Văn hóa Nõ Nường: lễ hội Nõ Nường ở các làng

pdf 34 trang phuongnguyen 4100
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Văn hóa Nõ Nường: lễ hội Nõ Nường ở các làng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfvan_hoa_no_nuong_le_hoi_no_nuong_o_cac_lang.pdf

Nội dung text: Văn hóa Nõ Nường: lễ hội Nõ Nường ở các làng

  1. Văn hóa Nõ Nường : LỄ HỘI NÕ NƯỜNG Ở CÁC LÀNG
  2. cuốn “Văn hóa Nõ Nường” – Dương Đình Minh Sơn Ở nước ta, vùng đồng bằng Bắc bộ xưa, những tập tục khởi nguyên từ xa xăm của lịch sử vẫn còn lưu truyền lại dấu ấn văn hóa mãnh liệt tới tận ngày nay. Trong các làng quê, có nơi dựng miếu thờ thần Nõ Nường như làng Dị Nậu và làng Tứ Xã (Phú Thọ), hoặc có làng thờ vật linh ở một nơi trong đình, vào đầu xuân mở lễ hội hèm tục: tranh cướp vật linh như quả cầu, cây đòn, bắt chệch trong chum bắt vịt dưới hồ v.v. Không rõ rang là trò chơi, vì không nhất thiết ăn thua giữa hai phe, (tranh cướp) do đó mà thiếu quy tắc rành rành, diễn ra có thể trong đình, có thể trên sân đình, có khi trong hai không gian, nhưng rõ rang có liên quan đến lễ tế trong đình, dù không hề ở trung tâm của lễ thức ấy.
  3. Những vật linh tranh cướp trong lễ hội, sau hội được đem ngâm xuống hồ lấy nước tưới ruộng. Hình ảnh Linga Yoni của người Chăm ở miền Nam được biểu tượng như hình cối xay lúa (hình 1). Không những trong lễ hội mà hàng ngày, người thập phương đến lễ bái, người ta đều lấy nước mở máng để làm phước lành, may mắn, điều đó giống như ở Hà Nội, du khách có lệ sờ đầu rùa trong Văn Miếu.
  4. Hình 1
  5. Nó là vết tích của những lễ thức đã chìm vào dĩ vãng, đã thoát hẳn khỏi ký ức của con người tham gia lễ hội – trong những thời chưa quá xa. Nói về dòng lễ hội này, ở vùng Đoài xưa có câu ca: Bơi Đăm rước Gía hội Thầy Vui thì vui vậy không tầy rã La Bơi Đăm là hội bơi chải lớn của làng Đăm tên tục của làng Tây Tựu; rước Gía là đám rước lớn ở làng Gía tên tục của làng Yên Sở; còn hội Thầy ở núi Sài làng Thụy Khê, tỉnh Sơn Tây cũ. Song cả ba nội (bơi, rước và hội Thầy) đều không vui, chỉ vui ở hội rã La. Vậy tại sao chỉ vui ở rã La –
  6. tức là phút rã đám của hội làng La? – làng La Khê Nam tục gọi là làng Nam thuộc huyện Hoài Đức tỉnh Hà Đông cũ. Lâu nay người ta giải thích cho sự vui của rã La, đó là việc cuối lễ hội người ta “sờ soạng nhau” sau đó thì hội giải tán. Xoay quanh việc sờ soạng để người ta nảy ra nhiều tình huống khác nhau trong tiến trình của hội này, bởi do nhãn quan của từng tác giả viết. Nhưng đây là dòng lễ hội hèm tục người đời sau ở làng ấy chỉ biết làm theo từng động thái, cử chỉ hệt như nếp cũ, làm xong là thôi, cất cái sự hèm đi, không bàn tán, không nói cho ai biết, đợi sang năm mới làm lại. Hèm tục ấy như kiểu làm Đôi đũa bông trên bát cơm cúng người chết, chỉ biết làm đúng mẫu, không cần biết nội dung. Người làng ấy mà còn chỉ biết làm theo phong tục, không biết gì, nhưng người làng khác phỏng đoán nội dung mà nói ra. Người nghiên cứu ngày trước nhờ người ở làng khác nói ra mà viết thành chuyện Rã La.
