Văn học Ấn Độ, Nhật Bản Lào, Campuchia, Ả Rập (Văn học châu Á 2) - ThS. Phùng Hoài Ngọc

pdf 295 trang phuongnguyen 1960
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Văn học Ấn Độ, Nhật Bản Lào, Campuchia, Ả Rập (Văn học châu Á 2) - ThS. Phùng Hoài Ngọc", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfvan_hoc_an_do_nhat_ban_lao_campuchia_a_rap_van_hoc_chau_a_2.pdf

Nội dung text: Văn học Ấn Độ, Nhật Bản Lào, Campuchia, Ả Rập (Văn học châu Á 2) - ThS. Phùng Hoài Ngọc

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG Thạc sĩ Phùng Hoài Ngọc VĂN HỌC ẤN ĐỘ, NHẬT BẢN LÀO, CAMPUCHIA, Ả RẬP (Văn học Châu Á 2) Tài liệu dùng cho sinh viên hệ Ngữ văn Đại học Lưu hành nội bộ AN GIANG 2005
  2. LỜI GIỚI THIỆU Việt Nam, Ấn Độ, Lào và Cam pu chia có mối quan hệ mật thiết từ lâu đời. Nền văn hoá, văn học Ấn Độ đã góp phần ảnh hưởng khá lớn và sâu sắc vào quá trình phát triển văn hoá và nghệ thuật ở khu vực Đông Nam Á. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận xét : "Văn hoá, triết học và nghệ thuật của nước Ấn Độ đã phát triển rực rỡ và có những cống hiến to lớn cho loài người. Nền tảng và truyền thống của triết học Ấn Độ là lý tưởng hoà bình, bác ái. Liên tiếp trong nhiều thế kỷ, tư tưởng Phật giáo, nghệ thuật và khoa học Ấn Độ đã lan tỏa khắp thế giới". Do hoàn cảnh cùng sống trên một lục địa, thuận lợi về đường bộ và đường biển nên việc giao lưu văn hoá giữa Ấn Độ với Việt Nam, Lào, Cam pu chia và các nước châu Á khác phát triển khá sớm. Trước hết phải kể đến sự có mặt của đạo Bà la môn và đạo Phật. Đạo Bà la môn lan truyền đến Miến Điện, Cam pu chia, Chăm pa, Indonesia sớm hơn đạo Phật. Nhiều dấu tích đền thờ thần Brahma, Indra, Linga và những bia đá chép kinh Veda được tìm thấy ở vùng tháp Ăngko đất nước Cam pu chia và những vùng có đền tháp Chăm ở miền Trung nước ta. Đạo Bà la môn tuy đến sớm nhưng ảnh hưởng lại không sâu rộng bằng đạo Phật. Tư tưởng từ bi, bác ái, vị tha và mục đích cứu khổ cứu nạn của đạo Phật như luồng gió mát lành lan toả khắp nơi đến tận phía đông bắc châu Á. Đến đâu cũng được nhân dân mở rộng cửa đón tiếp. Nhiều vị sư sãi đi truyền đạo được coi như sứ giả của hoà bình và hữu nghị. Nhiều chùa chiền của Phật giáo được dựng lên để tụng kinh và dạy học. Những bản kinh kệ bằng tiếng Phạn, tiếng Pali được phổ biến hoặc được dịch ra tiếng địa phương. Có thể nói tư tưởng Phật giáo đã trở thành kho báu tinh thần chung của các dân tộc ở Đông Nam Á. Nhiều nước đã lấy Phật giáo làm quốc giáo như Thái Lan, Miến
  3. Điện, Lào và Cam pu chia. Ở nước ta, vào thời Lý - Trần, đạo Phật được khẳng định và phát triển mạnh. Tôn giáo Ấn Độ đến với các nước Đông Nam Á còn mang theo các hình thức văn hoá-nghệ thuật khác, đặc biệt nghệ thuật kiến trúc có ảnh hưởng sâu đậm và dễ thấy nhất. Đó là những lăng mộ, đền tháp, hoa văn, phù điêu. Kế đến một số phong tục tập quán lễ hội, trò chơi cũng có nhiều dấu vết Ấn Độ . Do việc truyền bá kinh kệ giáo lý đạo Bà la môn và đạo Phật nên chữ Pali và chữ Phạn (Sanskrit ) được phổ biến và có ảnh hưởng đến văn tự và ngôn ngữ một số nước như Thái Lan, Miến Điện, Cam pu chia, Lào Theo đó nhiều tác phẩm văn học dân gian và cổ điển của Ấn Độ cũng được phổ biến sâu rộng ở các nước Đông Nam Á và thế giới. Đặc biệt nó được bản địa hoá ở vùng Đông Nam Á. Hai sử thi Ramayana và Mahabharata đến vùng đất này được cải biên cho phù hợp với hoàn cảnh và văn hóa nơi đây . Ở Việt Nam, văn học Chăm vẫn còn giữ được nguyên tên trường ca Ramayana, kể bằng ngôn ngữ Chăm. Truyện Dạ thoa vương trong sách Lĩnh Nam chích quái là rút từ cốt truyện Ramayana. Ở Indonesia có Seri Rama, Thái Lan có Rama Kiên, Cam pu chia có Riêm Kê, Lào có Phallahk Phallahm, Philippines có Alim Các tác phẩm đó đều có chung nguồn gốc là sử thi Ramayana của Ấn Độ, xoay quanh trục bộ ba nhân vật “Người con trai – người con gái - ác quỉ”. Cuối những năm 1980 sân khấu chèo Việt Nam xây dựng vở "Nàng Si ta" của soạn giả Lưu Quang Vũ. Kế đó sân khấu cải lương tiếp tục
  4. chuyển thể "Nàng Si ta" thành "Nàng Xê đa", cả hai đều dựa trên một nguồn gốc sử thi Ramayana. Nhiều truyện cổ tích Ấn Độ cùng với đạo Phật đã lan rộng và thấm sâu vào kho tàng cổ tích và văn hoá của các dân tộc Việt Nam và các nước Đông Nam Á khác. Đến thế kỷ thứ XIX, các dân tộc ở Đông Nam Á cùng chung số phận bị chủ nghĩa thực dân phương Tây xâm lược. Từ đó mối quan hệ văn hoá lâu đời giữa Ấn Độ và các nước Đông Nam Á bị chặn đứng, ảnh hưởng qua lại ngày càng mờ nhạt. Do vậy những tác phẩm văn học ưu tú của các nhà văn Ấn Độ trung đại, hiện đại như Kabia, Tunxidat, Tagore ít được biết đến. Ngược lại ở Ấn Độ, cũng ít ai biết được Nguyễn Trãi, Nguyễn Du của Việt Nam Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, nhiều nước ở vùng Đông Nam Á lần lượt giành được độc lập như Việt Nam, Lào, Cam pu chia, Miến Điện, Ấn Độ và Indonesia . Mối quan hệ văn hoá truyền thống lại được khôi phục, đến nay mới là những bước đi ban đầu, nhưng ngày càng đáp ứng được nhu cầu cần thiết . Chủ trương giảng dạy văn học Ấn Độ, Lào, Cam pu chia ở các trường đại học, cao đẳng sư phạm là đúng đắn và thiết thực. Từ đây chúng ta thay đổi thói quen lâu nay chỉ chú trọng văn học Phương Tây và Trung Quốc mà lãng quên nghiên cứu học tập các nền văn hoá văn nghệ của các dân tộc gần gũi như Ấn Độ, Lào, Cam pu chia và các nước châu Á khác. Ngày nay, bên cạnh quan hệ lâu đời với Ấn Độ, Lào, Cam pu chia và Đông Nam Á, nước ta cũng đang phát triển quan hệ hợp tác với các nước Đông Bắc Á khác như Nhật Bản, Triều Tiên. Theo chương trình của Bộ Giáo dục, phần văn học Nhật Bản mới được bổ sung vào nhóm văn học châu Á. Các nước Đông bắc Á ngày càng có mối quan hệ mật thiết với nước ta với nguyện vọng hợp tác lâu dài, nhằm xây dựng nền hoà bình vững chắc và thịnh vượng trong khu vực. Việc nghiên cứu
  5. học tập các nền văn học châu Á chẳng những vì mục đích học thuật, hưởng thụ văn hoá nhân loại mà còn góp phần vào việc phát triển mối quan hệ hữu nghị hợp tác và phát triển toàn diện . Về việc phiên âm tên nhân vật và địa danh Tên Ấn Độ : nguyên bản văn chương thường là tiếng Pali (văn tự gần giống như chữ Lào Thái, Khmer). Giới xuất bản Ấn Độ đều chuyển ngữ sang tiếng Anh để dễ phát hành trên thế giới. Mặt khác ở Ấn Độ ngày nay tiếng Anh đã được coi là một trong 15 ngôn ngữ dùng chính thức . Tên Nhật Bản: văn tự Nhật chịu ảnh hưởng sâu sắc, lâu dài của Hán ngữ. Có thể so sánh cấu tạo văn tự Nhật như sự ra đời chữ Nôm của Việt Nam. Tiếng Nhật ngày nay cũng được phiên âm theo kiểu tiếng Bắc Kinh (pinyin) nhằm giúp người nước ngoài không biết Nhật ngữ chí ít cũng có thể đọc tên. Ví dụ “cây chuối ” trong chữ Hán và Nhật đều viết giống nhau là 芭 蕉, tiếng Bắc Kinh phiên âm là ba jiao, tiếng Nhật đọc và phiên âm là ba sho, còn người Việt thì phiên âm Hán Việt là “ba tiêu”. Ngày nay danh từ Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc khi sử dụng ở nước ngoài đều được phiên âm Latin , ở Việt Nam cũng có xu hướng như trên mà không cần phiên âm Hán Việt như trước nữa. Trong tài liệu này, các danh từ Ấn và Nhật đều được in theo phiên âm Latin như đã trình bày trên để sinh viên dễ đọc .  P.H. N
  6. MỤC LỤC Nội dung Trang LỜI GIỚI THIỆU 1 Mục lục 4 PHẦN THỨ NHẤT – VĂN HỌC ẤN ĐỘ CHƯƠNG I - ĐẤT NƯỚC ẤN ĐỘ 5 1 - Địa lý 2 - Chủng tộc và đẳng cấp. 3 - Văn hoá, nghệ thuật và khoa học CHƯƠNG II - PHÂN KÌ VĂN HỌC ẤN ĐỘ 15 CHƯƠNG III - THẦN THOẠI ẤN ĐỘ 17 CHƯƠNG IV - SỬ THI ẤN ĐỘ 24 Sử thi Ramayana Sử thi Mahabharata 33
  7. CHƯƠNG V - TRUYỆN CỔ TÍCH DÂN GIAN ẤN ĐỘ 40 CHƯƠNG VI - KỊCH THƠ 47 CHƯƠNG VII- SƠ LƯỢC VĂN HỌC HIỆN ĐẠI ẤN ĐỘ Prem Chand nhà văn hiện thực lớn của Ấn 53 Độ CHƯƠNG VIII - THI HÀO RABINDRANATH TAGORE 1. Chủ nghĩa nhân đạo Tagore 2. Thi pháp thơ Tagore PHẦN THỨ HAI - VĂN HỌC NHẬT CHƯƠNG IX - KHÁI QUÁT CHƯƠNG X - Murasaki và TIỂU THUYẾT GENJI (Genji monogatary) CHƯƠNG XI- THƠ HAIKU VÀ THI SĨ THIỀN SƯ BASHO CHƯƠNG XII - Giới thiệu văn học hiện đại Nhật Bản CHƯƠNG XIII - KAWABATA YASUNARI PHẦN THỨ BA - GIỚI THIỆU VĂN HỌC LÀO - CAMPUCHIA CHƯƠNG XIV - VĂN HỌC DÂN GIAN LÀO CHƯƠNG XV - VĂN HỌC DÂN GIAN CAM PU CHIA PHẦN THỨ TƯ -GIỚI THIỆU VĂN HỌC Ả RẬP
  8. CHƯƠNG XVI- GIỚI THIỆU VĂN HỌC Ả RẬP- HỒI GIÁO VÀ TÁC PHẨM NGHÌN LẺ MỘT ĐÊM Đọc thêm 1 1. Nàng Usha (trích Thần thoại Ấn Độ) 2. Chandogya (trích Kinh Bà la môn Upanisad) 3. Jiataca (Chuyện tiền thân của Đức Phật) 4. Mapada (trích kinh PHÁP CÚ) 5. Các ngụ ngôn của Đức Phật Đọc thêm 2 Chủ nghĩa hiện sinh Ấn Độ Đọc thêm 3 Thơ haiku của Basho - tuyển chọn TÀI LIỆU THAM KHẢO
  9. PHẦN THỨ NHẤT VĂN HỌC ẤN ĐỘ “Nếu tôi được hỏi dưới bầu trời nào trí óc con người đã phát triển một cách đầy đủ nhất những năng khiếu hoàn hảo nhất của mình, đã suy tư sâu sắc nhất về những vấn đề lớn nhất của cuộc sống, và đã tìm ra những lời giải của một vài vấn đề trên, hoàn toàn xứng đáng được sự chú ý của ngay cả những người đã nghiên cứu Platon và Kant thì tôi sẽ chỉ vào Ấn Độ. Và nếu tôi tự hỏi mình rằng từ nền văn học nào mà chúng ta ở châu Âu, những người đã được nuôi dưỡng hầu như hoàn toàn với những tư tưởng của người Hy Lạp, La Mã và một chủng tộc Semit là người Do Thái, có thể rút ra được các yếu tố điều hòa hiện đang cần nhất để làm cho cuộc sống bên trong của chúng ta hoàn thiện hơn, toàn diện hơn, phổ biến hơn, thực sự là một cuộc sống của con người hơn, không phải chỉ cho cuộc đời này, mà cho một cuộc sống biến hình và vĩnh cửu thì tôi lại chỉ vào Ấn Độ” (F. Max Muller – nhà Đông phương học người Đức)
  10. CHƯƠNG I ĐẤT NƯỚC ẤN ĐỘ 1 - Địa lý Ấn Độ là đất nước rộng lớn và đông dân ở miền Nam Á, phía bắc có dãy núi Himallahya hùng vĩ được ví là " lâu đài tuyết trắng", "bông sen trắng vĩ đại", "nóc nhà của thế giới". Đi dần xuống phía nam qua hai lưu vực sông Ấn (Indus) và sông Hằng (Gange) phì nhiêu được gọi là châu thổ "đất vàng". Đi tiếp gặp dãy núi Vindehia với cao nguyên Decan rộng lớn tiếp giáp núi Gat chạy dài xuống bờ biển Ấn Độ dương ngập tràn ánh nắng mang hình vòng cung tới gần hòn đảo Sri Lanka. Từ đông sang tây có vùng Penjab (hoặc Puljab) do năm nhánh sông hợp thành gọi là vùng Ngũ Hà. Đất đai ở đây rất mầu mỡ. Tiếp đó là vùng Kasemir bốn mùa cây lá xanh tươi. Nhờ có núi cao, rừng rậm, sông dài, đất đai rộng lớn mà tài nguyên của Ấn Độ vô cùng phong phú. Trong rừng sâu, dưới lòng đất chứa nhiều khoáng sản quý như vàng bạc kim cương, ngọc, cẩm thạch đủ các màu sắc. Có nhiều loại chim muông thú vật vừa đẹp vừa có ích cho nền kinh tế như sư tử, hổ báo, voi, ngựa, trâu, bò, dê, cừu, trăn, rắn Cây cối gồm nhiều loại quả ngọt và gỗ quí. Hàng năm, Ấn Độ trải qua những tháng hè nóng bỏng như lửa đốt, thiêu cháy cỏ cây và làm chết người, có những trận bão cát từ sa mạc cuốn về hun nóng cả vùng rộng lớn. Lại có những trận mưa dữ dội gây ra lũ lụt cuốn trôi nhà cửa, tàn phá mùa màng, tàn hại cả con người và súc vật. Tuy thế cũng có những ngày xuân ấm áp, bầu trời trong xanh dịu mát tạo nên cảnh trí đẹp đẽ. Nói chung, đất đai, thiên nhiên và khí hậu của Ấn Độ phức tạp và khắc nghiệt. Giàu có về tài nguyên nhưng bị thiên tai bất trắc tàn phá cho nên nền kinh tế xưa kia luôn luôn ở trong tình trạng trì trệ đình đốn, chậm phát triển. Người Ấn Độ từ khi ra đời đã phải trải qua đấu tranh vật lộn ác liệt với thiên nhiên, điều đó được phản ánh rất
  11. rõ trong những truyện thần thoại đầy sức hấp dẫn và kỳ vĩ của họ. 2. Lịch sử sơ lược Ấn Độ thời nguyên thuỷ : để lại những di chỉ đồ đá mới, đồ đồng , ước chừng từ 2500 năm đến 1700 năm trước công nguyên. Chủ nhân là những người Aryan và Dradivian Ấn Độ cổ đại: người du mục Aryan dần dần đẩy lui người Dravidien để chiến lấy vị trí chủ đạo . Thế kỷ VI trước CN, người Ba Tư (Iran cổ) trở thành đế quốc có nền văn minh rực rỡ đã xâm nhập vào tây bắc Ấn Độ . Năm 327 trước CN, vua xứ Macedoani (thuộc xứ Hi lạp) là Alexander đại đế sau thời gian chinh phục Ba Tư, lại tiếp tục đánh chiếm Ấn Độ. Xung đột xảy ra giữa các lực lượng chiếm đóng và ngay cả lính Hi Lạp cũng phản chiến. Alexander đại đế để lại một đội quân cai quản và rút về Ba Tư, đến thành Babylon. Sau 2 năm ông ta bị bệnh sốt rét và chết ở đó (năm 323 tr. CN), bởi vậy đế quốc Hi Lạp sụp đổ, nhường chỗ cho đế quốc La Mã nổi lên. Kết quả là nền văn hoá Hi Lạp có dịp tràn vào xứ Ấn Độ, hỗn dung với văn hoá bản địa. Vương triều Muarya và Kusana : sau cuộc xâm lược của Alexander đại đế , một vương triều thống nhất và độc lập ra đời cai quản vùng này, đó là triều đại Mauria. Nhà vua sáng lập là Chandra Goupta, trị vì từ 321 đến 297 tr. CN, nhờ sự ủng hộ của đạo Bà la môn, đất nước khá cường thịnh. Thời vua Asoka là hưng thịnh nhất, vua này ủng hộ cho
