Vấn đề đối thoại trong tiểu thuyết "Những kẻ thiện tâm" của Jonathan Littell

pdf 7 trang phuongnguyen 7940
Bạn đang xem tài liệu "Vấn đề đối thoại trong tiểu thuyết "Những kẻ thiện tâm" của Jonathan Littell", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfvan_de_doi_thoai_trong_tieu_thuyet_nhung_ke_thien_tam_cua_jo.pdf

Nội dung text: Vấn đề đối thoại trong tiểu thuyết "Những kẻ thiện tâm" của Jonathan Littell

  1. Tạp chí Khoa học – Số 01 (2013): 101 – 107 Trường Đại học An Giang VẤN ĐỀ ĐỐI THOẠI TRONG TIỂU THUYẾT "NHỮNG KẺ THIỆN TÂM" CỦA JONATHAN LITTELL Trần Đình Nhân1 ABSTRACT “The Kindly Ones” (French: Les Bienveillantes) is the novel awarded two big prizes in France: Grand Prix du Roman and Goncourt 2006. This novel has given readers a new perspective of the Jewish pogrom by German Fascists in World War II. With a cold tone, Jonathan Littell posed a question: How would the humans be if evil governed the society? In the area of this work , we aim to inquire futher into the forms of dialogue in "The Kindly Ones" from the perspective of intertextuality in order to clarify the issues about culture, history and human rights which have been raised in this novel. TĨM TẮT “Những kẻ thiện tâm” (tiếng Pháp: Les Bienveillantes) (2) là cuốn tiểu thuyết đạt hai giải thưởng lớn của nước Pháp: Grand Prix du Roman và Goncourt 2006. Tác phẩm đã mang lại cho người đọc một cái nhìn hồn tồn mới về cuộc tàn sát người Do Thái của phát xít Đức trong thế chiến thứ hai. Bằng một giọng văn lạnh lùng, Jonathan Littell đã đặt ra câu hỏi: tương lai con người sẽ đi về đâu một khi cái ác trở thành thế lực thống trị xã hội? Trong khuơn khổ bài viết này, chúng tơi muốn đi sâu vào tìm hiểu những hình thức đối thoại trong “Những kẻ thiện tâm” từ gĩc nhìn lý thuyết liên văn bản để làm sáng tỏ những vấn đề về văn hố, lịch sử và nhân quyền được đặt ra trong tác phẩm 1. VÀI NÉT VỀ LÝ THUYẾT LIÊN VĂN BẢN Liên văn bản (tiếng Pháp Intertextualité; tiếng Anh Intertextuality) là một thuật ngữ của văn bản học chỉ mối liên hệ tác động qua lại giữa văn bản đang được xem xét với những văn bản khác (cĩ thể là/ khơng là văn bản văn học) hoặc với mơi trường (context) văn hĩa - lịch sử nĩi chung (3). Thuật ngữ liên văn bản lần đầu tiên được nhà lý luận về chủ nghĩa hậu hiện đại Julia Kristéva đưa ra năm 1967 trong bài viết “Bakhtin, lời nĩi, đối thoại và tiểu thuyết. Kristéva đã giới thiệu về sự vận dụng và phát triển một cách sáng tạo quan điểm về ngơn ngữ học của erdinand de Saussure của akhtin Tuy nhiên, tư tưởng "đối thoại" của akhtin được Kristéva tiếp nhận hồn tồn theo cách của chủ nghĩa hình thức, tức là chỉ hạn chế trong lĩnh vực văn học, như là sự đối thoại giữa các văn bản Sau đĩ, đến lý thuyết kí hiệu của J Derrida, lý thuyết của chủ nghĩa hậu cấu trúc của R arthes, J Lacan, M oucault thì khái niệm liên văn bản mới được mở rộng Họ cho rằng rốt cuộc mọi thứ như văn học, văn hố, xã hội, lịch sử, bản thân con người đều được khảo sát như văn bản Lịch sử và xã hội cĩ thể "đọc" như văn bản Văn hố của nhân loại cũng được coi như một thứ liên văn bản mà 1ThS. Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Huế, Đại học Huế Email: dinhnhandhsp@gmail.com 2“Những kẻ thiện tâm” là tên bản dịch cuốn tiểu thuyết viết bằng tiếng Pháp “Les ienveillantes” của nhà văn Mỹ Jonathan Littell Cuốn tiểu thuyết tái hiện một cách tồn diện cuộc tàn sát người Do Thái của phát xít Đức trong thế chiến thứ hai thơng qua hồi ức của nhân vật Maximilien Aue (viết tắt là Max), một sĩ quan SS, kẻ trực tiếp tham gia vào cuộc diệt chủng này Với độ dày 900 trang (bản tiếng pháp), cuốn tiểu thuyết gồm bảy chương , mỗi chương mang tên một bản tổ khúc của nhạc sĩ Sebastian ach Tác phẩm được Cao Việt Dũng dịch sang tiếng việt và được phát hành bởi nhà xuất bản Hơi nhà văn (liên kết với cơng ty Nhã Nam) năm 2008 3Phạm Gia Lâm, Motip Kyto giáo trong tiểu thuyết 'Nghệ nhân và Margarita' của M ulgakov Đọc từ: www.nguoibanduong.net/index.php? 101
