Văn hóa Nõ Nường: Phần 1: Khăn Piêu của người Thái
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Văn hóa Nõ Nường: Phần 1: Khăn Piêu của người Thái", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- van_hoa_no_nuong_phan_1_khan_pieu_cua_nguoi_thai.pdf
Nội dung text: Văn hóa Nõ Nường: Phần 1: Khăn Piêu của người Thái
- Văn hóa Nõ Nường : Phần 1: KHĂN PIÊU CỦA NGƯỜI THÁI
- Trích cuốn “Văn hóa Nõ Nường” – Dương Đình Minh Sơn Người Thái Đen ở Tây Bắc gọi chiếc khăn đội đầu của phụ nữ là “Piêu” – “Piêu” hay “kút Piêu” là tên của một hoa văn có trong khăn. Còn “khăn Piêu” là cách gọi của người Kinh, khi sử dụng ngôn ngữ khác đã kết hợp cả định nghĩa và giữ nguyên âm. Khăn đội đầu của phụ nữ thì hầu như dân tộc nào cũng có, song khăn “Piêu” của phụ nữ Thái ở Tây Bắc có nét độc đáo riêng. Đó là bản sắc văn hóa: đường nét cân đối, màu sắc hài hòa tạo nên vẻ đẹp hấp dẫn, mang tâm hồn và thẩm mỹ của một dân tộc, qua đôi tay khéo léo làm duyên trên khăn Piêu của giới phụ nữ. Trước hết, khăn “Piêu” là vật biểu tượng của tâm linh, do
- giới thầy mo bảo trợ. Những hoa văn thêu trên khăn, chủ yếu biểu đạt về vòng đời của con người, với bốn mô típ chính: “kút Piêu” “xai peng” “xai khớ” và “ta leo”. Mỗi hoa văn có chức năng và nội dung riêng, như “kút Piêu” tượng trưng cho ngọn lửa sự sống và phẩm vật cao quý kính biếu bậc bề trên, “xai peng” là “dây tình” của đôi lứa, như ở đây “tơ hồng” của người Kinh. Dây “xai khớ” là hình ảnh của sức khỏe (bình thường hay ốm yếu) và “ta leo” là vật “căm” (cấm kỵ), có chức năng gần như cây “Nêu” của người Kinh. “Ta leo” thêu trên khăn Piêu sẽ trừ đuổi tà ma, bảo vệ “thần hồn” lẫn “thần xác” cho người đội. Đó là bốn “vật linh” thờ phụng của người Thái được giới phụ nữ tôn giữ trên đầu. Nét đẹp truyền thống và ý nghĩa lớn lao, sâu xa đó được hàm ẩn trong chiếc khăn Piêu, làm cho ta khâm phục không chỉ ở trình độ nghệ thuật trang trí thăng hoa mà còn ở sức mạnh của một tư duy trừu tượng và tâm hồn bay bổng, phóng khoáng của chủ nhân chiếc khăn Piêu.
- Hoa văn được thiết kế trên những hình xọc: vuông hoặc chữ nhật, nằm ở hai đầu khăn. Do đó, khi đội, một đầu khăn trùm trên đỉnh đầu rủ xuống trán (hình 1) và một đầu khăn thả xuống sau lưng dưới gáy là những phần hở ngoài có trang trí hoa văn, còn đoạn giữa để nguyên vải chàm thô. Hình 1
- Chiếc khăn Piêu là sản phẩm của nghề dệt thủ công bằng sợi bông, khổ rộng chừng hơn hai gang tay. Vải được chọn làm khăn Piêu là những tấm vải sợi nhỏ đều, mặt vải mịn màng, họ cắt rời thành từng chiếc khăn Piêu rồi đem nhuộm màu. Kỹ thuật và quá trình nhuộm vải phải trải qua nhiều khâu, nhiều bước tuần tự khá tỷ mỷ. Nhìn chung, các bước nhuộm khăn Piêu cũng giống như nhuộm vải mặc. Để có được màu đen lý tưởng của chiếc khăn Piêu, sau khi nhuộm chàm xong người ta nhúng tấm khăn vào nước vỏ cây hoa lan, gọi là “láng”, tiếng Kinh gọi là “tôi”. Chiếc khăn đã qua bước “láng” sẽ bền màu và có được sắc độ cần thiết. Phần lớn những chiếc khăn Piêu có khuôn khổ gần bằng nhau (trừ chiếc khăn Piêu của các em gái, ngắn hơn một ít). Chiếc
- khăn Piêu ngắn, dài tùy thuộc vào ý thích của từng người phụ nữ, họ đo chiều dài của chiếc khăn Piêu bằng một sải tay của mình: thông thường có độ dài từ 1m50 đến 1m60 với khổ rộng 0,40cm. Chiếc khăn Piêu muốn đẹp phải do nhiều yếu tố tạo nên. Trong khi đó, chỉ màu để thêu khăn đóng vai trò quan trọng hơn cả. Nếu tấm vải làm khăn là loại dệt từ sợi bông thì chỉ để thêu khăn là loại sợi tơ tằm. Đó là loại chỉ thêu truyền thống của người Thái. Từ khi có loại chỉ thêu của nhà máy mặc dù chị em rất thích, nhưng sợi tơ tằm vẫn giữ vị trí chủ yếu. Chỉ tơ tằm vừa bền sợi, vừa bền màu, tạo nên sắc màu óng ả, nuột nà tăng thêm phần vẻ đẹp nhuần nhị của đồ án hoa văn. Chỉ tơ tằm được chị em nhuộm thành nhiều màu khác nhau. Những gam màu được dùng nhiều là xanh lá cây, đỏ tươi hay đỏ sẫm, màu tím, màu vàng hay màu hồng và màu trắng.
