Vai trò nhà nước trong phát triển kinh tế Thủ đô theo hướng bền vững

pdf 10 trang phuongnguyen 2360
Bạn đang xem tài liệu "Vai trò nhà nước trong phát triển kinh tế Thủ đô theo hướng bền vững", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfvai_tro_nha_nuoc_trong_phat_trien_kinh_te_thu_do_theo_huong.pdf

Nội dung text: Vai trò nhà nước trong phát triển kinh tế Thủ đô theo hướng bền vững

  1. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 26 (2010) 154 -163 Vai trò nhà nước trong phát triển kinh tế Thủ đô theo hướng bền vững PGS.TS. Phạm Văn Dũng* Khoa Kinh tế Chính trị, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 15 tháng 08 năm 2010 Tóm tắt. Phát triển kinh tế bền vững đang là mục tiêu quan trọng nhất đối với mỗi quốc gia cũng như mỗi địa phương. Là Thủ đô nghìn năm tuổi, phát triển kinh tế bền vững của Hà Nội có ý nghĩa trên nhiều phương diện trong giai đoạn cả nước đang chuyển mình hiện nay. Trong những năm qua, Hà Nội đã đạt được những thành tựu đáng kể trong phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, kinh tế Hà Nội phát triển chưa thật bền vững: cơ cấu kinh tế lạc hậu, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp; nhiều vấn đề xã hội và môi trường bức xúc Bởi vậy, Đảng, Nhà nước ta và Chính quyền thành phố Hà Nội cần nhanh chóng thực thi hàng loạt giải pháp vừa phải phù hợp với xu thế phát triển chung của đất nước và thế giới, vừa phải phù hợp với những tiềm năng, lợi thế và vị thế của Thủ đô để xây dựng kinh tế Hà Nội phát triển bền vững. 1. Phát triển bền vững và vai trò của nhà quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hài nước trong phát triển bền vững * hoà giữa tăng trưởng kinh tế, cải thiện các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường Nói cách Khái niệm phát triển bền vững do Liên khác, phát triển bền vững phải dựa trên ba trụ minh quốc tế bảo tồn thiên nhiên (IUCN) đưa ra cột: bền vững kinh tế, bền vững xã hội và bền vào đầu thập niên tám mươi của thế kỷ XX, với vững môi trường. nội dung là: Sự phát triển của nhân loại không Bền vững về kinh tế thể hiện trước hết ở tốc thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn độ tăng trưởng tương đối cao và ổn định. Trong phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội cơ chế thị trường nền kinh tế lại phát triển theo và sự tác động đến môi trường sinh thái học(1). chu kỳ, tức là sau một thời kỳ tăng trưởng Khái niệm đó đã được nhiều tổ chức quốc tế sử nhanh nền kinh tế lại rơi vào suy thoái, thậm dụng và tiếp tục nghiên cứu bổ sung, hoàn chí khủng hoảng, nên để bảo đảm tính bền thiện. Đến Hội nghị thượng đỉnh thế giới về vững, Nhà nước phải có chính sách nhằm đáp phát triển bền vững ở Johannesbug (Cộng hoà ứng ba yêu cầu cơ bản: 1) Duy trì mức tăng Nam Phi) năm 2002, khái niệm phát triển bền trưởng tương đối cao; 2) Tăng trưởng kinh tế vững được làm rõ hơn: Phát triển bền vững là mang tính ổn định (Tính ổn định của tăng trưởng vừa thể hiện năng lực sản xuất ổn định, ___ khả năng bảo đảm nguồn lực cho tăng trưởng * ĐT: (84) 912464494 và khả năng chống chịu được với những biến E-mail: dungpv@vnu.edu.vn động bên trong và bên ngoài nền kinh tế); 3) (1) %83n_b%E1%BB%81n_v%E1%BB%AFng Nâng cao chất lượng tăng trưởng (tức là tăng 154
