Vận dụng phương pháp tích cực hóa vào dạy và học môn Vật lí 11 tại Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh Bình Dương
Bạn đang xem tài liệu "Vận dụng phương pháp tích cực hóa vào dạy và học môn Vật lí 11 tại Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh Bình Dương", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
van_dung_phuong_phap_tich_cuc_hoa_vao_day_va_hoc_mon_vat_li.pdf
Nội dung text: Vận dụng phương pháp tích cực hóa vào dạy và học môn Vật lí 11 tại Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh Bình Dương
- TẠP CHÍ KHOA HỌC GIÁO DỤC KỸ THUẬT VẬN DỤNG PHƢƠNG PHÁP TÍCH CỰC HÓA VÀO DẠY VÀ HỌC MÔN VẬT LÍ 11 TẠI TRUNG TÂM GIÁO DỤC THƢỜNG XUYÊN TỈNH BÌNH DƢƠNG Hoàng Thị Phƣơng Thảo TÓM TẮT Môn vật lí 11 là một trong những môn học có tính ứng dụng cao, cung cấp cho HS những kiến thức và kỹ năng gắn liền với các hoạt động của cuộc sống. Tuy nhiên thực tế giảng dạy môn vật lí 11 tại TTGDTX Tỉnh Bình Dương thì PPDH được GV sử dụng chưa phát huy được tính tích cực, tự giác ở HS. Vì thế dẫn đến HS thụ động, ít hứng thú với việc học, thiếu khả năng tự học và trong việc vận dụng kiến thức đã học vào thực tế. Chính vì vậy, người nghiên cứu tiến hành thực hiện đề tài “ Vận dụng phương pháp tích cực hóa vào dạy và học môn vật lí 11 tại Trung tâm Giáo dục thường xuyên Tỉnh Bình Dương”, nhằm hình thành người học kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ năng tự học tự nghiên cứu, kỹ năng làm việc nhóm ABSTRACT Physics in 11th grade is one of the subjects with high application, it provides pupils knowledge and skills that are associated with activities of daily life. So, the innovation of teaching methods is essential issues in education. But, in the fact that the actual teaching of physics in 11th grade at the Center of Continuing Education Binh Duong province indicated the method of teaching practice which mostly used by teachers is presentation’s method. This makes pupils more passive, less interested in learning. The pupils are lack of capability of self- learning, and to apply gained knowledge to practice. Therefore, I carried out the thesis namely “Applying the positive teaching method in teaching and learning physics in complementary 11th grade regular at the Continuing Education Center of Binh Duong province” with the purpose to provide learner some skills such as creative thinking skills, self – study skills, teamwork skills. 1. Đặt vấn đề Theo mục 2 Điều 28 của Luật giáo dục 2005 có nêu “phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của HS, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Bên cạnh đó, tình hình học tập môn Vật lí của HS cấp THPT thuộc TT GDTX còn nhiều tồn tại. Đa số các em rất thụ động trong việc xây dựng bài, phương pháp mà giáo viên đang sử dụng chưa phát huy được tính tích cực, tính tự lực để khắc phục các nhược điểm đang tồn tại, nâng cao kết quả học tập môn Vật lí người nghiên cứu thực hiện đề tài “Vận dụng phƣơng pháp tích cực hóa vào dạy và học môn vật lí 11 tại Trung tâm Giáo dục thƣờng xuyên Tỉnh Bình Dƣơng”. Qua đó góp phần đổi mới PPDH một cách đồng bộ và có hiệu quả theo định hướng của Đảng và Nhà nước nói chung và của Tỉnh Bình Dương nói riêng. 2. Cơ sở lí luận về phƣơng pháp dạy học tích cực 2.1. Khái niệm tích cực hóa ngƣời học