  2. Tạp chí Khoa học – Số 01 (2013): 101 – 107 Trường Đại học An Giang đến lượt mình, nĩ đĩng vai trị tiền văn bản cho bất cứ văn bản nào xuất hiện tiếp theo (Đào Tuấn Ảnh, Lại Nguyên Ân & Nguyễn Thị Hồi Thanh, 2003, tr. 32). Sự xuất hiện của lí thuyết liên văn bản vào những năm 60 - 70 của thế kỉ XX mang lại cho chúng ta một cách hiểu mới về tác phẩm văn học ản chất của tác phẩm văn học khơng phải gì khác mà chính là sự kết nối, hấp thu và chuyển đổi với các văn bản khác nhau 2. BẢN CHẤT CỦA ĐỐI THOẠI MANG TÍNH LIÊN VĂN BẢN “Ngơn từ đối thoại là sự giao tiếp qua lại (thường là giữa hai phía) trong đĩ sự chủ động và sự thụ động được chuyển đổi luân phiên từ phía này sang phía kia (giữa những phía tham gia giao tiếp; mỗi phát ngơn đều được kích thích bởi phát ngơn cĩ trước và là sự phản xạ lại phát ngơn ấy” (Lại Nguyên Ân, 2004, tr. 130). Trong học thuật hiện đại, nhân tố đối thoại được xem như một đặc tính phổ quát hết sức quan trọng của hoạt động ngơn từ, bởi ở các phát ngơn luơn hiện diện sự chờ đợi (sự kích thích) một lời đáp lại nào đĩ, cũng tức là phản ứng lại kinh nghiệm ngơn ngữ trước đĩ: “ý thức mang tính đối thoại hướng tới những tiếp xúc rộng, liên cá nhân và được làm giàu bởi kinh nghiệm của người khác” (Lại Nguyên Ân, 2004, tr. 133). Như vậy, chúng ta thấy rằng, bản chất của bất kì một phát ngơn đối thoại nào cũng mang những mối quan hệ đối với những phát ngơn tồn tại trước nĩ Cùng với sự phát triển của việc nghiên cứu văn học, người ta dần coi sự đối thoại khơng cịn khuơn hẹp lại theo nghĩa truyền thống của nĩ là sự trao đổi qua lại giữa các lượt lời của các bên tham gia giao tiếp nữa mà nội hàm của nĩ được mở rộng hơn Tất cả những gì cĩ sự giao thoa, tiếp xúc và ảnh hưởng lẫn nhau, tạo nên mối quan hệ liên đới, kích thích và phản biện với nhau đều cĩ thể được xem là chúng đang ở trong trạng thái đối thoại Như vậy, đúng như akhtin đã nĩi, bản chất của thế giới này thực sự là một cuộc đối thoại lớn Thơng qua sự đối thoại, con người thể hiện được sự tồn tại của mình 3. CÁC HÌNH THỨC ĐỐI THOẠI VÀ SỰ HỒI NGHI, PHÊ PHÁN TRONG “NHỮNG KẺ THIỆN TÂM” 3.1 Đối thoại của nhân vật Cĩ thể nĩi, tồn bộ tác phẩm là một cuộc đối thoại lớn được cấu thành từ những cuộc đối thọai nhỏ với nhiều hình thức đa dạng Những kẻ thiện tâm là những kí ức của Max Aue về một thời kì đen tối trong lịch sử của lồi người Câu chuyện kinh hồng của lịch sử được tái hiện lại theo bước chân của Max Aue, một sĩ quan trực tiếp tham gia vào cuộc tàn sát người Do Thái của phát xít Đức trên tồn châu Âu Những cuộc hành quyết, những hố chơn người tập thể, những trại tập trung và những kế hoạch tàn độc của phát xít là phơng nền chung của câu chuyện Trên phơng nền đĩ là một câu chuyện khác bi thương khơng kém: đĩ là câu chuyện về sự tha hố của con người Từ những đau khổ dằn vặt khi lần đầu giết người, Max dần trở nên vơ cảm Và tất cả những gì cịn lại là một Max Aue, hiện thân của cái ác Ở vào thời kì mà cái bắt đầu cĩ thể là cái kết thúc ấy, cĩ lẽ khĩ cĩ thể cĩ được một chân lý nào là tuyệt đối Mọi giá trị dường như đều trở nên mong manh Trong những thời khắc lịch sử như vậy, đâu đúng, đâu sai, đâu chính, đâu tà khơng phải là một điều dễ xác định Cĩ lẽ vì thế mà đối thoại xem ra là một phương pháp ưu trội trong việc “đánh bật” ra bản chất của mọi vấn đề Đối thoại giữa các nhân vật là dạng thức đối thoại cơ bản nhất của văn học Thơng qua đối thoại, những quan điểm, những tư tưởng khác nhau, thậm chí trái chiều nhau liên tục