  2. P.V. Dũng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 26 (2010) 154-163 155 trưởng theo chiều sâu, dựa vào nâng cao năng lợi ích của thế hệ hiện tại không được làm xói suất, chất lượng và hiệu quả). mòn các cơ hội tăng trưởng và phát triển của Bền vững về xã hội biểu hiện ở việc giảm thế hệ tương lai. Theo ý nghĩa này, tăng trưởng thiểu được tỷ lệ thất nghiệp xuống mức thấp, kinh tế nhanh đi kèm với sự gia tăng ô nhiễm tạo điều kiện để người dân có phương tiện mở môi rộng cơ hội lựa chọn và nâng cao năng lực lựa trường, sự “Phát triển bền vững là quá trình chọn của mình. Ở nhiều nước, tăng trưởng kinh cạn kiệt tài phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, tế rất thấp nên đương nhiên ít có cơ hội mở nguyên hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế, rộng việc làm nhưng thực tế này cũng tồn tại ở thiên nhiên cải thiện các vấn đề xã hội và bảo vệ ngay cả những nước tăng trưởng kinh tế nhanh là một quá môi trường ” hơn. Vì vậy, các cơ hội việc làm phụ thuộc trình tăng không nhỏ vào các chiến lược và chính sách trưởng không có tương lai, không bền vững. tăng trưởng của nhà nước. Bền vững về xã hội Vượt ra ngoài khuôn khổ của vấn đề môi còn thể hiện ở tốc độ xoá đói giảm nghèo, phát trường, các thế hệ hiện tại còn phải lường trước triển văn hoá, y tế, giáo dục, thể dục thể thao; được những thách thức khác mà thế hệ tương thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội lai phải gánh chịu. Trên thực tế, người dân còn phải đối phó Do theo đuổi lợi nhuận, các doanh nghiệp thường không quan tâm đầy đủ đến việc bảo vệ với sự bất an đến từ nhiều nguồn khác nhau, tài nguyên và môi trường. Ngay cả quá trình như mất ổn định xã hội, dịch bệnh, chiến phát triển xã hội: nâng cao thu nhập cho người tranh Những nhân tố này có thể tác động trực dân, công nghiệp hóa, đô thị hóa cũng làm gia tiếp đến năng lực và môi trường làm việc của tăng nguy cơ cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi người dân, đến cơ hội việc làm và chất lượng trường. Bởi vậy, nhà nước có vai trò hết sức to cuộc sống của họ, đồng thời có thể làm cho nền lớn trong việc đảm bảo sự phát triển kinh tế sản xuất bị ngừng trệ, thậm chí bị khủng hoảng hiệu quả, xã hội công bằng và môi trường được nghiêm trọng. Bởi vậy, để phát triển bền vững, bảo vệ, gìn giữ nhằm giảm thiểu những nguy cơ nhà nước phải củng cố quốc phòng - an ninh, về khủng hoảng môi trường tự nhiên, nghèo đói giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội và sự khác biệt xã hội. Bền vững về môi trường thể hiện ở việc khai thác tài nguyên để thỏa mãn nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không ảnh hưởng đến tương 2. Vai trò nhà nước trong phát triển Thủ đô lai. Nói cách khác, bền vững về môi trường đòi theo hướng bền vững trong những năm qua hỏi phát triển kinh tế phải gắn với sử dụng hiệu quả, bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên và Với vị thế là một trong ba đỉnh của tam giác môi trường sinh thái. Do vậy, tăng trưởng kinh tăng trưởng thuộc vùng kinh tế trọng điểm đồng tế bền vững không thể dựa chủ yếu vào khai bằng sông Hồng; là trung tâm chính trị, kinh tế, thác tài nguyên, xuất khẩu nguyên liệu và sản văn hoá, khoa học - công nghệ của đất nước, sự phẩm sơ chế, mà cần gắn với quá trình giảm phát triển bền vững của Hà Nội sẽ lan tỏa mạnh tiêu hao nguyên, nhiên liệu, giảm chi phí trung mẽ đến vùng kinh tế trọng điểm đồng bằng gian, tăng tỷ trọng các yếu tố phi vật thể trong sông Hồng và các vùng, địa phương