khấu. Từ các tập thơ trữ tình đến tập thơ Truyền kì của thời đại- trước và sau năm 1848, Khi nói đến kịch của Hugo cũng là nói đến thơ, bởi đa số các vở kịch đều viết bằng thơ. Điều này cũng là dấu hiệu tất yếu của chủ nghĩa lãng mạn: đây là thể loại có thể tự bộc lộ đầy đủ nhất. Nếu Hugo ít đựơc biết đến ở nước ngoài qua thơ thì đó là do việc dịch thuật thơ bị vướng mắc phải hàng rào ngôn ngữ gai góc hơn các thể loại khác. Là nhà thơ lãng mạn điển hình, thơ Hugo “là cái gì riêng tư nhất” như ông đã nói. Song cũng hiếm có nhà thơ nào hoà được cái riêng tư – cái Tôi vào “người khác” như Hugo dù gặp thời kì khủng hoảng, thăng trầm vẫn vượt ra được khỏi cái tôi chật hẹp, và điều đó khiến ông là nhà thơ lãng mạn duy nhất đã mang hơi thở anh hùng ca vào thơ. Nói đến tính anh hùng ca là phải tính đến trường độ :”thơ của Hugo, áng thi ca vĩ đại duy nhất ở Pháp, thay vì cô đúc trong những bộc lộ ngắn ngủi và hiếm hoi thì thơ ông lại tuôn ra khoảng không gian rộng rãi, thoải mái và tráng lệ”. Nói đến tính anh hùng ca, còn phải nói đến hướng trở về thống nhất hài hoà giữa cá nhân và xã hội đã mất đi với những thiên anh hùng ca cổ đại mà Hugo đang tìm kiếm – dù có khi chỉ là ảo tưởng. Bởi thế, tính chất sử thi, dường như định ngữ ấy đã chỉ đúng nhân cách và tác phẩm của con người duy nhất trong các nhà lãng mạn đã viết nổi một thiên anh hùng ca truyền kì của thời đại.Từ tập thơ đầu, không gian và thời gian đều thuộc về nhà thơ, nhà thơ trữ tình đã hướng tới những kích thước rộng lớn. Tới tập “Lá thu”, nhà thơ đã cảm nhận được sự gắn bó với thời đại là tất yếu : “Ta yêu ngưòi, ôi thiên nhiên thần thánh ta muốn được chìm đắm trong Người nhưng giữa thế kỉ này đầy biến cố mỗi người phải vì tất cả, than ôi ! Trong quá trình tìm kiếm sự hài hoà giữa cái Tôi với “người khác”, ở nhà thơ Hugo, chẳng phải giản đơn và không phải lúc nào cũng tìm thấy được. Tập thơ “Những khúc hát hoàng hôn” (1835) so với tập “Lá thu” là một bước lùi. Những thoả mãn về lợi ích cá nhân của Hugo trong mối quan hệ hoà hoãn với nền quân chủ tháng Bảy dễ phản chiếu trực tiếp vào thơ trữ tình hơn các thể loại khác, dù mối hoà hoãn này đã thường dẫn tới những kết thúc bi đát ở Hernani, Rue Blax mà hiếm khi hài hoà được. Ông được xác nhận kế thừa danh hiệu tử tước. Ông lại được phong viện sĩ Hàn lâm năm 1841. Nguyên lão nghị viên Pháp năm 1845. Sau sự thoả mãn là một sự đớn đau sâu sắc ! Đứa con gái yêu đầu lòng- Leopondin chết đột ngột trong tuần trăng mật trên chiếc du thuyền khiến từ năm 1843 đến 1852 ông không thể xuất bản được gì mới. Những sự kiện chính trị khởi đầu từ cuộc cách mạng 1848 khiến nhà thơ không thể cứ chìm đắm mãi trong nỗi đau riêng của mình (thực ra từ năm 1845 ông đã bắt tay vào viết cuốn Những người khốn khổ vốn đã nung nấu từ lâu). Trước 1848, tính chất phân đôi của nhà thơ lãng mạn đã bộc lộ rất rõ qua những hành động chính trị của ông. Chính phủ lâm thời do Lamartine đứng đầu dướI nhãn hiệu mới của chế độ “cộng hoà II” không xoá nhoà mà chỉ đào sâu hố ngăn cách giữa vô sản và tư sản. Dù là nghị viện của cánh hữu, Hugo ra tận chiến hào, kêu gọi sự hoà giải, và ông cũng chẳng thể nào ngăn cản được những cuộc tàn sát quần chúng vào tháng sáu 1848, dẫn tới việc Louis Napoleon Bonaparte được đưa lên sân khấu chính trị. PHN-VHPT 2 trang 12
  13. Việc Hugo trúng cử vào Hội đồng lập hiến đọc diễn văn trước quốc hội về “cảnh khốn cùng” và về “tự do giáo dục” không ngăn nổi Luật Falu đặt trường học dưới sự chỉ đạo của Nhà thờ (vốn đã bị bãi bỏ vào những năm sau cách mạng) và cuộc tàn sát quần chúng Paris nổi dậy khi Bonaparte làm chính biến (Ngày 2 tháng Chạp 1851). Cũng từ những biển người khoác áo xanh công nhân và súng đạn hồI đó, hình tượng “biển” sẽ ám ảnh và mở rộng trong thơ Hugo. Nhưng “Napoleon bé tí”, (Napoleon tiểu đế) -Hugo đã gợi ý trong diễn đàn quốc hội từ tháng Bảy 1850 – đã lợi dụng tâm lý sợ quần chúng của “phái ta” ôn hoà để dựng lên đế chế II. Sau sự kiện này các con trai của Hugo bị bắt giam, ông bị đe doạ, phải trốn khỏi Pháp lánh sang Bỉ và không ngờ phải lưu đày gần hai chục năm trời. Từ đây Hugo nổi tiếng thế giới chẳng những như một tài năng mà còn như một nhân cách chính trị. Đó là người đối lập với nền độc tài và bạo lực ở nước mình và cả nước ngoài, người đã đòi thả những chiến sĩ tự do (như John Brown là bạn và là người dám ca ngợI lãnh tụ Garribandi của Italia). Từ 1858 gia đình Hugo đã dần xa lánh hòn đảo Jernesy buồn tẻ, hẻo lánh để về Paris, hoặc đi Brussel, nhưng Hugo vẫn không đầu hàng trước những ve vãn của Napoleon tiểu đế. Là người bạn của những kẻ lưu đày, Hugo thường giúp đỡ họ, những trẻ em nghèo ở hòn đảo, mỗi tối thứ hai hàng tuần các em được ăn bữa chiều ở nhà Hugo lưu đày. Tập thơ “Trừng phạt” là tiếng thơ đầu tiên cất lên sau 13 năm im lặng, như tiếng sóng gào giận dữ vang lên từ hòn đảo Jernesy xa tổ quốc. Sau khi xuất bản áng văn xuôi đả kích Napoleon tiểu đế ở Bỉ (1832), Hugo viết lại đề tài này bằng thơ, vì lẽ “Hoàng đế đã bị thui chín một phía bây giờ tới lúc lật ông sang phía bên kia”! Tập thơ, về mặt nghệ thuật là một sự kết hợp những yếu tố đa dạng thậm chí trái ngược nhau - trữ tình và anh hùng ca, yêu thương và căm giận, đau xót và châm biếm, cái cao cả và cái kệch cỡm, đề tài vĩnh cửu và chuyện nóng hổi thời sự, văn chương uyên bác và tiếng nói dân gian trong một kiệt tác. Nó chứng tỏ một bước ngoặt trong thơ Hugo. Ở đây chúng ta tìm thấy một đề tài ẩn dụ, hình ảnh lấy từ Kinh Thánh, từ Eschile (nhà viết kịch cổ Hy Lạp), Virgile (nhà thơ cổ La Mã), Dante (nhà thơ Phục hưng Italia), Corneille (nhà viết kịch cổ điển Pháp) Bố cục tập thơ dựa trên phản đề Bóng tối – Ánh sáng (Nox – Iux), là cách kết cấu quen thuộc cuả nhiều tác phẩm Hugo nhưng cũng gợi lại hình ảnh đường đi địa ngục – thiên đàng của “Thần khúc” (Dante). Sau này, ở cuối thế kỉ, tập thơ Những bông hoa Ác của nhà thơ Baudelaire, dường như vẽ lên một hành trình gợi lại “Trừng phạt”, theo con đường ngược lại từ Ánh sáng tới Bóng tối. Do ý muốn giữ một khoảng cách với chế độ hiện hành, Hugo cho rằng mình có thể xuất hiện trong thơ với tư thế cao cả nhất : nhà thơ người tiên tri. Tuy nhiên, so với những tập thơ trước thì “Trừng phạt” mang tính chất thời sự nóng hổi hơn cả. Tập thơ in ra phải chịu đựng sự lạnh nhạt cho tới năm 1870, khi nhà thơ trở về Pháp, mới thực sự chiếm lĩnh được độc giả, với mức độ chưa từng có. Ngoài số lượng sách cực kì lớn bán chạy trong vài ba ngày, tập thơ còn được độc tấu ở khắp nơi nhờ những diễn viên nổi tiếng. Nó trở thành một khúc ca của quần chúng. Có thể nói chính thực tế sống động đi vào tập thơ đã biến giọng trữ tình vốn đơn âm (nhà thơ) thành đa âm (quần chúng). Với “Trừng phạt”, Hugo mở đầu cho sự thành công của thơ chính trị, thơ thời sự; cho những Aragon và Eluard sau này. Các tập thơ nối tiếp về sau như “Năm khủng khiếp” (1872) là tập thơ gắn với chính trị rõ nét, “Mặc tưởng” là tập thơ hướng về nội tâm (1859), “Truyền kì các thời đại” (1859) là tập thơ có tính chất huyền thoại siêu thời gian. Hugo có thể tự hào viết trong lời tựa tập “Mặc tưởng”: “Than ôi ! Khi tôi nói về tôi chính là nói về bạn đấy. Sao bạn lại không cảm thấy điều ấy nhỉ ? Ôi chàng ngốc ơi, anh PHN-VHPT 2 trang 13
  14. cứ tưởng tôi không phải là anh !”. Câu nói đó xác định dấu hiệu quan trọng nhất của chủ nghĩa trữ tình- chủ nghĩa lãng mạn tích cực là: Sự thống nhất giữa cái Tôi và người khác. Những tác phẩm có giá trị hoàn hảo là những tác phẩm viết sau khi đi đày. Từ tập thơ “Tất cả cung đàn Lir” cho tới “Mặc tưởng”, ngưòi ta có thể coi Hugo là người có khả năng diễn đạt mọi cung bậc của tình cảm con người. Thơ Hugo có một bộ phận viết về các em nhỏ, về đứa con, đã được diễn đạt qua nước mắt của người cha trên thế giới này. Nhà thơ hiện lên trong “Mặc tưởng” với kích thước anh hùng ca của một cuộc cách mạng – trên lĩnh vực nghệ thuật. Hugo cho rằng các cuộc bão táp nổ ra trong đầu sẽ quyết định cuộc bão táp ngoài xã hội. Nhớ lại sự kiện nhân dân Pháp trong những ngày cách mạng sôi sục từng đội chiếc mũ đỏ lên đầu Louis 16 (giật bỏ vương miện xuống), thì Hugo cũng tự hào xác định vai trò của mình trong văn chương : “Tôi đội chiếc mũ đỏ cho cuốn từ điển cũ không còn chữ quí tộc, không còn chữ bình dân tôi khuấy bão tố lên từ đáy lọ mực tôi gọi con heo bằng tên nó, tại sao không ?” Những dòng thơ sôi sục ấy chan hoà với những dòng thơ trữ tình êm ái. Từ sau khi đi lưu đày, thơ trữ tình của ông có thêm chiều sâu tư tưởng, nhưng điều làm cho thơ trữ tình của ông đến nay chưa già đi là nhờ chiều sâu triết lí, còn phù hợp với nhu cầu trí tuệ của lớp độc giả sau này. Không có gì tự nhiên, riêng tư mà xuất phát từ trái tim bằng thơ của Hugo khóc con. Qua đó, ta thấy cả một niềm tin, một triết lí sống bị lung lay và đặt lại vấn đề. “Chúa chỉ cần để cho tôi đươc sống với đừa con gái ấy bên mình trong hứng khởI từng khiến tôi ngây ngất với bao luồng bí ẩn sáng soi ! những luồng sáng ấy, ban ngày của một thiên thể khác Ôi chúa hờn ghen ! Người đã bán chúng ta ! Sao Người cướp đi vầng ánh sáng mà tôi đang giữ giữa trần ai !” Chất triết lí sâu xa đã khiến hai áng thơ anh hùng ca của Hugo là “Chúa, kết thúc của Satan” (1856) và “Truyền kì các thời đại” mang dáng dấp hiện đại, thực sự là những “truyền kì” của thời đại văn minh. Khi viết tập “Năm khủng khiếp” (1872) Hugo không còn trẻ. Những đau đớn liên tiếp trong đời sống riêng đến với ông lúc về già. Vợ mất năm 1868 và nhà thơ hằng ca ngợi và chiêm ngưỡng các em bé, nay phải chịu cái cảnh mà ông cho là đáng sợ nhất : ông đã mất gần hết những đứa con của mình. Sau Leopondin là cái chết đột ngột của đứa con trai lớn, 1871, còn đứa con gái kế tiếp là Adele còn sống nhưng coi như đã chết vì bệnh điên rất nặng. Sau khi lưu đày trở về Pháp nhà thơ chia sẻ cái lạnh lẻo của một mùa đông khủng khiếp khi Paris đang bị quân Phổ bao vây, rồi chứng kiến không khí chuẩn bị công xã, Hugo lại trở về Bỉ bởi ông cảm thấy dường như giữa thế kỉ và nhà thơ - người dẫn đường có một khoảng cách, một bước hụt. Tuy nhiên, nhìn lại khoảng trống, sự hụt hẫng ấy ngày nay các nhà nghiên cứu vẫn xác nhận rằng các nghệ sĩ văn nhân thời ấy chẳng có ai bù đắp được khoảng trống ấy bằng Hugo, ngay cả khi ông cảm thấy giới hạn của mình, điều mà trước đây ít khi ông chịu thừa nhận với tư cách nhà thơ Ánh Sáng : “Trong vòng vây bọn Phổ, về giữa mùa đông Nga ấy tôi chỉ còn là, tôi xin thừa nhận, một ông lão tay không PHN-VHPT 2 trang 14