- Có vải làm khăn tốt, có chỉ màu thêu đẹp, chưa hẳn là đã có khăn đẹp. Muốn có chiếc khăn Piêu đẹp còn phải do kỹ thuật của người thêu. Hơn nữa, quan niệm về cái đẹp của chiếc khăn Piêu còn tùy thuộc vào từng vùng, từng địa phương, nhất là phụ thuộc vào khiếu thẩm mỹ và sở thích của từng người. Khăn Piêu vùng Yên Châu khác chiếc khăn Piêu vùng Mai Sơn, Sơn La hay khăn Piêu Điện Biên. Sự khác biệt đó do đồ án thêu trên khăn Piêu quy định Người sành về khăn Piêu, khi ra chợ hoặc trong đám hội hè đông đúc, vẫn có thể phân biệt được rõ ràng khăn Piêu của từng vùng. Do đó, khi tìm hiểu vấn đề này cần phải dựa vào một chiếc khăn”Piêu” cụ thể để tránh cái chung chung. Chúng tôi lấy khăn Piêu của vùng Điện Biên làm tiêu chí. Đây là vùng theo PGS.Hoàng Lương – Đại học quốc gia Hà Nội, tác giả sách Hoa văn Thái nói “Hoa văn mang cốt cách của người Thái trên khăn “Piêu” thì vùng Điện Biên là tiêu biểu hơn cả mà
- ông cũng chưa có điều kiện để tìm hiểu” (trao đổi riêng). Chiếc khăn dài được chia làm bốn phần, mỗi đầu khăn lấy một phần để trang trí. Từ một phần ở đầu khăn này, trên đó dành một ô dọc ở giữa (8) để trang trí hoa văn “xai peng”. Phần còn lại của mỗi bên được chia làm bốn ô tính từ trên xuống: số (1) bốn dây xai khớ chạy dài vào giữa khăn, số (2) dây xai peng (tơ hồng) vấn vít nhau, số (3) bốn hoa văn “kút Piêu” nằm bên ngoài mép khăn, nối liền dây xai khớ chạy sâu vào giữa khăn, số (4) hoa văn ta leo 6 múi, hoặc 8 múi, số (5) hú piêu thắt nút bốn múi, có một múi nhọn nhô lên như cúc vải áo ta, số (6) đường viền mép khăn dọc và ngang, số (7) kút piêu (8) dây xai peng chiều ngang khăn. (hình 2)
- Vậy, để thấy rõ thêm nội dung ý nghĩa của bốn hoa văn trong khăn Piêu, chúng ta lần lượt tìm hiểu từng hoa văn ấy. 1. Bốn dây lin xao hoặc xai khớ. 2. Xai peng. 3. Kút Piêu ở ngoài riềm khăn nối liền dây xai khớ. 4. Ta leo – sáu cánh 5. Hú piêu (gắn góc ngoài).