khác. Bởi giá thành sản phẩm, tăng giá trị gia tăng trong vậy, góp phần vào sự phát triển nhanh và bền sản phẩm Vấn đề bảo vệ rừng và trồng rừng, vững của Hà Nội là nghĩa vụ của toàn dân, bảo vệ tài nguyên nước, bảo vệ nguồn lợi thuỷ nhưng trước hết vẫn là trách nhiệm của Đảng, sản; thay thế nguyên, nhiên liệu truyền thống Nhà nước và Chính quyền thành phố Hà Nội. bằng nguyên, nhiên liệu mới; đổi mới công Nhận thức được điều đó, trong thời kỳ đổi nghệ theo hướng sản xuất phải thân thiện với mới, Nhà nước và Chính quyền thành phố đã môi trường, kiểm soát ô nhiễm cũng cần quan ban hành hàng loạt cơ chế, chính sách, nhằm tâm đặc biệt. Tăng trưởng kinh tế nhằm phục vụ tạo điều kiện cho Hà Nội phát triển nhanh và
  3. 156 P.V. Dũng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 26 (2010) 154-163 bền vững, như: chuyển đổi cơ chế quản lý kinh nhanh; cấu trúc nền kinh tế thị trường mang tế, phát triển kinh tế nhiều thành phần; mở cửa, tính đồng bộ đã từng bước được hình thành hội nhập; xây dựng môi trường pháp luật theo Đó là những tiền đề quan trọng cho phát triển hướng thông thoáng, phù hợp thông lệ quốc tế, nhanh và bền vững. xây dựng và ban hành pháp lệnh Thủ đô Nhờ Trong những năm qua, Hà Nội đã đạt được đó, đời sống chính trị, xã hội từng bước được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, góp phần đáng dân chủ hóa; tích lũy các nguồn lực được đẩy kể vào tăng trưởng kinh tế nhanh của đất nước. Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của cả nước và Hà Nội (%) 2006 2007 2008 2009 Cả nước* 8,23 8,46 6,31 5,32 Hà Nội 12,2 12,5 10,7 6,7 *Tổng cục thống kê: Niên giám thống kê 2009, Nxb Thống kê, Hà Nội - 2010, tr.92. Cục Thống kê Hà Nội: Niên giám thống kê 2009, Hà Nội - tháng 5/2010, tr.62 (tính theo Hà Nội mở rộng). Nhìn chung, tốc độ tăng trưởng kinh tế của kịp thời trên Cổng giao tiếp điện tử của Thành phố Hà Nội luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế và các trang web của các sở, ban, ngành. của cả nước. Cùng với thành phố Hồ Chí Minh, Chính quyền thành phố cũng rất quan tâm Hà Nội đã trở thành đầu tầu tăng trưởng kinh tế giải quyết việc làm cho người lao động và đạt của đất được những thành tựu rất đáng khích lệ. Nhờ nước. Cơ “Nhà nước và Chính quyền thành đó, tỷ lệ thất nghiệp ở Thủ đô tương đối thấp. cấu kinh phố đã ban hành hàng loạt cơ chế, Đối với vấn đề bảo vệ môi trường, Thành tế của Hà chính sách, nhằm tạo điều kiện cho phố cũng đã quan tâm. Ở các khu công nghiệp Nội đã có Hà Nội phát triển nhanh và bền lớn, các cơ quan chức năng của thành phố đều những vững, để xứng đáng là đầu tầu tăng đặt ra yêu cầu cao với ban quản lý và các doanh thay đổi trưởng kinh tế của vùng kinh tế nghiệp về xử lý nước thải, khí thải. Bên cạnh tích cực. trọng điểm Bắc Bộ và của cả nước.” việc huy động các nguồn lực của doanh nghiệp, Bên cạnh chính quyền thành phố đã chủ động có những khu vực kinh tế truyền thống, khu vực kinh tế đầu tư nhất định để khắc phục tình trạng ô hiện đại đã xuất hiện và có vai trò quan trọng nhiễm môi trường. Mặc dù còn rất nhiều vấn đề trong đời sống kinh tế Thủ đô và đất nước. Đó cần được tiếp tục giải quyết nhưng rõ ràng là là những doanh nghiệp lớn, hiện đại, sản xuất Nhà nước trung ương và Chính quyền địa những sản phẩm cao cấp: xe hơi, máy tính, máy phương đã đóng vai trò quan trọng trong việc ảnh, thiết bị y tế Các ngành dịch vụ cao cấp: ngăn