  7. Theo tư liệu của cụ Toan Ánh làng La có tục thờ thần ăn trộm dâm, do đó lễ hội của làng cũng phải thực hiện theo động thái của vị thần kia. Làng La vào đám trong hai ngày mồng 6 và mồng 7 tháng Giêng âm lịch. Vào chiều mồng 6 dân làng tập trung đông đủ già trẻ, gái trai tại đình làng. Khoảng bắt đầu tối có lễ cáo tế, dâng sớ rất long trọng, vào nửa đêm tiến hành lễ mật tắt đèn, dân làng bắt chước thần mà tiến hành ăn trộm lẫn nhau, cả trong đình và ngoài sân, sau đó thì đèn sáng lại – vì lễ hội này là “hèm” cho nên ai cũng phải đi dự trừ người quá già và trẻ em. Sáng hôm sau tiến hành rước thần ăn trộm, người đi chật cả đường: kiệu bà đi trước, kiệu ông đi sau. Ở sau kiệu bà có đặt cái cối, trước kiệu ông có treo cái chày. Chủ tế đi giữa thỉnh thoảng lấy chày ông đến giã vào cối bà mấy cái, cứ mỗi lần giã xuống lại day day cái chày vào cối mấy day. Đám rước đi
  8. từ đình vòng quanh làng rồi trở về đình. Vào chiều tan hội thì có cuộc “lễ thức” rã đám (Rã La). Chủ tế ném đôi Nõ Nường ra trước đám hội để cho mọi người tranh cướp, đến độ vật linh Nõ Nường dập nát ra từng mảnh. Ai cướp được một mảnh là may mắn cả năm cho bản thân và gia đình, ngược lại ai không cướp được mảnh nào nhưng được dự vào đám hội cướp Nõ Nường là vinh dự, may mắn và vui vẻ lắm rồi. Có câu: tả tơi xem hội là vậy, và đó là cái vui của rã La. Người ta tin rằng dự hội cướp vật linh sẽ đem lại sự may mắn cả năm cho bản thân và gia đình. Lễ hội Nõ Nường các làng mở vào các ngày chẵn. Làng Đông Kị tỉnh Bắc Ninh mở hội từ ngày 30 tháng Chạp đến 10 tháng Giêng, với nhiều tục cổ và trò vui, trong đó có tục rước Nõ Nường: đi từ miếu (Bà) về đình, rồi từ đình về miếu, do một bô lão dẫn đầu. Bô lão tay trái cầm Nõ tay phải cầm Nường, vừa đi vừa hát:
  9. Cái sự làm sao cái sự thế vầy Cái sự thế nầy cái sự làm sao Hát xong hai câu ca này, ông lấy Nõ “phộc” vào Nường. Hát và làm như thế ba lần rồi nghỉ một lát, sau đó lại hát và làm tiếp. Đoàn người rồng rắn đi sau, cũng theo ông ca hát và đến chữ cuối thì nắm tay trái “phộc” vào bàn tay phải. Cuộc diễn xướng này kéo dài cho đến kết thúc đám rước. Ngoài ra, để làm thuốc phòng bệnh, người ta còn làm bánh trái theo mẫu hình Nõ Nường để dùng trong ẩm thực và mở lễ hội vào đầu xuân hàng năm. Chẳng hạn làng Sơn Đồng, huyện Hoài Đức tỉnh Hà Tây có hội múa Mo: dùng gậy bằng gỗ vông “phộc” vào mo nang (cây măng). Hội tổ chức vào ngày mồng 6 tháng 3 âm lịch, trong cỗ cúng