  15. sung sướng được ở Paris cùng tất cả bị giam cầm đôi lúc nhân khi đêm hôm súng nã trèo lên bức tường thành trong bóng tối để có thể đáp rằng tôi có mặt, nhưng không phải là chiến binh.”. Hugo mua một khẩu đại bác (mua bằng tiền bán tập thơ “Trừng phạt”) để tặng nhân dân Paris, nó được đặt tên là V.H. Khi mới trở về nhà thơ ngậm ngùi tiếc nuối những kỉ niệm phố xá Paris và ngôi nhà cũ, khu vườn đã bị phá đi để dựng lên một Paris đang mở mang đáp ứng công cuộc buôn bán và công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa. Nhưng khi Paris đứng dậy, Hugo không còn thấy lạ lẫm giữa lòng thành phố. Sự kiện Công xã Paris vượt ra ngoài phạm vi tư tưởng của Hugo, song nếu đặt ông bên cạnh những văn sĩ lớn đương thời như Flaubert, Emin Zola thì phản ứng của Hugo là phản ứng của Hugo là phản ứng hướng về ánh sáng, dù vầng sáng này cứ “mãi mãi lùi xa”. Khi Hugo từ hòn đảo Jernesy trở về vội vã để đưa đám tang con trai, những người chiến sĩ quần chúng vẫn kéo tới đám tang với thái độ đầy cảm thông và kính trọng nhà thơ : “kèn đồng nổi lên. Quần chúng đợi chờ tôi,(và đám tang) đi qua rồi kêu lên - nền cộng hoà muôn năm!”. Hugo đã tỏ thái độ với vị tướng lãnh đạo Công xã, đã nhường nhà ở của mình ở Bỉ cho những ai bị kết tội ở Pháp phải đi lưu vong. Bọn phản động ném đá và tiến công vào ngôi nhà ông ở Bỉ với khẩu hiệu “Giết chết Victor Hugo ! Giết chết Jean Valjean ! Lên máy chém !”. Tập thơ “Năm khủng khiếp” minh hoạ bằng thơ bộc lộ thái độ của Hugo trước hai thử thách lớn của nhân dân: cuộc chiến của dân tộc và cuộc đấu tranh giai cấp. Với cuộc đấu tranh thứ hai, có thể Hugo chưa hoàn toàn hoà nhập được, nhưng trung thành với lí tưởng nhân đạo mà ông hằng ôm ấp, ông đã hiểu được rằng “Công xã là chiếc nôi kì diệu của ngày mai”. Và khi đấu tranh đòi xoá án cho các chiến sĩ Công xã, ông không chỉ quan niệm việc đó là vì tình thương thuần tuý. Ông cho rằng, kết tội họ chẳng khác nào “hỡi quan toà, người kết tội Bình minh”. Ở tập thơ này, hình tượng đứa bé đau khổ - đứa bé đau khổ - đứa bé anh dũng đã là một sự tiếp nối và phát triển so với những em bé của các tập thơ trước (bài “Em bé” trong tập thơ Những câu chuỵên phương Đông). Hình tượng em bé tháng Sáu 1871 (Công xã Paris) : “Trên một chiến luỹ, giữa những hè phố em nhỏ hỡI, tôi chẳng biết gì giữa trận cuồng phong tràn tới không hiểu vì sao em vào cuộc chiến này song tôi nói : tâm hồn em thơ dại vẫn tuyệt vời”. Hugo kì lạ như vậy đó ! Với người lớn, với đồng nghiệp Hugo tự xưng “Tôi – Hugo” khiến họ tức điên lên vì thấy ông tự kỉ, nhưng đứng trước các em nhỏ, và các em này đại diện cho “cái có thể sẽ nảy sinh ra, Hugo lại nhận một chỗ đứng thấp hơn. Cho đến ngày nay, cuối thế kỉ 20, ngưòi ta vẫn cho rằng nếu lịch sử văn học Pháp thiếu thơ của Hugo, chẳng những thiếu một đỉnh cao nhất mà còn thiếu một dải trường sơn đồ sộ nhất. Bởi vì trong thơ Hugo có đủ mọi cung bậc tình cảm, từ triết lí sâu xa đến rung động bình thường nhất, từ ý thức sáng suốt nhất đến những ảo giác gần với thế giới vô thức, từ anh hùng ca, tình ca đến “thơ truyền đơn, thơ mit ting thơ giờ chót”, thơ đọc lên như đọc báo, từ những nguồn điển cố uyên bác, từ những huyền thoại và chất thơ của PHN-VHPT 2 trang 15
  16. Kinh Thánh đến “những điệu hát vùng Bretania - những khúc hát tình cảm lẳng lơ, những tiếng lóng xù xì thô tục ”. Kịch của Hugo Cho đến 1985 (kỉ niệm 100 năm ngày mất Hugo) các vở kịch của ông vẫn được công diễn nhiều lần nhất trên sân khấu châu Âu. Chúng ta hãy trở lại với ba vở kịch mở màn cuộc tấn công của nhà lãng mạn trẻ tuổi Hugo: Cromwell (1827), Marion De Lormer (1829) và Hernani (1830). Cho tới thời Hugo, sân khấu vẫn chia ra hai vùng khán giả “sang” và “hèn” khá rõ rệt. Ngay ở địa điểm diễn kịch, một loại phòng dành cho lớp trẻ và công chúng rộng rãi với những vở hài kịch nhẹ nhàng. Còn khán giả quí phái thượng lưu vẫn tự thu mình trong những vở kịch cổ điển diễn ở toà nhà lộng lẫy xây dựng từ thời Louis 14 mang tên “Kịch viện Pháp” (Commédie Francaise). Khi vở “Marion De Lormer” ra đời, chính quyền bảo hoàng ra lệnh cấm vở kịch. Để xoa dịu, mua chuộc Hugo, họ tăng phụ cấp hàng tháng cho nhà thơ gấp ba lần, nhưng nhà thơ trẻ đã từ chối. Trên sân khấu, Hugo tấn công ba đợt: vở “Cromwell” để đối diện với giới phê bình, vở “Marion De Lormer” đối đầu với chính quyền và “Hernani” để đối thoại với công chúng. Trong bài Tựa vở kịch Cromwell, Hugo bàn về lí luận thể loại drame và chủ nghĩa lãng mạn. Suốt cả thế kỉ, Cromwell không được công diễn nhưng nó vẫn nổi tiếng, chứng tỏ tầm quan trọng về mặt lí luận của nó. Lí luận của Hugo đề cập đến vấn đề tự do, trước hết là trong nghệ thuật. “Tự do trong văn chương là con đẻ của tự do trong chính trị” (Hernani) và đòi hỏi “một sân khấu được giải phóng và một công chúng tự do” (Tựa Cromwell). Khẩu hiệu “đả đảo qui tắc tam duy nhất” chẳng phải chỉ là chuyện văn chương thuần tuý. Engels cho rằng: Hugo đã phân tích khá sâu sắc tâm lí muốn phục hồi kịch cổ điển lúc bấy giờ. “Đối với một gã bảo hoàng chính thống tất là hắn cảm thấy vô cùng khoan khoái khi xem các vở diễn của Racin, để quên đi cuộc cách mạng, quên đi Napoleon và tuần lễ vĩ đại và sự huy hoàng của chế độ cũ lại từ dưới đất mọc lên ”. Chính vì vậy mà Vigny và nhiều nhà lãng mạn khác cho rằng “Vở Cromwell làm cho tất cả bi kịch của chúng ta già nua đi”. Sự phản ứng hoặc ủng hộ các vở drame của Hugo chính là cuộc đụng độ giữa phái Cũ và phái Mới. Đứng về mặt nghệ thuật, tuy kịch của Hugo sau này không gây được chấn động và không được đánh giá cao như trước, nhưng ở thời điểm xuất hiện nó có ý nghĩa tiên phong và tiến bộ. Vở kịch Marion Delormer in ra thành sách đã khiến chính quyền bị chạm nọc, viên thượng thư bộ nội vụ ra lệnh cấm vở kịch vì sợ hình ảnh Louis13 trong đó sẽ khiến cho tất cả mọi người nhìn thấy đó là sự ám chỉ vua Charles 10, đương kim hoàng đế. Sự ngu ngốc đã thắng thế. Nhưng ở xứ Pháp, việc cấm đoán của chính quyền lại có tác động ngược lại với công chúng, nó như lời quảng cáo mạnh mẽ cho Hugo. “Trận đánh Hernani” mở màn trong đêm công diễn đầu tiên (15/2/1830) và kéo dài suốt 35 buổi diễn tiếp theo. Đám nghệ sĩ trẻ mặc ghi lê đỏ, đầu tóc rối bù, chen đầy trong nhà hát Kịch viện Pháp như một đội xung kích, hò hét trêu chọc các khán giả đầu hói “Ra máy chém hỡi các đầu hói”!. Trong buổi công diễn đầu tiên, mọi người không nghe rõ về những câu thơ “tuyệt diệu” lâm li ấy. Nhà văn Balzac chẳng may bị một bắp cải ném vào giữa mặt. Người ta đánh nhau vì những câu thơ cổ điển bị phá vỡ qui cách trên sân khấu, vì nhân vật vua Louis 13 mà lại hỏi giờ “đã nửa đêm chưa?”. Nhà thơ đã thổi vào vở kịch một luồng bão tố văn xuôi, chà nát những câu thơ cổ điển đã định hình. Ông đã phá vỡ qui tắc “duy nhất” về thời gian và địa điểm trong bi PHN-VHPT 2 trang 16