được va chạm và dần dần tự bộc lộ chính mình Trong tác phẩm tồn tại nhiều luồng tư tưởng khác nhau Là một sĩ quan SS, Max mang trong mình một tư tưởng vị chủng(4) Ước mong trở thành một người quốc xã chân chính, Max dốc hết khả năng để phục vụ cho Volk Nhưng chủ nghĩa quốc xã thực chất chỉ là một 4 Vị chủng văn hĩa hay thuyết vị chủng (tiếng Anh ethno-centrism) “là thơng lệ đánh giá văn hĩa khác bằng văn hĩa của chính mình” Những người theo lối tư duy này cho rằng giữa các nền văn hĩa khơng tồn tại sự bình đẳng với nhau, mà đĩ là quan hệ cĩ tính “tơn ti thứ bậc” (hiérachique). Họ đề cao nền văn hĩa của mình trong mối quan hệ với những nền văn hĩa khác và thường tự lấy mình làm trung điểm “égocentrique” để bàn xét các vấn đề thuộc về văn hĩa, sắc tộc 102
  3. Tạp chí Khoa học – Số 01 (2013): 101 – 107 Trường Đại học An Giang trị mị dân Lịng tin của Max dựa trên những khẩu hiệu chính trị mơ hồ do những kẻ cầm đầu khởi xướng Nĩ trở nên lung lay khi anh ta đối thoại với những luồng tư tưởng khác nhau Kết quả cuối cùng là một quá trình tự ý thức của Max Trong khi Max mong muốn được cống hiến cho chủ nghĩa quốc xã thì Thomas, bạn chí cốt của anh ta lại là một kẻ thực dụng Hắn sử dụng chủ nghĩa quốc xã như một chiêu bài để tiến thân Cĩ lẽ vì thế mà những cuộc đối thoại giữa hai nhân vật này lần nào cũng là những cuộc đối thoại về tư tưởng cực kì sâu sắc Thomas đã cười vào thứ lý tưởng viễn vơng, xa rời thực tế của Max: “cứ phục vụ đất nước của cậu, chết nếu cần thiết, nhưng trong khi chờ đợi thì tận hưởng hết mức cuộc đời đi Cái huân chương Ritterkreuz được truy tặng sau khi chết cĩ thể sẽ an ủi được bà mẹ già của cậu, nhưng với cậu, đĩ sẽ chỉ là một thứ tặng thưởng lạnh lẽo” (Littell, 2008b, tr. 238) Chính Thomas là người đã cho Max thấy rõ bản chất thực sự của chủ nghĩa quốc xã: “Max thân mến của tớ, tớ đã giải thích cho cậu hàng trăm lần rằng chủ nghĩa quốc xã là một khu rừng rậm, nĩ vận hành theo các nguyên lý mơ phỏng học thuyết của Darwin một cách chặt chẽ Đĩ là sự tồn tại của kẻ mạnh hơn hoặc khơn khéo hơn Nhưng cái đĩ thì cĩ bao giờ cậu muốn hiểu đâu” (Bakhtin, 1993, tr. 431). Thơng qua những cuộc đối thoại giữa các nhân vật, chúng ta thấy được sự va chạm giữa những ý thức hệ khác nhau Sự va chạm giữa ý thức hệ olshevik(5) của những người Cộng sản Liên Xơ và ý thức hệ Volkisch(6) của phát xít Đức là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự đối đầu giữa hai dân tộc Từ cuộc đối thoại giữa Max và viên chính ủy Liên Xơ bị bắt ở mặt trận Stalingrad đã bật ra những điểm tương đồng và dị biệt của hai hệ tư tưởng: “nơi mà chủ nghĩa cộng sản hướng đến một xã hội khơng cĩ giai cấp thì các anh rêu rao Volksgemeinschaft (cộng đồng nhân dân), cái về bản chất hồn tồn vẫn vậy, nhưng được thu gọn lại trong vịng biên giới của các anh Nơi mà Marx coi người vơ sản là người mang chân lý thì các anh quyết định rằng cái gọi là chủng tộc Đức là một chủng tộc vơ sản, hiện thân của cái Thiện và của luân lý; do đĩ, thay vì đấu tranh giai cấp các anh sử dụng chiến tranh vơ sản Đức chống lại các nhà nước tư bản chủ nghĩa” (Littell, 2008b, tr. 477). ên cạnh sự va chạm của các ý thức hệ, chúng ta cịn nhận thấy được sự va chạm của hai luồng tư tưởng xuyên suốt tác phẩm: thiện – ác. Đĩ dường như là hai phạm trù tách bạch, đối lập nhau Nhưng về một khía cạnh nào đĩ, đơi khi sự phân biệt giữa chúng là khơng rõ ràng Một kẻ xét ở phương diện này cĩ thể là hiện thân của cái ác, nhưng xét ở một phương diện khác, nĩ cĩ thể là cái thiện Max cho rằng: “Cái thiện và cái ác là những phạm trù cĩ thể sử dụng để đánh giá hiệu ứng của các hành động của một con người lên một kẻ khác; nhưng theo tơi, về bản chất chúng khơng thích hợp, thậm chí là vơ tích sự trong việc