  12. Đạo Phật phát triển, xây nhiều chùa chiền, cột đá, tháp Phật . Mở hội nghị Phật giáo lần thứ 3 giữa thế kỉ IV trước CN, đưa Phật giáo trở thành quốc giáo. Đế quốc Asoka sụp đổ, mấy thế kỉ sau đó đất nước Ấn Độ bị chia cắt, có một bộ tộc nước ngoài xâm nhập từ phía Trung Á lên cai trị, vua nổi tiếng nhất là Kusana (từ năm 78 đến 103 ). Đến thế kỉ III, Ấn Độ lại bị chia cắt thành nhiều tiểu quốc, sau đó đến triều đại Goupta . Vương triều Goupta và đế quốc Hacsa : thế kỉ IV Ấn Độ lại cường thịnh, đặc biệt vua Goupta II, kinh tế phát triển, tham gia vào “con đường tơ lụa “ nối liền Trung Quốc với Trung Á và châu Âu. Thời vua Chandra Goupta II văn hoá phát triển mạnh, gọi là thời đại hoàng kim . Nhà sư Pháp Hiển từ Trung Quốc du ngoạn 15 năm ở Ấn Độ đã để lại nhận xét tốt về sự phồn vinh tươi đẹp của xứ sở này. Thế kỉ VI, các bộ tộc Hung Nô tràn xuống miền Trung Á và Ấn Độ, lập ra ách cai trị mới. . Thế kỉ VII, một tướng Ấn Độ là Hacsa nổi lên đánh đuổi bọn xâm lược, lập ra triều đại Hacsa (năm 606). Hacsa làm cho đất nước trở nên hưng thịnh, tiếp tục quan tâm Phật giáo, lập trường đại học Phật Giáo đầu tiên và lớn nhất thế giới. Nhà sư Huyền Trang từ Trung Quốc đến đây thỉnh kinh và học tập ở tu viện đại học này và kết bạn thân với vua Hacsa. Đế quốc Hacsa sụp đổ, đất nước lại chia cắt. Lịch sử Ấn Độ bước vào thời ký trung đại. Thế kỉ VII đến VIII, các tộc người Ả rập theo Hồi giáo phát triển mạnh, lập ra đế
  13. quốc lớn đi chinh phục khắp châu Âu, châu Phi và châu Á. Họ cũng lấn tới Ấn Độ, cướp bóc rồi rút đi. Bộ tộc Thổ nhĩ kỳ và Afghanistan dưới chiêu bài trừng phạt dị giáo cũng đem quân xâm nhập Ấn Độ . Đợt xâm lược lớn nhất của bộ tộc Hồi giáo vào Ấn Độ diễn ra vào thế kỉ XI. Năm 1001, vua Mahmud xứ Afganistan đem quân chiếm Bắc Ấn, tàn phá, cướp đoạt, bắt người Ấn về làm nô lệ, từ đó mỗi năm các tộc Hồi lại đi cướp, không chủ trương chiếm đóng lâu dài. Cuối thế kỷ XIII, một số tộc Hồi xâm nhập Ấn Độ và ở lại xây dựng chế độ cai trị riêng, gọi là vương triều Hồi giáo Deli, sau chia ra 33 quốc vương. Đây là vương triều của những thủ lĩnh quân sự dày dạn chinh chiến và tàn bạo. Chính sách cai trị khắc nghiệt khiến dân chúng căm phẫn và chiến đấu khiến cho vương triều Deli suy sụp. Tuy vậy, đạo Hồi đã có đủ thời gian thâm nhập vào đất nước Ấn Độ, hỗn dung với các tôn giáo Bà la môn, Phật giáo và tôn giáo bản địa khác. Trong khi đó, ở Nam Ấn một vương triều Hồi giáo khác vẫn tồn tại và cường thịnh, xây một kinh đô dài cả trăm ki lô mét mà nhiều du khách phương Tây hồi ấy đã đến và ghi chép lại. Về sau các tộc Hồi giáo lại tiêu diệt vương triều này . Trong khi đó các bộ tộc Mông Cổ phiá bắc rặng Himalaya phát triển mạnh, tràn vào phá Deli, cướp và giết. Hơn 150 năm sau, họ xâm nhập lần thứ hai và lập ra đế quốc Mogon (tướng Baber đem 12 nghìn quân kị binh, pháo binh mạnh đánh chiếm vùng Penjab đến 1526 thì chiếm được Deli. Baber chết sau đó 4 năm nhưng con cháu y tiếp tục xây dựng được chính quyền khá mạnh và lâu dài ở Ấn Độ) Cháu của Baber là Akbar trở thành một nhà vua nổi tiếng, ông ta mở rộng Ấn Độ thành một đế quốc lớn, với tổ chức triều đình mạnh mẽ theo mô hình phong kiến. Akbar thực hiện chính sách khoan dung, hoà hợp tôn giáo mặc dù ông ta là tín đồ Hồi giáo. Chấp nhận tất cả tôn giáo bản địa, kể cả thiên chúa giáo mới từ phương Tây nhập vào . Vua
  14. Akbar biết ưu đãi coi trọng văn nghệ sĩ mặc dù ông không biết chữ. . .Ông lập ra một thư viện có tới 24 000 cuốn sách chép tay, cho dịch sang tiếng Ba Tư bộ sử thi vĩ đại Mahabharata và xây dựng nhiều công trình kiến trúc lớn Những nhà vua nối tiếp Akbar thì không ai có khả năng lãnh đạo bằng ông. Vua Shahjahan hoang phí dùng công quĩ xây dựng lâu đài cung điện xa xỉ, đặc biệt xây toà lâu đài Taj Mahal bằng đá cẩm thạch trắng làm cái nhà mồ cho cô vợ trẻ chết yểu của y. Aurang Zeb con trai của cô vương phí chết yểu kia lại trở thành một vị vua say mê quyền lực, phá phách mối đoàn kết dân tộc, phá chùa chiền . và dẫn đến vương triều Deli sụp đổ khi y chết. Đế quốc Mogon sau đó 30 năm thì hoàn toàn mất quyền cai trị. Thực dân tư bản phương Tây đứng đầu là Anh quốc từng kéo đến từ thế kỉ trước nay đẩy mạnh can thiệp, thôn tính đặt ách cai trị đất nước Ấn độ rộng lớn và cổ kính này. Ấn Độ cận hiện đại. Sự xâm nhập của Tây phương kéo dài từ 1500 đến 1857. Do vị trí trung chuyển của Ấn Độ trên con đường giao thương Đông- Tây, thực dân phương Tây nhòm ngó từ lâu xứ sở này. Đi đầu là Bồ Đào nha với các nhà hàng hải, sau đến Hà Lan thành lập công ty Đông Ấn năm 1602, họ coi đây là trạm đi tiếp đến vùng Indonesia . Tuy nhiên cả Hà Lan và Bồ đào nha cuối cùng đều bị Anh và Pháp gạt ra và chiếm chỗ. Suốt thế kỷ XVII, Anh ráo riết xâm nhập xứ này, năm 1600 nữ hoàng Elizabeth thành lập Công ty Đông Ấn Độ của người Anh. Giới thương nhân Anh kéo sang, giao thiệp khéo, nắm được chính quyền Hồi giáo địa phương, vừa buôn bán vừa làm chính trị, họ tập trung xây dựng 3 trung tâm Madrad, Bombay, Cancutta. Pháp đến muộn hơn, năm 1664, Conbert mới thành lập Công ty Đông Ấn của Pháp, đồng thời truyền bá đạo Gia tô. Anh và Pháp cạnh tranh mạnh ở thế kỉ XVIII, hai tên trùm toàn quyền Anh và Pháp tìm cách diệt nhau. Gây ra xung đột vũ trang. Chiến tranh giữa Anh và Pháp diễn ra những năm 40 đến 50 thế kỉ XIX, kết quả Anh thắng lợi nhiều trận. Quân Pháp buộc phải đầu hàng. Hoà ước Paris năm 1863 Pháp bị gạt khỏi Ấn Độ nhưng còn giữ được 5 thành phố. Chính quyền Mogon chỉ còn danh nghĩa đến năm 1856. Thực dân Anh toàn quyền cai trị xứ này.
  15. Cuộc khởi nghĩa của nhân dân Ấn Độ 1857-1859 Dưới sự cai trị của thực dân Anh, nông dân điêu đứng vì tô thuế, nạn cho vay lãi . Thợ thủ công bị phá sản thất nghiệp vì hàng hoá Anh tràn ngập thị trường . Một bộ phận quí tộc phong kiến bị tước đoạt quyền lợi. Họ bộc lộ thái độ chống đối chính quyền Anh . Sau gần một thế kỉ rên xiết dưới ách cai trị của thực dân Anh, phong trào khởỉ nghĩa lớn của nhân dân bùng lên ở nhiều địa phương . Ngọn cờ cựu hoàng Mogon cũng được dương lên. Nhiều binh lính người Ấn cũng bỏ quân đội đi theo cuộc khởi nghĩa. Thực dân Anh huy động quân đội đàn áp khởi nghĩa, bắn giết cướp bóc thậm tệ. Nhân dân Ấn Độ tiến hành chiến tranh du kích. Khởi nghĩa tan rã vào năm 1859. Cuộc khởi nghĩa tuy thất bại nhưng đã khiến chính quyền thuộc địa Anh thay đổi chính sách cai trị. Chính quyền thuộc địa Ấn vốn thuộc “Công ty Đông Ấn” nay phải chuyển trả cho chính phủ hoàng gia Anh. Chính sách cải tổ, tổ chức lại quân đội, binh lính Anh vốn chiếm quân số 1/5 nay nâng lên 1/2 Một viên toàn quyền Anh cầm quyền ở Ấn Độ thay mặt nữ hoàng Anh. Bà Victoria nữ hoàng Anh cũng được suy tôn “nữ hoàng Ấn Độ”. Phong trào dân tộc Ấn 1858-1918
  16. Bên cạnh việc tăng cường cai trị Ấn, thực dân Anh còn bành trướng sang Miến Điện, ép nước này nhập vào Ấn Độ, chinh phục Afghanistan. Tiếng Anh được đưa vào làm ngôn ngữ chính thức ở xứ này. Văn hoá Anh có xu hướng phá vỡ truyền thống văn hoá cổ truyền Ấn Độ. Từ nửa sau thế kỉ XIX , một phong trào đấu tranh mang tính dân chủ tư sản đã nảy sinh và phát triển, kết hợp chủ nghãi dân tộc Ấn, do các trí thức mới Tây học lãnh đạo. Bản nhạc dạo đầu là trào lưu phục hưng văn hoá và tôn giáo Ấn, chủ yếu là đạo Hindu, cổ vũ xoá bỏ những mê tín hủ tục Ấn cổ, dung hợp văn hoá Đông Tây . Tiến tới, phong trào đòi trả lại quyền độc lập, tự trị cho dân tộc Ấn. Lãnh tụ của đảng Quốc đại là các ông Mahatma Gandhi và Jawahaclan Nehru. Những cuộc đấu tranh chính trị, tránh bạo động kiên trì đã đem lại hiệu quả. Ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga khiến Đảng cộng sản Ấn Độ thành lập vào năm 1925. Rải rác vẫn có đấu tranh bạo lực chống lại quan Anh. Năm 1947 Ấn Độ giành lại quyền độc lập Sau đại chiến thế giới II, Gandhi và Nehru kiên trì đấu tranh thương lượng hội nghị với chính phủ Anh. Trước sự kiên trì đấu tranh của nhân dấn Ấn Độ , cuối cùng thực dân Anh đành phải chia xứ này thành hai nước : Ấn Độ theo đạo Hindu và Pakistan theo Hồi giáo . Ngày 15-8- 1947 thực dân Anh tuyên bố trao trả độc lập cho Ấn Độ . [Ngày 26-1-1950 nước Cộng hoà Ấn Độ chính thức ra đời. Ngày 30.1.1948 lãnh tụ M. Gandhi bị bọn phản động cuồng tín ám sát, gây tổn thất lớn cho nhân dân Ấn Độ, lãnh tụ Jawahaclan Nehru kế tục sự nghiệp. Sau đó con gái ông là bà Indira Gandhi lại làm thủ tướng xứng đáng của dân tộc . Ngày 30.10.1984 bà Gandhi lại bị bọn phản động hèn hạ ám sát. Con trai bà tiếp tục kế vị, lại bị ám sát Đất nước Ấn Độ ngày nay đang ra sức đổi mới hoà nhập vào thời đại công nghiệp hoá] . 3. Chủng tộc và đẳng cấp Ấn Độ là đất nước có nhiều chủng tộc với nhiều ngôn ngữ khác nhau, ước tính có tới 1652 ngôn ngữ. Trước đây chữ Sanskrit được sử dụng trong văn học cổ và đạo Bà la môn, còn chữ Pali phổ biến ở miền Nam Ấn và dùng trong kinh Phật. Hiến pháp Ấn Độ
  17. ngày nay qui định dùng 15 thứ ngôn ngữ chính thức trong đó có tiếng Anh (do thực dân Anh đưa vào từ sau hai thế kỉ thống trị Ấn Độ ). Các chủng tộc đông nhất gồm có Dravidian, Arian, Xumeria, Naga về sau có thêm người Hi Lạp, Ba Tư, Arập, Mông Cổ lần lượt xâm nhập Ấn Độ và dần dần trộn huyết với dân bản địa tạo ra nhiều chủng tộc phức tạp. Nhưng chủ yếu phải kể hai dân tộc lớn nhất Ấn Độ thời cổ là Dravidian và Arian. Theo sử liệu, chủ nhân sớm nhất của đất nước Ấn Độ là người Dravidian. Ba nghìn năm trước công nguyên, người Dravidian từng sinh sống dọc lưu vực sông Ấn và sông Hằng. Họ đã xây dựng nên nền văn minh sông Ấn rực rỡ. Chủ nhân thứ hai là giống người Arian, nguồn gốc thuộc ngữ hệ Ấn- Âu thiên di từ phía nam dãy núi Uran đến vùng Tuyeckestan (Liên Xô). Dân tộc này chia ra ba bộ phận, trong đó một bộ phận đi qua Afghanistan, vượt núi Himallaya vào định cư ở bang Penjab. Lúc đầu, người Arian chỉ muốn di cư hoà bình, mang theo súc vật và dụng cụ gia đình để tìm kiếm đất đai cư trú làm ăn theo lối dân du mục. Về sau họ phải dùng vũ trang chống lại người dân bản địa. Người Arian biết chăn nuôi, thạo săn bắn, giỏi cung kiếm, can trường hung bạo và khoẻ mạnh nên đã chiến thắng người Dravidian và chiếm cứ đất đai. 9
  18. Người Dravidian và các thổ dân khác bị chinh phục, một số trở thành tù binh rồi làm nô lệ cho Arian, số còn lại phải bỏ chạy vào rừng sâu hoặc kéo nhau tràn xuống định cư ở phía nam. Lúc đầu, trình độ văn hoá của người Arian thấp hơn người Dravidian, nhưng sau họ tiếp thu văn hoá của kẻ bị chinh phục, học tập kỹ thuật làm ruộng, lại thấy đất đai màu mỡ nên người Arian chuyển sang đời sống định cư và canh tác nông nghiệp. Từ đây, chế độ công xã nông thôn Arian hình thành và phát triển. Do mâu thuẫn về quyền lợi đất đai và chiến lợi phẩm, nội bộ cộng đồng Arian ngày càng chia rẽ và xung đột vũ trang đã xảy ra. Sau những cuộc xung đột đó, nhiều tiểu vương quốc ra đời do Vua đứng đầu và một hội đồng đại biểu quí tộc điều hành. Từ đó chế độ chiếm hữu nô lệ tan rã, nhường chỗ cho chế độ phong kiến ra đời. Sau khi đế quốc Moria suy sụp (322-185 tr. CN), Ấn Độ cổ đại lại chia thành nhiều quốc gia phong kiến cát cứ và chiến tranh liên tiếp nổ ra. Đầu thế kỷ V trước công nguyên, người Ba Tư đánh chiếm vùng Penjab. Đầu thế kỉ IV trước công nguyên, người Hi Lạp, Italia và Macedoni xâm nhập tây bắc Ấn Độ . Khoảng thế kỉ I, người Saca ở Trung Á tiến vào Bắc Ấn Người Ấn Độ luôn luôn phải chịu đựng và chống trả nhiều cuộc chiến tranh xâm lược tàn bạo. Tiêu biểu hơn cả là cuộc chiến tranh chống người Hồi giáo và người Mông Cổ từ thế kỷ thứ VII, và cuộc chiến tranh xâm lược lớn nhất của thực dân Anh vào đầu thế kỉ thứ XIX. Các dân tộc Ấn Độ còn phải chịu đựng chế độ đẳng cấp rất khắc nghiệt. Chế độ đẳng cấp ra đời nhằm phân biệt đối xử giữa người Arian và Dravidian với các thổ dân khác. Xã hội có 4 đẳng cấp chính:
  19. 1- Brahman ( tăng lữ Bà la môn) 2- Ksatrya (vương công, quí tộc, võ sĩ). 3- Vaisya (thương nhân, nông dân, thợ thủ công). 4- Sudra (nô lệ, tôi tớ, người làm thuê). Đẳng cấp Sudra còn chia ra 2 hạng người. Hạng người Sandallah sống ở hạ lưu sông Hằng và hạng thấp nhất là Paria (  ) sống ở vùng cao nguyên Decan - hai hạng người này là do đàn bà của đẳng cấp Brahman lấy đàn ông của đẳng cấp Sudra sinh ra. Họ không được xã hội thừa nhận và bị đối xử phân biệt rất thậm tệ. Chế độ đẳng cấp đã đẻ ra nhiều luật lệ hết sức khe khắt. Hôn nhân giữa các đẳng cấp bị cấm đoán. Người khác đẳng cấp không được ngồi gần nhau và ăn cơm chung. Người đẳng cấp dưới phải phục tùng vô điều kiện và tôn kính đẳng cấp trên, nhất là đẳng cấp Brahman. Lịch sử Ấn Độ bị chế độ đẳng cấp làm cho trì trệ hàng ngàn năm. Về sau, Mahatma Gandhi (1869 - 1948), nhà yêu nước vĩ đại Ấn Độ đã tích cực đấu tranh để xoá bỏ chế độ đẳng cấp. Ông nói "Chúng ta đều biết rằng, hệ thống đẳng cấp đã lỗi thời, cần phải xoá bỏ nó nếu đất nước Ấn Độ muốn được tồn tại và phát triển". CHÚ THÍCH () : Nguyễn Ái Quốc đã lấy tên đẳng cấp Paria đặt cho tờ báo Le Paria ở Pháp năm 1922, thường gọi là báo « Người cùng khổ » để nêu lên mục đích của cách mạng là
  20. giải phóng nhũng người cùng khổ trên các lục địa Á –Phi - Mỹ Latinh hực hiện chủ trương của M.Gandhi, từ ngày Ấn Độ được độc lập (1947), tệ phân biệt đẳng cấp chính thức bị xoá bỏ nhưng đến nay trên thực tế, nhiều vùng nông thôn lạc hậu vẫn còn duy trì tệ nạn này. Đặc điểm hoàn cảnh xã hội trên đây đã tạo cho dân tộc Ấn Độ truyền thống đấu tranh bất khuất, kiên cường nhằm giữ gìn hoà bình, hoà hợp và công bằng bác ái. Tinh thần đó đã được phản ánh từ rất sớm trong các bản sử thi vĩ đại như Ramayana, Mahabharata và các tác phẩm văn học nghệ thuật khác. 4 - Văn hoá, nghệ thuật và khoa học Ấn Độ là nước có nền văn minh rất sớm, không kém Hi lạp, La Mã, Ai Cập. Những cuộc khai quật khảo cổ học đầu thế kỉ XX ở lưu vực sông Ấn đã chứng minh nền văn minh rực rỡ của người Dravidian có từ 3000 năm trước công nguyên. Có thể gọi Ấn Độ cổ đại là mảnh đất màu mỡ cho tôn giáo và triết học sinh sôi phát triển. Đặc biệt, tôn giáo và triết học gắn bó chặt chẽ với nhau ngay từ đầu và trở thành một bản sắc văn hoá độc đáo Ấn Độ . 4 .1 . Tôn giáo Tôn giáo đầu tiên ở Ấn Độ bắt nguồn từ tín ngưỡng nguyên thuỷ, theo kiểu tô tem: Sùng bái vật tổ và tự nhiên. Có bốn đạo chính là: Bà la môn (Brahmanism) đạo Giên (Jainism), đạo Phật (Buddism) và đạo Hindu (Hinduisme) ngoài ra còn các đạo khác như đạo Hồi (Islamism), đạo Sikh, đạo Thiên chúa .v.v
  21. Đạo Bà la môn ( Brahmanism) Đạo Bà La Môn ra đời đầu tiên. Nó tuyên truyền học thuyết van vật bất di bất dịch, xã hội có nhiều đẳng cấp là ý muốn của đấng tối cao Brahma. Nỗi đau khổ trên đời là tạm thời không đáng quan tâm, cuộc đời là huyền ảo chỉ có đấng tối cao Brahma là có thực. Thuyết luân hồi (Samsara) và nghiệp báo (Karma) cho rằng con người sau khi chết sẽ biến ra kiếp khác. Hiện tại nghèo khổ là do kiếp trước phạm nhiều tội ác. Muốn kiếp sau khỏi trở thành súc vật thì phải sống đúng đạo Darma do đấng Brahma đề ra, phải biết an phận, không được ghen ghét đẳng cấp. Sau này đạo Brahmanism trải qua nhiều cải cách và trở thành đạo Hindu, tức là Ấn Độ giáo thịnh hành trong thời phong kiến và tồn tại đến ngày nay. Đạo Giên (Jainism) Nhận thấy đạo Bà la môn là công cụ áp bức giai cấp, nhiều người ở đẳng cấp vương công quí tộc bất mãn, tìm cách chống đối. Họ tự ý rời bỏ đời sống giầu sang đi tìm nơi ẩn đật ở rừng sâu núi vắng để tu luyện khổ hạnh, mong tìm đạo lý khác giúp con người thoát khỏi mọi đau khổ trần tục. Mahavira tên thật Vacdamana sống giữa thế kỉ thứ VI trước công nguyên ở châu thành Vaisali, nay là tỉnh Bihar, đau buồn vì bố mẹ tuyệt thực quyên sinh ông đã bỏ nhà đi tìm đạo. Sau 13 năm tu hành, ông đã lập ra một đạo giáo tên là Jain (có nghĩa đắc đạo). Đạo Jain phủ nhận quyền uy của kinh Veda, chống lại chế độ đẳng cấp và đạo Bà la môn. Họ chủ trương không tế lễ, coi vạn vật đều có vật chất và linh hồn. Chỉ có linh hồn cao cả nhất, hoàn hảo nhất mới được "giải thoát" vĩnh viễn, những linh hồn đó gọi là Arhat. Muốn thế phải sống khổ hạnh, phải giữ luật bất tổn sinh (Ahimsa) có nghĩa tránh giết hại mọi sinh vật (kể từ con vật nhỏ bé), không nói dối, không lấy cái gì của ai (trừ tặng vật), từ bỏ mọi lạc thú. Người tu hành có quyền tuyệt thực để tự tử, tự tử là chứng tỏ linh hồn đã hoàn toàn chiến thắng. Sau khi Mahavira qua đời, đạo Jain tự phân hoá thành 2 giáo phái. Phái Svetambara mặc áo cà sa trắng và phái khoả thân Digambara (coi không khí là y phục tự nhiên).
  22. Mahatma Gandhi đã chịu ảnh hưởng của đạo Jain. Ông tôn trọng luật Ahimsa, sống giản dị khắc khổ. Khi bị bọn thực dân Anh cầm tù, ông thường tuyệt thực để đấu tranh. Ngày nay ở Ấn Độ, người theo đạo Jain ngày càng giảm, chỉ còn 0,5% dân số. Đạo Phật (Buddism) Sau Mahavira, có Siddata Gotama, hiệu là Sakya Muni (Thích ca mầu ni), hoàng tử con vua Suddodama và hoàng hậu Maya. Ông sinh năm 563 và mất 483 trước công nguyên. Sau bao năm đi tìm chân lý, ông đã ngộ đạo dưới gốc cây bồ đề ở vùng Bodigaya, sau đó đi truyền đạo dọc sông Hằng suốt 40 năm đến khi chết. Giáo lí đạo Phật cho rằng tội lỗi là do dục vọng con người sinh ra. Dục vọng thì vô hạn, do đó tội lỗi và đau khổ của con người không bao giờ xoá sạch được. Cuộc đời là bể khổ, con người bị chi phối bởi vòng luân hồi và thuyết nhân quả nên phải tu hành để giải thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn ấy. Phải tiêu diệt hết dục vọng để kiếp sau lên chốn Niết bàn (Nirvana) vì đó là nơi cực lạc. Đạo Phật chủ trương bình đẳng giữa chúng sinh, mở đường giải thoát cho những người bị áp bức, đè nén, đương thời tư tưởng này phản đối chế độ đẳng cấp của đạo Bà la môn. Đối với lịch sử, đó là điểm tiến bộ, nhưng căn bản giáo lý vẫn mang tính tiêu cực, nhẫn nhục vô vi. Đạo Phật chủ trương không dùng bạo lực, trong đấu tranh thì thoả hiệp, hoà hoãn, nhẫn nhục. Đạo Phật về sau lại bị vương quyền lợi dụng như một công cụ áp bức tinh thần quần chúng. Trong thời đại Asoka ( -273 -232), Đạo Phật được truyền bá sâu rộng qua các nước châu Á, trước hết ở Đông Nam Á Đến thế kỷ thứ IX, sự truyền bá chậm lại và phân hoá thành giáo phái tiểu thừa (Hinayana) và Đại thừa (Mahayana). Đạo Phật vào mỗi nước lại được phân hoá thành các giáo phái khác nữa . Ấn Độ giáo ( Hinduisme, Induism)
  23. Trước sự phát triển thắng thế của đạo Phật, đạo Bà la môn phải cải cách và biến thể thành đạo Hindu. Đạo Hindu tiếp thu trở lại một phần giáo lý , tín điều đạo Phật. Đạo này quan niệm vũ trụ trải qua ba giai đoạn : Sinh - Trưởng - Diệt. Nhất thể hoá ba vị thần tượng Brahma - Visnu - Shiva, đề cao thần Visnu là thần đại đức giáng thế, là người thiện lí tưởng nhất để cứu nhân loại khỏi vòng trầm luân truỵ lạc. Ngày nay, Ấn Độ giáo vẫn chiếm được đa số các dân tộc Ấn . 4.2 . Triết học Triết học ra đời và phát triển sớm. Từ thời kỳ cổ đại đã có nhiều môn phái triết học. Tư tưởng triết học duy vật ra đời sớm nhưng giai cấp thống trị nhanh chóng tìm cách thủ tiêu và năgn chặn nó nên ngày nay không còn thấy có tác phẩm nào để lại. Người ta chỉ tìm thấy tư tưởng đó phản ánh trong các kinh Veda, kinh Upanisad, trong luật Manu, trong sách đạo đức học Acthasatra v.v Triết học duy vật cổ đại có nhiều trường phái, trong đó ba trường phái chính còn để lại nhiều ảnh hưởng như phái Yadushaida, phái Svabatavada và phái Protosankia. Ba trường phái ấy có những quan niệm khác nhau về thế giới và vũ trụ nhưng đều phủ nhận thượng đế và thần thánh sáng tạo vũ trụ. Trường phái Charvak được truyền bá khá sâu rộng trong quần chúng bình dân. Đối lập với các trường phái duy vật là 6 hệ thống triết học duy tâm chính thống , gọi là Darsana. Họ đều thừa nhận uy quyền của các bộ kinh Veda. Trong đó môn phái Vedanta là quan trọng nhất, có ảnh hưởng lớn đến ý thức xã hội Ấn Độ.
  24. Tiếng Sanskrit, Vedata có nghĩa là phần kết luận của Veda. Kinh Veda dần dần được các sư phụ (Guru) đem ra giảng giải. Các bài giảng đó được tập hợp lại thành bộ kinh Upanishad (có nghĩa là ngồi cung kính nghe giảng). Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Upanishad ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VIII trước công nguyên, được xem như tác phẩm triết học đầu tiên của nhân loại. Môn phái Vedanta, lấy Upanishad làm cơ sở lý luận cho học thuyết của mình có nhiệm vụ giải thích và phát triển nguyên lý cơ bản của Upanishad : - Linh hồn tuyệt đối (Brahman) đồng nhất với linh hồn cá thể (atman). - Thừa nhận thuyết luân hồi (Samsara) và nghiệp báo (Karma). Từ thế kỷ X trở đi, môn phái có ảnh hưởng đến các nhà văn hoá Ấn Độ là Bhakti (sùng tín) môn phái này vẫn coi thế giới là do một vị thần tối cao sáng tạo ra, nhưng có khuynh hướng xã hội tiến bộ, đề cao tình yêu thương giữa con người một cách chân thực, phủ nhận đẳng cấp, kêu gọi hoà hợp các tôn giáo. Sự gắn bó giữa tôn giáo và triết học tạo cho tư tưởng và tư duy người Ấn Độ khá độc đáo. Người Ấn rất coi trọng đời sống tâm linh, tư duy luôn luôn hướng về cái tuyệt đối, phổ quát, coi nhẹ cái cá biệt, cụ thể, luôn luôn chiêm nghiệm, vừa hướng nội lại vừa khao khát tìm hiểu cái mới lạ, đưa tâm hồn vào thế giới trừu tượng mênh mông vô hạn và luôn tìm cách thích nghi với thế giới thực tại . 4.3. Khoa học Thời Vêda, toán học đã được soạn thành sách. Cuốn sách Sunva Sutra (phép tính toán bằng dây thừng) được phổ biến rất sớm. Các nhà toán học lớn như : AryaBhata thế kỷ thứ V,Varahamihara thế kỷ thứ VI có nhiều công lao trong việc phát triển toán học, hình học. Hai ông đề ra lý thuyết và giảng giải các phương trình có 2 ẩn số, phương trình vô định, căn thức bậc hai, bậc 3, sin và Cosin, tính chu vi đường tròn theo số pi (3,1416. . .).
  25. Chữ số Arập và số không (0) cũng là những phát minh đầu tiên của Ấn Độ. Nhà bác học Brahma Gupta ở thế kỷ thứ VII đã tìm ra trọng lực và sức hút trái đất, trước Newton nhiều thế kỷ. Thời xưa người Ấn quan tâm nhiều đến thiên văn vì thiên văn liên quan đến việc tế lễ thần thánh. Cuốn sách cổ nhất có giá trị về thiên văn là cuốn Siddhanta ra đời vào khoảng năm 425 trước công nguyên. Sách này giải thích nguồn gốc và sự vận hành của mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Trước CN, người Ấn Độ biết dùng lịch quy định 1 tháng có 30 ngày, mỗi năm 12 tháng, cứ 5 năm có 1 tháng nhuận và biết giải thích chính xác hai hiện tượng nguyệt thực và nhật thực. Y dược học cũng được nghiên cứu và phát triển từ trước công nguyên. Nhiều cây thuốc và sách sử dụng đã được ghi trong kinh Veda. Nhà sáng lập ra nền y học Ấn Độ là Susruta ở thế kỷ II trước CN, ghi lại trên 1120 chứng bệnh và cách điều trị, đề ra phương pháp dưỡng sinh Yoga và các phương pháp phòng bệnh. Kĩ thuật mổ xẻ cũng sớm đạt nhiều thành tựu. Đến thế kỉ thứ II đã xuất hiện cuốn Samhita là bộ bách khoa toàn thư về y dược do nhà y học Charaka biên soạn - đó là cuốn sách quí của nền y học Ấn Độ và thế giới. Kế thừa những thành tựu khoa học kĩ thuật ở thời cổ đại, ngày nay Ấn Độ đang ra sức đẩy mạnh nghiên cứu khoa học. Tháng 3 năm 1958 chính phủ Ấn Độ đề ra chính sách về khoa học kĩ thuật, coi trọng nghiên cứu khoa học cơ bản và ứng dụng vào sản xuất, xem đó là bản "hiến chương về khoa học".
  26. Ngày nay, Ấn Độ đứng thứ 3 trên thế giới (sau Mỹ) về đội ngũ cán bộ khoa học kĩ thuật. Năm 1960, nhà máy nguyên tử đầu tiên được xây dựng ở Tarapua gần thành phố Bombay. Năm 1974, Ấn Độ thử quả bom nguyên tử đầu tiên. Năm 1975 Ấn Độ cho phóng lên vũ trụ vệ tinh nhân tạo mang tên nhà bác học cổ đại Aryabhata. Năm 1981, các nhà hải dương học phát hiện ra "tấm thảm kim loại " ở thềm lục địa Ấn Độ và hiện nay đang tiếp tục thăm dò và khai thác. Nền văn minh Ấn Độ ra đời sớm nhưng về sau suy tàn dần không được phát triển liên tục nên ảnh hưởng của nó không trực tiếp mạnh mẽ như các nền văn hoá cổ đại khác. Nghiên cứu và giảng dạy văn học Ấn Độ không thể bỏ qua việc nghiên cứu những đặc điểm đất nước và con người Ấn Độ. 4.4. Nghệ thuật Nghệ thuật Ấn Độ phát triển theo nhịp vận động của tôn giáo. Giữa thế kỷ thứ III trước CN, nhiều cung điện đền thờ nguy nga xây bằng đá khối bắt đầu xuất hiện ở Ấn Độ. Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc ảnh hưởng sâu sắc đến các nước vùng Đông Nam Á, Tây Á nhất là các nước lấy đạo Phật làm quốc giáo, đó là kiểu kiến trúc Stupa (hoa sen). Đến giữa thế kỷ thứ XVI và XVII, Đạo Hồi du nhập vào Ấn Độ khiến cho nghệ thuật kiến trúc Ấn được bổ sung thêm. Một kiểu kiến trúc hoà hợp nghệ thuật Hồi giáo và nghệ thuật truyền thống Ấn ra đời . Hội hoạ Ấn Độ có mầu sắc rất phong phú. Nhiều bích hoạ tuyệt đẹp ở các hang động khiến cho khách du lịch phải kinh ngạc về tài nghệ người Ấn Độ cổ xưa.