  17. kịch Hi Lạp cổ đại. Qua một đề tài ngoại lai quá khứ, những câu thơ trẻ trung và mãnh liệt hướng về tình yêu. Có thể tóm tắt cốt truyện kịch như sau : Vở kịch gồm 5 hồi Sự việc xảy ra ở triều đình Tây ban nha từ thế kỉ 16, trước khi Don Carlos trở thành hoàng đế nước Đức là Charles Cing (Sác-lơ Canh). Don Carlos đeo đuổii nàng Donna Sol, vợ chưa cưới của lão bá tước Rue Gomet, nấp trong tủ áo đúng lúc nàng gặp gỡ với tình nhân là Hernani- một kẻ đã giết cha nhà vua, nay trở thành tướng cướp sống ngoài vòng pháp luật. Don Carlos mở cánh tủ bước ra. Hai kẻ thù-tình địch đang chuẩn bị vung kiếm thì lão bá tước Rue Gomet bất chợt về nhà và nổi trận lôi đình. Vua báo cho lão biết rằng hoàng đế vừa băng hà và mình sắp được kế vị. (Hồi I). Vì đã nghe lỏm được ngày giờ và mật hiệu đôi tình nhân hẹn nhau đi trốn, Carlos nửa đêm hôm sau định bắt cóc Donna Sol để hớt tay trên của cả hai kẻ tình địch. Nàng đang bị nguy kịch thì Hernani đến kịp. Chàng định thanh toán kẻ thù nhưng rồi lại tha cho vua để dành dịp khác vì lúc đó y không có vũ khí trên tay và không chịu đấu kiếm. Vua quay về triều, huy động quân lính đến vây bắt tướng cướp (hồi II). Hernani cải trang trốn vào nhà Don Rue Gomet đúng lúc bá tước đang chuẩn bị lễ thành hôn với Donna Sol. Chàng tuyệt vọng. Vua ập đến, bắt Donna Sol đi làm con tin vì bá tước che dấu cho Hernani không chịu nộp cho vua. Vua đi khỏi, bá tước định thanh toán kẻ tình địch vì đã biết mối quan hệ tình cảm của hai người. Nhưng Hernani khuyên bá tước hãy hợp lực trả thù nhà vua, rồi trao cho bá tước chiếc tù và, hẹn khi nào trả thù xong, hễ nghe tiếng tù và bá tước thổi lên, chàng sẽ đến để chịu chết (hồi III). Từ một hầm mộ hoàng gia bên Đức, Don Carlos hồi hộp chờ đợi kết quả bầu hoàng đế, trong khi Hernani và Rue Gomet đang chuẩn bị âm mưu đón hạ sát Don Carlos Ba tiếng súng thần công vang lên báo tin hoàng đế Charles Cing trở thành vua Tây ban nha. Toàn bộ nhóm người âm mưu ám sát hoàng đế bị bắt. Nhưng hoàng đế ra lệnh khoan hồng cho tất cả, lại còn phục hồi chức tước quí tộc cho Hernani và cho phép chàng cưới Donna Sol (hồI IV). Tối tân hôn, Hernani nghe tiếng tù và, bá tước xuất hiện, nhắc chàng giữ lời hứa và chàng đi nhận lọ thuốc độc. Donna Sol can ngăn không được liền giật lọ thuốc độc uống trước rồi đưa lại cho Hernani uống nốt, bá tước tuyệt vọng, tự sát. “Hecnanie” là vở kịch đầu tiên được công diễn của Hugo. Đó là cái mốc quan trọng đánh dấu sự toàn thắng của chủ nghĩa lãng mạn đối với chủ nghĩa cổ điển. Các qui tắc ngặt nghèo cổ điển bị phá vỡ. Huỷ bỏ luật tam duy nhất. Xoá ranh giới cứng nhắc giữa bi kịch và hài kịch, giữa cái cao cả và cái thô kệch. Mâu thuẫn chủ yếu trong kịch là mâu thuẫn giữa vua và tên tướng cướp - nhà văn đã cố ý đặt ngang hàng, thậm chí tướng cướp cao thượng hơn vua. Tác phẩm có ý nghĩa chính trị rõ rệt vào lúc sắp nổ ra Cách mạng tháng Bảy 1830. Vở drame nổi tiếng cuối những năm 30 là vở “Rue Blax” (1838). Vở này được gợi ý từ chính cuộc sống của nhà thơ Hugo. Ông được triều đình Louis Philip sủng ái. Nhà thơ đi lại thân thiết với vợ chồng công tước Orlean - người sẽ thừa kế ngai vàng, ông dọn nhà tới quảng trường hoàng gia tại ngôi nhà xưa là dinh thự của vua Louis 13 (nay là nhà bảo tàng Hugo). Có lẽ sự thăng hoa của số phận cá nhân đã là một cảm hứng để Hugo xây dựng nhân vật chính Rue Blax - một gã hầu phòng thông minh, tài năng trở thành thượng thư đầu tiên của Charles II ở Tây Ban Nha thế kỉ 17. Bên cạnh đó là cảm hứng lãng mạn từ tập “Tự thú” (Confessions) của nhà văn J.J.Rousseau trong đó miêu tả phút giây ngắn ngủi mà một công nương để mắt tới Rousseau, lúc ấy đang làm công cho một PHN-VHPT 2 trang 17
  18. vị bá tước, và Rousseau đã gọi đó là giây phút “khiến mọi sự vật phải được xếp đặt đúng với trật tự tự nhiên của nó và trả thù cái giá trị hư hỏng của những sự đảo lộn gây ra bởi của cải”. Còn nhân vật Rue Blax của Hugo, anh ta không chỉ đạt được tình yêu của một công nương trong giây phút mà đã chiếm lĩnh được hoàn toàn trái tim của hoàng hậu : “Hoàng hậu yêu ta ! Lạy chúa ! chính là ta đó ta lớn hơn vua bởi mối tình này”. Và chẳng phải thu gọn trong lĩnh vực tình yêu: anh đã khiến cho hoàng hậu phải cảm phục vì “một trí óc diệu kì nằm trong đầu chàng đó. Niềm tự hào là vương miện của chàng”. Nhân vật lãng mạn đành phải chết yểu: Rue Blax tự tử sau khi đành phải thú nhận với hoàng hậu rằng mình chỉ là một gã hầu phòng chứ không phải là ngài quí tộc Don Ceda de Bazant. Thế nhưng cái ảo tưởng lãng mạn của Hugo không mất, hoàng hậu đã đáp lại tình yêu của người hầu phòng bằng tiếng kêu tha thiết: “Rue Blax, em yêu chàng ! ” và vở kịch kết thúc ở đó. Trong Lời Tựa, Hugo đã nói rằng câu chuyện rất đơn giản “đó là một người đàn ông yêu một người đàn bà”, song thực tế đấy lại là “một con đom đóm yêu một ngôi sao sáng”. Do đó, vấn đề triết lí của tác phẩm chính là quần chúng đang vươn tới những lĩnh vực cao cả. Lại một âm hưởng của thời đại và lịch sử dội vào vở drame của Hugo. Tiểu thuyết của Victor Hugo NHÀ THỜ ĐỨC BÀ PARIS (Notre Dame de Paris) Là một nhà thơ lãng mạn, Hugo còn nhiều sáng tạo độc đáo ở lĩnh vực văn xuôi, đặc biệt là tiểu thuyết, thành công chẳng kém gì thơ ca. Hơn thế nữa, bộ phận này còn là một sự bổ sung thể hiện những dự định sáng tạo táo bạo, mới mẻ và thầm kín nhất mà Hugo chưa thể kí thác vào thi ca. Bởi thế ngày nay người ta coi bộ phận tiểu thuyết này là một tựa đề soi sáng toàn bộ sáng tác của Hugo . Từ sau 1843, khi thể nghiệm với các vở kịch, Hugo đã nhận ra rằng sân khấu không thể là mảnh đất tự do đồng thời cho cả cái thực và cái mộng, quá khứ và hiện tại, cái lịch sử và cái riêng tư Hugo đã chuyển hướng sang tiểu thuyết, nơi tin rằng có thể thực hiện được tối đa “điều không thể có”. Thiên tài của Hugo chính là ở chỗ, trên lĩnh vực tư tưởng và nghệ thuật, ông vừa là hiện thân của thời đại, vừa phản ứng lại thời đại. Tiểu thuyết của Hugo chứa chất nhiều yếu tố quen thuộc của tiểu thuyết trước và sau giai đoạn lãng mạn. Với tư cách là một cá tính sáng tạo, ông đã giữ khoảng cách với những mẫu mã cũ kĩ của thị hiếu, những lốI mòn sáo trong thị hiếu độc giả. Những nét ấy đã ăn sâu trong tiểu thuyết thế kỉ 19 ở phương Tây đồng thời cũng khá phổ biến ở phương Đông. Bởi thế, vượt lên trên cả thơ ca tiểu thuyết của Hugo đặc biệt là “Nhà thờ Đức bà Paris” (Notre Dame de Paris) và “Những người khốn khổ” (Les Miserables) được bạn đọc ngày nay trên toàn thế giới yêu thích mà ít có tác phẩm nào sánh kịp. Cũng như bà De Stan, Hugo đã viết trong một tiểu luận về nhà văn nước Anh Walter Scott: “Tiểu thuyết là một thể loại ưu việt”. Do sự tinh tế của tâm hồn, do tính sâu xa phức tạp của tư tưởng và triết lí, do mối dày vò và băn khoăn trước một thực tế hai mặt đang biến động, và nhất là trước số phận của con người, Hugo vừa tận dụng sức hấp PHN-VHPT 2 trang 18
  19. dẫn của kịch tính, những cái ngẫu nhiên bất ngờ và những tình tiết li kì để dẫn tới đỉnh điểm kết thúc; đồng thời đưa bất ngờ và những tình tiết li kì để dẫn tới đỉnh điểm kết thúc ; đồng thời đưa vào đó đóng góp của một thiên tài lãng mạn. Đó là những nhân vật không hoàn toàn rạch ròi giữa ba tuyến “nạn nhân - kẻ hung bạo - vị cứu tinh” mà hoàn toàn đã mang tính phức tạp, không nguyên phiến. Nét thứ hai là chọn một kết thúc gần với tiểu thuyết hiện đại theo đúng nghĩa của nó, là một kết thúc không rạch ròi, không có hậu như truyền thống. Nét thứ ba, là một chất thơ, chất suy tư sâu thẳm nằm trong những hình tượng nhân vật gần với biểu tượng hơn là điển hình, nằm trong một thứ văn xuôi mọc cánh và nằm trong những chương bình luận ngoại đề. Với những kích thước khác nhau và ngăn cách bởi một khoảng thời gian khá dài và đầy biến động, hai cuốn “Nhà thờ Đức bà Paris” và “Những người khốn khổ” là hai cột mốc tiêu biểu cho hai giai đoạn trước và sau những năm 1848 –1852. Trước khi lưu đày, tiểu thuyết Hugo đặc biệt nổi tiếng với kiểu tiểu thuyết lịch sử, trước hết là cuốn “Nhà thờ Đức bà Paris” (1831). Tóm tắt cốt truyện như sau : Câu chuyện được đặt trong khung cảnh Paris thời Trung cổ. Esmeranda là một cô gái dân tộc Bohemien xinh đẹp, không cha không mẹ, làm nghề nhảy múa rong và bói toán để kiếm sống. Đi theo cô lang thang khắp nơi là một con dê nhỏ thông minh tên Djaly. Claude Fraulot là phó giáo chủ Nhà thờ Đức bà say sưa ngắm nhìn cô giá Esmeranda biểu diễn trên quảng trường trước cửa nhà thờ và nuôi ham muốn tộI lỗi. Hắn ra lệnh cho Quazimodo – gã kéo chuông nhà thờ, vốn xấu xí dị dạng có sức khoẻ kì lạ đi bắt cô vũ nữ lang thang . Sự việc bất thành vì tình cờ viên đạI uý độI cận vệ là Foebus De Japtope giảI thoát kịp thời cho cô vũ nữ. Sau tai nạn Esmeranda đem lòng yêu viên đạI uý quí tộc Foebus, còn y đến với cô như một tình yêu trăng gió ( ). Còn gã kéo chuông nhà thờ thì bị kết tội, chịu đựng hình phạt đưa lên đài bêu. Anh xin mọi người đứng xem một nguộm nước nhưng ai cũng dửng dưng. Chỉ có Esmeranda thương hạI con người khốn khổ - dù gã đã từng bắt cóc hụt nàng – cô trèo lên chỗ anh bị hành hình cho anh uống nước. Từ đó, anh Quazimodo không còn say mê mấy cái gác chuông của mình nữa, nhiều lúc thẫn thờ đứng trên lầu cao hướng con mắt buồn rầu, âu yếm theo dõi cô vũ nữ ngoài quảng trường. Phó giáo chủ rắp tâm theo dõi để trả thù Esmeranda . Dò biết cô có hẹn hò với Foebus ở một quán rượu, Fraulot đến chỗ hẹn đâm trọng thương Faubus rồi bỏ trốn. Esmeranda bị bắt, rồi bị kết tộI “giết người và làm trò phù thuỷ”. Fraulot vào nhà giam đề nghị cô trốn theo hắn nhưng bị cự tuyệt. Giữa lúc Esmeranda đang bị lên giá treo cổ giữa quảng trường, chàng gù Quazimodo xông lên đoạt cô trong tay đao phủ, vác chạy vào nhà thờ đưa vào phòng riêng cuả mình. Quazimodo săn sóc cô bằng tấm lòng yêu thương và tâm hồn cao thượng. Anh bảo vệ cô vũ nữ chống lại đám quần chúng nghèo khổ vì hiểu lầm kéo đến bao vây nhà thờ hòng giảI vây cho cô vũ nữ. Anh lại phải che chở cô thoát khỏi bàn tay ghê tởm của tên phó giáo chủ. Vẫn bị nàng vũ nữ cự tuyệt, phó giáo chủ liền tìm cách đẩy cô vào tay một mụ tu sĩ ở ẩn khốn khổ vốn căm thù người Bohemien trước đây đã ăn cắp đứa con gái của mụ cũng trạc tuổi Esmeranda bây giờ. May mắn thay, người mẹ khốn khổ ấy đã kịp nhận ra cô vũ nữ chính là con mình. Lính tráng theo sự chỉ dẫn của Phó giáo chủ kéo đến bắt cô vũ nữ đưa đi giá treo cổ. Fraulot đứng trên gác chuông nhà thờ theo dõi cuộc hành hình. Nhìn thấy tên đạI uý quí tộc Foebus đứng bên một phu nhân nhìn nàng mà cười, Esmeranda cảm thấy đau đớn tuyệt vọng. Quazimodo theo sát phó giáo chủ, khi thấy y nở nụ cười ma quái, anh nổ cơn giận dữ điên cuồng đẩy y nhào xuống qủang trường, kết PHN-VHPT 2 trang 19