phán xét những gì diễn ra trong tim kẻ đĩ Doll giết người hoặc sai những kẻ khác giết người, do vậy đĩ là cái ác; nhưng xét về tự thân, đĩ là một người tốt đối với người thân ơng ta” (Littell, 2008b, tr. 72). Sự mong manh giữa cái thiện và cái ác khiến cho các nhân vật trở nên khĩ phán xét về mặt nhân cách; bởi đĩ là những con người chưa hồn kết, luơn âu lo, trăn trở trong thì hiện tại chưa bao giờ hồn thành này Từ sự đối thoại giữa các nhân vật thuộc những nền văn hố khác nhau, chúng ta nhận ra một cuộc đối thoại lớn giữa các nền văn hĩa Trong tác phẩm cĩ sự hiện diện của nhiều vấn đề thuộc phạm trù văn hĩa của các nền văn hĩa dân tộc khác nhau Các nền văn hĩa đĩ được tác giả sắp đặt bên cạnh nhau theo một tư duy so sánh liên văn hĩa Chúng liên tục được va chạm, tác động và cao hơn nữa là đối thoại với nhau Các nền văn hĩa đối thoại với nhau khơng phải bằng lời mà bằng sự tự khẳng định giá trị và sự tồn tại của mình Người Đức với tư duy “vị chủng văn hĩa” luơn đề cao nền văn hĩa của dân tộc mình, đồng thời hạ thấp các nền văn hĩa khác Nhưng những nền văn hĩa như Do 5 olshevik là những thành viên của phe olshevik của Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga Marxist tách ra khỏi phe Menshevik Việc chia rẽ này đã xảy ra tại Đại hội Đảng năm 1903 và cuối cùng đã trở thành Đảng Cộng sản Liên Xơ 6 Vưlkisch: (chủ nghĩa) dân tộc Đây là ý thức hệ của phát xít Đức với nội dung đề cao tinh thần dân tộc hẹp hịi. 103
  4. Tạp chí Khoa học – Số 01 (2013): 101 – 107 Trường Đại học An Giang Thái, Nga, các dân tộc miền núi đã “đối đáp”, “trả lời” lại quan điểm đĩ bằng chính những giá trị thuộc về tinh hoa bản sắc của mình Và rốt cuộc, dù muốn hay khơng, người Đức cũng phải cơng nhận sự thật khách quan ấy Dù là kẻ mang tư duy vị chủng văn hĩa, nhưng sau những sự tiếp xúc và đối thoại với người Do Thái, Max đã kết luận: “Người Do Thái cũng cĩ cái tình cảm cộng đồng, tình cảm về Volk mạnh mẽ đĩ, họ khĩc thương những người chết, chơn cất họ, nếu cĩ thể và đọc kinh Kaddish, nhưng chừng nào chỉ duy nhất một người cịn sống thì Israel vẫn sống Cĩ lẽ chính vì thế mà bọn họ đã trở thành kẻ thù được ưu tiên của chúng tơi, vì bọn họ giống chúng tơi quá mức” (Littell, 2008a, tr. 127). 3.2 Đối thoại trong độc thoại hay hiện tượng “tư duy kẻ khác trong ta” Trong “Những kẻ thiện tâm”, chúng ta cịn bắt gặp một dạng thức đối thoại hết sức đặc biệt: Đối thoại trong độc thoại. Đây là dạng đối thoại độc đáo mà akhtin đã chỉ ra trong sáng tác của Dostoievski Dostoievski đã nĩi về kiểu đối thoại đĩ trong bài tựa ơng viết cho tác phẩm Người vợ dịu hiền: “Hãy tưởng tượng một người chồng mà vợ anh ta vừa tự sát đang nằm trên bàn, cơ ta vừa nhảy qua cửa sổ mấy giờ trước đĩ Anh ta bối rối và chưa kịp sắp xếp các ý nghĩ của mình Anh ta đi lại qua các phịng của mình và cố gắng lý giải điều vừa xảy ra, “tập trung các ý nghĩ vào một điểm”, hơn nữa đĩ lại là một người bị chứng nghi bệnh kinh niên, một trong số những người thường tự nĩi với mình Đấy, anh ta đang tự nĩi với mình, kể ra sự việc, giải thích nĩ cho mình Mặc dù lời kể cĩ vẻ mạch lạc, anh ta thực ra đã mấy lần tự mâu thuẫn với mình cả về logic lẫn trong tình cảm Anh ta vừa biện bạch cho mình vừa trách cứ cơ ta, vừa đưa ra những cách giải thích của người ngồi cuộc” (Bakhtin, 1993, tr. 43). Những cuộc tự đối thoại của Raskolnikov mà akhtin đã chỉ ra trong Tội ác và trừng phạt đã cho chúng ta hiểu rõ hơn về dạng thức đối thoại đặc biệt này Dạng đối thoại này xuất hiện trong suy nghĩ của nhân vật, trong đĩ bản thể của nhân vật đĩ tự tách mình ra thành những bản thể khác nhau và giữa chúng xảy ra sự đối thoại ản thể được phân xuất ra đĩ hiện diện với tư cách là một “kẻ khác” tồn tại trong “ta” như một cái tơi hồn