  27. Từ xa xưa ca, múa, nhạc Ấn Độ thường thường được biểu diễn phối hợp chặt chẽ. Có trên hai trăm loại nhạc cụ, độc đáo nhất là trống. Nghệ thuật múa phát triển sớm, hình thức phong phú, gợi cảm, riêng điệu múa Apsara đã có trên 50 tiết điệu biểu diễn khác nhau và được phổ biến rộng rãi ở Đông Nam Á . Ngày nay, ở Ấn Độ có nhiều viện nghiên cứu và trường đào tạo ca múa nhạc. Việc giới thiệu nghệ thuật Ấn ra nước ngoài cũng được nhà nước chú trọng và khuyến khích. Nói chung, nghệ thuật Ấn Độ đượm mầu sắc tôn giáo, luôn luôn đi tìm cái đẹp trong sự ôn hoà, tĩnh mịch và tôn nghiêm.
  28. CHƯƠNG II - PHÂN KÌ VĂN HỌC ẤN ĐỘ Phân kỳ lịch sử văn học Ấn Độ là một việc khó khăn, phức tạp. Bởi lẽ, nói chung ý thức về thời gian lịch sử của người Ấn không phát triển mạnh mẽ. Về thời điểm ra đời của một tác phẩm, người ta có thể tranh cãi nhau với sự sai lệch hàng mấy trăm năm. Tránh cái khó này, một số công trình về văn học Ấn thường giới thiệu lần lượt các nền văn học trong các ngôn ngữ khác nhau hoặc giới thiệu lần lượt các thể loại trong nền văn học này. Cách làm như vậy có nhược điểm là không cho thấy những vận động chung có tính chất toàn lục địa trong những giai đoạn lịch sử lớn nhất định và do đó khó trình bày những đặc điểm bản chất cùng quy luật phát triển của nền văn học Ấn. Nền văn học đa ngữ của Ấn Độ cần phải được giới thiệu theo tiến trình lịch sử qua các thời đại quan trọng cho dù sự xác định ranh giới thời gian có thể còn nhiều tranh cãi,
  29. miễn là làm nổi bật sự phân biệt của mỗi thời đại về bản chất tinh thần, nội dung và hình thức văn chương. Tên gọi của mỗi thời đại vì thế có thể không lệ thuộc vào phân kỳ lịch sử mà xuất phát từ tên của thành tựu vĩ đại nhất hoặc vận động quan trọng nhất của mỗi thời kỳ văn học. 1. Văn học cổ đại ( khoảng từ 1500 tr CN đến thế kỷ X sau CN) 1.1. Thời đại Veda từ 1500 đến 600 tr CN “Veda” – tên của tác phẩm văn chương đồng thời là tác phẩm tôn giáo đầu tiên thường được dùng để gọi tên thời bình minh của văn học Ấn. Thời kỳ này, văn minh Ấn Độ nảy nở giữa rừng xanh. Các rishi (thi nhân, thấu thị) đã đi từ thế giới cảm quan sinh động tới những lĩnh vực trừu tượng siêu hình và cuối cùng đạt đến kết luận về sự đồng nhất và hợp nhất giữa linh hồn con người và linh hồn vũ trụ. Thần thoại đã xuất hiện trước tiên (trong các kinh Veda, chủ yếu là Rig Veda) rồi sau đó là văn chương - triết học (trong các kinh Upanishad). Ngôn ngữ Sanskrit từ giai đoạn đầu tiên còn hết sức cổ sơ (mà nhiều học giả gọi là giai đoạn ngôn ngữ Veda) đã ngày càng được rèn giũa và tăng cường hiệu quả trong luận giải và thuyết giảng. 1.2. Thời sử thi và Phật giáo từ 600 tr CN đến thế kỷ IV Nửa sau thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên chứng kiến sự hình thành lần lượt các sử thi lớn nhất của Ấn Độ. Các sử thi đã phản ánh hiện thực lịch sử của thời kỳ hình thành, phát triển của những vương quốc lớn ở Ấn Độ và xung đột, chiến tranh giữa chúng. Hai sử thi sanskrit : Mahabharata và Ramayana có dung lượng lớn hơn, tầm phổ biến và ảnh hưởng rộng rãi hơn.
  30. Chúng cũng thuộc về các tác phẩm kinh điển của đạo Bà la môn nhưng có tính văn chương, tính trần thế đậm đà hơn Veda, Upanishad nhiều. Xảy ra gần đồng thời với thời đại anh hùng là sự xuất hiện những phong trào tôn giáo - triết học chống Bàlamôn. Các guru (đạo sư giác ngộ) đã dũng cảm phủ nhận hệ thống đẳng cấp, nghi lễ, các giáo điều chật hẹp trong tôn giáo Bàlamôn và thuyết giảng những nguyên tắc đạo đức của tình yêu nhân loại, lòng trắc ẩn và đức vị tha. Văn học Phật giáo gắn liền với tôn giáo của vị đạo sư vĩ đại nhất: Đức Phật. Các kinh Phật (thời gian đầu viết bằng tiếng Pali, về sau bằng tiếng Sanskrit) là một di sản tinh thần quý báu trong văn học thế giới – không chỉ do vẻ đẹp đạo đức mà cả vẻ đẹp văn chương. 1.3. Thời cổ điển từ đầu công nguyên đến khoảng thế kỷ X, trong đó nổi bật là các thế kỷ IV, V, VI Đây là thời kỳ có những triều đại phong kiến phát triển thịnh vượng về mọi mặt. Cũng là thời phục hưng của tinh thần truyền thống: đạo Bàlamôn phát triển đến giai đoạn cổ điển thành đạo Hindu. Văn học cung đình bằng tiếng Sanskrit nảy nở cực độ, để lại nhiều thành tựu có vẻ đẹp mẫu mực, kinh điển trong mọi thể loại. Trong đó nổi bật lên Kalidasa, nhà thơ và kịch tác gia vĩ đại, “kỳ công thứ nhất” của văn học Ấn Độ. 2. Văn học trung đại (từ khoảng thế kỷ X đến thế kỷ XVIII) Hồi giáo xâm nhập và sự hỗn dung Hindu giáo - Hồi giáo đã khiến cho văn học trung đại phát triển mạnh thơ ca sùng tín. Các bhakta (thi nhân – sùng tín) dâng tình yêu lên Đấng Tối Cao với niềm tin đạt đến hợp nhất với Đấng Tối Cao trong tình yêu và bằng tình yêu (bhakta) chứ không phải tri
  31. thức (jnana) hay hành động (karma). Tinh thần tự do, cởi mở nên hình thức cũng phóng khoáng. Thơ ca sùng tín nở rộ phong phú trong khắp các phương ngữ, cả ngữ hệ Arian lẫn ngữ hệ Dravidian, chấm dứt thời kỳ độc tôn của Sanskrit. 3. Văn học cận hiện đại (từ thế kỷ XVIII đến nay) Bị phương Tây nhòm ngó và cuối cùng bị đặt dưới sự đô hộ của thực dân Anh, Ấn Độ phải đấu tranh dài lâu để cuối cùng giành lại độc lập. Đây là thời kỳ Ấn Độ phát triển chủ 1 5
  32. nghĩa dân tộc, đồng thời mở rộng ra quốc tế. Văn học Ấn Độ đã thực hiện sự tổng hợp Đông – Tây để phát triển đến một trình độ mới. Đại diện xuất sắc nhất, Rabindranath Tagore, “kỳ công thứ hai” của văn học Ấn, đạt giải Nobel văn chương vào năm 1913 đã đưa Ấn Độ tới một địa vị rõ ràng hơn trong bối cảnh chung của văn học thế giới thế kỷ XX .
  33. CHƯƠNG III - THẦN THOẠI ẤN ĐỘ
  34. I . KHÁI QUÁT Thần thoại Ấn Độ là sáng tác dân gian truyền miệng của nhiều chủng tộc, nhiều địa phương kế thừa lẫn nhau trong quá trình phát triển đất nước. Đó là một thế giới thần thoại kì ảo, được giữ trong các tập sách Veda, Brahmana, Upanisand, Purana, Phật thoại Budda Thần thoại Ấn Độ phát triển qua nhiều thời kỳ . Trước khi người Arian xâm nhập Ấn Độ thì các chủng tộc ở đây tôn thờ và ca ngợi thần núi, thần sông, thần cây cối, thần súc vật, thần rắn (Naga), thần bò mộng (Nandi), thần cổ thụ (Yatsa) .v.v. và ma quỷ yêu tinh khác theo kiểu tô tem. Đặc biệt họ tín ngưỡng thần Mẹ và thờ cúng âm lực, coi âm vật - bộ phận sinh dục nữ (Yoni) là nguồn gốc của mọi sáng tạo. Bên cạnh Yoni, còn thờ dương vật (Linga), giống như người Ai Cập cổ thờ dương tính Osiris, người Hi Lạp cổ thờ Phallus. Thần Yoni và Linga được tạc bằng đá hoặc nặn bằng đất sét với hình trụ có chóp tròn (hoặc tháp nón) đặt trên bệ hình tam giác hoặc hình tròn. Ngày nay trên đường phố, vườn hoa người ta còn thấy các bức tượng đó. Người Ấn Độ xưa còn đeo hình Linga ở cổ để trang điểm, khi làm lễ cầu tự, họ trang hoàng lộng lẫy cho các bức tượng trên , đó là ý niệm về sự sinh tồn. Họ cho rằng sự sinh sôi nảy nở trong trời đất đều do đực và cái kết hợp với nhau. Đó cũng là quan niệm duy vật thô sơ nhưng dần dần bị thần bí hoá. Đến thời kỳ Veda (khoảng 1500 năm trước CN) khi người Arian vào đất Ấn và hoà hợp với các chủng tộc khác thì thần thoại phát triển phong phú đa dạng và có hệ thống hơn.
  35. Tăng lữ Bà la môn bắt đầu chú ý ghi chép lại những chuyện thần thoại rải rác trong các bộ tộc trong các địa phương rồi sắp xếp có hệ thống trong bộ kinh Rig Veda. Đó là những câu ca, bài hát ca ngợi các lực lượng thiên nhiên mà họ tôn thờ và sùng bái. Lời hát và cảm xúc của người Arian trong sáng, hồn nhiên, chân thực và lành mạnh, trí tưởng tượng của họ bay bổng diệu kỳ. Các thần linh chẳng khác gì con người, họ rất gần gũi và dễ dàng đáp ứng lời cầu nguyện của con người. Các thần cũng thích đi lang thang, du mục, cũng chăn bò vắt sữa, yêu nhau và sinh con đẻ cái. Thần thoại Ấn Độ là những bức tranh chân thực tuyệt đẹp miêu tả thiên nhiên nơi người Arian đi qua và sinh sống. Thần thoại Rig Veda phản ánh thời thơ ấu Ấn Độ, giống như Karl Marx nói về Thần Thoại Homer rằng "Nó phản ánh cái đẹp, phản ánh thời kỳ ấu trĩ một đi không trở lại của loài người ". Bước sang thời kỳ hậu Veda, chế độ đẳng cấp ngày càng được cũng cố và phát triển, là quá trình hình thành tôn giáo Bà la môn và triết học duy tâm thần bí. Do vậy, thần thoại Ấn Độ từ đây trở nên phức tạp, tối tăm, trừu tượng, huyền bí và ngày càng xa rời cuộc sống con người. Lúc đầu, bất cứ vị thần nào trong Rig Veda cũng có quyền lực như nhau, đều sáng tạo ra của cải vật chất, phục vụ đời sống con người và được con người ca ngợi, tôn thờ như nhau.
  36. Về sau, người ta qui tất cả quyền lực của các thần vào một đấng sáng tạo tối cao. Đó là quá trình từ đa thần giáo (polytheism) chuyển sang nhất thần giáo (monotheism) trong lịch sử tôn giáo nói chung. II. HỆ THỐNG THẦN THOẠI RIG VEDA
  37. Veda do từ gốc là Vid trong tiếng sanskrit có nghĩa là "hiểu biết" , hiểu biết xâu xa về mọi mặt. Người Ấn Độ cổ xưa quan niệm rằng khi con người ra đời thì thần thánh ban cho sự hiểu biết rồi. Sự hiểu biết đó cứ thế mà phát triển liên tục. Người Ấn Độ rất coi trọng sự hiểu biết, họ có câu châm ngôn sau "Hiểu biết thật sự là hiểu biết có thể đưa ta tới tự do " Những hiểu biết có được đều đã sưu tập trong bộ thần ca Veda. có thể Veda ra đời khoảng từ 1500 đến 1000 năm trước công nguyên. Thần ca Veda có 4 tập, trong đó tập Rig Veda mang tính chất văn học đậm đà nhất, chứa đựng nhiều truyện thần thoại và ra đời sớm nhất. Rig có nghĩa là "tụng niệm". Ba tập sau có các tên là : Sama Veda (ca vịnh), Giagina Veda (tế tự) và Alhava Veda (phù chú, ma thuật ) Sau đây, chúng ta lần lượt tìm hiểu một số thần thoại trong RIG VEDA 1. Nhóm thần vũ trụ-thiên nhiên Đầu tiên là thần Trời và Đất sáng tạo muôn loài. Trời Cha - Dyaus (người Hi lạp có Zeus hoặc Jupiter). Đất mẹ - Addidi. Dyaus và Addidi lấy nhau sinh ra Aditya - đây là tất cả các loại thần linh. Các Aditya điều hành mọi sinh hoạt trong trời đất và vũ trụ, họ ở khắp 3 cõi - trời, không trung và đất. Trời do thần Mặt Trời là Surya cai quản, không trung do thần Gió Vayu và Đất-hạ giới do thần lửa Agni cai quản.
  38. Thần Lửa Agni được coi là vị thần quan trọng có ảnh hưởng lớn đến đời sống con người cho nên Agni được ca ngợi rất nhiều. Trong Rig Veda có hơn hai trăm bài ca tụng thần Lửa Agni. Agni có thân hình màu đỏ và màu vàng, có hai đầu bảy lưỡi, tay cầm một chiếc rìu, một ngọn đuốc, một cây quạt và một chuổi hạt. Agni ngồi trên cổ xe do bảy con ngựa hồng kéo. Khói là cờ, gió là bánh xe. Agni có mặt khắp ba cõi, ở mỗi nơi Agni có hình dạng và nhiệm vụ khác nhau. Lửa ở hạ giới có sứ mệnh làm trung gian giữa con người và thần linh. Lửa thiêu đốt lễ vật dâng lên trời. Lửa ở trên trời giúp cho thần Surya toả ra sức nóng chiếu khắp vạn vật. Lửa ở không trung giúp thần Indra làm ra sấm sét. Agni được coi là đấng-thâm-nhập-khắp-nơi, biết được mọi việc, soi sáng khắp nơi, đốt cháy được tất cả mọi vật, dù sạch sẽ hay vật dơ bẩn. Agni khi hung dữ, lúc dịu dàng, sẵn sàng cung cấp đồ ăn thức uống cho loài người. Agni được coi là người bạn tốt nhất " chúa của cải " " người chế tạo và ban phát thức ăn". Về sau tôn giáo Bà la môn biến Agni thành thầy cúng- cây cầu nối Trời và Đất, thần và người trong các buổi hiến tế. Agni còn tham dự đám cưới, ma chay, lễ tết, hội hè. Thần chứng kiến lễ cưới : hai vợ chồng trẻ phải đi bảy vòng quanh đống lửa đốt bằng phân bò khô và đọc 7 lời thề chung thuỷ Thần Agni thiêu huỷ thể xác con người để hoàn trả lại cho thế giới vật chất cái "ảo ảnh tạm thời ", giúp con người trở về chốn vĩnh hằng của thần thánh, chết là giải thoát. Thần Lửa là vị tu sĩ cao nhất ban phúc lành cho người. Thần tiêu diệt mọi thứ uế tạp và theo dõi đạo đức con người. Hàng năm hai kỳ tết Xuân và Thu (Holy và Divapati), dân chúng đốt những đống lửa lớn gọi là lửa Holy, thắp nhiều nến để xua đuổi yêu quái và tội lỗi .