  20. liễu đời tên gian ác. Từ hôm đó, không ai thấy Quazimodo đâu nữa. Hai năm sau, người ta tìm thấy trong hầm mộ bộ xương người kéo chuông nằm ôm chặt bộ xương của nàng vũ nữ Esmeranda . Cuốn tiểu thuyết này không hẳn là một tiểu thuyết lịch sử nếu xét kĩ, nhưng cho tới nay mọi người đều thừa nhận rằng Walter Scott (nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử Anh) đã để lại một ảnh hưởng lớn đối với các nhà lãng mạn khi đề xướng khuynh hướng lịch sử cho tiểu thuyết thế kỉ 19, và biến nó thành một ẩn dụ, một phỏng đoán về cuộc sống hiện tại, trong khi những người như Hugo chưa đủ điều kiện khách quan để lí giải những bí ẩn của hiện tại. Bởi thế, dù Hugo đã rất tốn công sức trong việc sưu tầm những tài liệu lưu trữ về thế kỉ 15 (tài liệu về Nhà thờ Đức bà Paris thời đó) dù những hiểu biết về nghệ thuật, văn hoá quá khứ của ông thực sự uyên bác thì cũng không ai đánh giá cao về sự chính xác của tư liệu lịch sử của tiểu thuyết. Hơn thế nữa, nhà nghiên cứu văn học Lukacs còn cho rằng tính lịch sử bị thiếu hụt là do chỗ Hugo sử dụng lịch sử để hoá trang những suy nghĩ chủ quan về đương thời. Trước hết là những suy nghĩ về quần chúng như một sức mạnh huyền bí và nhà lãng mạn những năm 30 liền cảm thấy ngay giới hạn của họ: mù quáng và ít nhiều thụ động trước một lực lượng còn tối tăm và mù quáng hơn họ, đó là Janarkh (định mệnh). Quần chúng, đó là Quazimodo dị dạng, câm lặng, không thể nào diễn đạt được ý nghĩ của mình, đó là những người ăn mày lở loét què cụt, là những lưu manh, là cô gái Bô-hê- miêng lang thang không tên tuổi (Esmeranda chưa phải là một tên tuổi), đó là nhân loại còn ở “giai đoạn ấu trĩ”, đầy bản năng, hung hãn nhưng bỗng chốc có thể hé ra vẻ đẹp sáng ngời dướI lần vỏ xù xì xấu xí của mình không phải chỉ vì muốn phục hôi lại quang cảnh của quá khứ mà Nhà thờ Đức bà Paris bị ám ảnh bởi mô-típ đám đông. Họ đặc biệt xuất hiện ở cảnh « Ngày hội những người điên » với những trò vui của hội quá trang, cảnh công chúng chứng kiến Quazimodo bị đưa lên đài chịu cực hình và cảnh đám lưu manh tấn công nhà thờ Đức bà. Trên quảng trường, vào thời điểm hội hè Cacnavan, vào những giây phút đảo lộn trật tự thông thường ấy, anh Hề - gã làm trò mới có sự chuyển vai đặc biệt : Quazimodo trở thành Giáo hoàng và Esmeranda trở thành Ánh Sáng, thành Ngọn lửa, thành nàng tiên kì ảo. Vào những phút giây chịu cực hình, Quazimodo và Esmeranda, dù vẫn ít nhiều mù quáng và ấu trĩ như công chúng, cũng đã biến đổi chính mình và có khả năng thức tỉnh cả công chúng nữa. Giọt nước mắt lần đầu tiên chảy trên gò má nứt nẻ của Quazimodo và giọt nước mắt đầy tình thương mát lành của Esmeranda đã khiến công chúng hét lên : Noel ! Noel ! Đài giảo hình dựng cho anh gù và Esmeranda chẳng phải chỉ là hình ảnh của thời trung cổ mà còn là một biểu tượng về sự hi sinh của quần chúng trong một cuộc cách mạng chỉ vừa mới xảy ra mà thôi. Nhà thờ Đức bà Paris - cuốn sách bằng đá, chị em sinh đôi của những khúc dân ca - sẽ dần dần bị thay thế bằng cuốn sách bằng giấy “cái này sẽ giết chết cái kia Báo chí sẽ giết chết nhà thờ Mọi nền văn minh đều bắt từ thần trị và kết thúc bằng dân chủ” .Đó chính là kinh nghiệm xương máu của những thế kỉ đã qua và của thời đại Hugo. Quần chúng vẫn còn đi đến những kết thúc bi đát, nhưng sức mạnh của họ tiềm tàng và bí ẩn cùng với thời gian, họ là kiến trúc và thợ nề của tất cả. Những hình tượng ở đây gần với những siêu mẫu (archétype) của văn học dân gian hơn là gần với biểu tượng. Chúng ta người Việt Nam thấy phảng phất trong bóng dáng Quazimodo, và kết thúc câu chuyện, hình ảnh mối tình mà cái chết cũng không thể chia rẽ (khi người ta muốn kéo gỡ bộ xương Quazimodo ra khỏi bộ xương y ôm, thì nó vụn ra thành bụi, vừa gần với chuyện tình dân gian Pháp “Tristan và Yseult” vừa gần gũi PHN-VHPT 2 trang 20
  21. với huyền thoại Trương Chi và truyện Trầu Cau). Sự đan chéo những yếu tố bi-hài, cái đẹp – cái dị dạng cũng là một nét độc đáo. Cái kết thúc của thiên tình sử vừa bi đát, vừa hài hước, bên cạnh đám cưới của Foebus đại uý quí tộc là “đám cưới” của Quazimodo và Esmeranda, họ chỉ có thể gặp nhau dướI nấm mồ. Mỗi nhân vật là một sự hài hước bi đát. Nhân vật hoạ sĩ Pierre Gringoie là sự thất bại của ảo mộng trước nhu cầu vặt vãnh của đời sống. Quazimodo cũng là một loại đom đóm yêu một vì tinh tú, sự thiếu hài hoà của anh chẳng những khiến người đàn bà mà cả những con người trần thế chẳng thể chấp nhận được. Lão linh mục Fraulot là sự bất hoà giữa khổ hạnh và thèm khát. Foebus gã sĩ quan quí tộc là sự đối lập giữa vẻ đẹp bên ngoài và sự xấu xa, trống rỗng bên trong. Mỗi nhân vật ấy lại là biểu tượng về những giới hạn mà bản thân Hugo đã thể nghiệm về cá nhân mình và con người nói chung, bởi thế, những nhân vật của Hugo không phải hoàn toàn chết cứng, trừu tượng mà đã có được sự sống và phức tạp trong đó. Nhờ đó mà cho tới nay, dù trào lưu lãng mạn đã qua, thời Trung cổ của phương Tây càng trở nên xa xôi hơn bao giờ hết đối với độc giả nhiều nước, “Nhà thờ Đức bà Paris” vẫn là một cuốn truyện được dịch và đọc nhiều nhất trên thế giới với tất cả vẻ ngây thơ, tươi mát và tình yêu con người tràn ngập trong đó. Tất cả những tính chất trên đây của “Nhà thờ Đức bà Paris” cùng với nhiều cuốn tiểu thuyết khác của Hugo được bộc lộ trọn vẹn và đặc sắc nhất trong kiệt tác “Những người khốn khổ” (Les Miserables). NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ (Les Miserables 1823-1861). (Trước Cách mạng tháng Tám tiểu thuyết được dịch tiếng Việt với tựa đề “Những kẻ khốn nạn”) Ban đầu, Hugo viết đề cương của tiểu thuyết, gồm 4 phần : Phần 1 : chuyện một ông thánh. phần 2 : chuyện một người đàn ông. phần 3 : chuyện một ngưòi đàn bà. phần 4 : chuyện một con búp bê. Cuối cùng, đề cương chính thức được đổi thành 5 phần như sau : 1 Phần thứ nhất : Fantine 2 Phần thứ hai : Cosette 3 Phần thứ ba : Marius 4 Phần thứ tư : Tình ca phố Plumet và Anh hùng ca phố Saint Denis 5 Phần thứ năm : Jean Valjean. MỘT SỐ NHÂN VẬT Jean Valjean (đặt theo tên một vị thánh) anh thợ làm v ườn xứ Faverolles Myriel “Bienvenu” (người được hoan nghênh) ở quận Dignet Jean đến xứ Pontarlier quận Montreui với tên mới Madelaine Lão Fauchelevent đánh xe ngựa, quận Montreui Javert cảnh sát nhà tù Toulon, quận Montreui, sau đến Paris PHN-VHPT 2 trang 21
  22. Lão Champmathieu bị bắt ở xứ Arras vì bẻ trộm một cành táo có nhiều trái, nhưng bị kết án chung thân khổ sai với cái tên “Jean tái phạm”. Fantine, gửi con Cosette (con bé sơn ca) ở thị trấn Montfermeil quán cơm của vợ chồng Thenardier có hai con gái Eponine và Azelma. Jean gặp lão Fauchelevent ở một nhà thờ nhỏ Saint Antoine, được đặt là Ultime F-em. Hai cha con nương náu ở đó. Lão Gillenormand năm 1831 đã quá 90 tuổi, tư sản già nua hầu tước cũ , bảo hoàng, ghét 1789, giành nuôi đứa cháu ngoại vì doạ tước bỏ thừa kế của con rể - đại tá Pontmercy mà vợ chết ngay khi sinh. Vì nghèo, thương con trai nên đành chịu thua lão. Lão sống với cô gái già 50 và cháu ngoại Marius. Đại tá Pontmercy có công ở hai trận Auterlitz và Waterloo (18.6.1815) được Napoleon phong đại tá và danh hiệu nam tước. Khi hấp hối mới được lão cho gặp Marius, để lại di chúc danh hiệu thừa kế và lời dặn trả ơn trung sĩ Thenardier. Khi cha bị xỉ nhục, cậu hô “đả đảo bè lũ Bourbons và con heo mập Louis 18” (đã chết trứơc đó 4 năm). Xung đột ông cháu, bị đuổii cậu đi về khu phố Latinh tìm nơi trọ. Làm việc và học luật, thạo tiếng Anh và Đức, tốt nghiệp, làm việc in ấn tại một hiệu sách. Các bạn của Marius: Courfeyrac, Lesgle, Combeferre, Enjonbras trong hội bí mật ABC lãnh đạo cuộc khởi nghĩam Paris 1832. Montparnasse, lưu mạnh Đường Saint Denis, chiến luỹ, bản anh hùng ca năm 1832. Đường Plumet – nơi tạm trú của Cosette, bản tình ca của Marius và Cosette . Tóm tắt tác phẩm : 1 – Jean Valjean là một thanh niên nghèo làm nghề xén cây, cha mẹ đã mất chỉ còn người chị goá chồng nuôi bảy cháu nhỏ. Mặc dù đã lớn tuổi, Jean chưa lập gia đình, anh mãi làm lụng giúp chị nưôi đàn cháu. Gặp phải lúc thất nghiệp, anh buộc lòng phải ăn cắp một số bánh mì cho lũ cháu đang đói. Bị bắt và kết án năm năm tù khổ sai. Sau bốn lần vượt ngục không thành, án tù tăng dần đến con số 19 năm. Mãn hạn tù Jean mang giấy thông hành màu vàng dành cho phần tử công dân nguy hiểm (có tiền án), nên đi đường tới đâu cũng bị nghi ngờ, hắt hủi. TrờI tối, đương lúc thất vọng, đầu óc quay cuồng chán nản, anh ghé vào nhà thờ của giám mục Miryen địa phận Dignet là người nhân từ độ lượng đã đối xử tử tế với anh, lại còn tha thứ cho anh tộI ăn cắp đồ vàng bạc cuả nhà thờ. Khi rờI khỏiinhà thờ lần thứ hai anh lại phạm tộI tước đoạt một đồng bạc của thằng bé Gecve lang thang. Hình ảnh đứa bé đứng khóc nức nở, sợ hãi tiếc rẻ hồI nãy đã thức tỉnh lương tâm anh, gợI nhớ cuộc đời lao động nghèo khó xưa kia, và những đứa cháu tội nghiệp cùng với mẹ chúng nay đã thất tán không rõ ai còn ai mất. Anh hốI hận đi tìm thằng bé Gecve nhưng nó đã đi xa hút. Nhớ li hành động hào hiệp lạ lùng của đức giám mục Miryen đối với anh, Jean rùng mình như ngưòi lột xác. Anh quay lại trước cửa nhà thờ quỳ gối, xưng tội và cầu nguyện suốt đêm Rồi anh ra đi, về phía tỉnh Mont’reui. 2- Đến Mont’reui, gặp và cứu một đám hoả hoạn, Jean được làm giấy thông hành mang tên mới : Madelaine. Sử dụng bí quyết sản xuất thuỷ tinh đen (hạt huyền) dùng làm đồ trang sức mà một ngưòi bạn tù đã dạy cho anh, Jean mở nhà máy sản xuất hạt huyền , PHN-VHPT 2 trang 22
  23. thu nạp công nhân trong vùng. Kinh doanh phát đạt, ông ra sức làm công việc từ thiện : mở trường học, xây nhà thương miễn phí cho dân nghèo. Được dân bầu làm thị trưởng thành phố Mont’reui. Trong xưởng máy của ông có một người thợ tên là Fantine . Fantine vốn là cô thợ khâu ở thành phố Paris, bị Tolomiette một gã quí tộc lừa tình, khi có mang, cô bị ruồng bỏ. Đẻ một đứa con gái, đặt tên Cosette, đem gởi một quán trọ của vợ chồng Thenardier ở thị trấn Montfermeil nuôi. Trở lại Paris kiếm sống nhưng rồi tìm về thành phố Dignet xin vào làm ở xưởng thuỷ tinh của ông Madelaine, sau khi vì cạn tiền phải bán răng, bán tóc gởi cho con Mụ giám thị khắc nghiệt đanh ác khi biết chị đã có con hoang liền đuổi chị khỏi xưởng may. Fantine đành phải đi làm gái điếm. Khi chị ốm nặng, lại bị Javert bắt giữ, Jean mới biết, đưa chị về nhà chữa trị, săn sóc và hứa sẽ chăm sóc Cosette . Cảnh sát trưởng Dignet là Javert luôn luôn nghi ngờ và rình rập ông Madelaine vì hắn nghi ông là tên tù khổ sai Madelaine phạm tội cướp đồng bạc của thằng bé Gecve năm xưa. 3 – Jean Valjean ra toà án tự thú để cứu Champmathieu - một người nông dân bị bắt oan vì hình dạng giống Jean . Lần thứ hai vào tù, Jean lại tìm cơ hội bỏ trốn đi tìm Cosette ở thị trấn Montfermeil, chuộc Cosette ra khỏi quán cơm của vợ chồng gã lưu manh Thanardier Hai cha con sống lén lút âm thầm ở Paris suốt 10 năm trong một nhà thờ nữ tu. Ông vẫn bị tên mật thám Javert rình mò tìm kiếm Cosette lớn lên trở thành thiếu nữ xinh đẹp, quen biết và yêu Marius, chàng sinh viên quí tộc từ bỏ ông ngoại sống độc lập. Cuộc khởi nghĩa năm 1832 bùng nổ ở thủ đô Paris. Cuộc chiến đấu của các chiến sĩ cộng hoà diễn ra ác liệt. Bên cạnh những sinh viên ưu tú như Combeferre, Enjonbras có tấm gương hi sinh dũng cảm của cụ già Mabop, chú bé bụi đời Gavrochee , Jean cũng lên chiến luỹ, đứng về phía các chiến sĩ chống lại nền Đế chế của Louis Philip, vừa là do vô thức vừa muốn bảo vệ Marius con rể tương lai của ông, ông tha chết cho Javert. Cuộc khi nghĩa thất bại, ông cứu được Marius, đưa trả về nhà ông ngoại chàng. Ông bị Javert bắt lại, Javert buông tha ông và y nhảy sông tự vẫn. Đám cưới Marius và Cosette. Ông già Jean Valjean càng cô đơn và gặp nhiều nỗi đau khổ dằn vặt nhưng vẫn ra sức vun đắp hạnh phúc cho con gái nuôi hồn nhiên, ngây thơ. Cuối cùng ông ngã bệnh và chết trong bàn tay hai đứa con khi chúng hối hận đã muộn màng. Hơn một trăm năm đã qua kể từ khi bộ tiểu thuyết “Những người khốn khổ” được “khởi thảo bởi một người tù và hoàn thành bởi một vị nguyên lão”. Sau nhiều năm bị ngắt quãng gián đoạn bởi cuộc lưu đày, như một cái chai ném ra giữa “đại dương con người” chứa lời tiên tri về những khát vọng và về một xã hội tốt đẹp hơn, trở thành bức thông điệp mà ngày nay thế giới tiếp tục vươn lên và đón nhận. Người ta đã có nhiều cách nhận xét khác nhau về bộ tiểu thuyết đồ sộ này. “Bộ tiểu thuyết nhân dân”, “anh hùng ca của những người bình thường”, “một tiểu thuyết sử thi”, “tiểu thuyết luận đề”, “một cuốn tiểu thuyết Ánh sáng”, “sử thi triết lí”, “tiểu thuyết lịch sử”, “tiểu thuyết lãng mạn”, “tiểu thuyết hiện thực”, thậm chí “một tác phẩm mênh mông”. Cuối cùng các nhà nghiên cứu thấy rằng tất cả mọi yếu tố đó đều chung sống trong bộ tiểu thuyết này, và Hugo đã làm cái việc “hoà lẫn mọi thứ anh hùng ca thành một thứ anh hùng ca ưu việt”. PHN-VHPT 2 trang 23
  24. Cũng như các cuốn truyện trước, Hugo khai thác thành công loại tiểu thuyết nhiều kì đăng báo rất bình dân và rất ăn khách. Sơ đồ tiểu thuyết đăng báo thường gồm mối liên hệ giữa bốn hình tượng sau (A: kẻ bị loại bỏ, B: đối tượng của tình yêu; C: kẻ nắm quyền lực; D: kẻ hung đồ ). Cấu trúc như trên là motif của loại tiểu thuyết đen và loại kịch melodrame quen thuộc ở Pháp. Với Hugo, sơ đồ trên bị phá vỡ và xáo trộn. Trong Jean Valjean có cả A lẫn D (ở những thời điểm khác nhau) và Fantine, Thenardier, Eponine, Azenma cũng vậy. Trong Cosette có cả A (thuở nhỏ) lẫn B, Javert vừa là C vừa là D. v.v ”Ánh sáng” và “Bóng tối” lúc đầu tưởng như phân định rạch ròi, cũng không hoàn toàn như vậy ở các giai đoạn kế tiếp. Mỗi một nhân vật lại chứa trong mình cả một sơ đồ cốt truyện loại khá : câu chuyện Cosette giống một truyện tiên kể cho các em nhỏ (có cả quỉ và cả bà tiên là Jean, có hoàng tử thức tỉnh mùa xuân của hằng nga Cosette ở vườn Luxamburg là Marius ). Mối tình Marius - Cosette là một thiên tiểu thuyết diễm tình tiêu biểu, cũng như truyện Fantine - người con gái bị quyến rũ và bị phụ bạc, mẹ của đứa con hoang, là cốt truyện kiểu melodrama. Thế nhưng, nếu chỉ có vậy thì “Những người khốn khổ” chỉ là sách bán chạy của một thời ; Tiểu thuyết còn chứa cả một tương lai mơ hồ hé qua chân trời tối sầm lại của “một chiến luỹ”, và những suy tưởng, những cơn “bão tố nổ ra trong đầu”, trong lương tri của nhà nghệ sĩ lớn Hugo. Những thắt nút những đòn bất ngờ, những tình tiết hỗn hợp xoay quanh vận mệnh của các nhân vật và “nhân vật trung tâm” thực ra là những phố xá lan man của Paris “theo đường bay của chim cú”, tu viện, cống ngầm, dòng sông Sein đều có điểm gặp gỡ: những chiến luỹ của “bản anh hùng ca phố Saint Denis và nhiều cuộc khởi nghĩa khác (1832, 1848) từ tài liệu sử sách và cả những điều nhà văn tai nghe mắt thấy. Những cảnh khốn cùng, những người khốn khổ đều là những nhân vật có gốc tích mà nhà văn gặp trên đường đời. “Cuốn sách này là một tấn bi kịch mà nhân vật đầu tiên là vô biên. Con người là nhân vật thứ hai”. Lời tuyên bố của tác giả tuy có làm rõ thêm tính triết lí của cuốn sách cũng không thể xoá bỏ luận đề xã hội mà cuốn sách nêu ngay từ trang đầu : “Khi pháp luật và phong hoá còn đày đoạ con người, còn xây nên những địa ngục ở giữa xã hội văn minh và đem một thứ định mệnh nhân tạo chồng chất lên trên thiên mệnh ” Với tư cách là một tác phẩm lãng mạn, bộ tiểu thuyết chủ yếu vẫn là khẳng định thế giới lí tưởng của nhà văn nhưng không thể thiếu những phần phê phán xã hội. Cuốn sách được viết khi trào lưu hiện thực chủ nghĩa đang dần thay thế cho trào lưu lãng mạn, bởi vậy tác phẩm đã xen kẽ nhiều yếu tố hiện thực. Những nhân vật như Jean, Fantine, Cosette, Gavrochee, Azenma không có tên hay là một lai lịch rõ ràng, “đừng hỏi tên họ của một kẻ đi xin chỗ trú thân, Jean muốn có một cái tên đáng kính thì phải ăn cắp (ba lần), cho dù cần một cái tên giả để làm việc thiện. Và cuối cùng ông thú nhận cùng Marius “Để sống, xưa kia tôi đã phải ăn cắp một cái bánh, bây giờ để sống tôi không muốn ăn cắp một cái tên, tên tôi chính là Tôi”. Quả vậy, xã hội tư sản mang lại quyền sở hữu ”cái tôi” chỉ cho những ai có sở hữu tiền bạc. Cùng với họ tên, là vấn đề gia đình, Jean nói với Marius “tôi chẳng thuộc gia đình nào, thế đấy. Tôi chẳng thuộc gia đình của ông. Tôi không thuộc về gia đình của con người ( ). Tôi là kẻ khốn khổ, tôi ở bên ngoài”. Do vậy, những nhân vật khốn khổ của Hugo chưa thể gọi là những “điển hình” (tức là mang tính cá biệt), song vẫn có một ý nghĩa xã hội, họ là những “siêu mẫu” của PHN-VHPT 2 trang 24
  25. tiểu thuyết hiện đại, (gần gũi với điển hình A.Q của Lỗ Tấn, Chí Phèo của Nam Cao hoặc với những nhân vật đánh mất tên tuổi trong tiểu thuyết Kafka thế kỉ 20 sau này). Không phải ngẫu nhiên mà trình tự câu chuyện gồm 5 phần mà hai phần đầu lại mang tên Fantine (I), và Cosette (II) trong đó Cosette sẽ còn sống tới cuối truyện (phần V). Còn nhân vật Jean xuất hiện một mình ngay từ đầu lại dành đặt tên cho phần chót. Ba nhân vật Fantine, Cosette, Jean Valjean mang âm hưởng đặt vấn đề, nêu câu hỏi. Jean từ khi chưa gặp giám mục Myrien là một bằng chứng phản đề cho giải pháp tình thương, để sau đó cuộc sống của anh như một lời chuộc tội, một đức tính cứu rỗi con người. Là một thứ chủ nghĩa khai sáng, với bệnh viện mở cho người nghèo, với niềm tin rằng “sách là người bạn đáng tin cậy”, với những “ốc đảo không tưởng” của Madelaine giữa bãi sa mạc đại hạn tình thương là cái xã hội người bóc lột người. Với hình tượng Myriel, được tiếp nối ở hình tượng ông thị trưởng Madelaine, với dư âm khúc hát về Voltaire và Rousseau của chú bé Gavrochee, cái cách mạng tưởng như không liên tục ấy, tất cả nói lên chủ nghĩa khai sáng như một hoài vọng mà Cách mạng tư sản không thể biến nó thành hiện thực và rất gần với những ảo tưởng về cuộc đời sự nghiệp của nhà xã hội không tưởng Owen. Chiều hướng thứ ba trong kết cấu tác phẩm có thể mập mờ hơn nhưng đã được nhà thiên tài lãng mạn dự cảm thấy trong những chương như “Hé sáng rồi lại tối sầm” (phần thứ 5) khi chiến luỹ rơi vào cảnh tuyệt vọng, nhưng một tiếng nói “từ trong khoảng tối tăm nhất” vang lên thay đổi cả chiến luỹ. Theo Hugo đó là tiếng nói của một người thợ không ai biết tới, một người vô danh, một kẻ bị quên lãng, một người qua đường anh hùng, cái kẻ vô danh vĩ đại luôn luôn hoà vào những cuộc khủng hoảng của loài người và những cơn thai nghén của xã hội, vào những giây phút quyết định, họ nói lên lời tối hậu quyết định nhất, và tan biến vào bóng tối sau khi đại diện trong giây phút, giữa ánh sáng chớp loè, cho nhân dân và Đức Chúa”. Qua hình tượng của nhân vật, chúng ta thấy kích thước của tương lai xuất hiện qua Gavrochee – chú bé tiên đồng bất tử - bởi trong cái