tồn độc lập Nĩi như akhtin, “mỗi nhân vật chính của Dostoievski đều cĩ một tiếng nĩi thứ hai” (Bakhtin, 1993, tr. 215), “đối thoại cho phép ta thay thế tiếng nĩi kẻ khác bằng tiếng nĩi của chính mình” (Bakhtin, 1993, tr. 210). J. Littell đã kế thừa kiểu đối thoại độc đáo này của Dostoievski Tuy nhiên chúng ta thấy rằng, trong sự kế thừa đĩ cĩ rất nhiều điểm cách tân Đối thoại trong độc thoại của Dostoievski xét cho đến cùng chính là sự đối thoại giữa những cái tơi khác nhau của một cá nhân Trong đĩ, A1, A2 được tách ra từ A để đối thoại với A Nhưng đối thoại trong độc thoại của J Littell lại cĩ những điểm mới khá thú vị Vẫn là những cuộc đối thoại trong tâm tưởng của nhân vật, nhưng trong cuộc đối thoại đĩ, A đã tự giả định cĩ những nhân vật B, C đối thoại với mình Thực chất , C chỉ là sản phẩm tưởng tưởng tượng của A, hay nĩi đúng hơn, B, C chính là A dưới hình thức khác và mang tư duy kẻ khác để đối thoại với A. Đĩ là một cách để A tự chất vấn mình Hiện tượng đĩ xuất hiện trong “Những kẻ thiện tâm” ở hình tượng nhân vật Max Aue Vào những thời điểm thực sự khủng hoảng tinh thần, Max khơng chỉ thấy mình như tách ra thành một bản thể thứ hai đối lập với mình mà cịn tự tưởng tượng ra những cuộc đối thoại với “kẻ khác” trong tâm tưởng Chương Courante kể về thời gian Max đi nghỉ dưỡng tại nhà người chị gái khi quân Nga đã đến rất gần erlin Vào thời điểm đĩ, Max đã rơi vào một sự khủng hoảng trầm trọng Mọi niềm tin mà Max cố gắng bám lấy đều đã đổ vỡ Lúc này, trong Max xuất hiện một cuộc đấu tranh tư tưởng cực kì dữ dội Max tưởng tượng mình đang ngồi đối diện và tranh cãi khá gay gắt với hai vợ chồng chị gái Thơng qua cuộc đối thoại giả định giữa Von Uxkul với Max, chúng ta cĩ dịp đánh giá được tính đúng đắn của việc giết Do Thái: “Tại sao người Đức lại hăng hái như vậy trong việc giết Do Thái?” - “Ơng đã nhầm nếu ơng tưởng rằng đĩ chỉ là người Do Thái, tơi bình thản nĩi Người Do Thái chỉ là một loại kẻ thù, chúng tơi diệt trừ tất cả kẻ thù của chúng tơi, dù cho chúng cĩ là ai và ở đâu ” “Tại sao các anh phải loại trừ những người bị bệnh thần kinh, những người tàn phế tại các bệnh viện? Họ đã gây ra nguy cơ gì, những con người bất hạnh đĩ” – “những cái tàu há mồm vơ ích Ơng cĩ biết làm như vậy chúng tơi cĩ thể tiết 104
  5. Tạp chí Khoa học – Số 01 (2013): 101 – 107 Trường Đại học An Giang kiệm được bao nhiêu triệu Reichmark khơng? Đấy là cịn chưa nĩi đến những cái giường bệnh viện được giải phĩng để cho thương binh từ các mặt trận” (Littell, 2008b, tr. 421) Thực chất, vợ chồng người chị song sinh khơng hề cĩ mặt ở đĩ Tất cả chỉ là sự tưởng tượng của Max Nĩi một cách chính xác hơn thì đĩ chính là quá trình Max tự chất vấn, tự đối thoại với mình Đĩ là sự giằng co giữa con người lý tưởng và con người của ý thức Max đang cố đấu tranh để tự chỉ ra những sai lầm mà anh ta vẫn đang cố bám lấy, bởi lúc đĩ lịng tin của anh ta vào chủ nghĩa quốc xã đã bắt đầu sụp đổ Khi đối thoại với nhau, bản chất của tư tưởng sẽ được lộ diện trong quá trình “phản bác” và “đáp ứng” lẫn nhau Điều đĩ cùng với bản chất đặc trưng của dịng văn học hậu hiện đại là hiện tượng “bất tín nhận thức” (sự thiếu tin tưởng đối với khả năng nhận thức của con người về thế giới, sự mất niềm tin đối với những tri thức đã được xem là đã định hình) đã dẫn đến thái độ hồi nghi, phê phán đối với bản chất các sự vật hiện tượng Sự hồi nghi được thể hiện ở nhiều bình diện Trước hết là sự hồi nghi về chiến tranh. Tư tưởng Volkisch thúc đẩy nước Đức tiến hành chiến tranh để địi lại vị trí bá chủ của mình, để cho mỗi người dân Đức cĩ cuộc sống tốt hơn Nhưng liệu đĩ cĩ phải là sự thật khơng khi Max thấy những đồn tàu vơ vét của cải từ những nước bị chiếm đĩng đưa về Đức, nhìn thấy cảnh máu