- 6. Đường viền mép khăn bên ngoài, từ trên xuống và ngang. 7. Kút piêu. 8. Dây xai peng. 7.1. KÚT PIÊU Kút Piêu là một hình tròn như đồng xu đầy mặt, có 8 múi như quả bông cắt đôi theo chiều ngang, cuống của quả bông là chân của Kút Piêu – chân là “xai khớ” chạy sâu vào giữa khăn (hình ô 3). Giá trị của khăn “Piêu” là ở chỗ có bao nhiêu “kút piêu” xếp hàng như (ô 3) mép ngoài. Cao dao có câu: “Ba kút Piêu tặng bá Năm kút Piêu biếu thím chồng” Cách làm kút Piêu, người ta dùng vải tết thành chiếc cúc to bằng đầu ngón tay giữa, rồi khâu lại làm cốt. Bước thứ hai
- dùng vải đỏ bọc lại, khâu chân. Bước thứ ba, trên mặt thêu tám múi, bốn múi chính to và bốn múi phụ nhỏ, múi phụ nằm giữa hai múi chính. Múi chính thêu chỉ màu trắng, bốn múi phụ thêu hai màu chỉ khác nhau: hai xanh, hai tím xen kẽ làm nổi rõ bốn múi lớn màu trắng (hình 3). Kút Piêu đơm vào mép ngoài riềm khăn nối liền với xai khớ (ô 1) – động tác này khi khăn đã hoàn thiện. Hình 3
- 7.2.DÂY XAI KHỚ Đời người có lúc khỏe mạnh, có lúc ốm đau, đến tuổi già thì chết. Qúa trình đó của cuộc đời được người Thái biểu tượng bằng dây xai khớ và kút Piêu: kút Piêu đặt đầu dây xai khớ. Lấy đó làm thước đo về sức khỏe của con người, và được thể hiện ra ở kút Piêu – ví với ngọn nến, nhưng là bắt nguồn từ kho “nhiên liệu” sự sống chứa đựng ở dây xai khớ - có nghĩa dây xai khớ rất quan trọng: sự sống của con người được bắt nguồn từ đây. Vì thế, mỗi người có một sợi dây xia khớ riêng được biểu hiện ra ở Kút Piêu (ngọn nến). Khi dây xai khớ rắn chắc, bền chặt là người đó khỏe mạnh, khi dây xai khớ rạn nứt, chao đảo là người đó ốm đau; dây xai khớ rạn nứt và chao đảo mạnh thì người đó ốm đau nặng. Thầy mo xem hình ảnh của dây xai khớ qua ngọn nến để biết bệnh mà cầu cúng. Khi không cầu cúng được, dây xai khớ đứt là người đó qua đời, ngọn nến tắt (xem hình xai khớ và Kút Piêu ở hình 3)
- Hình 3 Từ quan niệm này cho nên khi một người qua đời, người ta dùng một sợi bấc tết lại (cuộn thừng) biểu tượng dây “xai khớ” bọc sáp ong ra ngoài, hoặc để sợi bấc qua đĩa dầu, đặt trên quan tài: ngọn lửa dầu dây bấc cháy sáng, tượng trưng cho sự sống cả cuộc đời của người đó. Khi quan tài hạ xuống huyệt, ngọn lửa tắt thì sự sống của người đó mới thực sự
- không còn trên trái đất này. Tác giả và bà Then người Thái
- Các nhà nghiên cứu và khôi phục lễ hội Trò Trám (Tứ Xã – Phú Thọ). Từ trái qua phải: Nguyễn Anh Tuấn, Dương Đình Minh Sơn, Phạm Bá Khiêm.
- Ảnh nó thúng quai thao biểu tượng của mặt trống đồng Ảnh của Thái Hoàng Vũ Quan niệm này cũng tồn tại ở người Việt, song ngày nay người Việt không dùng ngọn lửa “sự sống” ở đầu dây bấc nữa, mà thay bằng ngọn lửa “sự sống” bằng ngọn lửa ở đầu cây nến cắm trên quan tài: đàn ông 7 cây, đàn bà 9 cây.
- 7.3. DÂY TÌNH XAI PENG Dây tình, tiếng Thái gọi là “xai peng” (xai là dây – peng là tình). Dây tình “xai peng” của người Thái cũng ví như dây tơ hồng của người Việt. Đó là sự cụ thể hóa về hai chất nguyên khí của Po Me – chất đã “tạo ra” con người – người Thái. Hoa văn “xai peng” được biểu tượng bằng hai sợi dây, nhưng được đứt ra từng đoạn như con bún, mà xoắn xuýt, chực muốn bện vào nhau như cuộn thừng (hình 4)
- Hình 4 Đây là biểu tượng mang yếu tố tâm linh: dây “rồng”, lây “tiên” (nòi giống), dây “bùa” hộ mệnh, dây của con tim, dây của tình cảm (xai chựa xai peng), dây trói buộc trái tim của đôi lứa (xai chưa kiệu, húa có nha mai). Người Thái trân trọng, yêu quý gìn giữ và nâng niu “xai peng” thể hiện trên nhiều hình thái đa dạng và phong phú.