  10. thần hoàng làng có bánh cuốn và bánh dầy. Cúng tế xong thì dành một phần bánh đem biếu các làng bên cạnh. Cao dao địa phương có câu: Sơn Đồng có hội múa mo Bánh dầy bánh cuốn đem cho các làng. Những năm được mùa thì hội tổ chức càng sôi nổi. Chiều ngày mồng 6 dân làng tập trung tại đình, trai chưa vợ gái chưa chồng là háo hức nhất. Một ả đào tay phải cầm Nường tay trái cầm Nõ hát câu ca quen thuộc như làng Đồng Kị: Cái sự làm sao cái sự thế vầy Cái sự thế nầy cái sự làm sao Hát xong hai câu này thì dùng Nõ “phộc” vào Nường. Hát và múa như thế ba lần. Đám người đứng dự hội xung quanh
  11. cũng hát và hai tay làm theo động tác “phộc” vào nhau. Trò diễn múa Mo kết thúc thì vật linh Nõ Nường cất lên bàn thờ, hội chuyển sang các hình thức chơi các trò diễn khác. Chiều ngày mồng 7 lại diễn trò múa mo và tiến hành như hôm trước. Kết thúc trò diễn múa mo, ả đào ném tung đôi Nõ Nường ra giữa đám hội để cho mọi người tranh cướp như làng La Khê. Theo lời truyền lại, năm nào làng không cử hành lễ hội này thì trong làng sinh ra lắm điều ngang trái: ốm đau, dịch bệnh, gia súc bệnh hoạn, mùa màng thất bát, người buôn bán thua lỗ v.v Vì thế, những gia đình giàu có và nhất là nhà cần cầu tự, nhưng do người nhà yếu sức không vào tranh cướp được, người ta phải thuê trai tráng vào cướp thay mình. Trước khi thực hiện, phải làm lễ giao ước cẩn trọng giữa hai bên thì tinh thần của cuộc tranh cướp vật thiêng đó mới thuộc về chủ
  12. thuê. BẮT CHỆCH TRONG CHUM Làng Văn Trương (phủ Vĩnh Tường, Vĩnh Yên) nay là tỉnh Vĩnh Phúc, mở hội xuân vào mồng 6 tháng giêng âm lịch, thu hút rất đông nhân dân quanh vùng. Ca dao có câu: Bỏ con bỏ cháu Chẳng ai bỏ mồng 6 hội Dưng Dưng là tên tục của làng Văn Trương. Trong ngày hội có nhiều trò vui được tổ chức trước cửa đình, bên cạnh chợ như bơi thuyền, thi chạy, đốt pháo và đặc biệt nhất là cuộc thi “Bắt chệch trong chum”. Trước sân đình bày một hàng 4 chiếc chum, mỗi chum đựng
  13. 2/3 nước và thả một đôi chệch. Giải thưởng gồm khăn lụa hồng, trà Tầu, trầu cau, tiền. Cuộc thi mở cho tất cả mọi người, nhưng muốn dự thì phải một nam, một nữ (hình 2). Theo tục “hèm” của thần hoàng làng, cuộc thi bắt chệch trong chum của các đôi trai gái phải được tiến hành theo các thể thức như sau: cô gái, tay phải ôm ngang lưng trai, tay trái khoắng vào trong chum nước, và chàng trai, tay trái ôm qua người con gái, bàn tay nắm lấy vú, còn tay phải khoắng vào trong chum nước. Đôi trai gái vừa ôm nhau vừa bắt cho kì được một con chệch mới thôi. Có bao chum thì có bấy nhiêu cặp trai gái dự thi. Ban giám khảo gồm các bô lão và quan viên trong làng. Họ ngồi trên thềm đình ngắm những đôi trai gái và bắt bẻ nếu như có những cặp vì mải bắt chệch mà bỏ lơi tay ôm nhau. Cặp nào bắt được chệch trước là được giải. Có năm một đôi ông bà già cũng xin vào thi. Nằm trong dòng lễ hội hèm tục này, ở miền Bắc nước ta ngày xưa nhiều làng có tục mở hội bắt chệch, hoặc hội bắt vịt dưới hồ ở miền