người Đức (và các dân tộc khác) liên tục đổ một cách phi lý để cho những kẻ cầm đầu ăn chơi phè phỡn Liệu rằng người Đức cĩ được sung sướng hơn khơng khi mà những người lang thang, những người tâm thần, thậm chí những người thương binh khơng cịn khả năng chiến đấu cũng bị loại bỏ một cách khơng thương tiếc Chúng ta cảm nhận được một luồng tư tưởng phản chiến xuyên suốt tác phẩm, đi ngược lại với cái guồng quay sục sơi của những con người đang điên cuồng với lý tưởng quốc xã Khơng chỉ hồi nghi về chiến tranh, sự hồi nghi đĩ cịn hướng đến chính sách bài Do Thái của hệ tư tưởng Volkisch Littell đã cho thấy được bản chất của tư tưởng cực đoan đĩ Người Do Thái bị tàn sát khơng phải bởi họ là một dân tộc thấp kém, khơng phải do họ là những kẻ keo kiệt, bủn xỉn và mang lại tai họa cho lồi người như chủ nghĩa quốc xã đã tuyên truyền mà đĩ chỉ là vấn đề chính trị: “vấn đề Do Thái khơng phải là một vấn đề nhân loại, đĩ khơng phải là vấn đề tơn giáo, nĩ chỉ duy nhất một vấn đề vệ sinh chính trị” (Littell, 2008a, tr. 21). Littell cịn thể hiện sự phê phán của mình đối với chủ nghĩa quốc xã Chính Ohlendorf, một nhân vật cấp cao trong bộ máy phát xít đã nĩi: “nhà nước phải được đặt dưới Volk. Dưới chủ nghĩa phát xít, con người khơng cịn chút giá trị tự thân nào nữa, họ trở thành những thứ đồ vật của nhà nước” (Littell, 2008a, tr. 253) Max là một kẻ cĩ lịng đam mê đối với lý tưởng quốc xã như phần lớn thế hệ trẻ Đức lúc bấy giờ Thế nhưng, sau khi phải chứng kiến tất cả những gì chủ nghĩa quốc xã đã làm, anh thực sự vỡ mộng: “một người cĩ lịng tin? Trước đây tơi đã từng là một người như thế, nhưng giờ đây nĩ đâu mất rồi, sự sáng sủa của niềm tin trong tơi?” (Littell, 2008a, tr. 579). Khi lịng tin đã mất, khi mọi nền tảng làm điểm tựa đã bị đổ vỡ thì con người thực sự thấy bế tắc, tuyệt vọng Tất cả chỉ cịn lại sự giả dối, bịp bợm và độc ác Đâu là giá trị vĩnh hằng? Đâu là chân lý? Đâu là sự thật? Con người cĩ thực sự tồn tại hay khơng? Thế giới này rồi sẽ đi về đâu? Những câu hỏi đĩ thực sự là những mũi dao đâm vào tâm can của những ai cĩ lương tri, trách nhiệm Khi con người thực sự khổ đau, tuyệt vọng thì đĩ là lúc để Chúa, đấng cứu thế tồn năng giang tay cứu vớt con người Nhưng Chúa ở đâu khi mà con người đang đi sai đường, linh hồn con người đang lạc lối? Chân lý khơng cịn ở luật pháp, quyền năng khơng cịn trong tay Chúa mà nằm trong tay kẻ độc tài Liệu Chúa cĩ thực sự tồn tại hay khơng khi người ta tuyên bố: “khơng cĩ Chúa, chỉ cĩ Adolf Hitler, uhrer của chúng ta và sức mạnh bất khả chiến bại của Reich Đức” (Littell, 2008a, tr. 76). 3.3 Đối thoại với người nghe chuyện và bản thơng điệp gửi “anh em con người” Người nghe chuyện (narrataire) là khái niệm được G Prince đề xuất năm 1971, sau đĩ được Genette bổ sung khá đầy đủ trong cơng trình Dẫn luận nghiên cứu người nghe chuyện. Lê Phong 105
  6. Tạp chí Khoa học – Số 01 (2013): 101 – 107 Trường Đại học An Giang Tuyết (2005), trong bài viết “Tiếp cận Genette qua một vài khái niệm trần thuật” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu văn học đã phân tích khá rõ quan điểm của Prince: “Theo Prince, trái với người đọc (chúng ta hiểu là người đọc thực tế tức là chúng ta), người nghe chuyện là một hư cấu tương ứng với hình ảnh do người kể chuyện tạo ra” (Lê Phong Tuyết, 2005, tr. 83). Trong phần viết về Độ 0 người nghe chuyện, Prince đã cho rằng: “người nghe chuyện ở độ 0 tức là người nghe chuyện biết tiếng nĩi của người kể, cĩ một trí nhớ chắc chắn khơng sai, nhưng anh ta khơng biết trước về các nhân vật của truyện và một mình anh ta khơng thể bình luận về giá trị của những hành động các nhân vật đĩ” (Lê Phong Tuyết, 2005, tr. 83]. Cũng theo Prince, “những dấu hiệu để nhận biết người nghe chuyện