  39. Thần gió Vayu cai quản không trung. Thần là hơi thở của lửa, sinh khí của vũ trụ, mạch sống của muôn loài. Thần có sứ mệnh làm trong sạch bầu trời và cùng với lửa chuyển lễ vật đến thần linh. Vayu và thần Mưa-Sét Indra có khi hoà làm một cai quản không trung. Đó là vị thần màu trắng toát, hùng dũng mang cung tên cưỡi xe bằng vàng có ngựa kéo bay khắp không trung. Ngoài tính chất hùng mạnh, nhanh nhẹn, sinh động, Vayu còn là vị thần đa tình, chuyên rủ rê ăn nằm với các vũ nữ thiên thần .Vayu đã ăn nằm với vũ nữ Angiana, đẻ ra giống khỉ Hanuman-nhân vật có tài thần thông biến hoá, có thuật phi hành, được miêu tả trong các sử thi Ramayana và Mahabharata . Thần Surya (mặt trời) cai quản thiên giới. Surya do chữ Sur hay Svar (tiếng Sanskrit ) có nghĩa sáng chói (tiếng Anh : sun). Thần gây ra ban ngày, là con mắt của vũ trụ, tồn tại mãi mãi. Surya có thân hình màu đồng đỏ, tóc và râu màu vàng, cưỡi xe 7 ngựa hồng kéo rất dữ tợn. Thần đội vương miện, đeo nhiều vòng toả ánh hào quang chói lọi. Thần đẻ ra Manu - con người đầu tiên của trần thế. Manu lại đẻ ra Iksuacu - người sáng lập triều đại Mặt Trời, chàng ta lại sinh ra một trăm con trai. Trong hệ thống thần vũ trụ - thiên nhiên, còn có các thần linh khác như thần Varuna (bầu trời), thần Soma (rượu), thần Chandra (mặt trăng), thần Rudra (bão táp), nữ thần Usa (rạng đông ) 2. Nhóm thần sáng tạo thế giới và thuỷ tổ loài người: Thần thoại Ấn Độ miêu tả một số mẫu người sáng thế như Toastri (thần Rèn),
  40. Burusa ( người khổng lồ ), thần Manu (thần Nguyên thuỷ , thủy tổ loài người ) Hãy kể về thần Manu. Manu có nghĩa là « người » (Latin :Humanus, Anh: Human). Manu là con của đấng tối cao Brahma. Thần Brahma tự tách mình ra hai nửa đực, cái hoặc âm và dương. Hai nửa kết hợp nhau sinh ra Manu . Manu làm ra bộ luật Manu, theo luật đó mà cai quản thế giới cổ sơ. Buổi sáng kia, Manu rửa tay trong dòng nước, bỗng thấy có con cá bơi tới, Manu bắt lấy - cá nói "Hãy nuôi ta rồi có ngày ta sẽ cứu sống người. Sắp đến ngày xảy ra nạn hồng thuỷ, lúc đó ta sẽ cứu người thoát chết ". Manu bỏ cá nuôi trong chậu. Cá lớn nhanh. Manu chuyển cá sang thùng, rồi sang hồ, từ hồ chuyển sang sông Hằng, từ đó ra biển, ca cứ lớn mãi. Theo lời cá, Manu đóng sẵn một con thuyền. Khi cơn lũ lụt xãy ra, Manu gọi cá và ngồi vào thuyền. Manu buộc thuyền vào mõm cá. Cá đưa thuyền vượt qua dãy núi HimAllahya đến ngọn núi cao nhất. Theo lời cá dặn, Manu buộc thuyền vào gốc cây, ngồi chờ nước rút. Sau khi nước rút, mặt đất trơ trọi, không một sinh vật nào sống sót. Manu thèm khát có đồng loại bèn cầu nguyện Brahma, một cô gái xuất hiện. Hai người ăn ở chung chạ, cùng lao động sinh sống và sinh hạ một đứa con trai.
  41. 3. Nhóm thần tinh thần - tình cảm - thần tình yêu Kama Giống như Eros của Hi lạp, Cupidon của La mã, Kama là thần tình yêu. Cuộc đời chàng là một trong những truyện thần thoại Ấn Độ hay nhất. Lúc đầu, Kama chỉ là một ý niệm về nguồn gốc vũ trụ và muôn loài. Người Ấn Độ cổ tin rằng sự sinh sôi nảy nở trong trời đất là do sự phối hợp giữa giống đực ( purusa ) và giống cái (prakriti). Hai giống ấy có ở khắp nơi và luôn luôn tìm gặp nhau theo " ý muốn tự nhiên " - tức là Kama. Đến người Arian, họ quan niệm Kama là sự vận động đầu tiên của vũ trụ, sau đó chuyển vào cuộc sống,làm phấn chấn và lôi cuốn muôn loài, muôn vật. Bộ kinh Rig Veda (vệ đà) có đoạn "Kama là mầm mống của lòng người, của trí tuệ, là sợi dây ràng buộc cái bản thể với cái không bản thể ". Họ coi Kama là vị thần có tất cả trước mọi loài. Người đời luôn luôn ước mong Kama đến với mình. Trong buổi tế lễ, người cầu nguyện: " Hỡi 19
  42. Kama vị thần có mũi tên bắn trúng đích. Cánh tên là nỗi sầu muộn, lòng tên là mong mỏi, mũi tên là dục tình, mong thần hãy xuyên qua trái tim con ". Kama được miêu tả như một chàng trai tuấn tú ngồi trên chiếc xe do chim vẹt kéo, cầm chiếc cung, cánh cung làm bằng cây mía uốn cong, dây cung làm bằng đàn ong mật kết cánh với nhau, mũi tên làm bằng hoa xoài mềm mại. Chàng có vợ là nàng Rati (có nghĩa là: say đắm) và bạn chàng là chúa xuân Vasanta, đi theo chàng còn có các chàng trai mục đồng Gandarva và các vũ nữ Apsara. Thần Tình yêu được miêu tả như một biểu hiện độc đáo của nghệ thuật dân gian Ấn Độ. Thiên nhiên gắn liền với tình cảm con người. Kama trở thành nguồn trữ tình lai láng, đắm đuối của con người và là lực lượng đáng kể chống lại lối tu hành khổ hạnh. Các vị thần linh, giáo sĩ đạo Bà la môn và Hindu, kể cả chúa tể Brahma đã nhiều phen điêu đứng vì mũi tên của Kama. Truyện kể rằng :" Taraka là con quỷ có uy lực ghê gớm khiến cả đấng tối cao Brahma cũng phải kính nể . Nó bắt thần Brahma truyền cho nó phép trường sinh bất tử. Từ khi có phép đó nó trở nên kiêu ngạo, khinh rẻ các thần linh. Các thần muốn tiêu diệt Taraka nhưng biết chắc rằng không có ai ngoài con trai của thần Siva sinh ra mới đủ sức tiêu diệt nó. Nhưng khốn nỗi Siva theo chủ nghĩa khổ hạnh, không chịu lấy vợ. Các thần bàn cách làm sao cho Siva cưới Uma - con gái thần núi Himallahya. Kama nhận nhiệm vụ cực kỳ khó khăn này. Chàng mang "vũ khí", dẫn đoàn tuỳ tòng và nàng Uma lên đỉnh núi Kailasa, nơi thần Siva đang ngồi tu luyện.
  43. Uma được trang điểm lộng lẫy, nàng tìm mọi cách khêu gợi dục tình của Siva, nhưng Siva không mảy may xao động, đôi mắt vẫn lim dim hướng về thượng đế. Chờ đến khi nàng Uma có sức quyến rũ và xinh đẹp tuyệt trần, Kama gương cung bắn thẳng mũi tên vào trái tim Siva. Thần Siva bàng hoàng, nhức nhối trái tim, vùng đứng dậy, quắc mắt tìm kiếm xem kẻ nào dám cả gan quấy rối. Trông thấy Kama, thần mở to con mắt thứ ba trên trán, phun lửa hừng hực đốt cháy Kama thành tro. Nhưng trái tim Siva vẫn nhức nhối, ngọn lửa tình trong người cứ bừng cháy. Siva ẩn nấp vào bóng cây râm mát hòng dập tắt lửa tình. Vô hiệu, vì xung quanh có nhiều sơn nữ xinh đẹp đang nhìn Siva khiến cho ngọn lửa càng nóng hơn . Thần chạy trốn xuống hồ nước, nước hồ lại càng sôi lên khi nàng Uma đứng trên bờ hồ chờ đón. Cuối cùng Siva nhảy lên bờ. Nàng Uma chạy tới ôm chặt lấy thần. Lúc ấy Siva mới cảm thấy lòng mình êm dịu. Thế là Siva lấy vợ và sinh con trai. Sau khi thần Kama chết thế giới trở nên khô cằn, lạnh lẽo vì Thần tình yêu không còn nữa. Thần linh và loài người đều vô cùng lo sợ. Mọi người lập đàn tế lễ cầu xin Siva cải tử hoàn sinh cho Kama. Nàng Rati goá bụa, đau khổ tìm nàng Uma năn nỉ cầu xin Siva cho chồng sống lại. Siva đồng ý cho Kama sống lại nhưng phải chịu vô hình vô ảnh. Và Kama tồn tại mãi với muôn loài cho đến ngày nay. Tết Holy vào dịp mùa xuân được coi là ngày giỗ thần tình yêu Kama. Tục truyền sau khi Kama chết. Người đời lấy tro xác Kama hoà vào nước, nước hoá ra màu đỏ tía. Từ đó người Ấn Độ xem màu đỏ tía là màu hạnh phúc. Vào dịp tết Holy, nam nữ thanh niên dùng một thứ bột màu hoặc nước đỏ tía để xoa lên mặt hoặc vẩy lên quần áo, chúc nhau hạnh phúc. Cô gái nào đã có chồng thì chấm một chấm đỏ giữa trán, ghi nhận
  44. mình đã có hạnh phúc (nhưng ngày nay thì bất kỳ cô gái nào cũng có thể chấm đỏ nếu thích). Thanh niên tổ chức nhảy múa, hát ca ngợi Kama và ca ngợi những mối tình chung thuỷ của chàng hoàng tử Rama và công chúa Sita, mối tình của chàng Krisna và Rada. 20
  45. Trong đoàn tuỳ tòng của Kama, còn có các chàng trai thiên thần mục đồng Gandarva. Đó chính là hình ảnh thực của những thanh niên thổ dân ở miền Bắc Ấn Độ nơi có phong cảnh hữu tình, có nhiều rượu ngọt, thích ca hát nhảy múa - họ sống tự do, chuyên đi tìm bạn gái và kết hôn tự do không theo phép tắc của gia đình và xã hội. Lối kết hôn đặc biệt đó gọi là tục Gandarva , về sau nhà nước nô lệ và phong kiến chỉ dành riêng tục kết hôn Gandarva cho vua chúa. Các vũ nữ Apsara: apsara có nghĩa là "lượn trong nước". Hình tượng này giống như nữ thần Nymph trong thần thoại HiLạp, Lamã. Hoặc giống các tiên nữ trong thần thoại Trung Quốc và Việt Nam. Apsara thường sống trong nước, thích bơi lội múa hát, có hình dáng rất đẹp. Các cô thường bị các chàng trai Gandarva trêu ghẹo, thu trộm quần áo khi các cô đang tắm dưới sông hồ. Apsara được coi là thần múa và thần khêu gợi dục tình. Hình ảnh và điệu múa Hoan Lạc của apsara phổ biến rộng khắp vùng Đông Nam Á. Ở Trung Quốc có điệu múa " Nghê thường vũ y khúc" bắt nguồn từ điệu múa Apsara. Có người cho rằng các động tác múa chèo Việt Nam cũng có thể bắt nguồn từ Apsara. Trong hệ thống thần tinh thần, tình cảm, còn có Yama (thần Chết) cũng là một vị thần quan trọng, nhiều quyền lực. 4 - Hệ thống bộ ba thần tối cao Brahma - Visnu - Siva (gọi chung là : Trimuty) 4.1 Thần thoại Brahma Brahma là đấng tối cao của thần thoại Bà La Môn. Có nhiều nguồn gốc khác
  46. nhau đẻ ra thần Brahma. Brahma là thuỷ tổ của văn học - nghệ thuật, kiến trúc hội hoạ ca múa nhạc và ban phát tri thức cho nhân loại. Brahma được miêu tả có 4 cánh tay, tay thứ nhất cầm pho sách Veda, tay thứ hai cầm trượng, tay thứ ba cầm cung, tay thứ tư cầm bình nước. Đó là người có bốn đầu, cưỡi con thiên nga. 4.2. Thần thoại Visnu "Visnu" do từ gốc là "wish" có nghĩa là tràn lan, thâm nhập. Visnu là thần bảo vệ. Ngài có tới 24 hình ảnh và hàng chục kiếp hoá thân khác nhau. Hai hình ảnh thông thường nhất là Visnu nằm nghỉ trên mình con rắn thần Sesa bồng bềnh trên mặt biển Ananta vô biên, hoặc Visnu đứng thẳng, 4 tay nắm gữi 4 vật: vỏ ốc, dĩa tròn, bông sen và cây chuỳ. Thần tích Visnu rất nhiều, đó là những kiếp hoá thân của ngài. Thường kể về 10 kiếp hoá thân : 5 kiếp vật cá, rùa, lợn, sư tử và ngựa, và 5 kiếp người: người lùn, dũng sĩ Parasurama, hoàng tử Rama, anh hùng Krisna và đức Phật Budda. 4.3. Thần thoại Siva Siva có nghĩa là tốt lành. Nhưng tính cách thần lại giống như thần Rudra (Bão táp) Indra (Sấm sét), Marut (Giông tố). Thần Siva vừa ác vừa thiện, có khi gây nỗi lo sợ cho con người, lúc khác đem lại niềm vui. Thần có nhiệm vụ phá huỷ và tiêu diệt vạn vật, sinh linh nhưng sau đó lại hồi phục sự sống và sức khoẻ cho muôn loài. Hình tượng Siva được miêu tả: da trắng, tượng trương cho bản chất tinh khiết, ba con mắt chỉ mặt trời, mặt trăng và ngọn lửa thế gian, có thể nhìn thấu quá khứ, hiện tại và tương lai. Mái tóc rối tượng trưng thần gió, sông Hằng chảy từ mái tóc xuống. Ngài
  47. có 4 cánh tay tượng trưng 4 phương trời, thể hiện chức năng thống trị. Một tay cầm cây chĩa ba thể hiện ba chức năng: sáng tạo, huỷ diệt và bảo vệ. Một tay cầm rìu biểu hiện sức mạnh tuyệt đối, một tay ra hiệu xua đuổi sự sợ hãi và một tay ban phước lành. Thuộc tính triết học của Siva là phá huỷ nên thần được đồng nhất với thần thời gian và thần chết. 21
  48. Một hình tượng khác của Siva cũng khá quen thuộc. Siva đứng một chân theo điệu múa Tandarva (vũ trụ đại hoà điệu). Chân phải đạp trên một người lùn, chân trái nâng cao và chéo sang phải. Siva có 4 cánh tay, tay phải cầm trống, tay trái cầm ngon lửa, tay phải dưới xoè ra và chĩa lên trời biểu thị một ấn quyết, tay trái dưới đưa chéo qua phải và bàn tay chĩa xuống đất. Người ta hiểu hình tượng Siva như sau: Tiếng trống gióng lên, gọi con người trở về với tâm linh, ngon lửa là tri thức diệt trừ u tối, dấu ấn quyết là quyền lực tuyệt đối, chân đè lên người lùn chứng tỏ sức mạnh Siva chế ngự được tội lỗi. Một con rắn quấn quanh mình Siva tượng trưng cho tri thức nội tại. Mái tóc tượng trưng sức mạnh và các thứ trang sức trên tóc là biểu thị các đức tính cao quí. Thần thoại về Siva còn nhiều, chứng tỏ địa vị có ưu thế hơn hẳn trong bộ ba Trimurti. Ba vị thần tối cao được hiểu là ba thuộc tính của một quá trình. Sáng tạo - bảo vệ - huỷ diệt diễn ra như một chu kỳ liên tục. Người ta đã nhất thể hoá 3 vị thần thành một bức tượng một đầu 3 mặt. Hình tượng đó là kết quả của sự hoà hợp các giáo phái và trở thành truyền thống đấu tranh cho sự hoà bình hoà hợp giữa các dân tộc. III- GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA THẦN THOẠI ẤN ĐỘ Tác giả của thần thoại Ấn Độ là các nghệ sỹ dân gian ở các thời đại. Tập sách Rig Veda vừa là bộ kinh Bà La môn, vừa là tác phẩm thần thoại đặc sắc nhất.
  49. Trước hết nó chứa đựng nhiều yếu tố hiện thực như những bức tranh sinh hoạt sinh động và chân thực của người Ấn Độ cổ xưa. Thần thoại phản ánh việc chăn nuôi, săn bắn trồng trọt, khai phá đất đai, chinh phục núi non sông hồ. Thần thoại Ấn Độ sử dụng thành thạo các thủ pháp tượng trưng và phóng đại. Thiên nhiên được đưa vào làm tăng vẻ đẹp và chất trữ tình cho thần thoại. Núi HimAllahya hùng vĩ, sông Hằng trong xanh, những thảo nguyên mênh mông, những đàn súc vật tung tăng với ánh mặt trời, cây cỏ hoa lá đua nhau nở dưới nắng xuân, ánh trăng soi trên hồ nước lung linh có những con thiên nga vỗ cánh, trên bờ suối con nai vàng ngơ ngác Đặc biệt nghệ thuật nhân cách hoá thể hiện khiếu thẩm mỹ và trí tưởng tượng thật đáng khâm phục của người Ấn Độ cổ xưa. Đề tài của thần thoại Ấn Độ rất phong phú , bao gồm đủ mọi chuyện đời. Về hình thức, thần thoại Ấn Độ rất đa dạng. Có thể thấy mần mống sử thi như các truyện kể về thần Indra, hay hình thức kịch như cuộc đối đáp giữa hai anh em Yama và Yani, ngoài ra lại có nhiều đoạn văn xuôi và thơ trữ tình. Bên cạnh những giá trị lớn lao đó, thần thoại Ấn Độ cũng có những hạn chế đáng lưu ý. Đó là tư tưởng tôn giáo và triết lý thần bí chi phối quá mạnh đến thần thoại. Giáo sư Cao Huy Đỉnh trong cuốn "Tìm hiểu thần thoại Ấn Độ " đã nhận xét " . mỹ cảm của người Ấn Độ bị hương khói của tôn giáo che mờ, bị tư biện triết học làm băng giá, bị phù
  50. chú và kinh kệ vùi dập. Chủ nghĩa duy tâm đã dẫn đến nguyên lí mỹ học phản hiện thực : lí tính siêu thực chỉ đạo cảm tính, cá nhân phải đồng hoá với vũ trụ, sự hưởng lạc cảm quan đi liền với chủ nghĩa khổ hạnh. Cuộc đời được miêu tả như trò chơi phù phiếm hay ảo mộng mà thượng đế bày đặt ra để thử thách con người. Thượng đế là chân thực, trần thế là hư vô. Quan niệm về hiện thực như thế là bị đảo lộn". So sánh thần thoại Ấn Độ và thần thoại Hy Lạp- La Mã, chúng ta thấy có một số điều khác biệt sau : 22
  51. Trình độ phát triển tư duy Ấn Độ thể hiện trong thần thoại Ấn Độ có một độ cao nhất định nhưng bị tôn giáo thần thánh hoá. Nội dung và lòng yêu cuộc sống, tinh thần đấu tranh bị bóp méo do đó hạn chế óc duy vật khoa học thực nghiệm, khiếu nhận xét lịch sử và tính năng động của nhân dân Ấn Độ đã manh nha rõ rệt. Ngược lại, thần thoại Hi Lạp có giá trị ở chỗ lý tưởng hoá con người, mô tả những con người đẹp nhất trong những con người. Hình ảnh Promete người đưa lửa cho loài người, dũng sĩ Hercules, anh hùng Achille, Ulyse vẫn là những nhân vật lý tưởng và ước mơ lành mạnh cao quí của con người. Thần thoại Hy Lạp cũng đề cao cái đẹp tự nhiên, hiến cho ta những hình ảnh đẹp, năng lực thẩm mỹ và lòng yêu đời. Ở Hi Lạp, khi tư tưởng triết học cùng thuyết vũ trụ học của các triết gia Ionian (thế kỷ VII trước CN) thì thần linh mất dần ảnh hưởng. Người ta chỉ trích, chế nhạo thần linh cốt để mở đường cho những tìm tòi sáng tạo khoa học. Trong khi đó, ở Ấn Độ thế giới thần linh vãn giữ được uy thế mặc dầu những quan niệm khá duy vật vè vũ trụ như Atman và Brahman trong kinh Upanisad. Điều này chứng tỏ
  52. tính kém năng động, tâm hồn trầm tư, mộ đạo của người Ấn đã kìm hãm sự phát triển của nền văn minh Ấn Độ vốn ban đầu không kém gì nền văn minh Hi Lạp - La Mã . KẾ T LU ẬN Thần thoại Ấn Độ phong phú, chan chứa chất trữ tình và tinh thần nhân đạo sâu sắc - đó là truyền thống bất hủ của văn học nghệ thuật Ấn Độ. Từ giai đoạn anh hùng ca về sau đến thế kỷ XX, các thế hệ văn nghệ sĩ Ấn Độ luôn luôn lấy đề tài thần thoại và mượn nó làm phương tiện miêu tả. Các nhà thơ lớn như Kalidasa ở thế kỷ thứ V, Kabia ở thế kỷ XV-XVI, Tunxidat ở thế kỷ XVI-XVII, R.Tagore (1861-1941) vv đã vận dụng thần thoại để miêu tả và đề cao cuộc sống tình yêu, đất nước giàu đẹp và nhân dân lao động nghèo khổ của mình, sáng tạo ra nhiều tác phẩm văn học xuất sắc. Trái lại, thứ văn học tôn giáo ngày càng mờ nhạt và bị lãng quên trong thế giới huyền bí, hư vô. Thần thoại Ấn Độ cũng có ảnh hưởng đến Việt Nam. Câu chuyện "Dạ thoa
  53. vương" trong cuốn "Lĩnh nam chích quái" chịu ảnh hưởng motif quỉ vương Ravana của thần thoại Ấn Độ.