- Trước hết là đặt tên cho một dòng dân ca lớn của dân tộc, gọi là “Khắp xai peng” (Hát tình yêu). Khắp xai peng là tiếng hát đầu cửa miệng, vang lên mọi lúc, mọi nơi của cả người già và lớp trẻ. Do đó làn điệu Khắp xai peng là cơ sở đặt nền móng cho nền âm nhạc dân gian của người Thái ở Tây Bắc. Thứ hai, hoa văn xai peng là hoa văn thổ cẩm, trang trí trên những đồ dùng, vật dụng của cuộc sống như: trên mặt chăn, riềm gối, đồ đan lát, đồ gỗ và trang trí trong nhà như: trên nóc đố, trên cửa chính, cửa sổ v.v Nhưng đặc biệt và hay được nhắc đến hơn cả, đó là hoa văn xai peng thêu trên Khăn Piêu đội đầu của phụ nữ Thái, mang đầy đủ ý nghĩa và bản chất sâu xa của nó. Ý nghĩa của dây tình xai peng là móc nối, đan xen, trao đổi tình cảm nhưng không hòa đồng giữa hai “chất” (trai gái). Ý niệm này được truyền kỳ trong tâm thức của từng thế hệ người Thái đến ngày nay và được thể hiện trong những trạng huống khác nhau. Chẳng hạn ở lễ cưới, trong phòng hợp cẩn,
- cô dâu chú rể quỳ trước bà mối, bà mối tay trái cầm quả chuối, tay phải cầm nắm xôi, rồi chéo hai tay lại, nắm xôi trao cho chú rể, quả chuối trao cho cô dâu. Sự chéo hai tay của bà mối đó là tinh thần của dây tình xai peng. Tinh thần dùng hai tay vắt chéo nhau làm biểu tượng trong lễ thành hôn này, ngày nay ở người Việt được biểu hiện bằng việc dùng chữ cái tên cô dâu và chú rể viết “lồng” vào nhau làm biểu tượng trang trí trong phòng cưới. Đó là tâm thức về dây “tơ hồng” của họ. Kiểu chữ viết “lồng” này của người Việt phải chăng tiềm tàng tính “vật chất” hơn chữ “song hỷ” của Trung Quốc. Với người Thái, khăn Piêu có trang trí dây tình – xai peng khi trao tặng cho bạn gái cùng, hoặc khác dân tộc là sự trao đổi tình cảm, nghĩa là con người tôi luôn luôn trong tâm tưởng của bạn và ngược lại, hình ảnh của bạn như chiếc khăn Piêu luôn luôn bên tôi.
- Dây tình xai peng thêu trên khăn Piêu đội đầu của cô gái luôn được nâng niu như gìn giữ niềm trung trinh, tình yêu chung thủy của lứa đôi. Cô gái Thai đội khăn Piêu trên đầu càng xinh duyên thêm, và dây tình – xai peng là chiếc “bùa” yêu, chất “men” tình rạo rực, gợi cho tâm hồn nàng luôn nghĩ đến lời hẹn ước với bạn tình: đón nhận và hiến dâng. Do tính chất của dây tình xai peng trên khăn Piêu của cô gái Thái, nên khi khăn đánh rơi, hay bị gió cuốn, chàng trai người Cống Khao “đa tình” nhặt được thì tâm trạng xao xuyến bồi hồi, hai tay nâng chiếc khăn Piêu lên trước ngực, hình dung đến người đẹp, xúc cảm làm bài hát (dân ca) ngợi ca, gửi tình theo gió, may ra được người đẹp để ý tới. Lời hát rằng (phỏng dịch của nhạc sĩ Doãn Nho):