- Tích cực hóa người học là một tập hợp các hoạt động của giáo viên nhằm biến người học từ thụ động sang chủ động, từ đối tượng tiếp nhận tri thức sang chủ thể tìm kiếm tri thức để nâng cao hiệu quả học tập. 2.2. Phƣơng pháp dạy học tích cực hóa ngƣời học PPDH tích cực là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. 2.3. Đặc trƣng của phƣơng pháp dạy học tích cực ngƣời học Dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động. PPDH tích cực, người học - đối tượng của hoạt động “Dạy”, đồng thời là chủ thể của hoạt động “Học” được cuốn hút vào các hoạt động học tập do GV tổ chức và chỉ đạo, thông qua tự lực khám phá những điều mình chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được GV sắp đặt sẵn. Được đặt vào những tình huống của đời sống thực tế, người học trực tiếp quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách nghĩ của mình; từ đó nắm được kiến thức mới, nắm được phương pháp “làm ra” kiến thức, kỹ năng mới đó; không rập theo khuôn mẫu sẵn có, được bộc lộ và phát huy tiềm năng, sáng tạo. Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học. PPDH tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho HS không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy học. Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kỹ năng, thói quen, ý chí tự học sẽ tạo cho người học lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập được nhân lên gấp bội. Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác. Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học tập; nhất là lúc giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện thực sự nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung. Trong hoạt động nhóm sẽ không có hiện tượng ỷ lại, hơn nữa tính cách, năng lực của mỗi thành viên được bộc lộ, để uốn nắn kịp thời, ý thức tổ chức, tinh thần tương trợ được nâng cao. Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của HS. Trong dạy học, việc đánh giá HS không chỉ nhằm mục đích nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động học của HS mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của GV. 2.4. Các nguyên tắc vận dụng PPDH tích cực hóa ngƣời học Huy động tối đa các giác quan trong quá trình học tập Hiệu quả học tập của con người phụ thuộc vào số lượng các giác quan mà người học sử dụng trong quá trình nhận thức. Khi người học hoạt động tích cực trong quá trình nhận thức, nghĩa là, họ phải huy động tối đa các giác quan của họ và phối hợp linh hoạt với nhau để tiếp thu vấn đề đang học thì không chỉ giúp họ nhớ lâu, hiểu sâu vấn đề mà còn giúp họ có thể vận dụng chúng vào trong nhiều tình huống thực tiễn khác nhau. Vì thế, trong dạy học tích cực, người dạy phải làm sao khuyến khích, vận động, tạo ra nhiều cơ hội thuận lợi để người học tích cực hoạt động. Khi đó, người dạy đóng vai trò là một người hướng dẫn, điều khiển, điều chỉnh quá trình học của người học sao cho phù hợp với mục tiêu bài học đã được xác định từ trước. Quá trình dạy học tích cực là một quá trình thực hành nhiều lần
- Để người học có thể nhớ lâu, hiểu sâu và có kỹ năng vận dụng vào các tình huống thực tiễn thì quá trình dạy học tích cực cần tạo ra cho người học nhiều cơ hội thực hành, lặp đi, lặp lại những gì đang được học. Việc thực hành nhiều lần không chỉ giới hạn trong một vài tiết học riêng lẻ hay vào cuối mỗi bài học, mỗi chương, mỗi học phần, mà đó là một quá trình thường xuyên, liên tục trong dạy học tích cực. Tài liệu dạy học tích cực phải phong phú và đa dạng Cốt lõi của quá trình dạy học tích cực chính là rèn luyện PP tự học ở người học. Muốn vậy, tài liệu cung cấp cho người học phải phong phú và đa