  54. CHƯƠNG IV - SỬ THI ẤN ĐỘ Sau giai đoạn văn học thần thoại Veda, tiếp đến giai đoạn sử thi-anh hùng ca. Sử thi Ấn Độ ra đời trong chế độ phong kiến quân chủ . Sử thi (cũng gọi anh hùng ca) là bức tranh sinh động phản ánh đời sống và tư tưởng nhân dân Ấn Độ trong một thời đại có nhiều cuộc chiến tranh giữa các vương quốc, chủng tộc trên đất nước Ấn Độ cổ đại. Nó cũng là những bài ca vĩ đại ca ngợi chiến công hiển hách, khí phách hào hùng của những bậc anh hùng được nhân dân đề cao, ngưỡng mộ và lí tưởng hoá. Có hai bản sử thi lớn nhất là Ramayana và Mahabharata khiến thế giới phải kinh ngạc về tấm vóc hoành tráng của nó. Những bản sử thi đó mở ra một thời đại hoàng kim trong văn học Ấn Độ. SỬ THI RAMAYANA ( Kì tích của hoàng tử Ra ma) 1. Vài nét về tác phẩm
  55. Ramayana, thiên anh hùng ca vĩ đại ra đời khoảng bốn, năm trăm năm trước công nguyên, được ghi lại thành văn bản vào đầu công nguyên. Ban đầu, câu chuyện về hoàng tử Rama được lưu truyền rộng rãi trong nhân gian, về sau được nhà thơ Vanmiki ghi chép lại thành văn vần.Từ đó về sau, câu chuyện còn qua tay gọt giũa của nhiều thi sĩ vô danh và lời kể của nhiều nghệ nhân, ngày nay không còn nguyên bản của Vanmiki nữa. Bộ sách bằng tiếng Sanskrit, gồm 500 đoạn chia thành 12 cuốn gồm 24000 câu thơ đôi(sloka) Ở Ấn Độ, Ramayana còn được soạn ra nhiều thứ tiếng dân tộc, cải biên thành tuồng kịch, ca, múa và các hình thức nghệ thuật khác. Dân chúng khắp nơi ai cũng yêu thích. Người Ấn Độ từng nói "chừng nào sông chưa cạn, đá chưa mòn thì Ramayana vẫn còn say mê lòng người và cứu giúp họ ra khỏi vòng tội lỗi". Ramayana đã được phổ biến đến nhiều nước ở Đông Nam Á. Có nước đã mượn cốt truyện để sáng tác ra những truyện mang mầu sắc riêng của dân tộc mình như truyện Rama Kiên ở Thái Lan, Riêmkê ở Cam pu chia, Phallahk Phallahm ở Lào, Ramayana của đân tộc Chăm (Champa/ Chăm) và truyên cổ tích Dạ thoa vương của người Việt. 2. Cốt truyện Ngày xưa ở kinh đô Ayodhya thuộc vương quốc Kosalah, có ông vua già yếu tên là Daxaratha muốn nhường ngôi cho con trưởng là Rama. Sau ông lại nghe lời xúi giục của thứ phi Kaikeia nhường ngôi cho Bharata do mụ sinh ra và đày Rama vào rừng sâu 14 năm trời. Rama đem vợ là nàng Sita và em trai là Laksmana vào rừng dựng lều sống đời ẩn dật, hàng ngày săn bắn, tập tành võ nghệ, tu luyện đạo đức, ăn quả rừng, uống nước suối, sống cuộc đời khổ hạnh. Quỷ vương đảo Lanka là Ravana biết tin có nàng Sita xinh đẹp đang sống trong
  56. rừng, hắn mò đến, lập kế cướp nàng về làm vợ. Ravana giam nàng trong cung điện, ra sức dụ dỗ nhưng không được. Mất nàng Sita, hai anh em Rama quyết tâm đi cứu nàng. Được tướng loài khỉ tên là Hanuman giúp sức, anh em Rama kéo đoàn quân khỉ, gấu, trăn rắn tấn công đảo Lanka. Sau nhiều trận giao chiến ác liệt, Rama cứu được Sita. Vợ chồng hội ngộ vui mừng chưa được lâu thì Rama chẳng thoát khỏi cơn nghi ngờ ghen tuông, tin rằng nàng đã thất tiết với quỉ vương, nên tuyên bố không nhận Sita là vợ nữa, và nàng không thể đăng quang hoàng hậu. Sita uất ức, đau buồn đòi thử thách bằng cách nhảy vào đống lửa tự thiêu, nghĩa là thề trước thần lửa Agni. Thần lửa Agni chứng giám lòng chung thuỷ của Sita nên đã cứu sống nàng. Thấy vậy, Rama hối hận, sung sướng dang tay đón nàng cùng trở về kinh đô, vừa đúng lúc chấm dứt thời hạn lưu đày 14 năm. Rama lên ngôi, Sita là hoàng hậu. Bỗng nghe dư luận dân chúng chỉ trích Rama đã dung túng cho Sita người đàn bà đã chung chạ với quỉ sứ. Rama lại nổi cơn ghen tức bèn đuổi Sita vào rừng khi nàng đang thai nghén. Vua khỉ Hanuman cũng bỏ đi theo Sita để bảo vệ chăm sóc nàng . Mười năm sau, trong dịp hội lớn ở đô thành Ayodhya, có hai đứa bé tên là Kusa và Lava đi hát rong, bài hát kể về kì tích của Rama, lòng chung thuỷ và nổi đau khổ của nàng Sita, khiến cho mọi người bùi ngùi, xúc động. Rama nghe tin, cho gọi hai đứa bé vào cung, hỏi chuyện và nhận ra 2 đứa con mình do Sita sinh ra ở chốn rừng sâu. Chàng vô cùng buồn bã hối hận, đi vào rừng tìm gặp Sita và ngỏ lời đón về . Nhưng nàng Sita cương quyết từ chối. Nàng thề rằng hai người chỉ gặp nhau khi một kẻ nằm xuống vĩnh viễn . Vua Rama quay trở lại kinh đô và bày kế giả chết . Tin dữ lan vào rừng sâu . Ba mẹ con Sita trở về kinh đô thọ tang vua . Khi nàng quì khóc , vua Rama xuất hiện xin lỗi nàng và mời nàng trở lẹi ngôi hoàng hậu . Nàng cầu xin mẹ là nữ Thần Đất mở rộng lòng đất đón nàng trở về nơi đã sinh ra nàng. Rama đau khổ, van nài thần linh. Thần Brahma xuất hiện, an ủi và cho biết chàng sẽ được tái hợp Sita trong kiếp sau ở cõi trời. Sau đó, Rama nhường ngôi vua cho hai con và trở về cõi
  57. trời, trở lại bản thân nguyên thuỷ là Visnu-thần Bảo vệ. 3. Phân tích một số hình tượng nhân vật 3.1. Hình tượng Rama Theo thần thoại , Rama là hoá thân thứ 7 của thần Visnu. Visnu giáng thế làm người để cứu nhân loại khỏi cảnh chiến tranh loạn lạc. Rama, mẫu người lý tưởng của đạo Hindu và đẳng cấp vương công quí tộc, đồng thời thể hiện khát vọng của nhân dân về một vị minh quân, một anh hùng tài trí dũng cảm và đạo đức ,bảo vệ hạnh phúc cho nhân dân, giữ gìn công bằng xã hội. Trước hết, Rama là người biết trọng danh dự, giữ bổn phận người con, người chồng và ngôi vua. Rama biết mình được quyền kế ngôi cha, nhưng vì cha đã hứa hẹn với thứ phi Kaikeia đày mình vào rừng sâu để nhường ngôi báu cho Bharata, chàng không cưỡng lại lệnh cha, vui vẻ đi vào rừng. Rama là người yêu vợ, quí trọng lòng chung thuỷ, đã từng hối hận về sự ghen tuông của mình, nhưng vì danh dự một đức vua, chàng buộc lòng phải đuổi Sita vào rừng. Lời hứa của cha là danh dự, danh dự của cha là của mình và dòng họ. Tuyệt đối phục tùng ý nguyện của cha là bổn phận. Đó là đạo đức của đẳng cấp quí tộc và của xã hội đương thời. Rama có sức mạnh phi thường, có võ nghệ cao cường và lòng quả cảm. Chàng đã vượt qua bao gian nan và thử thách, chiến đấu với loài quỉ dữ để bảo vệ tình yêu và hạnh phúc, đem lại công lý và hoà bình. chàng dũng sĩ Ksatrya đó đã đánh bại thần Biển và thần Núi trên đường tiến đánh đảo Lanka. Chàng giết chết con quỉ khổng lồ Valin, con trâu thần Đunđubhi. Với tinh thần nghĩa hiệp, chàng chiến đấu giành lại ngôi vua cho vua khỉ Sugriva bị Valin cướp. Trong bất cứ hoàn cảnh nào chàng cũng thể hiện khí phách một dũng sĩ. Chàng có đủ sức mạnh sử dụng cây cung thần do Brahma cấp," chiếc cung thu hồi
  58. gió vào đôi cánh, sức nóng mặt trời vào đầu mũi tên, sức nặng của núi vào thân cung " để xuyên thủng ngực quỉ vương Ravana. Đạo đức của Rama là khuôn vàng thước ngọc của người Ấn cổ xưa, trước hết là của đẳng cấp Ksatrya. Tín đồ đạo Hindu ( trước đó là Bà la môn ) phải đạt được 4 nhiệm vụ sau đây mới coi là hoàn thiện được cuộc đời : Thực hiện đạo lí Darma (quản lí gia sản) Artha (đất đai) Kama (thực hiện tình nghĩa vợ chồng, gia đình) và Moksa (tu luyện siêu thoát). Hình tượng Rama mặc dầu còn hạn chế về quan niệm đạo đức của đẳng cấp (danh dự dòng họ cao hơn tình vợ chồng ) nhưng có thể nói toàn bộ ý chí, tình cảm, tài năng và sức mạnh chiến thắng của quần chúng đã được khái quát thành biểu tượng người anh hùng này. Đó là con người luôn luôn bênh vực điều thiện chống cái ác, cứu người hiền đặc biệt là phụ nữ. Đó là sản phẩm tuyệt vời của trí tưởng tượng và ước mơ cao đẹp của người Ấn cổ xưa. 25
  59. 3.2 Hình tượng Sita Nàng là người phụ nữ Ấn Độ cổ đại mẫu mực, người vợ chung thuỷ tiết hạnh, người con gái hiền từ nhu mì nhân hậu. Nàng cao cả vì đã hiến dâng một tình yêu quên mình, bất chấp mọi gian khổ, bất chấp cả tính mạng. Sita xuất thân thần thánh - con của thần Đất, nhưng lại được miêu tả như người phụ nữ bình thường. Sita yêu say đắm Rama người dũng sĩ có tài năng hơn người, có sức khoẻ phi thường bẻ gãy chiếc cung thần, điều kiện cầu hôn không có chàng trai nào thực hiện được. Sita rơi vào tay con quỉ dâm dục tàn bạo Ravana. Hắn dùng mọi thủ đoạn dụ dỗ, quyến rũ và đe doạ, nhưng nàng vẫn kiên trinh, bất khuất giữ lòng chung thuỷ, lại còn chống trả quyết liệt. Trước lời lẽ ngon ngọt của quỉ sứ Ravana, nàng " chỉ ngồi bó gối che thân và hoàn toàn cự tuyệt ". Nàng còn nguyền rủa kẻ thù và hết lời ca ngợi Rama chồng nàng. " Ta là vợ của một người có đạo đức, không thể để cho loài quỉ sứ độc ác như mày làm hại ta được Ta không siêu lòng khi mày đưa ngọc ngà châu báu, uy quyền quyến rũ ta đâu. Ta chỉ thuộc về một người, người đó là Rama, như ánh sáng thuộc về mặt trời. Ta xứng đáng là vợ của vị chúa tể thế gian như tri thức của người hiền triết. Hãy hàng phục Rama đi, vì chàng là sư tử của loài người”. Khi bị Rama nghi ngờ, nàng kêu khóc thảm thiết. Nàng tự minh oan cho mình: "Nếu như mối tình đằm thắm của đôi ta, mối duyên bền chặt của đôi ta không đủ để cho chàng hiểu thiếp thì chàng ơi, vì tính đa nghi của chàng, thiếp đành chịu chết thôi !". Nàng nói với Rama như vậy rồi thản nhiên bước vào đống lửa không chút sợ hãi. Thần lửa Agni hiểu tấm lòng trong trắng và trái tim chung thuỷ của nàng, chẳng những không thiêu cháy mà còn làm cho nàng đẹp hơn trước: "nàng như mặt trời mới mọc ban mai, đỏ rọi toàn thân, rực rỡ ngọc vàng, nét mặt ngây thơ hiền hậu trong sáng, mái tóc đen nhánh và vòng hoa ở cổ trắngømuốt , tươi mơn mởn" . Hình ảnh Sita như một bông hoa rực rỡ điểm tô cho thiên tình sử thêm đẹp đẽ, hương sắc bông hoa đó vẫn tươi đẹp mãi đến ngày nay.