- Nghe con chim cúc cu Kìa nó hót lên một câu rằng Có một nàng ở trong rừng Thôi người đừng tìm trong rừng Nát hoa rừng Khăn Piêu đây; Khăn Piêu đây thêu chỉ hồng Theo gió cuốn bay về đây Vương trên cây! Ơ – chị ơi!Tới đây Nhận chiếc khăn đẹp này Có phải chiếc khăn đây làm mối Nối duyên nhau thời tôi chờ
- Dây tình xai peng thêu trên khăn Piêu để cô gái đội lên đầu cất giữ, đó là biểu tượng của lứa đôi: Tình yêu nồng nàn và sự sống sôi động, như hai sợi dây tình quấn quýt “bện” lấy nhau mãi mãi, như đôi sam ôm nhau không bao giờ rời xa, cho đến ngày tuổi già, xế bóng khi qua đời thì dây tình xai peng mới chia lìa. Khi ấy, chiếc khăn Piêu được cắt làm đôi, mỗi người một nửa đặt vào quan tài, gối lên đầu, đem theo sang thế giới bên kia. Nếu cụ ông đi trước thì khăn Piêu được cắt một nửa mang đi, còn một nửa kia cụ bà để dành, gối đầu giường. Phong tục này ở người Thái ngày nay vẫn còn nguyên ý nghĩa của nó. 7.4. HOA VĂN TA LEO Ta Leo của người Thái là một hoa văn như hình hoa thị vật “hèm” của người Việt. Ta Leo là vật “căm” (cấm) có nghĩa: cấm kỵ, kiêng dè, vật trừ đuổi tà ma, ngăn ngừa dịch bệnh, diệt trừ sâu rầy, bảo vệ mùa màng, hoa trái đêm lại sự no đầy
- cho con người ở thời tiền sử. Ta leo được thể hiện trong hai trường hợp. Thứ nhất là trang trí ở hoa văn thổ cẩm, thứ hai là đan bằng nan tre, nứa. Bài viết này nói về cách làm bằng nan tre nữa và tác dụng tâm linh của nó trong đời sống của người Thái ở Tây Bắc. Ta leo đan bằng nan tre sẽ tạo nên tiêu chí vật “căm” (cấm) bằng hình mắt cáo ở giữa, ngoài hai đầu của mỗi nan tre giao nhau, còn tạo nên những hình ba góc như cánh sao ở các phía. Nếu dùng 6 sợi nan tre để đan thì Ta Leo có hình 6 cánh, nếu dùng 8 nan tre để đan thì Ta Leo có 8 cánh. Loại 6 cánh hay 8 cánh là do quy định chức năng “đẳng cấp” của Ta Leo. Loại Ta Leo có 6 cánh là dùng vào việc lễ thức nhỏ của gia đình, hay của cá nhân như: Ta Leo thêu trên khăn Piêu của vùng Điện Biên. Còn loại Ta Leo hình 8 cánh là vật “căm”
- của thày mo thêu trên cổ áo và dùng vào những việc trù yểm lớn của lễ thức tín ngưỡng, kèm theo những lời “thần chú”, bắt quyết thần bí, bí hiểm gọi là “Căm Dam” nghĩa là : Linh thiêng, huyền bí, bí hiểm. Điều không được nói tào phào, động đến thần thánh, ma quỉ. Muốn biết phải thông qua “thần chú” của thầy mo. Vào những ngày “căm” (kiêng) của lễ “Xiêng mương” (cúng mường) trước vụ xuống đồng, hoặc khi trong bản mường xảy ra nạn dịch bệnh, tai ương thì Mo Mường (mo đầu mường) lập tức sửa soạn lễ cúng, sai đem Ta Leo treo vào những vị trí hiểm yếu quanh phạm vi của bản, mường và ở các ngả đường, để cấm người vào ra, trong đó có một số hình Ta Leo 8 cánh của thày mo để trừ đuổi tà ma, triệt tiêu thảm họa. Khi thấy Ta Leo treo hai bên đường vào bản thì khách lạ sẽ không vào nữa, nếu cứ vào sẽ bị bắt vạ, trừ khi có người nhà xin phép ra dẫn vào.