  14. Trung (làng Bích La Trung, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong tỉnh Quảng Trị).
  15. Hình 2 - Làng Ngô Xá (huyện Võ Giàng – Bắc Ninh) thờ một “dâm thần”. Hàng năm cứ vào hội xuân (12 tháng 3) và hội thu (18 tháng 9) gọi là xuân tế thu tế. Trong cuộc tế có hát ả đào thờ thần. Giữa cuộc, trai gái đốt pháo lên, nghi lễ tạm ngừng, ả đào nghỉ hát, bao nhiêu đèn nến trong đình tắt hết, trai gái trong làng tha hồ đùa nghịch nhau vài khắc sau, đèn nến lại thắp lên, cuộc tế tiếp tục. - Làng Niêm thượng (Khắc Niệm thượng) tục gọi làng Ném (huyện Võ Giàng – Bắc Ninh) thờ một vị thần, sinh thời đi ăn cướp nên trong hai ngày hội làng (mồng 5,6 tháng giêng) có nhiều tục kỳ lạ, trong đó có tục tắt đèn. Làng có ba giáp. Đêm mồng 5 hai giáp thì thổi xôi tại đình. Giáp nào xong trước đổ
  16. xôi ra nong rồi ra hiệu tắt đèn nến trong đình, một người đội nong xôi, đi theo có mấy người khác vác đuốc chạy quanh định báo cho dân làng biết giáp mình đã chiếm giải. Trong lúc đó trẻ con chạy xô đuổi theo. Reo hò ầm ĩ, nhưng trai gái trong làng thì ở lại trong đình đùa nghịch nhau trong bóng tối. Xã Đông Yên tỉnh Bắc Ninh cũng có tục tương tự. - Làng Đan Nhân (Bắc Ninh) thờ thần hổ, hội làng cử hành trong tháng giêng, đêm rã đám có buổi tế cuối cùng, sau đó có cả đào hát thờ thần, một kì mục đội lốt cọp nấp dưới bàn thờ. Vào khoảng nửa đêm ả đào đang hát bỗng đèn nến tắt hết, kì mục nhảy ra cắn ả đào, trai gái cũng vồ nhau mà đùa nghịch, một lát sau lại thắp đèn, kì mục cọp cởi lốt lạy tạ thần, trai gái trở lại chỗ cũ nghiêm chỉnh ngồi nghe hát. Đến canh ba con gái ra về, con trai ở lại cùng bô lão quan viên ăn uống suốt đêm, hôm sau là hết hội. - Làng Duyên tục (phủ Tiên Hưng, Thái Bình) thờ một thần
  17. dâm lúc sống làm nghề ăn trộm dâm bị bắt quả tang và bị đánh chết, chết gặp giờ thiêng hiển linh được thờ dưới tên là thần “Dâm”. Trong đêm rã đám, mọi người tụ họp trong đình thôn thượng đủ cả già trẻ trai gái. Rồi đèn đóm tắt hết mọi người túm lấy nhau mà dâm. Dâm qua, lại đùa nghịch nhau hồi lâu, đèn nến lại thắp lên mọi người bình tĩnh ra về coi như không xảy ra việc gì. - Làng Khúc Lạc và làng Dị Nậu (Phú Thọ) cũng thờ “dâm thần”, vào những ngày 07 và 26 tháng giêng đồ lễ cúng thần ngoài trầu cau, rượu thịt có 36 sinh thực khí, 18 âm 18 dương tục gọi là “Nõ Nường” (đọc trại theo tiếng địa phương là Nõ Nàng) được đặt trên bàn thờ. Tế xong cỗ, thì đám rước Nõ Nường đi quanh làng với 18 thanh nam và 18 thanh nữ tuổi từ 16 – 18 chọn trong hàng gái xinh, trai lịch mỗi người
  18. mang một sinh thực khí, trai mang Nõ gái mang Nường vừa đi vừa hát những câu khơi gơi. Ví dụ trai hát: “Dịch dình dinh, anh có cái yếm lưỡi cày Anh chẳng cho mày, thì để cho ai” Gái hát: “Dịch dình dinh, em có cái vò rượu tăm Em để anh uống anh nằm với em” Đám rước đi quanh lảng rồi trở về đình chuẩn bị tổ chức tranh dành những Nõ Nường. Nõ Nường được treo lên một cành tre, rồi vị bô lão lớn tuổi nhất rung cho Nõ Nường rơi xuống, trai gái và dân làng xô đẩy nhau và đùa nghịch nhau cướp lấy Nõ Nường. Cướp được là một may mắn, nhất là những đôi trai gái sắp cưới nhau hay những cặp vợ chồng