được tốt ra từ truyện: đĩ là khi tác giả cĩ những lời như người đọc, thính giả hoặc những quán ngữ như bạn thân mến của tơi, bạn của tơi; đĩ là những câu hỏi đơi khi phát ra khơng phải từ người kể chuyện hay nhân vật; đĩ là những câu xin lỗi của người kể chuyện” (Lê Phong Tuyết, 2005, tr. 83). Đối thoại với người nghe chuyện là một hình thức đối thoại rất độc đáo trong “Những kẻ thiện tâm”. Ngồi những cuộc đối thoại tư tưởng được thực hiện bởi các nhân vật, sự va chạm của các nền văn hĩa, tác phẩm cịn hướng đến sự tiếp xúc liên cá nhân thơng qua sự mở rộng đối thoại với những người nghe chuyện Ngay từ những trang đầu tiên của tác phẩm, ý thức đối thoại đĩ đã được thể hiện khá rõ Đối tượng mà người kể chuyện hay nĩi đúng là người kể chuyện thay mặt tác giả hướng tới là “các anh em con người”, là tất cả những ai cĩ lương tri, trách nhiệm, tất cả những ai quan tâm đến một thời kì lịch sử đau thương của nhân loại: “Này các anh em con người, hãy nghe tơi kể chuyện đã xảy ra như thế nào Chúng ta khơng phải là các anh em của ngươi, các người sẽ vặn lại, và chúng ta khơng muốn biết” (Littell, 2008a, tr. 9) Mặc dù là một kẻ nằm trong cấu trúc văn bản tự sự, nhưng người nghe chuyện khơng phải là kẻ cĩ khả năng tranh biện trực tiếp với người kể chuyện Anh ta là đối tượng hướng đến của người kể chuyện, là người mà người kể chuyện tưởng tượng đang trực tiếp nghe câu chuyện của mình Trong ý thức của người kể chuyện, người nghe chuyện vẫn là kẻ cĩ cĩ tư duy độc lập, nhưng “hắn” là kẻ sinh ra để “nghe” chứ khơng phải để phát ngơn Do đĩ, cuộc đối thoại giữa người kể chuyện và người nghe chuyện là cuộc đối thoại một chiều mang tính chất giả định Người kể chuyện tự đặt ra câu hỏi và giả định như người nghe chuyện đang vặn lại mình, rồi anh ta lại tự thanh minh, giải thích: “đừng nghĩ tơi tìm cách thuyết phục các người một điều gì; mà ý kiến của các người đâu cĩ quan hệ gì tới tơi, sau từng ấy năm, tơi quyết định viết chỉ là để sắp xếp lại mọi chuyện, vì tơi, khơng phải vì các người” (Littell, 2008a, tr. 9). Sự đối thoại đĩ đơi khi được người kể chuyện đẩy lên một mức độ khá gay gắt: “tơi khơng nĩi rằng tơi khơng cĩ tội về điều này hay điều kia Tơi cĩ tội, các người khơng cĩ tội, thế là tốt rồi” (Littell, 2008a, tr. 30). Qua sự đối thoại đĩ bản chất của nhiều vấn đề được lộ diện: “các người hẳn phải thấy rằng tơi nĩi cho các người tất cả những cái đĩ một cách hết sức lạnh lùng: chỉ đơn giản để chứng tỏ cho các người thấy rằng việc tiêu diệt dân tộc của Moise dưới bàn tay của chúng tơi khơng chỉ phát sinh từ một niềm căm thù phi lý tính đối với người Do Thái Chúng tơi chỉ khác biệt với bên ơnsêvich ở những ưu tiên của hai bên đối với các hạng mục vấn đề cần giải quyết: cách tiếp cận của họ dựa trên một cách đọc xã hội theo chiều ngang (các giai cấp), cịn cách của chúng tơi, theo chiều dọc (các chủng tộc), nhưng cả hai đều cĩ tính mục đích luận ngang nhau” (Littell, 2008b, tr. 169). Thơng qua sự đối thoại đĩ, câu chuyện đau thương của lịch sử được mở ra và dần hé lộ bản thơng điệp “gửi anh em con người” Người kể chuyện đưa ra bốn lí do để viết: viết vì nĩ liên quan đến tất cả chúng ta: “các người sẽ thấy rõ nĩ liên quan đến các người”; viết để “khuyến thiện” bởi đây là một “câu chuyện ngụ ngơn thực sự”; viết để tiêu thời gian; và cuối cùng là viết để “soi sáng một hoặc hai điểm cịn khĩ hiểu, cĩ thể đối với người khác và chính tơi” (Littell, 2008a, tr. 11) Từ những “khoảng trắng” cịn để ngỏ trong cuộc sống cũng như trong tâm hồn Max, chúng ta nhận ra rằng câu chuyện thực sự là một cuộc hành trình đi tìm bản thể của con người trong chiến tranh Max ra khỏi chiến tranh “với tư cách một con người trống rỗng, chỉ cĩ trong mình niềm cay đắng và một 106