chết của chú không có chết chóc mà chỉ là “ cái linh hồn bé bỏng và vĩ đại ấy đã bay đi”. Hai đứa em bị bỏ rơi sau khi chú chết, đứa lớn dắt đứa bé, “làm anh rồi lại làm cha”. Kết thúc là cảnh thằng anh vớt bánh của con thiên nga dưới hồ lên, đưa cho em ăn với câu nói giống hệt Gavrochee hồI trước “Này, tọng vào nòng súng đi”. Ngôn ngữ của Gavrochee, ngôn ngữ của thời đại không chết với Gavrochee mà đang tái sinh ở những đứa bé anh hùng. Cảnh này trùng điệp cảnh kia như điệp khúc, dư ba của bản giao hưởng anh hùng. Bạo lực và Ôn hoà, Cách mạng và Tình thương không còn là một thứ ánh sáng phân đôi, mà đan chéo, hoà quỵên và giằng xé ngay trong lòng một nhân vật lí tưởng như Jean Valjean -nhân vật trung tâm thể hiện những ảo tưởng lãng mạn biến cải thế giới bằng tình thương - đã có lúc lên chiến luỹ chỉ vì lo hạnh phúc riêng tư của con gái Cosette, nhưng nhà văn vẫn dẫn con người lí tưởng của mình tới chiến luỹ của những người Cộng hoà chứ không phải của quân chính phủ. Còn khi Anjonras phải thay bạn nhằm bắn một tên quốc dân trông giống hệt đứa em trai bạn thì “một dòng nước mắt long lanh chảy trên gò má lạnh như đá của anh”. Mối băn khoăn giày vò giữa “ánh sáng đen” và “ánh sáng trắng” từ tác giả thấm vào nhân vât vẫn là câu hỏi ám ảnh những tiểu thuyết và thơ sau này như “Chín mươi ba” và “Năm khủng khiếp”. Trong toàn bộ bản giao hưởng có “tiếng sắt tiếng vàng” chen nhau, tìm hiểu âm hưởng chủ đạo của nó, ta không thể chỉ rút ra những kết luận của Hugo ở những đoạn PHN-VHPT 2 trang 25
  26. bình luận ngoại đề (dù ở chỗ đó nhà văn phát biểu trực tiếp quan điểm của mình), mà đối với tiểu thuyết, ta vẫn phải xét nhân vật trung tâm trong mối liên hệ với các nhân vật khác, đặc biệt là các nhân vật tích cực, sự đan chéo giữa hai tuyến bạo lực - tình thương, và sự phân thân của từng nhân vật. Ở tác phẩm của nhà văn lãng mạn này, hình tượng rộng hơn tư tưởng Về mặt ngôn từ, “Những người khốn khổ” vẫn tồn tại những ý kiến đánh giá trái ngược: đó là giá trị của những đoạn, chương trữ tình ngoại đề mở rộng với kích thước khác thường so với các tiểu thuyết khác. Có người phản ứng vì tính chất giáo huấn khá lộ liễu của nó, trong khi đó những độc giả bình thường khi theo dõi cốt truyện chẳng ai thích đọc những đoạn, những chương này. Tuy nhiên, tính chất giáo huấn đã nhiều khi nhường chỗ cho cảm hứng và suy nghĩ dằn vặt của nhà văn trước một chủ đề nhất định, đó là Lịch sử, và nó là một câu hỏi hơn là một sự khẳng định võ đoán; Có những lúc nó lại mang chất thơ cho tiểu thuyết ; ví dụ những đoạn viết về Paris, về nhà tù, lan man những hoài niệm đang xuất hiện trong đầu người kể chuyện hướng về tổ quốc trong những ngày lưu đày. Bên cạnh đó, trong tiểu thuyết, nhà trữ tình vẫn phải xoá nhoà hình ảnh mình đi rất nhiều. Ở đây do sức chứa rộng lớn của cuốn sách, do đề tài và nhân vật huy động tới từ những bậc cao tới tận dưới đáy xã hội, ta thấy cất lên tiếng nói đa âm trong cuốn tiểu thuyết. Từ giọng điệu của những lão già bảo hoàng như lão Gillenormand (ông ngoại Marius) đến giọng nói dõng dạc của luật pháp (không chỉ qua miệng thanh tra Javert mà đan cài vào giọng của người kể chuyện qua nhiều vụ án và ngược lại cũng là giọng điệu mỉa mai). Giọng của các cô thợ trẻ vô tư lự, tiếng lóng của những kẻ sống theo luật giang hồ, đối thoại của sinh viên, những điệu đồng dao, điệu hát dân ca và bài ca cách mạng đi thẳng vào văn bản qua miệng của người phát ngôn kì thú, thích hợp nhất là chú bé Gavrochee v.v. Đôi khi tiếng nói của nhân vật Jean Valjean đã tiếp cận với mê sảng, nhưng về mặt này người kể chuyện vẫn hết sức tỉnh táo giữ lại thăng bằng bằng cách duy trì một thứ âm vận của thơ bàng bạc suốt tác phẩm; tính chất nhịp nhàng sóng đôi của câu thơ Alexandrin dường như vẫn vang lên trong câu thơ của “Những người khốn khổ”. Rồi đây, tiểu thuyết “Chín mươi ba” cuốn tiểu thuyết cuối cùng của Hugo sẽ trở lại vấn đề này và kiểu nhân vật này ở mức độ khác, kích thước khác. Tuy nhiên sự trung thực của nhà văn cảm thấy giới hạn cuả mình trước lịch sử khiến ông khi khẳng định thì sự khẳng định ấy vẫn ít nhiều mang dáng dấp một sự giày vò, một câu hỏi. Và, sức tổng hợp của “Những người khốn khổ” chính là ở chỗ : những nhân vật ở đây đã chứa trong mình những phần nhất định của các nhân vật nổi tiếng ở các tiểu thuyết khác. Nhớ đến Quazimodo, ta vẫn thấy phiên bản của Jean Valjean, Eponine, Gavrochee, Fantine. Người ta nói rằng : tất cả các hình thức lãng mạn đều có thể tìm thấy ở Hugo . Nhưng cũng phải nói thêm rằng: tiểu thuyết lãng mạn còn tìm thấy ở Hugo những cái mà nó chưa có. “Đơn độc mà liên kết, liên kết mà đơn độc”. Người ta cho rằng câu châm ngôn của Hugo nói về mình trong những năm lưu đày cũng đã bao hàm mối liên hệ của ông với thời đại : ông vừa là hiện thân của nó vừa phản ứng với cái thế kỉ mà ông từng gọi tên nó trong thơ mình bao lần, như một nhân chứng, một quan toà nhưng có khi lại như một kẻ bị kết tội. PHN-VHPT 2 trang 26
  27. Tiểu thuyết “Chín mươi ba” (Năm 93) Cuốn tiểu thuyết cuối cùng của Victor Hugo có vị trí quan trọng sau “Những người khốn khổ”. Ông viết cuốn này dưới ảnh hưởng của Công xã Paris, khẳng định giải pháp cách mạng (vốn ngập ngừng ở Những người khốn khổ). Tóm lược câu chuyện như sau : Năm 1793, hầu tước Lantenac đang lưu vong ở nước Anh tìm đường trở về Pháp và tổ chức cuộc khởi loạn ở vùng Vandet hòng khôi phục chế độ quân chủ đã bị đánh đổ trước đó 4 năm (1789) ( ). Chính phủ Cộng hòa cử Simurdin và Gauvin tham gia cuộc dẹp loạn. Gauvin, một nhà quí tộc, học trò yêu của giáo sư Simurdin, tự nguyện theo con đường cách mạng, trở thành một sĩ quan nổi tiếng. Bọn bảo hoàng gây nhiều tộI ác dã man. Khi bỏ chạy khỏi một căn cứ đóng tại toà lâu đài có giữ ba em nhỏ làm con tin, bọn bảo hoàng phóng hoả đốt lâu đài. Hầu tước Lantenac động lòng thương ba em nhỏ, đã lui lại để cứu chúng nên không chạy trốn kịp, bị quân chính phủ bắt giữ . Xúc động trước nghĩa hiệp của Lantenac, Gauvin đã vào nhà giam thả cho y trốn thoát. Sau đó anh tự nộp mình cho toà án binh xét xử. Người ngồI ghế chủ toạ phiên toà lại là Simurdin, sau những trăn trở “bão táp ở trong đầu”, ông đã xử Gauvin người học trò yêu chịu cái án tử hình. Khi lưỡI máy chém hạ xuống đầu Gauvin, Simurdin đau khổ và dùng súng ngắn tự sát. Đến tiểu thuyết cuối cùng này, nhà văn đã quyết liệt chấp nhận xử án Gauvin như châp nhận biện pháp bạo lực và đấu tranh giai cấp, Gauvin cũng thanh thản nhận tội và án tử hình. Song trái tim ông vẫn chứa đầy mâu thuẫn giữa tình cảm thấm đẫm và lý trí tỉnh táo. Simurdin lại tự bắn vào đầu sau khi Gauvin chết (?!) Đó thực là Victor Hugo. PHN-VHPT 2 trang 27
  28. 1.2 VĂN HỌC ANH 1. Tình hình kinh tế chính trị và phong trào công nhân Nước Anh hình thành quan hệ tư bản chủ nghiã và phong trào công nhân sớm nhất ở châu Âu. Nửa đầu thế kỷ XIX, nền công nghiệp cơ khí đã chiếm ưu thế, sản xuất công nghiệp phát triển mạnh. Dân cư đổ về các trung tâm công nghiệp lớn. Hai giai cấp chính ở Anh là giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Công nhân Anh bị bóc lột nặng nề. Giai cấp tư sản thu lợi từ cuộc cải cách nghị viện năm 1836, thảo ra bản “Hiến chương nhân dân” trình nghị viện. Phong trào Hiến chương đưa ra những yêu sách về chính trị như quyền bầu cử, giảm giờ làm và tăng lương. Phong trào công nhân tranh đấu nổ ra từ năm 1848 nhưng thất bại vì có một bộ phận thảo hiệp với giai cấp tư sản và thiếu một đảng lãnh đạo. Đến năm 1860 phong trào công nhân dần dần phục hồi với 1600 hội công nhân, phong trào liên lạc đựơc với Quốc tế cộng sản thứ nhất do Karl Marx và Engels lãnh đạo và Hội đồng lãnh đạo các hội công nhân đã trở thành trung tâm chính trị quan trọng. Từ cuối thế kỷ XVII quyền lực chính trị thực tế đã thuộc về Nghị viện. Đến thế kỷ XIX việc cai trị đã chuyển từ Nghị viện sang chính phủ gồm đại biểu của đảng chiếm đa số trong Nghị viện. Nữ hoàng Victoria đứng đầu nước Anh từ năm 1837 đến 1901 giữ quan hệ với một số quí tộc trong đảng Tori (đảng của giai cấp địa chủ) nên còn gây ảnh hưởng nhất định với công việc nhà nước. Sau năm 1848 đảng Uger (đảng của giai cấp tư sản tài chính), tiền thân của đảng Tự do, nắm được chính quyền. Giai cấp tư sản vì lo sợ phong trào công nhân nên đã thỏa hiệp với giai cấp quí tộc bảo hoàng. Các thuộc địa của Anh có tầm quan trọng đáng kể. Ấn Độ phụ thuộc vào Anh nên sản phẩm công nghệ của Anh tràn vào Ấn Độ làm cho hàng triệu thợ dệt Ấn Độ thất nghiệp và chết đói. Thực dân Anh cũng tiêu diệt nhanh chóng thổ dân ở Úc và Canada và biến nước láng giềng Ireland thành thuộc địa. Phong trào văn học chủ yếu như lãng mạn chủ nghiã, hiện thực phê phán với nhiều tác giả ưu tú đã phản ánh những diễn biến cơ bản của xã hội Anh trong thế kỷ XIX. 2. Chủ nghĩa lãng mạn Anh Năm 1798 tập thơ “Ballad trữ tình” của hai sinh viên đại học Cambridge được xuất bản ở thành phố Briston. Họ ước mơ xây dựng một nước cộng hòa với lí tưởng đem lại tình thương yêu, tự do và hiểu biết cho mọi người. Họ cộng tác với nhau quyết tâm cải cách thi ca. Họ trở thành hai nhà thơ lãng mạn đầu tiên của nước Anh: Uliams Edworth (1770-1850) và Samuel Coloridge (1772-1834). Hai nhà thơ trẻ đi du lịch sang Đức, Pháp. Họ dịch và đọc tác phẩm của Schiler, Goeth và Rousseau . Thơ của hai người thể hiện khát vọng tự do: biểu hiện tất cả các sự kiện và mô tả thiên nhiên giao hòa với tình cảm và hành động của con người. Cùng một số người khác họ thành lập nhóm thơ Lake School (trường phái thơ Vùng hồ). Trường phái này là tiêu biểu cho dòng văn học lãng mạn Anh đương thời. Họ muốn thoát lý thực tại xã hội tư sản, xa lánh chốn thị thành. Thơ của họ hướng về quá khứ, những con người và hiện tượng đơn giản bình thường, gần gũi thiên nhiên. Hình thức thi ca cũng đổi mới. Từ sau năm 1810, hình thành nhóm nhà thơ nhà văn lãng mạn tiến bộ nổi tiếng như Walter Scott, Byron, Shelli, Keats. . .Tác phẩm của họ thể hiện quan điểm dân chủ, đấu tranh chống các thế lực phản cách mạng ở châu Âu. Họ ngưỡng vọng Cách mạng tư sản Pháp, coi đó là sự kiện chính trị tất yếu trong tiến trình lịch sử của loài người. Họ quan tâm đến khát vọng của giai cấp công nhân Anh đầu thế kỷ XIX PHN-VHPT 2 trang 28