  19. mới cưới nhau. Cướp được chiếc âm sinh con gái, được chiếc dương sẽ sinh con trai, được thần phù hộ. Có khi Nõ Nường treo lên cây, rồi rung cho rơi từng cái một để mọi người cướp được cho cuộc vui kéo dài. Ở một làng khác của vùng Hải Dương – chúng tôi quên đặt tên (Lê Văn Hảo) giáp giới Bắc Ninh có tục thờ, rước và cướp Nõ Nường khi rước cũng có hát: Trai hát: “Cái sự thế sừ là cái sự thế nào” Gái hát: “Cái nạy thế này là cái sự thế này”
  20. Trong khi đó ông bô lão đi đầu đám rước mang hai sinh thực khí ở hai tay vừa múa vừa lắp hai vật vào với nhau. Việc dùng “dùi đục” “mo nang” cũng được diễn ra trong triều đình đến thời nhà Trần. Sách Cương mục ghi: Trần Thái Tông lên ngôi ở điện Thiên An trăm quan đến dự, đến tiệc có người tay cầm “dùi đục” đầu đội “ma nang” đứng chỉ huy múa hát và uống rượu và sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi: Vua ban yến ở nội điện, các quan đều dự. Đến khi say, mọi người đứng cả dậy, dang tay mà hát. Ngự sử Trung tướng (sau đổi là Trung úy) Trần Chu Phổ cũng dang tay theo mọi người, nhưng không hát câu gì khác, chỉ nói: “Sử quan ca rằng, sử quan ca rằng”. Qua hai hiện tượng trên, Phạm Đình Hổ sách Vũ trung tùy bút ở mục Bàn về âm nhạc đã viết: Đời Lý đời Trần tập tục còn chất phác, còn sử thần Ngô Sĩ Liên phê phán rằng: “Trong yến tiệc, có người đội mo nang, cầm dùi đục làm tửu
  21. lệnh thì lại càng thô bỉ lắm”. Do hai ông mang tư tưởng của Đạo Khổng, cho nên không hiểu được phong tục về một hiện tượng văn hóa của dân tộc. Vì thế, đã có lời nhận xét là “chất phác”, hoặc phê phán là “thô bỉ”. HỘI CHEN: Làng Ngà Hoàng (làng Ngà) huyện Võ Giàng – Bắc Ninh có tục đánh chen. Hội làng cử hành từ mùng 6 đến rằm tháng giêng. Làng thờ hai thần dâm: một nam là xóm Đồng Vành, một nữ là xóm Linh Sơn mỹ nương. Làng nằm trên đường cái xuyên tâm từ Bắc Ninh đi Phả Lại, theo các cụ nói về địa lý làng nào ở vị trí như vậy gái làng thưởng lẳng lơ, nửa làng phía bên trái đường Bắc Ninh Phả Lại nằm trong cánh đồng chiêm, còn nửa kia nằm dưới chân dãy núi Rạm, hội làng kéo dài 10 ngày chia làm 4 giai đoạn,
  22. 1. Đầu tiên vào ngày mồng 6 lễ tế được cử hành từ miếu thờ Linh Sơn Mỹ Nương. Giữa cuộc tế, trai làng và ông già chạy xô đến chen lấn con gái và bà già. Trẻ chen với trẻ già rong với già, có câu: “Trẻ chen bạn trẻ già chen bạn già, chen lấn giằng co nhau, con trai có những cử chỉ táo bạo nghịch ngợm như bóp vú .con gái chống cự và chen lấn lại. Cuộc chen diễn ra rất vui nhộn, hỗn độn phóng túng, đùa nghịch chen lấn một hồi lâu mọi người mới khấn với thần nữ: “Muôn tâu lạy ngài, xin ngài phù hộ cho dân chúng tôi già thời khỏe mạnh trẻ thời bình an, của đồng làm ra của nhà làm nên”. Cầu khấn song mọi người cùng lễ tạ. Hết đám rước nhưng vẫn còn chen lấn, có điều lúc này con gái trong làng không chen lấn nhau nữa. Gái làng đi tìm chen những đàn ông đứng tuổi và các bô lão. Hễ gặp khách xem hội là gái rủ nhau chen. Họ chen thả sức có khi xô cả khách xuống ao, xuống ruộng, khách nào muốn tránh khỏi hội chen
