Văn hóa Nõ Nường: Nguồn gốc Khau Kút (Cuộc đại thiên di)

pdf 8 trang phuongnguyen 3400
Bạn đang xem tài liệu "Văn hóa Nõ Nường: Nguồn gốc Khau Kút (Cuộc đại thiên di)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfvan_hoa_no_nuong_nguon_goc_khau_kut_cuoc_dai_thien_di.pdf

Nội dung text: Văn hóa Nõ Nường: Nguồn gốc Khau Kút (Cuộc đại thiên di)

  1. Văn hóa Nõ Nường : NGUỒN GỐC KHAU KÚT (Cuộc đại thiên di)
  2. Trích cuốn “Văn hóa Nõ Nường” – Dương Đình Minh Sơn Đi đường thuyền sợ rơi Đi đường bộ sợ chết Phải chui theo đường con don Phải luồn theo đường con dím. Người Thái ra đi vào buổi cuối tuần trăng. Nhìn mặt trăng khuyết ở cuối dãy núi, họ hẹn nhau: hễ ai đến ở được phương đất nào, khi làm nhà thì dựng trên nóc một cái dấu hình mặt trăng khuyết, để sau này con cháu dễ nhận ra người đồng tộc của mình – và cái dấu hình mặt trăng khuyết ấy được gọi là “khau cót” – Theo ngôn ngữ của người Thái – “khao” là trắng, “cót” là ôm – ôm mối hận phải lìa quê hương ra đi trong một đêm trăng trắng. Và lâu dần người ta gọi chệch
  3. thành “khau kút”. Một thuyết khác cho rằng, vật biểu tượng ấy ngay từ đầu tên là ‘khau kút”. Ở người Thái, tên kút còn gọi “kút piêu”, hoa văn thêu trên khăn đội đầu của phụ nữ và tên của một số kỷ vật khác: “kút”, cụt, cọc, cột và “khau” với hình chữ V 3 góc và “khau” như khau tát nước của người Kinh. Do đó, “kút” và “khau” là biểu tượng của Po Me – Nõ Nường. Từ đó mà có chiếc “khau kút” hình mặt trăng khuyết hay hình chữ V dựng ở hai đầu nóc nhà. Ý nghĩa tâm linh về đòn nóc nhà của người Kinh, mỗi đầu hồi có một hình, hình 3 góc, gọi là Khu đị khi chỉ vào mặt tiền nhà hang xóm thì nhà kia sẽ bị cháy, cho nên, nhà kia phải làm vật “hèm” bằng chiếc gương tròn đặt trên ngưỡng cửa để trừ yểm lại. Ở người Thái quan niệm đòn nóc nhà, nhưng không có ý nghĩa chỉ
  4. sang mặt tiền nhà hàng xóm là cháy nhà người ta như người Kinh. Một chi tiết khác phù hợp với lời nguyện ước trong việc làm di vật “khau kút”. Theo Cầm Trọng – đó là sự kiện vào cuối thế kỷ thứ XIII – Tù trưởng Lò Lạn Chượng dẫn đoàn quân khai khẩn đến vùng đất Mường Then – nay là thành phố Điện Biên, đứng trên núi nhìn xuống lòng chảo, thấy phố Điện Biên, đứng trên núi nhìn xuống lòng chảo, thấy trên nóc nhà sàn có chiếc “Khao cút” quân lính của ông reo lên: “Ôi! ở đây có người đồng tộc của ta”. Những hiện vật biểu tượng của người Thái Tây Bắc đã được họa sĩ Đặng Trần Sơn tổng hợp dựng trên bức tranh (hình 1); Nằm ở chính giữa là đầu của con trâu có đủ hai sừng, bên cạnh mỗi sừng chính đó lại có thêm nửa cuối của một chiếc sừng trâu nữa. Ta thấy nửa chiếc sừng trâu này rất rõ hình
  5. mặt trăng khuyết. Từ đây ta có thể nói nhóm ngôn ngữ Tày – Thái ở Đông Nam Á thờ thần mặt trăng. Theo nhà dân tộc học Từ Chi, khi thấy các vùng có tục lệ chọi trâu, thờ đầu trâu có sừng thì trước hết phải nghĩ đến việc họ thờ thần mặt trăng, rồi mới nghĩ đến “con trâu là đầu cơ nghiệp” của dân cấy lúa nước. Bởi lẽ mặt trăng luôn thay đổi hình dạng và người Á Đông tính lịch, ngày tháng thời vụ đều dựa theo mặt trăng (trao đổi riêng).
  6. Hình 1
  7. Khau hươn, khau kút đều là vật “linh” (hèn) mang tính đẳng cấp của chủ nhà: khau hươn trang trí trong nhà của quý tộc, khau kút có tượng nam nữ tạc ở bên trong là dựng ở hai đầu nóc nhà của giới thầy Mo. Còn nhà dân thường thì không được trang trí khau hươn trong nhà và trên nóc nhà chỉ được dựng khau kút hình chữ V, nhưng không có tượng nam nữ bên trong. Khau kút dựng trên nóc nhà của thầy Mo có tạc tượng nam nữ là vật “hèm” bùa chú, công cụ trừ đuổi tà ma. Vật “hèm” tiếng Thái gọi là “căm dam”, linh thiêng, huyền bí, bí hiểm. Điều không được nói ra động đến quỷ thần. Không phải dễ ai cũng biết nội dung, muốn biết phải thông qua thần chú của thầy Mo. Bốn chiếc khau kút xếp theo hàng chéo, từ góc dưới bên trái lên đến góc trên bên phải. Phải chăng đều mang theo ý nghĩa hiện thực, miêu tả quá trình trong quan hệ của nam nữ: chiếc số 1 bên góc trái dưới, hai người tay chưa chạm nhau, chiếc thứ 2 người đặt chéo cánh tay lên nhau, chiếc thứ 3 nam nữ
  8. quan hệ giao phối, chiếc thứ 4 họ đã có con. Vợ chồng quay lưng lại, đầu tựa vào nhau, bế con lên trước ngực để khoe thành quả hạnh phúc của họ. Về ý nghĩa của chiếc khau kút thứ 2 trong ảnh, động thái hai cánh tay của nam nữ đặt chéo nhau, thể hiện dây tình “xai peng” (tơ hồng) đôi dây xe nhau, lâu nay gọi là dây cuộn thừng. Hình ảnh chéo tay nhau biểu tượng cho dây “xai peng” này còn được xuất hiện trong lễ tân hôn. Đó là khi đôi uyên ương quỳ trước mặt bà mối – bà mối tay cầm nắm xôi, tay cầm quả chuối, rồi chéo tay lại, quả chuối trao cho cô dâu, nắm xôi trao cho chú rể. Cô dâu chú rể cảm ơn, rồi lạy bà mối hai lạy, xong cuộc thứ nhất của hôn lễ, như đã nói ở trên.