  29. Walter Scott nhà văn lãng mạn tiến bộ Anh và tiểu thuyết Ivanhoe (1819) Sir Walter Scott (15.8.1771-21.9.1832) sinh tại Edinburgh, xứ Scotland. Cha làm chưởng lý tòa án xứ. Ông được nối nghiệp vào tập sự tại tòa án Scotland, nhưng lại ham thích văn chương hơn. Từ nhỏ cậu bé ham đọc truyện cổ nước Anh, lịch sử và thơ ca, sách du ký và những tác phẩm lớn của Pháp, Italia. Scott thường đi thăm phong cảnh, thắng tích quê hương, những nơi xảy ra sự biến lịch sử lớn lao. Những sự kiện đó tác động mạnh đến nghề cầm bút cuả mình sau này. Bắt đầu làm thơ, 21 tuổi đi sưu tầm thi ca dân gian, in tập Minstrelsy of the Scottish Border (Bài hát rong về biên giới Scotland 1802-1803). Một số tác phẩm thơ lãng mạn, nổi tiếng nhất là The Lay of the Last Minstrel (Thơ ballad của người hát rong cuối cùng),1805) Dần dần Scott chuyển sang viết tiểu thuyết lịch sử: Waverley (Bồng bềnh) 1814, Guy Mannering 1815, The Antiquary (Người buôn đồ cổ) 1816 Năm 1819 viết tiểu thuyết Ivanhoe, tác phẩm lớn nhất của ông đánh dấu sự mở rộng từ chuyện Scottland sang lịch sử nước Anh. Ông được triều đình phong tước hiệp sĩ quí tộc(Sir) Nhìn chung, ông thường chọn những thời điểm lịch sử bộc lộ mâu thuẫn và xung đột giai cấp gay gắt nhất. Ông thấy rõ vai trò của nhân dân trong các sự biến ấy. Nhà thơ Nga Puskin xếp ông ngang hàng với Shakespere, Balzac coi ông như bậc thầy của mình, Bielinski coi ông là người đầu tiên viết tiểu thuyết lịch sử ở Châu Âu . . .Tuy nhiên ông là nhà văn giữ tư tưởng bảo thủ, không ưa chủ nghĩa tư bản, vẫn hướng về chế độ quân chủ. Ông chưa bộc lộ được nhiệt tình cách mạng như các nhà thơ đương thời, nhưng vẫn khác với những cây bút lãng mạn tiêu cực IVANHOE Bối cảnh là cuộc xung đột hai chủng tộc Saxons và Normands dưới triều vua Richard I trong thế kỉ XII. Saxons là chủng tộc đã sinh sống ở Anh vài thế kỉ, còn Normand là chủng tộc mới đến lập nghiệp từ khoảng thế kỉ XVI. Vào năm 1066 người Bắc Âu dưới sự lãnh đạo của nhà quí tộc William từ nước Pháp sang xâm chiếm nước Anh . Họ đánh bại người Saxons ở trận Hastings. William lên ngôi, cùng người Bắc Âu lập chính quyền mới. Họ sử dụng khá bừa bãi đất đai chiếm của người Saxons để phong tước cho chiến hữu và làm phần thưởng cho bạn bè. Các nam tước Bắc Âu ngày càng chiếm đất, đánh thuế nặng vào dân chúng, bắt họ làm việc. Sự bất bình giữa hai chủng tộc ngày càng lớn. Quí tộc Bắc Âu ăn chơi phè phỡn, vui thú săn bắn, rượu chè và xung đột lẫn nhau. Nhiều cuộc giao đấu xảy ra do mâu thuẫn nội bộ. Dân nghèo cực khổ trông ngóng sự trợ giúp của Robin Hood ẩn nấp trong rừng xanh, những người gây khó chịu cho vua chúa không ít. Một thế lực khác có uy quyền khá lớn ở Anh là Giáo hội. Giáo hội rất giàu có, chiếm nhiều đất đai. Một số chức sắc cao của giáo hội chỉ lo ăn chơi hưởng lạc hơn là cầu nguyện và hành đạo. Một số gia đình Do thái sinh sống và làm giàu ở Anh quốc, thường bị các quí tộc Bắc Âu vay tiền. Người Do Thái bị thành kiến buôn bán và cho vay lãi nên họ không được thiên hạ ưa chuộng. Ivanhoe là con trai lão Cedric, một nhà quí tộc Saxons. Chàng yêu tiểu thư Rowena dòng máu cuối cùng của hoàng tộc Saxons từng trị vì nước Anh, nàng là học trò của cha chàng. Mối tình hai người không làm hài lòng lão Cedric vì ông có hoài bão PHN-VHPT 2 trang 29
  30. giành lại ngôi vua Anh về cho hoàng tộc Saxons lúc này thuộc về chủng tộc Normand. Để đạt mục đích ấy, ông dự định xe duyên Rowena cho Athelstane một quí tộc Saxons lớn tuổi. Cedric sai chàng đi tham gia cuộc “Thập tự chinh” với vua Richard I ở Palestine (Đây là cuộc “thánh chiến” nhiều năm trời trong thế kỉ 12 do những đoàn quân Thập tự châu Âu kéo về Trung Đông ra sức đánh chiếm vùng đất Palestine “đất thánh” nơi chúa Jesus ra đời ). Vua Richard bị bắt làm tù binh, giam ở nước Áo. Nhiều người dân Anh tín nhiệm ông lo sợ ông không trở về Anh nữa. Hoàng thân John em ruột Richard cầm quyền nhiếp chính ở nhà, tranh thủ thời cơ phản bội anh nhằm cướp hẳn ngôi vua. Tiểu thuyết có nhiều tuyến sự kiện và nhân vật nhưng nổi lên ở trung tâm là cuộc đấu tranh giữa hai phe Cedric, Athelstane và bên kia ủng hộ hoàng tử John có các tay hiệp sĩ nhà thờ gốc Bắc Âu như Reginald đầu bò, Bois Guilbert tu sĩ dòng Tample Richard và Ivanhoe bí mật trở về nước, cải trang dự hội đấu võ, đánh bại tất cả các hiệp sĩ tay chân của hoàng tử John. Ivanhoe bị thương trong cuộc tiến công tòa lâu đài Torquilstone. Chàng được cô Rebecca xinh đẹp cứu chữa (con gái lão Isaac đã từng được chàng bảo vệ che chở) Đỉnh cao xung đột là khi Cedric, Athelstane, Rowena, hai cha con Rebecca và cả hiệp sĩ Ivanhoe đều bị phe Normand bắt giam ở tòa lâu đài kiên cố Torquilstone. Vua Richard “trái tim sư tử” cùng với các hiệp sĩ lục lâm Locksley (nguyên mẫu Robin Hood nhân vật truyền thuyết), tu sĩ Stuart và những người yêu công lý sống ngoài vòng pháp luật đã kéo đến công phá lâu dài. Những người bị giam được giải thoát, trừ Rebecca. Bois Guilbert vì say mê nàng đã mở đường máu phá vây đem nàng đi nhốt vào một tu viện. Bị cự tuyệt ái tình, gã tu sĩ hiệp sĩ này muốn trả thù liền ghép nàng vào tội phù thủy sử dụng tà thuật, sẽ đem nàng thiêu sống trên giàn lửa Ivanhoe thách y quyết đấu để cứu nàng. Chàng dốc hết sức lực chiến đấu, cứu được Rebecca. Bè đảng của hoàng tử John bị tiêu diệt. Ivanhoe cưới Rowena, còn hai cha con Rebecca rời bỏ nước Anh trở về sống ở Palestine. Vua Richard trị vì từ 1157 đến 1199. Ivanhoe mô tả giai đoạn lịch sử nước Anh từ chỗ xung đột chiến tranh đẫm máu giữa hai chủng tộc Saxons và Normand chưa hòa hợp đến khi hình thành quốc gia thống nhất. Vua Richard chống lại các thế lực phong kiến cũ để tập trung vương quyền, việc đó có ý nghĩa tiến bộ lịch sử. Cả hai lực lượng phong kiến cũ (Saxons) và mới (phe John và Bắc Âu) đều hành động trái với lịch sử và tiến bộ, cản trở xã hội phát triển. Bên cạnh đó tiểu thuyết còn miêu tả mâu thuẫn trong mỗi giai cấp và giữa phong kiến với giai cấp nông dân. Mâu thuẩn chủng tộc và mâu thuẫn giai cấp đều đáng lưu tâm giaỉ quyết Từ những nhân vật “thấp hèn” như anh hề Wamba, anh chăn cừu Gurth cho đến Locksley xạ thủ đầu lĩnh đảng cướp đều mang những phẩm chất giản dị lương thiện. Số phận khốn khổ của người Do Thái và thành kiến của dân Châu Âu đối với họ cũng được nhà văn miêu tả, phê phán Ngôn ngữ quí tộc và ngôn ngữ bình dân được dùng xây dựng nhân vật rất hấp dẫn, phong tục tập quán, ngôn ngữ Anh cổ được tái hiện sinh động và thi vị. Byron - nhà thơ, nhà viết kịch và tiểu thuyết gia Anh George Gordon Byron là nhà văn lãng mạn tiêu biểu của nước Anh. Sinh ngày 22.1.1788 ở London, bố người Anh, mẹ Scotland, đều dòng dõi quí tộc. Tiêu xài hết tài sản, người cha bỏ gia đình đi sang Pháp và chết ở Pháp khi Byron 3 tuổi. Thuở nhỏ Byron sống với mẹ ở Scotland trong nghèo nàn. Lên 10 tuổi, Byron được thừa kế một người ông bên nội tước hiệu Lord (thượng nghị sĩ) và một gia sản lớn. Hai mẹ con chuyển đến sống ở lâu đài gần Nottingham một thành phố công nghiệp lớn, nơi đang dấy PHN-VHPT 2 trang 30
  31. lên phong trào công nhân. Sau đó học trường đại học Cambridge, nghiên cứu triết học, ngoại ngữ, khoa học tự nhiên, say mê văn chương, nhất là văn học Ánh sáng Pháp Khi 19 tuổi anh xuất bản tập thơ “Những giờ nhàn rỗi” bộc lộ tài năng châm biếm, phê phán xã hội Anh, ước mơ tự do, ngay cả hình thức thơ cũng đổi mới Byron còn phải chống lại những bài báo phê bình đả kích của giới văn học bảo thủ, phản động Gần hai năm ông đi qua nhiều nước, chứng kiến cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dân Tây Ban Nha chống xâm lược Pháp và Napoleon, tìm hiểu đất nước Hi lạp và Anbani chống quân xâm lược Thổ nhĩ kỳ. . .và tìm được cảm hứng và chất liệu cho sáng tác tiến bộ sau này. Trở về Anh, ông xuất bản 2 khúc ca đầu tiên cho tập thơ “Cuộc hành hương của Sider Harol “ (1821). Ông còn hoạt động chính trị, ở thượng nghị viện, ông đọc diễn văn lên án chính sách phản động phản nhân dân của đảng Tori cầm quyền ở Anh, bênh vực người lao động, phản đối luật tử hình công nhân phá máy bênh vực quyền độc lập tự chủ của Ireland Sáng tác một số truyện thơ chính trị phê phán thực dân Anh, Pháp chà đạp thành quả cách mạng tư sản, cổ vũ nhân dân đấu tranh dựa trên những đề tài hư cấu, tượng trưng Uy tín Byron ngày càng lớn, giới cầm quyền lo sợ Lợi dụng quan hệ tình ái khá rộng của ông chúng tìm cách bôi nhọ danh dự ông, ông ly hôn và bỏ đi nước ngoài. Đó là một cái án lưu đày biệt xứ không chính thức Ông lại