  23. thì leo lên cây hoặc trốn trong buồng kín của một nhà nào trong làng. Một nhà nào trong làng hôm đó có khách đàn ông đến xem hội ở nhà. Trong lúc chủ nhà đang tiếp khách bỗng lừng lững từ ngoài cổng đi vào một đoạn 4 cô gái trẻ. Các cô nói với chủ nhà: “Thưa cụ, nhất niên nhất lệ hôm nay chúng cháu được phép chen, xin cụ cho phép chúng cháu được chen với quý khách”. Thế rồi không đợi chủ nhà trả lời các cô vào trong nhà kéo khách ra, (khách đang ngồi uống nước trên sàn, hay ngồi ở trong tràng kỷ các cô cũng kéo ra) rồi xúi nhau đưa vai chen khách, khách hay chủ nhà từ chối cũng không được. Lệ làng mà! Khách có sức xin mời cứ chen lại, không coi chừng các cô cũng viện binh! Các cô khác sẽ tới, ùa nhau vào chen cho đến khi khách ngã rúi ngã rụi khách lại ngã, cuối cùng khách phải tìm lối chạy trốn, nếu không ngã xuống ao xuống ruộng, vừa chen khách lạ các cô reo cười với nhau. Người làng đứng xem cũng cười theo (có thể hội té
  24. nước của người Thái Lan là hào quang của hội chen này). Ngày mồng 6 qua, song vẫn còn hội nhưng chỉ để dân làng lễ bái. 2. Đến ngày 12 tháng 1 làng lại cử hành lễ tế tại đình thờ thần Đồng Vành. Sau buổi tế, có ả đào hát thờ thần Đồng Vành. Sau buổi tế, có ả đào hát thờ thần, lúc này trai gái tự do chen lấn đùa nghịch nhau ngay ở trong đình. Những cặp nào ưng thuận nhau thi dắt nhau ra khỏi đình tìm những nơi thanh vắng để tiếp tục “chen” nhau. 3. Đến ngày rằm tháng giêng dân làng lại làm lễ tại miếu thờ bà Linh Sơn. Giữa cuộc tế, ông già bà lão, con trai con gái lại xô đẩy chen lấn nhau. Sau lễ tế là đám rước từ miếu về đình thờ ông Đồng Vành, dọc đường vẫn tiếp tục chen lấn và tự do đùa nghịch. Có những cặp chen nhau rời khỏi đám rước rồi cùng tìm vào những lùm cây đám cỏ ven đường dưới chân
  25. núi Rạn. Hôm rằm cũng như ngày mồng 6, gái làng lại có lệ tìm khách lạ để chen. 4. Sau hết, buổi tối hôm rằm tại đình cử hành lễ tế trọng thể, giữa cuộc lễ, đèn tắt hết để trai gái tự do đùa nghịch một lúc lâu rồi lại tiếp tục thắp đèn tế lễ. Sau buổi lễ lại có những cặp trai gái dắt nhau tìm những nơi thanh vắng. Theo lời các cụ ở làng Ngà, năm nào không cử hành lễ hội chen thì làng gặp những điều không lành. Sau hội chen các cô có quyền kết hôn với chàng trai mà mình chọn, con trai không có quyền từ chối, trừ trường hợp bố mẹ cô gái không cho phép. Những cô gái thu thai trong dịp hội làng dù không chồng cũng không bị bắt vạ hay bị chê bai gì. Trái lại nếu thụ thai ngoài khoảng thời gian hội làng tính từ tháng ba âm lịch đến tháng chạp thì xem như chửa hoang và bị phạt vạ. Những cặp trai gái cưới nhau sau hội chen được miễn một nửa tiền treo.