- A. Ta Leo gia đình: Ở người Việt, khi trong nhà có người ốm nặng, hoặc có sản phụ đang ở cữ, họ treo vật “hèm” trước ngõ nhà, nhưng ở người Thái không có cổng, không có vườn. Bản thì ở theo lối tụ tập, quây quần, các nhà làm cách nhau không có hàng rào, cho nên cầu thang coi như cổng nhà họ. Khi nhà có trường hợp phải kiêng , người ta treo hình Ta Leo lên ngoài cầu thang nhà để trừ đuổi tà ma, ngăn ngừa người có vía độc, tránh cho người ốm không ốm nặng thêm, trẻ sơ sinh khỏi giật mình, hay khóc Khách đến thấy hình Ta Leo treo trước cầu thang, biết nhà có việc “căm” thì không vào nữa. B. Ta Leo sở hữu của cải: Cuối năm chuẩn bị làm nương cho vụ xuân, vợ chồng lên đồi tìm được một mảnh đất ưng ý. Sau khi đã đi quanh kiểm tra lại lần nữa rồi ra đứng ngoài bờ, quay mặt vào giữa nương,
- chắp tay kính cáo vời thổ thần đất đai. Chúng tôi là vợ chồng Lò Văn A, đã xin mảnh đất này làm nương: Trồng bông sai quả Trỉa hạt trái nhiều Thổ thần giúp đỡ Cuối mùa Lễ tạ Khấn xong thì đi vào chính giữa khoảng đất, phát một đám bằng cái nia. Vợ tìm cọc cắm xuống đó, chồng treo Ta Leo lên, coi như thông báo rằng: mảnh đất này đã có chủ, cấm người khác động đến. Hoặc người ta vào rừng tìm gặp được một cây gỗ tốt, ý định sẽ đẵn về dùng, hoặc gặp một tổ ong mật trên cây, hoặc gặp một đoạn suối có nhiều cá những thứ đó chưa lấy đi được,
- phải đợi gọi thêm người nhà. Trong trường hợp ấy, người ta cắm cạnh đó một cọc có gắn hình Ta leo và trên đầu cọc thì buộc một cái que chỉ về vật cần sở hữu. Người đi sau thấy của ngon đấy, như tổ ong mật chẳng hạn và dù chỉ đi có hai vợ chồng (người Thaí đi nương bao giờ vợ chồng cũng đi với nhau) nhưng cũng không dám lấy. Vì đã có vật “cấm” Ta Leo trông coi trù yểm, thần hồn của vợ chồng người đi săn run sợ, không dám lấy. Ta leo còn cắm ngoài ruộng, ngoài nương, nơi khu rừng hay đến kiếm củi, tìm thức ăn, đề trừ đuổi tà ma, triệt tiêu hiểm họa. Người vào rừng thỉnh thoảng thấy có hình Ta Leo treo ở gốc cây thì yên tâm không lo sợ gì nữa. Ngày xưa, khi con người chưa nắm biết khoa học thì người ta sống theo niềm tin vào vật “căm” (cấm). Những năm mới giải phóng, người viết bài này lên công tác ở Tây Bắc thấy dọc hai bên đường số 6 có những quán “tự
- giác”, hàng đã đề giá. Khách dùng thứ gì xong, thả tiền vào một cái túi cạnh đó và có hình Ta leo treo bên vách trông coi. Nhận xét Người Thái quan niệm con người sinh ra là do nguyên khí của Po Me – có nghĩa, nguyên khí của Po Me tạo nên sự sống của con người – tức là ngọn lửa cháy sáng ở Kút Piêu nằm đầu dây xai khớ là chất nguyên khí của Po Me. Đó là một quan niệm mang yếu tố khoa học có ý nghĩa sâu sắc. Như vậy Kút Piêu biểu trưng cho ba nội dung. Thứ nhất là chất “nguyên khí” của Po Me biểu đạt bằng mầu âm dương. Thứ hai bốn múi là quá trình phôi thai của sự sống (thai nhi) mà thành bốn hạt nhân, đến tám hạt nhân (tế bào), còn trước đó là hai hạt nhân (sách Y học phẫu thuật, viện Bà Mẹ và Trẻ sơ sinh).
- Thứ ba Kút Piêu là hình ảnh của ngọn lửa cháy sáng đầu cây nến, mà sự sống là do chất “nguyên sinh” cảu Po Me tạo nên. Do những giá trị bằng số lượng Kút Piêu trong từng nhóm để kính biếu bậc bề trên, và chiếc khăn đó có tên là Piêu. Tóm lại, hình “âm dương” trong Kinh Dịch là thuộc dạng triết học đã được đút kết định vi qua thuật qui chiếu, còn Kút Piêu là của dân gian chỉ mới ở ý niệm và do tầng lớp thày mo tạo ra để bảo vệ thần “hồn” cho con người. Tuy nhiên, không chỉ có thế, đó là các dấu hiệu của những tiên niệm ở thời kỳ đầu, khi con người mới xuất hiện trí khôn. Như trên đã nói, trên khăn Piêu có bốn hoa văn chính thì Ta Leo là vật “hèm” bảo vệ phần hồn và xai peng là dây tình của đôi lứa, còn Kút Piêu là ngọn lửa của sự sống và xai khớ biểu tượng về kho dự trữ sự sống của con người để cho ngọn lửa cháy sáng ở hoa văn Kút Piêu.