đi sang Italia, sáng tác những vở kịch trữ tình và truyện thơ “Don Juan” dang dở Byron tham gia đấu tranh cách mạng ở Italia, bị cảnh sát theo dõi Ông đi sang Hi lạp, tham gia khởi nghĩa, bỏ tiền mua vũ khí, chỉ huy nghĩa quân. Không may Byron lâm bệnh chết ngày 19.4.1824 năm ấy 36 tuổi. Hi Lạp tuyên bố quốc tang. Ngày nay Hi Lạp vẫn coi ông như anh hùng dân tộc của đất nước họ. Trái tim ông được an táng tại Hi lạp, thi thể đưa về Anh hỏa thiêu và mai táng gần lâu đài tổ tiên Cái chết của ông ở chiến trường Hi Lạp gây xúc động và ảnh hưởng lớn đến nhân dân Anh Ông đã hình thành một “chủ nghiã Byron” qua các tác phẩm thơ- kịch- tiểu thuyết của mình. Đó là một “chủ nghĩa cá nhân” kiêu kỳ, vô hạn, cực đoan.Nhân vật của Byron hành động theo một động lực nội tại, theo dục vọng mãnh liệt không chế ngự. Đó là nhận định của Langson về nội dung tiêu cực trong tác phẩm Byron. Bielinski nhà lí luận phê bình của văn học Nga thì ca ngợi nhà thơ cách mạng Byron là “nhà thơ Byron chiến đấu cho tự do ở bất cứ nơi nào có thể chiến đấu được”. Những vở kịch không phải để diễn Byron là một nhà thơ trữ tình, các vở kịch thơ của ông (Manfred, Cain ) cũng mang tính chất những bản trường ca nhiều hơn. Đó là những tác phẩm trữ tình viết ra để đọc chứ không phải để cho nghệ thuật sân khấu. Puskin nhận xét: “Byron chỉ sáng tạo có mỗi một tích cách , phân chia cho các nhân vật của mình những nét tính cách riêng biệt của bản thân mình và như vậy đó, từ một tính cách toàn vẹn, u ám và kiên nghị, tạo ra một số tính cách vô nghĩa lí, đây hoàn toàn không phải là bi kịch”. Về thể loại, những tác phẩm này là những “đram tư tưởng”, một thể loại phổ biến ở châu Âu vào cuối TK XIX, đầu TK XX. Các vở kịch này gắn liền với một giai đoạn khủng hoảng sâu sắc trong đời sống riêng của nhà thơ và phản ánh cái không khí tuyệt vọng chung của giới trí thức châu Âu phản ứng trước thực tại xã hội và các biến cố chính trị diễn ra sau Cách mạng tư sản Pháp, những điều này chứng tỏ sự sụp đổ của những lí tưởng của thời đại Ánh sáng. PHN-VHPT 2 trang 31
  32. Nhân vật kịch thường là một tính cách kì vĩ, có ý chí tự do mãnh liệt, dũng cảm nổi dậy đấu tranh để bảo vệ nhân phẩm, chống lại số phận độc ác hay một thế giới thù địch, khinh khi quyền lực của mọi tên độc tài dù ở trên trời hay dưới đất Manfret trong vở kịch cùng tên (1817, vở kịch đầu tiên của Byron), một kẻ siêu phàm có khả năng gọi dậy và điều khiển cả những lực lượng siêu nhiên bằng sức mạnh của trí tuệ. Đó là một tâm hồn vĩ đại, ôm ấp những lí tưởng tốt đẹp, những hoài bão to lớn. Byron tập trung vào mô tả suy tư và tâm trạng của nhân vật. Qua việc phơi bày thế giới bên trong của Manfret với cuộc đấu tranh với chính mình, Byron muốn thể hiện cái xung đột cơ bản giữa nhân vật và toàn bộ thế giới, cái thế giới đang bị thống trị bởi thói ích kỉ, sự ngu dốt, tính vụ lợi , sự đê tiện, tệ giả dối, sự mê hoặc tôn giáo. Trí tuệ hùng vĩ và quyền lực to lớn của Manfret không cứu vớt được ông, không tạo ra được sự hài hòa trong tâm hồn cần cho hạnh phúc con người. Cuối cùng, Manfret chết trong cô đơn tuyệt đối, trên núi cao. Vở kịch chính là sự chối bỏ kịch liệt cái thực tại xã hội hình thành ở châu Âu mấy chục năm đầu thế kỷ XIX, sự khẳng định tầm vóc vĩ đại của con người và tấn bi kịch đau thương của nó khi lịch sử chưa cho cho phép những lí tưởng tiến bộ thắng thế. Cain trong vở kịch “Cain” (1821) là một người nổi loạn đầu tiên trên trái đất chống lai quyền độc đoán của Chúa trời đã bắt loài người phải sống trong cảnh nô lệ và đau khổ (Cain là con của Adam và Eva, những con người đầu tiên trên trái đất). Đó là một vị Chúa có đủ các nét tính cách của một tên độc tài: ham quyền lực, kiêu ngạo, tham lam, hay nghi ngờ, ưa nịnh hót, thích trả thù. Khác với Manfret, Cain không là một kẻ nổi loạn cô đơn mà là một nhà nhân bản đấu tranh chống lại cường quyền vì hạnh phúc của những người khác, vì số phận của loài người. Giữa lúc “Liên minh thần thánh” của các chính phủ phong kiến phản động đang thắng lợi ở châu Âu, vở “Cain” của Byron vang lên như một lời thách thức, nổ ra như một cuộc nổi dậy chống lại cái trật tự xã hội mà nhiều nước đang muốn tái lập dựa vào uy quyền của tôn giáo để thủ tiêu mọi thành quả của Cách mạng tư sản Pháp. “Don Juan” cuộc tìm kiếm chân lí cuối cùng Don Juan, một tiểu thuyết bằng thơ chưa hoàn thành, là đỉnh cao sáng tác của Byron. Ông bắt đầu viết Don Juan từ năm 1917 trên đất Italia và dự tính sẽ có 25 khúc ca. Rất tiếc, ông chỉ viết được 16 khúc ca và 14 khổ thơ của khúc ca 17 thì cái chết đã đột ngột đến với nhà thơ. Toàn bộ xã hội đương thời với Byron được phản ánh ở trong đó một cách sâu sắc, chân thực và đa dạng: tâm hồn con người được khảo sát, mô tả ở nhiều khía cạnh khác nhau; nội dung tư tưởng rộng lớn, phong phú tiến bộ; những đổi mới về nghệ thuật của một nghệ sĩ canh tân; tất cả những cái đó làm cho tác phẩm này xứng đáng là sự kết thúc tuyệt đẹp cho cả quá trình sáng tạo trước đó. Puskin đã từng nói đến “tính đa dạng thực sự theo kiểu Shakespeare của Don Juan” Câu chuyện xoay quanh cuộc đời của Don Juan, một thanh niên quý tộc Tây Ban Nha. Đây là một cái tên quen thuộc trong văn học châu Âu (xem vở kịch cùng tên của Molier). Nhưng nếu như trong truyền thuyết dân gian, Don Juan là một kẻ đàng điếm ăn chơi, chuyên quyến rũ đàn bà con gái để lợi dụng họ và hưởng lạc, thì ở Byron tình hình sẽ ngược lại. Don Juan sinh ra trong một gia đình quyền quý sống theo tinh thần tôn giáo khắc nghiệt nhưng giả dối. Từ nhỏ, Don Juan đã chán ngấy các thứ giáo lí khô khan mà người ta cố ấn vào người và sẵn sàng buông thả mình theo tiếng gọi chân thực của trái PHN-VHPT 2 trang 32
  33. tim. Thường sang chơi bên gia đình Anfonce cùng mẹ, chàng quen với Julia, cô vợ trẻ của Anfonce, hơn chàng 7 tuổi, rồi một ngày kia nảy nở giữa hai người một tình yêu tha thiết. Mối quan hệ vụng trộm cuối cùng bị phát giác. Để tránh tiếng, bà mẹ bố trí cho Don Juan một cuộc du lịch dài ngày ở châu Âu. Trong cách mô tả châm biếm cuộc sống của giới quý tộc Tây Ban Nha, dễ dàng nhận ra những phong tục tập quán, và thói đạo đức giả của xã hội thượng lưu Anh. Bị đắm tàu ngoài biển khơi, Don Juan một mình được cứu thoát bởi một cô gái tuyệt vời, Haidet, con gái của tên tướng cướp Lumbro. Haidet bí mật chăm sóc Don Juan trong một cái hang đá gần bờ biển và cả hai người đã sống một bản tình ca tuyệt đẹp. Nhưng rồi hạnh phúc không kéo dài. Tên tướng cướp, khi phát hiện ra, đem chàng bán ở chợ nô lệ, còn Haidet thì đau buồn mà chết. Từ chợ nô lệ, Don Juan được mua về cung vua Thổ, nhưng không phải để hầu hạ mà để làm một việc đặc biệt: ăn mặc giả gái để đi lại trong hậu cung của hoàng hậu, nhưng thực chất để làm tình nhân cho hoàng hậu. Không chịu được hoàn cảnh ấy, và suýt bị nhà vua phát giác, Don Juan bỏ chạy, vượt biển trốn sang nước khác, đến gần Ixmain, nơi quân đội Nga dưới quyền của tướng Xuvorov đang vây thành. Don Juan sung vào cuộc chiến đấu và lập được nhiều thành tích. Xuvorov phái anh về Petersburg để trình báo lên nữ hoàng Ecaterina. Vì trẻ và đẹp, Don Juan nhanh chóng trở thành sủng thần, được nữ hoàng ưu ái, nhưng trước sự ghen tuông dị nghị của triều đình, nữ hoàng buộc phải cử chàng làm đại sứ của nước Nga tại Anh. Ở đây, Don Juan cũng có nhiều cuộc phiêu lưu kì lạ, bộc lộ tính chất hư hỏng sa đoạ của xã hội quý tộc Anh. Theo dự định của tác giả, sau nước Anh, Don Juan còn đi qua một số nước khác, rồi cuối cùng đến đất Pháp tham gia vào cuộc Cách mạng tư sản và chết trên chiến luỹ Pari. Khác hẳn với các nhân vật trước đây của chính Byron, Don Juan là một con người bình thường chứ không phải một người anh hùng phi thường được lí tưởng hoá. Tác giả phơi bày cuộc sống bên trong của nhân vật, không hề che giấu những nhược điểm, những tật xấu của anh. Các nét tích cực trong tính cách của Don Juan rất rõ: sự trung thực, lòng yêu tự do, sự căm ghét giả dối, tính kiên quyết, sự dũng cảm Anh say mê không hạn độ, không chung thủy trong tình cảm, có khi tỏ ra ích kỉ - về điều này tác giả luôn luôn cười cợt anh ta- nhưng lại ghê tởm sự sa đọa trắng trợn, từ chối mối quan hệ với hoàng hậu vua Thổ trong cung cấm, mặc dầu suýt vì vậy mà mất đầu. Anh không có lí tưởng chính trị rõ ràng, nhưng căm ghét tất cả những kẻ áp bức. Anh đấu tranh kiên quyết, dũng cảm cho tự do của bản thân mình, và theo ý đồ của tác giả, ở cuối tác phẩm, khi đã chín muồi về chính trị, Don Juan sẽ cầm vũ khí chiến đấu cho quyền lợi của nhân dân. Sự phát triển tính cách của Don Juan, từ một con người bình thường đến một chiến sĩ, cho phép nói đến sự xuất hiện của chủ nghĩa hiện thực trong phương pháp sáng tác của Byron. Trong Don Juan, sự phản kháng của nhà thơ đối với mọi sự áp bức về chính trị, mọi chế độ độc tài cũng sâu sắc và cụ thể hơn trong các tác phẩm trước kia. Việc Don Juan phải sống ở nhiều nước trong cuộc đời phiêu bạt của mình là dịp tốt để tác giả phê phán các chế độ xã hội ở châu Âu hồi bấy giờ. Sự châm biếm hiện thực đạt đến đỉnh cao ở các khúc ca X – XVI, khi tác giả nói đến hiện thực xã hội Anh: bản chất phản nhân dân của chính phủ, sự giả dối, sa đọa và trống rỗng của tầng lớp thượng lưu, trò hề của những cuộc đấu tranh ở nghị viện, tính hẹp hòi vụ lợi của bọn tư sản, bọn chủ nhà băng, những người chủ thực sự của đất nước. PHN-VHPT 2 trang 33