  26. TỤC CƯỚP CẦU: Làng Bạch Hạc (phủ Nghĩa, huyện Bạch Hạc, Vĩnh Yên) thuộc đất Phong Châu xưa cũng có tục chen lấn nhau và cướp quả cầu. Tục cướp cầu diễn ra trong hội xuân vào ngày mống 3 tháng giêng. Mỗi năm cử một chức sắc khâu chin quả cầu, một cầu mẹ tám cầu con, những quả cầu này được rước đến đình làm lễ tế cầu. Lễ tế cầu xong là cuộc tung cầu để gái trai và dân làng tranh nhau chen lấn xô đẩy nhau để cướp lấy cầu. Tung từ ba quả cầu một, đầu tiên một cầu mẹ với hai cầu con, hai lần sau mỗi lần ba cầu con. Cướp được cầu sẽ may mắn quanh năm. Cướp được rồi có thể mang về nhà làm kỷ niệm hoặc mang đến để thờ tại đình làng. HỘI NÉM:
  27. Làng Phù Lưu phủ Từ Sơn – Bắc Ninh hàng năm mở hội xuân vào ngày 13 tháng 1 có tục trai gái đốt pháo ném nhau, gọi là hội ném. Sauk hi làm lễ tế thần, dân làng lập đàn cúng Phật ở sân đình mời một ông sư đọc sớ. Khi nghe đọc những chỉ về tai ách như: “Niên xung nguyệt xung” dân làng đốt một tiếng pháo để làm át những tiếng ấy đi. Lúc đầu còn đốt pháo để làm át chữ, sau trai gái đốt pháo ném vào ông sư. Sư sợ điếc tai, cháy áo phải bỏ chạy. Trai gái đuổi theo. Sư băng đồng vượt hồ chạy về nhà đóng cửa lại. Từ lúc ấy về sau trai gái quay lại đốt pháo ném nhau và đuổi nhau chạy ra ngoài đồng. Trai gái các làng bên cạnh cũng kéo nhau ra đồng dự vào hội ném pháo này. Đốt pháo ném nhau đùa nghịch một hồi lâu thì có những cặp tách ra đưa nhau vào những nơi vắng vẻ. Nhiều đàn bà con gái đã có chồng nhưng vẫn thích vào hội ném. Theo hội làng, chồng không có quyền ngăn cản. Nếu vợ có chửa trong đêm đó là may mắn. Cho nên mới có câu: Cá ai vào ao ta là cá ta. Hội ném kéo dài từ chiều đến
  28. nửa đêm, sau đó con gái về nhà con trai hoặc kéo nhau vào đình chè chén. TỤC HÁT ĐỐI ĐÁP TRAO TÌNH GIỮA TRAI GÁI: Làng Quảng Lâm (huyện Võ Giàng – Bắc Ninh) có tục trai gái hát đối đáp trong những ngày hội xuân, hội mở từ mồng 5 đến 12 tháng 1 âm lịch. Mỗi buổi chiều sau cuộc tế lễ dân làng mời ả đào đến hát thờ thần, người già và người lớn đều ra đình nghe hát. Còn trai gái ở tuổi dậy thì thì không ra đình. Nhưng tụ họp nhau ở cổng xóm thành từng bọn khoảng độ 10 trai gái ngồi lẫn lộn quàng cổ nhau mà hát. Lúc đầu hát đối đáp nhau bằng những câu sẵn có, về sau trong bầu không khí tình cảm sâu nặng gái trai ứng khẩu đặt ra những câu hát mới, hát với nhau một hồi có những cặp tách ra khỏi cuộc hát, dắt nhau đi tìm tự tình ở những nơi vắng vẻ, sau cuộc tự tình lại trở về tiếp tục hát, con trai có thể đến hát với một nhóm khác. Con trai muốn ngồi chung với con gái phải được
  29. các cô cho phép nhập bọn, nếu không thì phải đi lang thang từ nhóm này qua nhóm khác. Có anh bị từ chối, nên hát những câu như: Đến đây tình chẳng thương tình Để anh thơ thẩn một mình lôi thôi Có anh hát trêu chọc: Nhà ông có đám rơm to Có con gái lớn chẳng cho lấy chồng Ai ơi cứ bảo rằng không Để con gái lớn chổng mông mà gào
  30. Có những cô hát mời mọc những chàng trai tài mà khó tính: Hỡi người quân tử đi đâu Ngõ này trong mát lần đầu chẳng chơi. Hay là tình có đôi nơi Chúng em ngồi đợi đêm vơi canh chầy Khấn trời đã mấy hôm nay Sao anh chẳng nhớ đến ngày du xuân. Việc ngồi chung ôm nhau hát đối đáp và sau đó đem nhau đi tự tình ở nơi vắng vẻ chỉ được phép diễn ra trong tám ngày hội xuân. Sau đó nếu bị bắt quả tang dan díu nhau thì bị làng bắt vạ.