  7. Tạp chí Khoa học – Số 01 (2013): 101 – 107 Trường Đại học An Giang nỗi xấu hổ dài dặc, giống như thứ cát nghiến lạo xạo trong hàm răng”, “cĩ lẽ vì thế mà tơi viết những kỉ niệm này để tự kích thích, xem liệu tơi cịn cĩ thể cảm thấy điều gì nữa hay khơng, liệu tơi cịn biết đau khổ chút nào khơng (Littell, 2008a, tr. 19) Như vậy, nếu như thời gian từ trong chiến tranh trở về trước, đĩ là cuộc hành trình của vơ thức, thì sau chiến tranh, với hành động viết lại tất cả, đĩ là một ước muốn kiểm chứng cĩ ý thức Anh ta muốn nghiệm lại xem thực sự mình là ai, là cái gì trong cuộc đời này? Mình muốn tìm cái gì trong cuộc sống? Và tại sao lại phải kéo dài kiếp sống lê thê này? Max khơng phải là một kẻ cĩ bản chất độc ác, và xét cho cùng cũng chẳng phải là một kẻ thực sự cuồng tín đối với hệ tư tưởng Volkisch Tuy nhiên, dù cĩ trăn trở, cĩ băn khoăn suy nghĩ nhưng thực sự anh ta cũng khơng quá đau khổ khi thực hiện hành vi tội ác Thậm chí, anh ta cịn từ chối cả lời đề nghị được chuyển đi khỏi cơng việc diệt trừ Do Thái đầy ghê tởm đĩ: “tơi cũng cĩ thể xin được đi khỏi, hẳn là thậm chí tơi cịn cĩ thể cĩ được lời giới thiệu tốt từ lobel hoặc tiến sĩ Rasch Vậy tại sao tơi khơng làm việc đĩ? Chắc là vì tơi chưa hiểu những gì mà tơi muốn hiểu Liệu rằng cĩ bao giờ tơi hiểu được chúng hay khơng?” (Littell, 2008a, tr. 161). Nhân vật cứ mị mẫm dị tìm một cái gì đĩ mơ hồ trong cuộc sống mà khơng ý thức được rằng mình đang đi tìm chính câu trả lời về chính bản thể của mình Với một nhân cách cịn dang dở, Max đã để lại một cuộc hành trình cịn dang dở Hành động viết lại câu chuyện cũng chính là một sự thể hiện rằng anh ta vẫn cịn đang tiếp tục cuộc hành trình khổ đau của mình “Những kẻ thiện tâm” cịn là lời cảnh tỉnh của tác giả đối với “anh em con người” về nguy cơ suy kiệt lương tâm và sự lên ngơi của cái Ác Kate Hambuger trong cuốn Logic về các thể loại văn học đã cho rằng: “sự chuyển hĩa về ngữ nghĩa là ở chỗ thời quá khứ mất chức năng về ngữ pháp để chỉ quá khứ” (Hambuger, 2004, tr. 112). Khơng ai viết về quá khứ chỉ vì quá khứ Người ta luơn viết về quá khứ từ hiện tại và cho hiện tại. Tác phẩm cũng cho thấy được sự bất lực của con người trong thế giới hậu hiện đại Chúng ta nhiều khi phải cưỡng lại những ham muốn làm người; điều đĩ cĩ thể dẫn đến một hậu quả con người cĩ thể đánh mất chính bản thân mình, mất luơn cả lịng tin vào cuộc sống Cuối cùng, tất cả những gì cịn lại chỉ là một sự bất lực trước hiện thực đầy phi lý “Những kẻ thiện tâm” như là một hồi chuơng cảnh tỉnh con người đang chìm đắm trong guồng máy danh vọng, quyền lực của xã hội hậu hiện đại, mà khơng hay biết rằng, chính điều đĩ đơi khi vơ tình đã tiếp tay cho cái ác lên ngơi. TÀI LIỆU THAM KHẢO Đào Tuấn Ảnh, Lại Nguyên Ân và Nguyễn Thị Hồi Thanh sưu tầm và biên soạn, (2003), Văn học hậu hiện đại thế giới, những vấn đề lý thuyết, Hà Nội, NX Hội nhà văn, trang 32. Lại Nguyên Ân (2004), 150 Thuật ngữ văn học, Hà Nội, NX Đại học quốc gia Hà Nội. Bakhtin, M. (1993), Những vấn đề thi pháp Đơxtơiepxki, Trần Đình Sử dịch, Hà Nội, NX Giáo Dục Hambuger, K. (2004), Logic về các thể loại văn học, Vũ Hồng Địch, Trần Ngọc Vương dịch, Hà Nội, NX Đại học Quốc gia Hà Nội, tr 112 Littell, J. (2008a), Những kẻ thiện tâm, tập 1, CaoViệt Dũng dịch, Hà Nội, NX Hội nhà văn Littell, J. (2008b), Những kẻ thiện tâm, tập 2, CaoViệt Dũng dịch, Hà Nội, NX Hội nhà văn Phạm Gia Lâm, Motip Kyto giáo trong tiểu thuyết 'Nghệ nhân và Margarita' của M ulgakov Đọc từ: www.nguoibanduong.net/index.php? Lê Phong Tuyết (2005), “Tiếp cận Genette qua một vài khái niệm trần thuật”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (8), tr. 75 – tr. 89 Ngày nhận bài: 08/09/2013 Ngày bình duyệt 01/10/2013 Ngày chấp nhận: 06/11/2013 107