  60. 3.3 Hình tượng Hanuman Hanuman là con khỉ khổng lồ, con trai của thần gió Vayu là một hình tượng đáng yêu đáng quí. Đối lập với lũ quỷ Ravama và những thế lực tàn bạo đáng ghét. Hanuman đóng vai trò quyết định trong mọi chiến công của Rama và về sau là người đầy nhiệt tình bảo vệ mối tình chung thuỷ Sita - Rama. Hanuman có sức khoẻ phi thường có phép thần thông biến hoá, nhanh nhẹn và mưu trí khôn lường (so với nhân vật Tôn Ngộ Không trong tác phẩm Tây du ký đời Minh Thanh Trung Quốc, chúng ta có thể tin rằng người Trung Hoa đã chịu ảnh hưởng hình tượng Hanuman khi sáng tạo nhân vật Tề thiên đại thánh). Hanuman nhảy một bước vượt qua biển, đặt chân lên hòn đảo Lanka để đi tìm Sita. Thần rắn biển dùng phép bắt bóng kéo Hanuman xuống để nuốt sống, Hanuman dùng phép thu mình chui lọt vào bụng rắn thần xé nát ruột kẻ thù. Rama bị thương nặng, Hanuman bay thẳng về núi Himallaya tìm cây thuốc. Các cây thuốc dấu mình trong đất đá, chàng nổi giận nhổ cả một đám núi cõng lên lưng bay về, lấy thuốc chữa vết thương cho Rama. Hanuman đã đóng góp biết bao nhiêu chiến tích vào thắng lợi của Rama trên đảo Lanka. Có thể nói Hanuman chính là hoá thân của lực lượng quần chúng nhân dân làm
  61. hậu thuẫn cho những vịanh hùng chiến đấu cho tự do và công lí, giải phóng và bảo vệ đất nước. Đó là chân lí: không có vị anh hùng nào thành công nếu thiếu sự giúp đỡ của quần chúng nhân dân. 4. Nghệ thuật Bàn về nghệ thuật sử thi Ramayama, nhiều nhà Ấn Độ học trên thế giới đánh giá rất cao. Will Durant một tác giả Mỹ nổi tiếng thế giới, chuyên nghiên cứu văn hoá phương đông, đã viết về Ramayama như sau :"Tác phẩm không chỉ nói đến kì tích mà còn là toà lâu đài đầy những nhân vật lí tưởng, soi sáng tâm hồn và hành động nó còn là một tác phẩm ghi lại các truyền thống triết học, tôn giáo và đạo đức của dân tộc Ấn Độ. Người Ấn Độ coi trọng nó như người theo đạo thiên chúa với cuốn sách " Đời các vị thánh " vậy. Ngoài việc thưởng thức một cách thú vị về văn chương, họ xem đó là một thánh kinh, đọc xong họ tin rằng sẽ được thánh thần phù hộ và chuộc được mọi tội lỗi". Giá trị đó làm cho Ramayana sống mãi trong lòng người đọc từ đời này qua đời khác. Sự gợi cảm không chỉ ở thiên tình sử éo le Rama - Sita mà còn do tài nghệ miêu tả và kể chuyện của nghệ sỹ dân gian. Yếu tố tưởng tượng kỳ ảo giữ vai trò quan trọng. Yếu tố thần kỳ được kết hợp một cách độc đáo với miêu tả hiện thực khách quan của thời đại. Những nét hoang đường siêu nhiên kết hợp sinh động với tính cách người trần thế. Những nhân vật, loài vật Hanuman, quỉ Ravana được miêu tả chân thực như tính người rất sinh động. Những nhân vật đáng yêu đáng kính ấy là những con người có đầy đủ nhân tính, biết đau đớn, nhớ thương, căm giận, hối hận và yêu thương, độ lượng. Những đoạn văn miêu tả thần tình nhiều cảnh ngộ oái oăm, những tâm trạng khổ đau, dằn vặt suy tư của nhân vật khi cần đấu tranh khắc phục khó khăn. Romesh Dutt nhà nghiên cứu văn học Ấn Độ nhận xét "ngay cả đến Shakespeare cũng không thể diễn tả được sự thôi thúc của những tâm tình cuồng nhiệt trong lòng người một cách sống động chân thực và mạnh mẽ ghê gớm như đã thấy trong Ramayana".
  62. Tác phẩm còn vẽ lên cảnh chiến trường ác liệt, cung tên rào rào, đô thành bốc cháy, đất đá tung toé, người và quỉ thần quần đảo nhau bằng nhiều phép thuật thần kỳ gây hứng thú cho người đọc. Những đặc điểm nghệ thuật trên tạo ra tính chất bi hùng trong tác phẩm, nâng cao giá trị thẩm mỹ của sử thi. Ramayana đã thật sự mở ra một thời đại mới rực rỡ trong văn học Ấn Độ. SỬ THI MAHABHARATA (Truyện kể về cuộc chiến tranh giữa các dân tộc Baharata vĩ đại) 1 . Vài nét về tác phẩm Cũng như Ramayana và các tác phẩm khác ở thời kỳ cổ đại, MaHabharata cũng khó xác định thời gian ra đời. Dự đoán câu truyên được lưu truyền trươc CN, về sau được nhiều người ghi chép, bổ sung, chỉnh biên cho đến thế kỷ V mới chấm dứt. Theo truyền thuyết, người sưu tập đầu tiên bản sử thi này là đạo sĩ Krisna Domopayana Vyasa (Vyasa có nghĩa là sưu tập). Nguyên bản lúc đầu lên đến hàng trăm vạn câu thơ. Đến nay còn lưu truyền bản 110.000 câu thơ đôi (Sloka) gồm 22 vạn dòng, dài gấp 7 lần hai anh hùng ca Iliad và Odysse của Hi Lạp. Ở Ấn Độ, công việc nghiên cứu và dịch thuật tác phẩm này vẫn đang tiếp tục. Nói về giá trị của pho sử thi này, ở Ấn Độ có câu ngạn ngữ " Cái gì không có trong Mahabharata thì cũng không có ở bất cứ nơi nào trên đất nước Ấn Độ".
  63. Mahabharata có ảnh hưởng sâu rộng trên thế giới , đặc biệt ở Đông Nam Á. Khoảng thế kỉ thứ VII đến thứ VIII , ở Inđonêsia xuất hiện nhiều truyện được phóng tác từ cốt truyện Mahabharata bằng tiếng Java cổ như "Trận đánh vĩ đại của con cháu Bharata", "Đám cưới của Acgiuna “ . Ở Cam pu chia, Mahabharata còn xuất hiện sớm hơn, vào thời kì văn học Angko, nhiều cảnh trong Mahabharata được khắc phù điêu trên mặt đền Angko và các đền đài khác ở Phnompênh. Gần đây, ở Pháp công diễn vở kịch Mahabharata do hai nhà soạn kịch nổi tiếng Peter Brook người Anh và Jean Claude Carriere người Pháp soạn ra , được công chúng tán thưởng nhiệt liệt. 2 . Cốt truyện Bharata là ông vua của triều đại mặt trăng, sinh hai người con trai chia thành hai chi nhánh Curu và Pandu. Pandu sinh 5 người con trai gọi là anh em Pandava (Yudhitira, Bhima, Arjuna, Nakula, Sahadeva). Còn người anh là Dritaratra bị mù loà, sinh 100 con trai gọi là anh em Korava, anh trai trưởng là Duriodana. Sau khi Pandu qua đời, Dritaratra đem năm người con của em trai về nuôi chung với đàn con của mình. 5 anh em Pandava trưởng thành rất nhanh chóng nổi tiếng là những người có tài năng và đức độ. Điều đó làm cho anh em Korava ghen tị, lập mưu hãm hại từng người trong nhóm 5 anh em. Dritaratra đưa 5 anh em Pandava đến lâu đài bằng sáp và những thứ dễ cháy. Anh em Korava định đốt cháy lâu đài và giết hết 5 anh em. Nhưng nhờ có người báo tin, anh em Pandava đã dẫn mẹ là bà Kunti trốn vào rừng, cải trang thành những đạo sĩ Bà la môn sống lang thang ẩn đật. Một năm sau, vua Đropada xứ Panchallah mở hội kén phò mã cho công chúa Đropadi. Anh em Pandava kéo đến đua tài. Trong cuộc thi đấu với hoàng tử các nơi, Acgiuna người em thứ ba đã giành chiến thắng. Nhà vua làm lễ cưới cho hai người. Năm anh em đưa nàng Đropadi về chào mẹ thì nghe lời nguyền của mẹ, nên Đropadi trở thành vợ chung của 5 anh em, điều đó cũng phù hợp lời thề cùng chia ngọt xẻ bùi. Trong một buổi lễ, người ta chứng nhận 5 anh em chính là một cơ thể của một vị thần linh. Vì vậy cuộc hôn nhân là hợp lệ.
  64. Anh em Korava biết tin 5 anh em Pandava còn sống và trở thành đồng minh của một nước láng giềng hùng mạnh. Theo lời khuyên của trưởng lão Bhisma, Dritaratra cho đi mời anh em Pandava trở về vương quốc và chia cho họ một nửa đất đai. Yudhi là anh cả được làm vua xứ Indaprasa bên cạnh vương quốc Hastinapura của anh em Korava . Mặc đầu lãnh thổ của anh em Pandava xấu hơn nhưng nhờ tài năng cai trị mà vương quốc của họ trở thành thịnh vượng giầu có. Bọn anh em Korava lại sinh lòng đố kị và tìm cách chiếm đoạt. Yuhi vốn là người coi trọng danh dự và say mê cờ bạc cho nên bị Đuriodana (Đurio- anh cả của trăm anh em Korava) rủ rê vào trò cờ bạc. Đurio nhờ một tay cờ bạc có ma thuật đánh cho Yuhi thua bạc liên tục phải đem gán cả vương quốc cho Đurio như giao kèo. Anh em Pandava lại kéo nhau đi ẩn trong rừng sâu suốt 13 năm trời theo qui định sau khi thua bạc. Hết hạn họ trở về vương quốc nhưng anh em Đurio trở mặt không trả lãnh thổ cho 5 anh em. Thậm chí Yuhi chỉ xin một làng nhỏ để cư trú và sinh sống cũng vẫn bị Đurio cự tuyệt. Năm anh em Pandava không thể nhẫn nhục hơn nữa, buộc phải cầu viện các tiểu vương quốc khác kéo quân tiến đánh anh em Korava. Cuộc chiến tranh giữa hai phe trong dòng họ Bharata lôi cuốn nhiều nước tham chiến với hàng triệu người với hàng vạn xe ngựa cung kiếm. 28
  65. Chiến trường Kurusetra mịt mù khói lửa trong vòng 18 ngày, hàng triệu xác chết chất thành núi, máu chảy thành sông. Trận chiến kết thúc chỉ còn 11 người sống sót. Anh em Pandava tuy chiến thắng vẻ vang nhưng vô cùng đau xót vì đã phải chém giết tất cả những người ruột thịt. Sau khi làm lễ giết ngựa tế thần để tỏ lòng xám hối, Yuhi lên ngôi vua trị vì 36 năm liền. Câu chuyện kết thúc bằng cuộc hành hương của năm anh em Pandava và nàng Đropadi lên đỉnh núi Meru cao chót vót của Himallaya - nơi đó là cõi trời. Dọc đường đi xa xôi hiểm trở, nàng Đropadi và bốn người anh em Yuhi lần lượt bỏ xác ở trần gian, chỉ còn Yuhi và con chó mà chàng bắt gặp dọc đường lên tới được đỉnh núi Meru. Bấy giờ, thần Indra ra tiếp đón nhưng không chịu cho con chó vào cõi trời. Yuhi quyết định xin ở ngoài cõi trời với con chó trung thành của mình. Lúc ấy con chó hoá trở thành thần Darma và cho biết đây là hành động thử thách đạo đức Yudhi. Thế là Yudhi bước vào cõi trời. Đầu tiên chàng gặp toàn những kẽ thù cũ, sau đó được đưa đến hoả ngục gặp các em và bạn bè của chàng. Yudhi xin các thần :" Tôi xin ở lại chốn này vì những người thân của tôi ở đâu thì nơi đó là thiên đường của tôi ". Nhưng đó vẫn là thử thách cuối cùng –thử thách lòng trung thành. Kết quả cả năm anh em Pandava và vợ con điều được vào chốn vĩnh hằng bất diệt . 3 . Gía trị nội dung và nghệ thuật Chủ đề của tác phẩm vĩ đại này là cuộc chiến tranh lớn giữa dòng họ Bharata để dành giật đất đai bờ cõi. Nhưng bao quanh chủ đề còn có nhiều nội dung và tư tưởng rộng lớn và sâu sắc. Bộ sử thi đã đề cao lí tưởng và đạo đức của thời đại. Lí tưởng và đạo đức đã đúc kết trong tập giáo lí Bhaganat Gita gần 19 chương, 700 câu là một bộ phận sử thi MahaBaharata. Chiến thắng của anh em Pandava được coi như là chiến thắng của đạo đức và công lý. Hành động của họ đã hoàn thiện được bổn phận và danh dự là nội dung của Darma.
  66. Ở đây chúng ta không đi sâu vào phân tích mặt triết lí Darma của tác phẩm mà chỉ bàn về ý nghĩa lịch sử của nó. Chiến tranh xãy ra trong vòng 18 ngày làm cho hàng triệu người chết là biểu hiện của sự suy tàn của chế độ huyết thống trong công xã đồng thời là dấu hiệu sự phát triển và hưng thịnh của quốc gia nô lệ. Lúc đầu anh em Korava và Pandava sống chung bình đẳng trong vương quốc Hastinapura của mình nhưng về sau do xung đột về quyền lợi đất đai và nô lệ mà anh em Pandava tách ra thành lập vương quốc mới Indraprasa riêng. Đó là biểu hiện sự phân hoá ra nhiều vương quốc nhỏ. Chế độ dân chủ bộ lạc đã mất hiệu lực, nhường chổ cho chế độ dân chủ quân sự. Vương quốc nào cũng muốn hùng mạnh và phồn vinh, từ đó đẻ ra xung đột và thường giải quyết xung đột bằng chiến tranh để thống nhất và mở rộng quốc gia. Anh em Pandava chiến thắng trở lại thống trị cả hai vương quốc là biểu hiện xu thế ấy. Sự thắng lợi của anh em Pandava thuộc đẳng cấp võ sĩ Ksatrya cũng nói lên một điều là sự thống trị xã hội đương thời đã không còn phụ thuộc vào đẳng cấp Brahman nữa. Anh em korava và pandava xâu xé nhau về quyền lợi thông qua chiến tranh chứng tỏ sự tan rã của các phương thức sản xuất dựa trên cơ sở huyết thống. Qui mô của chiến tranh trong sử thi Mahabharata phá vỡ dần nền văn minh nô lệ, kéo xã hội Ấn Độ chậm lại. Chiến tranh tàn khốc trút lên đầu nhân dân nô lệ, "tiếng khÓC
  67. của phụ nữ hoà vào tiếng kêu la inh ỏi của coôn trùng trên cánh đồng Kurusetra" ở cuối tác phẩm đã nói lên điều đó. Trong bối cảnh xã hội đầy rẫy những mâu thuẩn, tội ác xuất hiện ngày càng nhiều. Qua những cuộc chiến tranh giành quyền lợi, thân phận con người lao động ngày bị giày xéo , một " tinh thần Ấn Độ " nổi lên, đó là tinh thần nhân văn chủ nghĩa, vốn đã nảy nở từ trong những sáng tác dân gian có trước đó ở khắp miền đất nước được thu hút và tập trung vào thiên anh hùng ca này. Duy trì và thể hiện tinh thần nhân văn chính là nội dung lẽ sống Darma của tôn giáo. Có nghĩa là sống thiện, hoà hợp, bình đẳng và bác ái chính là lí tưởng của bộ sử thi. Khi quốc gia nô lệ hình thành thì tư tưởng tư hữu (Danda) của phong kiến cũng xuất hiện. Tư tưởng Danda tôn trọng quyền tư hữu, chế độ phụ quyền và dùng sức mạnh quân sự, chính trị của giai cấp Ksatrya và Brahman làm công cụ đàn áp xã hội. Trước đó, mỗi khi giải quyết những mối bất hoà, xung đột về quyền lợi, quần chúng làm trọng tài phán xử còn bây giờ kẻ thống trị nắm quyền quyết định. Mahabharata đã phản ánh mâu thuẫn đó một bên giai cấp thống trị muốn xây dựng hệ thống tư tưởng Danda để bảo vệ quyền lợi của họ. Một bên quần chúng nhân dân lại muốn duy trì truyền thống Darma. Cuối cùng, những người thống trị buộc phải tuyên bố "Thiên hạ và cuộc đời tiếp tục theo tinh thần Darma". Hình ảnh anh em Yudhi từ bỏ ngôi báu sau ba mươi sáu năn trời để cùng nhau hành hương lên cõi trời tìm chốn vĩnh hằng, để sám hối đã nói lên sự thắng thế của tinh thần Đarma-khát vọng của nhân dân đương thời. Lý tưởng và đạo đức Mahabharata được thể hiện qua hành động và tính cách của năm anh em Pandava và một số nhân vật khác như: Dropadi, Kunti, Krisna, Bhima, Mỗi nhân vật có một tính cách, một đời sống tinh thần riêng chứ không mang tính ước lệ theo khuôn mẫu truyện dân gian - đó là đặc sắc nghệ thuật xây dựng nhân vật của sử thi.
  68. Yudhi đức độ, sáng suốt bình tĩnh. Acgiuna dũng cảm kiên hùng, Bhima xông xáo sôi nổi quyết giữ trọn lời thề cho đến chết; Kacna hùng dũng và kiêu căng; Krisna tài trí siêu việt; Drita tuy mù loà nhưng vẫn oai nghiêm trong cốt cách ông vua gian hùng, xảo quyệt mỗi nhân vật đều để lại ấn tượng khó quên trong lòng người đọc . Romesh Dutt -nhà nghiên cứu văn học Ấn Độ nhận xét "Trừ tác phẩm Iliad ra, không có tác phẩm nào mà nghệ thuật miêu tả nhân vật lại phong phú và chân thực như Mahabharata. Nhân vật không đau khổ dằn vặt như nhân vật của Dante, không say mê cực độ như nhân vật của Shakespeare, trái lại các nhân vật đều phản ánh tính cách uy nghiêm, trầm lặng của sức mạnh tinh thần, giống như những hình tượng bất hủ bằng cẩm thạch từ thời xưa để lại mà các nghệ sĩ điêu khắc ngày nay không tài nào mô phỏng được". Đọc "Mahabharata", người đọc bị lôi cuốn vào quang cảnh chiến tranh tràn ngập hào khí và sôi động. Người đọc say mê, hồi hộp theo dõi những trận giao tranh ác liệt hoặc những âm mưu gián điệp, tâm lý chiến, địch vận xảy ra suốt mười tám ngày liền. Cảm xúc càng tăng lên khi cuộc chiến tiến dần đến ngày kết thúc,khi các tướng lĩnh dũng mãnh nhất lần lượt ngã gục ở chiến trường. Một nhà Ấn Độ học phương Tây nhận xét:" Trong văn học thế giới có lẽ khó tìm thấy những đoạn văn mô tả cảnh chiến tranh đặc sắc như vậy ". Cuộc đua tài đọ sức khá sôi nổi giữa các dũng sĩ khắp bốn phương đến cầu hôn Đropadi, cuộc đụng độ nảy lửa giữa hai dũng sĩ Acgiuna và Kacna được ví như cuộc giao chiến Achin va Herto trong thần thoại và sử thi Hi-lạp, tình cảm và thái độ phản 30
  69. kháng mãnh liệt của nàng Đropadi khi nàng bị anh em Korava định chiếm đoạt sau ván cờ bất hạnh của Yuhi khiến cho cả thần linh cũng phải xúc động và ra tay can thiệp. Đó là những đoạn văn có sức truyền cảm mạnh đối với người đọc. Mahabharata được coi là cuốn bách khoa toàn thư về đời sống văn hoá, chính trị và xã hội Biruni nhà Ấn Độ học người Ả-rập đã viết trong cuốn " Ấn Độ " xuất bản năm 1930 như sau: "Người Ấn Độ có cuốn sách mà mình tôn kính đến mức khẳng định dứt khoát, rằng tất cả những gì có trong sách khác thì chắc chắn không có trong sách này. Tất cả những gì có trong sách này thì không có trong sách khác. Người ta gọi đó là Mahabharata". Do nội dung phong phú bao gồm nhiều hình thức thần thoại, cổ tích, trường ca, bài ca giáo huấn, ngụ ngôn, kinh kệ, triết lý, nghệ thuật khác , tác phẩm này có lối kết cấu khác biệt hẳn những bản anh hùng ca khác. Nhược điểm của Maha là kết cấu phức tạp quá mức, có nhiều đoạn trùng lặp, mâu thuẫn và có những đoạn không liên quan đến nội dung tác phẩm. Tuy vậy, Mahabharata vẫn là tác phẩm mẫu mực về qui tắc anh hùng ca / sử thi của nhân loại.