  31. Sau hội làng những trai gái nào đã tìm hiểu nhau rồi muốn lấy nhau hay không tùy ý. Tuy nhiên nếu cô gái đã có thai trong kỳ hội muốn lấy chàng trai nào, cậu trai ấy không có quyền từ chối. Dân làng Quảng Lâm tin rằng năm nào không cử hành tục trai gái tuổi ngồi chung hát đối trao tình như trên, làng sẽ không được bình yên. TỤC NHÚN ĐU: Nhún đu là một trò chơi lúc trai gái gần gũi nhau. Trong các hội xuân, hội thu ở các làng thuộc các huyện Võ Giàng – Yên Phong, Tiên Du – Bắc Ninh, các huyện phía Nam tỉnh Bắc Giang và nhiều nơi khác ở đồng bằng Bắc Bộ, hội nào cũng có trồng nhiều cây đu giữa một thửa ruộng gần nơi đình chùa đang mở hội để trai gái trong làng hay trai gái thiên hạ lên đu, đó là cái cảnh:
  32. Trai đu gối hạc Gái uốn lương ong như Hồ Xuân Hương đã mô tả một cách giàu hình tượng. DẤU VẾT LUYẾN ÁI TÍNH TRONG NGÔN NGỮ: Đó là tục gọi con trai là thằng cu con gái là cái hĩm, cái đĩ. Hai danh từ là Cu, Hĩm chính là tiếng để chỉ sinh thực khí. Trong nhà của người Việt cổ có bộ phận tam giác trên nóc nhà gọi là trôn dĩ, khu dĩ, tiếng miền Trung gọi là “Khu đị”. Lại có tục hỏi thăm để con trai hay con gái ở cùng quê bằng những tiếng “đâm” người hay người “đâm”. Mấy tiếng này
  33. gợi lại những hành động sinh giữa nam nữ. Đâm người là con trai, người đâm là con gái. Người hỏi đã tự nhiên, người trả lời cũng rất tự nhiên: Vâng, hôm qua nhà tôi ở cữ “đâm” người Thế là người hỏi thăm biết rặng vợ anh kia đẻ con trai. Cũng có khi hỏi thăm hơi khác, nhưng cũng một ý nghĩa. - Thế nào, chị ấy ở cữ rồi à? Chày hay sọt? Chày hay sọt đều gợi hình ảnh sinh thực nam, nữ.
  34. Người ta còn dùng danh từ cu bố, mẹ đĩ để chỉ những người có con trai hay con gái đầu lòng. Cũng gọi là bác cu bác đĩ. Nói tóm lại, trời sinh ra loài người có nam có nữ, nam nữ tất nhiên phải có sự gần gũi tìm hiểu đi tới trai gái hòa hợp, luân lý phong kiến đã cấm đoán khắt khe. Nhưng giới bình dân đã phản ứng, tìm cách cưỡng lại để bảo vệ những quyền lợi của bản năng, trong đó có bản năng sinh tồn, tự tôn nòi giống.