dạng, không chỉ về mặt nội dung mà cả về hình thức, phương thức trình bày. Quá trình dạy học tích cực có sự phản hồi đa dạng Trong PPDH tích cực hóa người học, phản hồi là một yếu tố quan trọng giúp người dạy và người học định hướng đúng mục tiêu bài học, chương trình học. Phản hồi ở đây bao gồm phản hồi xuôi (người dạy phản hồi cho người học), phản hồi ngược (người học phản hồi cho người dạy) và đặc biệt là phản hồi lẫn nhau giữa người dạy và người học. Điều này giúp cho người dạy và người học dễ dàng điều chỉnh quá trình dạy và học của mình cho phù hợp với mục tiêu bài học. Dạy và học tích cực cần có sự khen thưởng, động viên, kích lệ kịp thời Việc khen thưởng bao giờ cũng có tác dụng động viên, kích lệ, tạo cho người học có cảm giác tự tin hơn, đặc biệt là người học có cá tính nhút nhát, rụt rè, chưa quen với quá trình học tập tích cực. Tuy nhiên, tùy điều kiện và hoàn cảnh mà hình thức khen có thể khen thưởng bằng vật chất, hiện vật cụ thể hay khen thưởng bằng tinh thần. Nguyên tắc ấn tượng đầu tiên và cuối cùng Những nhà nghiên cứu tâm lý cho biết: ấn tượng đầu tiên và ấn tượng cuối cùng bao giờ cũng khắc sâu trong trí nhớ của mỗi người. Vì vậy phần mở đầu của mỗi bài học có tác dụng rất tốt trong việc kích thích quá trình tư duy của mỗi người học. Nếu làm tốt điều này việc tiếp thu các nội dung sau của người học sẽ diễn ra một cách thuận lợi hơn. Việc củng cố sau mỗi bài học, sau mỗi chương sẽ giúp người học khắc sâu hơn những gì đã được học. 3. Kết quả nghiên cứu 3.1. Thực trạng dạy và học môn Vật lí 11 tại TT GDTX tỉnh Bình Dƣơng Môn vật lí 11 là một trong những môn học có tính ứng dụng cao, cung cấp cho HS những kiến thức và kỹ năng gắn liền với các hoạt động của cuộc sống do đó có tới 56% HS (84/150 HS) cho rằng môn Vật lí rất cần thiết cho các HS. Tuy nhiên, trong giờ học môn Vật lí có 43,33% HS (65/150 HS) cảm nhận thấy bình thường trong quá trình học vật lí. Kết quả học tập của HS là một phần trách nhiệm giảng dạy của GV. Mặc dù, GV đã cố gắng thật nhiều trong giảng dạy, tự trau dồi, nỗ lực từng ngày để nâng cao trình độ chuyên môn của mình, 66,67% GV nhận định rằng thay đổi PPDH tích cực hóa người học là rất cần thiết. Nhưng thực tế GV đa số sử dụng PPDH thuyết trình và đàm thoại, GV ngại áp dụng các PPDH tích cực vì 66,67% GV nhận định do điều kiện dạy học, trang thiết bị phục vụ giảng dạy còn thiếu, chưa đủ để đáp ứng nhu cầu học tập. Từ đó, chưa thu hút lòng say mê, tích cực, tính tự học ở HS. Thực tế, 38,89% GV cho thấy rằng HS tại trung tâm chúng tôi phần đông chưa ý thức đầy đủ về việc PP tự học,tự nghiên cứu, còn ỷ lại, thụ động trong học tập. Họ chưa thoát khỏi PP học tập cũ, chưa năng động, lười tư duy, tích cực, sáng tạo trong
- học tập. Từ đó, chưa hăng hái trong các hoạt động chuẩn bị bài ở nhà, cũng như tích cực trong hoạt động chiếm lĩnh tri thức ở lớp. 3.2. Kết quả sau khi thực nghiệm sƣ phạm vận dụng PPDH tích cực hóa ngƣời học Việc vận dụng PPDH tích cực vào dạy và học môn Vật lí 11 ở lớp thực nghiệm sẽ làm cho HS trở nên tích cực hơn trong học tập, có đến 54,8% HS (23/42 HS) tích cực chủ động xem lại bài cũ; 69% (29/42 HS) tích cực tham gia xây dựng, tích cực thảo luận, trao đổi với bạn bè và GV về bài họ; 50% (21/42 HS) tích cực tìm hiểu, tra cứu mở rộng thông tin về kiến thức trên mạng, sách báo. Riêng lớp đối chứng không được vận dụng PPDH tích cực vào dạy và học nên chưa kích lệ được tinh thần tham gia của HS, ý thức học tập của lớp ĐC còn thấp. Cụ thể như, tỉ lệ HS có ý thức chuẩn bị bài trước khi đến lớp, tập trung nghe ghi bài, ý thức xây dựng bài và có thắc mắc nêu vấn đề khi không hiểu bài, chưa chủ động làm bài tập khi gặp những bài khó, mà còn trông chờ vào GV và thụ động. Chính vì điều đó nên kết quả khảo sát ở lớp ĐC không khả quan như lớp TN. Bảng : Biểu thị sự phân phối điểm số của HS lớp Xi 0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Bài kiểm tra số 1 fi (lớp TN) 42 0 0 0 2 3 10 12 7 4 4 0 fi (lớp ĐC) 42 2 2 4 6 5 13 8 5 3 0 0 Bài kiểm tra số 2 fi (lớp TN) 42 0 0 0 0 6 8 11 10 3 4 0 fi (lớp ĐC) 42 0 0 4 7 3 9 12 7 0 0 0 Bảng: Các thông số kiểm nghiệm ở 2 lớp Đối chứng và thực nghiệm Điểm kiểm tra lần 1 Lớp thực nghiệm Lớp đối chứng n1 s1 n2 s2 Z 42 6,12 1,55 42 5,0 1,75 3,10 Điểm kiểm tra lần 2 42 6,19 1,47 42 4,93 1,61 4,20 Bằng cách kết hợp, theo dõi, phân tích diễn biến của quá trình Thực nghiệm sư phạm, xử lí các bài kiểm tra theo kiểm nghiệm thống kê toán học, kết quả ban đầu cho thấy tiến trình tổ chức thực nghiệm sư phạm của 4 bài giảng nhằm hình thành kiến thức mới là phù hợp với trình độ của Học sinh. Với các phiếu khảo sát ý kiến sau thực nghiệm của giáo viên: các giáo viên tổ lý tại TT GDTX Tỉnh Bình Dương đã dự giờ dạy thực nghiệm cho rằng vận dụng PPDH tích cực là phù hợp với môn Vật lí 11, giúp các em học sinh dễ hiều nội dung bài học vì các tình huống, các câu hỏi hướng dẫn là vừa sức với hầu hết học sinh, tạo hứng thú, giải quyết vấn đề. Những dụng cụ thí nghiệm, mô hình thí nghiệm đã giúp
- học sinh thực hiện các hoạt động đạt hiệu quả, khích lệ rất lớn đến sự hứng thú của học sinh. Đa số học sinh nhận định giáo viên vận dụng PPDH tích cực hóa người học cho môn Vật lí rèn luyện được kỹ năng vận dụng giải bài tập; kỹ năng lắp ráp và tiến hành được các thí nghiệm đơn giản; kỹ năng quan sát các hiện tượng và quá trình Vật lí trong tự nhiên, trong đời sống; kỹ năng làm việc nhóm; phát huy khả năng tư duy, tính tự cực, độc lập và sáng tạo ở học sinh. Từ đó, người nghiên cứu rút ra nhận xét: việc vận dụng PPDH tích cực hóa vào dạy và học môn Vật lí 11 là phù hợp đem lại hiệu quả học tập cho Học sinh, góp phần nâng cao chất lượng học tập của HS học môn Vật lí 11 tại TT GDTX Tỉnh Bình Dương. Học sinh đã bước đầu hình thành các kỹ năng hoạt động nhóm, tự học – nghiên cứu, tìm thông tin, từ đó làm cho người học có động cơ học tập tốt hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ giáo dục và đào tạo (2007), Tài liệu bồi dưỡng giáo viên 11 môn Vật lí, Nxb Giáo dục. 2. Luật giáo dục (2005), NXB Lao động. 3. Nguyễn Văn Cường – Bernd Meier, (2011), Một số vấn đề chung về đổi mới PPDH ở trường trung học. Tp. Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 20 Giảng viên hƣớng dẫn (Ký & ghi rõ học tên)
- BÀI BÁO KHOA HỌC THỰC HIỆN CÔNG BỐ THEO QUY CHẾ ĐÀO TẠO THẠC SỸ Bài báo khoa học của học viên có xác nhận và đề xuất cho đăng của Giảng viên hướng dẫn Bản tiếng Việt ©, TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH và TÁC GIẢ Bản quyền tác phẩm đã được bảo hộ bởi Luật xuất bản và Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam. Nghiêm cấm mọi hình thức xuất bản, sao chụp, phát tán nội dung khi chưa có sự đồng ý của tác giả và Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh. ĐỂ CÓ BÀI BÁO KHOA HỌC TỐT, CẦN CHUNG TAY BẢO VỆ TÁC QUYỀN! Thực hiện theo MTCL & KHTHMTCL Năm học 2016-2017 của Thư viện Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Tp. Hồ Chí Minh.