  70. CHƯƠNG V – TRUYỆN CỔ TÍCH DÂN GIAN ẤN ĐỘ
  71. 1. Khái quát Nói Ấn Độ là kho tàng cổ tích giàu nhất trên thế giới điều đó rất đúng. Kho tàng đó, từ thế hệ này đến thế hệ khác khai thác không bao giờ hết. Đó là thành quả tuyệt diệu của sự thông minh, đầy mưu trí, giàu óc tưởng tượng của nhân dân Ấn Độ. Ngay từ trước công nguyên cho đến về sau trải qua hàng thế kỷ, truyện kể Ấn Độ đã được ghi chép, được biên soạn lại thành nhiều hợp tuyển bằng nhiều thứ ngôn ngữ khác nhau rất có giá trị và được lưu hành khắp đất nước Ấn Độ và trên thế giới, đặc biệt ở Đông Nam Á và Trung - cận Đông. Cũng vì sự giàu có và được lưu hành rộng rãi như vậy mà có nhiều nhà học giả nghiên cứu về văn học dân gian trên thế giới cho rằng một số truyện dân gian được lưu hành trên thế giới có những môtíp giống nhau đều bắt nguồn từ Ấn Độ. Điều này đã gây ra những cuộc tranh luận sôi nổi và đầy lý thú trong lĩnh vực nghiên cứu folklore học. Do qua tay nhiều người sao chép, biên soạn ở nhiều thời đại khác nhau mà làm cho truyện cổ Ấn Độ mang những đặc điểm sau đây: Trong một số truyện có thay đổi ít nhiều cốt truyện, đôi khi hai ba truyện gộp lại thành một truyện, có khi một truyện được phân ra thành hai ba truyện riêng biệt. Ngay trong một số hợp tuyển người biên soạn cũng như người phiên dịch ra các tiếng dân tộc khác nhau, nhiều lúc cũng tự ý thêm bớt đôi chỗ làm cho truyện hoàn chỉnh thêm nhưng lại mất đi tính chất nguyên thuỷ của nó. Có những cốt truyện bị thay đổi thành nhiều dị bản, lại có truyện xen kẽ truyền thuyết, thần thoại, lại có truyện mang dáng dấp truyện ngắn hiện đại, v.v. Mặc dù trải qua nhiều sự biến đổi về nội dung và hình thức, mặc dầu khoác tấm áo khác nhau của nhiều thời đại, nhưng truyện cổ Ấn Độ căn bản vẫn giữ được cái vẻ trẻ
  72. trung, hồn nhiên, chân thực, hóm hỉnh, đầy tính lạc quan của nó. 2. Nội dung và ý nghĩa truyện cổ tích Nhìn vào kho tàng truyện cổ Ấn Độ chúng ta thấy nhân vật của truyện khá phong phú. Mỗi loại nhân vật đều đại biểu cho mỗi giai cấp trong xã hội Ấn Độ. Đó là các vị vương hầu công tước, các tu sĩ Ba-la-môn, các vị quan toà, các quan hành chính, thầy cò, thầy kiện, các hiền triết, các ẩn sĩ, người đi buôn, kẻ ăn mày, người thợ cày, người thợ thủ công, v.v. Bên cạnh lại có cả một thế giới súc vật được xây dựng theo sự tưởng tượng của con người, dùng làm tượng trưng, ám chỉ, ngụ ý, ẩn dụ, v.v. Những con vật đó đều giữ đúng đặc tính của nó, ví như rắn độc ác, lừa ngu dốt, cáo ranh mãnh. Xây dựng những nhân vật đó các tác giả dân gian muốn phê phán thói hư tật xấu của con người và sự bất công trong xã hội. Truyện cổ tích Ấn Độ cũng giống như các truyện cổ của các dân tộc khác đều phản ảnh hiện thực cuộc sống xã hội. Thói hư tật xấu của con người bao giờ cũng bị đả kích, bị trừng phạt, lòng tốt bao giờ cũng được phát huy và ca ngợi. Thiện bao giờ cũng thắng ác, chính nghĩa bao giờ cũng thắng hung tàn và bạo ngược. Các truyện đều ngụ ý giáo dục và khuyên răn người đời. Kẻ mạnh bao giờ cũng chiến thắng kẻ yếu, nhưng không hẳn như vậy nếu kẻ yếu biết dùng mưu trí, biết đoàn kết tương trợ với nhau thì nhất định chiến thắng được kẻ mạnh. Chẳng hạn trong truyện “ Đoàn kết thì sống” miêu tả lũ nhái, ong vò vẽ và chim đã đoàn kết đánh chết được voi.
  73. Qua truyện “Nhà vua biết giá mình như thế nào”, chúng ta sẽ hiểu rằng giá nhà vua không đáng một trinh, hoặc trong truyện “Nhà vua với quan đại thần” thì những người tuỳ tùng đối với vua tốt hơn là vua đối lại với họ. Trong truyện “Nhà vua với tên cướp” tên cướp đã ví mình như nhà vua, nhưng tội của y còn nhẹ hơn tội của nhà vua vì nhà vua đi cướp đất đai của thiên hạ. Nhiều truyện đã giễu cợt bọn tu sĩ. Trong thực tế tu sĩ Ấn Độ không phải đều là những kẻ tu hành chân chính, ngược lại có một số khoác áo thầy tu để lừa phỉnh, dụ dỗ dân lành để trục lợi và làm những điều xằng bậy. Có truyện châm biếm tu sĩ lừa đảo kẻ khác để cướp vợ, có tu sĩ lòng tham vô đáy. Truyện “Tu sĩ và bốn tên lưu manh” đã giễu cợt sự cuồng tin và ngu ngốc của bọn tu sĩ. Truyện “Đôi chim sẻ với tu sĩ” có kèm theo một đoạn nhận xét, bình luận sâu sắc vạch trần sự ti tiện, nhỏ nhen của giới tu sĩ. Truyện “Con mèo ngoan đạo”, dưới hình thức loài vật đã chỉ trích ra bản chất “khẩu phật tâm xà” của giới tu sĩ. Đối với các vị quan toà, quan hành chính, những kẻ cầm cân nảy mực, điều khiển công lý trong xã hội bị lên án, bị vạch mặt là những kẻ tham lam, bóc lột rất thậm tệ. Có tên quan toà lợi dụng quyền hành của mình lập mưu cướp đoạt người đàn bà đẹp có tên ăn hối lộ căn cứ vào lời khai dối trá của tên lái buôn để kết tội người thợ cạo như trong truyện “Gã lái buôn với người thợ cạo”. Truyện “Lão ăn mày và đàn chuột” đã vạch trần bản chất lừa đảo, hống hách, đểu trá của những tên thủ quỹ, những tên xã trưởng ở nông thôn Ấn Độ. Một đối tượng khác thường được tác giả những truyện cổ tích tập trung đả kích là bọn phú thương, bọn lái buôn gian xảo, lắm mánh khoé trục lợi, lừa mua rẻ bán đắt, như trong truyện “ Gã lái buôn với người bạn của y”, truyện “Nhà hiền triết, nhà vua và người bán hương trầm”. Nhân dân lao động, những người cùng đinh thường đóng vai trò quan trọng trong truyện cổ tích Ấn Độ. Trước hết truyện thường tập trung ca ngợi, đề cao nghèo khổ nhưng không hề chịu khuất phục, không hề luồn cúi, họ căm phẫn, và phản kháng những kẻ chuyên ức hiếp và áp bức họ.
  74. Truyện “Ngựa và trâu” đã nói lên chân lý: “Ai có lao động đều mang lại lợi ích cho loài người”. Cánh tay rám nắng vì lao động của cô gái nông dân nghèo đẹp hơn là những cánh tay nõn nà của những cô gái quý tộc như trong truyện “Ba cô gái qúy tộc và bà lão ăn mày ”. Nhân dân lao động trong truyện bao gồm nhiều thành phần như thợ mộc, thợ nề, thợ dệt, thợ may, thợ đồ gốm, thợ cạo, người đi săn, kẻ đốn củi, v.v. Họ được miêu tả như là những người thợ lành nghề, thông minh và giàu trí tuệ, cần mẫn, chân thực, khéo tay và tháo vát như trong truyện “Tu sĩ, người thợ kim hoàn, thợ mộc và thợ may”. Các tay thợ vàng bạc vốn là những tên khét tiếng hám tài, xảo quyệt, lừa lọc là đối tượng thường bị đả kích không thương tiếc. Hoàn cảnh nghèo khổ của những con người lao động sống trong xã hội phong kiến thường được miêu tả một cách sâu sắc và cảm động. Truyện thường bắt đầu bằng cảnh những người nghèo đói lang thang rời bỏ quê hương làng mạc đi kiếm ăn ở nơi khác. Sâu sắc nhất là truyện người thợ Dari trong truyện “Người thợ dệt không may”. Mặc dầu có tài, Dari sống trong kinh thành của mình không tìm được cách bán những tấm vải đắt tiền vì người nghèo không có tiền mua. 33
  75. Truyện cổ Ấn Độ còn nêu lên những bài học xử thế trong quan hệ bạn bè, anh em, quan hệ giữa người với người, nhằm giáo dục những đức tính tốt chống lại những thói kiêu căng, tự cao tự đại, ích kỷ, hẹp hòi, ti tiện, lừa thầy phản bạn, v.v. Truyện “Vua Xuhayman và con sếu” tập trung ca ngợi tình bạn, nếu không có bạn bè thì cuộc sống không có ý nghĩa. Bạn bè phải chia bùi xẻ ngọt với nhau, vui buồn có nhau như trong truyện “Hai người bạn và túi tiền”. Sự cãi cọ, mâu thuẫn lẫn nhau chia rẽ nhau sẽ không đem lại lợi ích gì cho nhau, chỉ khiến cho kẻ khác “đục nước béo cò” mà thôi, như trong truyện “Của tôi và của cô”, “Chó, mèo và khỉ.” Tình nghĩa bạn bè có sâu đậm là do tính trung thực, chung thuỷ và biết yêu thương nhau. Truyện “Người thợ kim hoàn và thợ mộc” đã lên án những kẻ phản bội lại tình bạn vì hám lợi. Truyện “Tính vênh váo” vạch trần những kẻ khi đã có địa vị danh vọng trong xã hội rồi thì lên mặt, khinh thường bạn bè, quên cả cảnh sống thuở hàn vi với nhau. 3. Nghệ thuật truyện cổ Ấn Độ Nhìn chung kết cấu truyện cổ Ấn Độ thường chặt chẽ cô đọng, súc tích, ngắn gọn. Có truyện vẻn vẹn 5, 6 dòng. Thông thường có 2 cách bố cục: Một là, bố cục thường bắt đầu cốt truyện chính, sau đó để nhân vật chính trong truyện kể, ngừng kể là kết thúc. Cuối truyện thỉnh thoảng có những câu thơ bình luận ngắn, hoặc ngụ ngôn, hoặc châm ngôn, hoặc một lời bình rút ra cho người đọc một bài học kinh nghiệm. Cách bố cục thứ hai, thường mở đầu bằng lời giới thiệu của người kể truyện về đề tài chuyện, người kể chuyện có thể là một con vật hay người. Sau đó là cốt truyện, kết thúc truyện có thể là cảm tưởng của người nghe, hay lời bình về thái độ và tâm trạng của người nghe. Nếu người nghe yêu cầu kể tiếp thì truyện lại được nối tiếp bằng một truyện khác. Về ngôn ngữ thì lời ít ý nhiều, lời lẽ giản dị, dễ hiểu có lúc bóng bảy, hóm hỉnh hài hước tạo ra một mỹ cảm sảng khoái, lạc quan. Văn chương thường uyển chuyển và sinh động.
  76. Có nhiều truyện, nhân vật được khắc hoạ thành những nhân vật điển hình tạo nên ấn tượng sâu sắc cho người đọc, người nghe. Giàu chất triết lý, dồi dào trí tuệ, nhiều ngụ ngôn là đặc điểm nổi bật trong truyện cổ Ấn Độ. Điều này cũng phản ảnh rõ đặc tính dân tộc Ấn Độ. Tuy vậy, truyện cổ Ấn Độ cũng bộc lộ một số nhược điểm của nó, có nhiều truyện mang nặng màu sắc huyền bí, chịu ảnh hưởng nhiều tư tưởng tôn giáo đặc biệt là Phật giáo làm cho một số truyện kém phần giá trị hiện thực của nó. 4. GIỚI THIỆU MỘT SỐ TẬP TRUYỆN CỔ Truyện Con Vẹt. Quá trình hình thành truyện Con Vẹt Đây là truyện cổ tích cỡ dài nổi tiếng của Ấn Độ. Nhiều nhà nghiên cứu của Ấn Độ và thế giới cho rằng tập truyện này có từ lâu, phổ biến rộng rãi nhất vào thế kỷ XII. Soạn giả đầu tiên là ai không rõ, nhưng trải qua nhiều thế kỷ đã có nhiều bàn tay sưu tập, chọn lọc, sao chép bổ sung nhiều lần làm mất dần nội dung của nguyên bản. Dù vậy, đến nay tác phẩm vẫn còn giữ nguyên vẹn giá trị của nó, được nhiều người ưa thích, được lưu hành rộng rãi trên thế giới. Truyện đã được dịch ra tiếng Nga, Afghanixtan, Anh, Pháp, Đức, v.v.
  77. Truyện Con Vẹt bắt nguồn từ tập Sucaxaptati gồm 70 truyện tập này in ra không bao lâu, bị thất lạc, sau này Nahsabi biên soạn lại lấy tên là Tutinan vào năm 1330 bằng tiếng Iran. Có nhiều chỗ khác xa tập Sucaxaptati, số truyện rút lại còn 52. Sau đó được Môhamet Cadiri, nhà văn Ấn Độ ở thế kỷ XVIII cải biến lại lấy tên là “Quyển sách của Con Vẹt” nổi tiếng từ đó. Số truyện rút lại còn 38. Tiếp sau Cadiri lại có bản của Haidabase Haidari soạn lại năm 1801 đến năm 1803 xuất bản ở Calcuta lấy tên Tôtaxơhani (Con Vẹt). Tập truyện này tuy vẫn giữ nguyên các cốt truyện trước, nhưng soạn giả chú trọng xây dựng tính cách và lời đối thoại giữa con Vẹt và nàng Hudaxta sinh động hơn. Vẹt thì mang tính cách ranh mãnh, tinh khôn, nàng Hudaxta thì nhẹ dạ, bồng bột si tình. Truyện có nhiều chi tiết và phong phú hơn. Soạn giả còn biết vận dụng nhiều phương ngôn, tục ngữ, cách ngôn, đoạn thơ mở đầu và kết thúc. Chuyện kể rất hấp dẫn và lý thú. Kết cấu chặt chẽ. Nhờ tài năng của Haidari mà truyện Con Vẹt được nhiều người biết tới và ưa thích. Truyện được lưu truyền khắp trên đất nước Ấn Độ và thế giới, trở thành tác phẩm văn học dân gian có giá trị. Tóm tắt cốt truyện “Ngày xưa có ông vua tên là Ahơmat giàu có và quyền thế, hiềm một nổi là không có con trai nối dõi tông đường nên hoàng hậu phải đến các chùa chiền cầu tự. May sao sau đó vua sinh ra được một hoàng tử khôi ngô tuấn tú đặt tên là Maimun. Lớn lên nhà vua cưới cho hoàng tử một cô vợ nhan sắc lộng lẫy tên là Huđaxta. Đôi vợ chồng sống rất hạnh phúc, không hề rời nhau một bước. Nhân một hôm Maimun cưỡi ngựa ra khỏi kinh thành ghé vào xem chợ, bắt gặp một người đang xách chiếc lồng có con vẹt muốn bán. Maimun hỏi mua, nhưng giá ngàn đồng quá đắt, vừa tiếc tiền, vừa muốn mua vẹt, đang đắn đo ngập ngừng thì bỗng vẹt ta lên tiếng bảo với chàng rằng sắp tới sẽ có một toán lái buôn giàu có đến kinh thành tìm mua quế. Hoàng tử nên mua tất cả quế tích trữ vào kho, khi họ đến mua các cửa hàng bán quế không có quế để bán cho họ, lúc bấy giờ buộc họ phải tìm mua quế của hoàng tử, hoàng tử muốn