chặn tốc độ gia tăng ô nhiễm môi trường. viễn thông, tài chính, khoa học - công nghệ đã Hoạt động bảo vệ môi trường được nỗ lực thực hình thành. hiện với cả mục tiêu trước mắt và lâu dài, bao Chính quyền thành phố Hà Nội đã xây dựng và ban hành hàng loạt cơ chế, chính sách về thủ gồm: xây dựng quy hoạch hệ thống thoát nước, tục đầu tư các dự án trong và ngoài nước; về xử lý nước thải trên địa bàn và triển khai thông phát triển thị trường nội địa; các qui định cụ thể qua dự án thoát nước nhằm cải tạo môi trường liên quan đến xã hội hóa đầu tư và hỗ trợ phát giai đoạn 1 và 2; xây dựng quy hoạch xử lý chất triển sản xuất kinh doanh tạo hành lang pháp lý thải rắn; xây dựng và hoàn chỉnh quy hoạch thuận lợi cho các doanh nghiệp. Các văn bản tổng thể môi trường của thành phố Hà Nội; quy phạm pháp luật, chính sách mới và các thủ Chính quyền thành phố đang phối hợp với Cục tục hành chính của Thành phố đều được công khai khí tượng thuỷ văn và biến đổi khí hậu - Bộ Tài
  4. P.V. Dũng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 26 (2010) 154-163 157 nguyên và Môi trường xây dựng Đề án lập bản Trong thời kỳ 2007-2009, chỉ số năng lực đồ nhằm khắc phục tình trạng ngập lụt trên địa cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của Hà Nội đã có sự bàn thành phố Hà Nội; chỉ đạo xây dựng, phát tiến bộ, năm 2009 đứng thứ 25/64, tăng 13 bậc triển và quản lý hệ thống cây xanh đô thị, công so với năm 2006 (năm 2006 Hà Nội xếp vị trí viên, vườn hoa, vườn thú trên địa bàn Thành 38/64; năm 2007 - 27/64; năm 2008 giảm 4 bậc (2) phố xuống vị trí 31/64 tỉnh, thành) . Bảng 2: Lao động chưa có việc làm và đã được giải quyết việc làm khu vực thành thị Đơn vị: người 2005 2006 2007 2008 2009 I. Số người được giải 57.074 60.238 63.000 66.027 67.215 quyết việc làm -Việc làm ổn định 30.712 32.966 33.976 35.569 36.005 -Việc làm tạm thời 26.362 27.272 29.024 30.458 31.210 II. Số người đăng ký tìm 55.615 58.038 62.511 55.249 56.964 việc làm Cục thống kê Hà Nội: Niên giám thống kê 2009, Hà Nội - tháng 5/2010, tr.49 (tính theo Hà Nội mở rộng). Bên cạnh những thành tựu, quá trình phát dựng tương đối đồng bộ, hiện đại, chất lượng triển của Hà Nội còn nhiều biểu hiện chưa thật cao hơn nhiều địa phương khác. Hà Nội là trung bền vững. Điều đó biểu hiện tập trung ở chỉ số tâm khoa học - công nghệ của cả nước; có hàng năng lực cạnh tranh cấp tỉnh(3). Nằm trong vùng chục trường đại học, hàng trăm trường cao đẳng kinh tế trọng điểm đồng bằng sông Hồng, là thủ và dạy nghề. Với hơn 6,5 triệu dân, Hà Nội còn đô của cả nước, Hà Nội có rất nhiều lợi thế là thị trường tiềm năng về nhiều phương diện trong quá trình phát triển. Trước hết, điều kiện So với những lợi thế đó, chỉ số cạnh tranh cấp tự nhiên tương đối thuận lợi, ít thiên tai; kết cấu tỉnh của Hà Nội là quá thấp. hạ tầng kinh tế - xã hội của Hà Nội được xây Fjk “Chỉ số cạnh tranh của Hà Nội thấp là không oan” Theo Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Thế Thảo, vị trí của Hà Nội trong bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh các tỉnh là không “oan” khi đối chiếu với lợi thế. Ông Thảo cũng thẳng thắn thừa nhận, độ nhạy của chính quyền và doanh nghiệp Hà Nội chưa cao. Trong buổi gặp gỡ với các doanh nghiệp trên địa bàn, Chủ tịch UBND TP Nguyễn Thế Thảo đã rất tế nhị khi nói rằng, lãnh đạo các tỉnh khác “thèm” lợi thế của Hà Nội và thực tế, các tỉnh lân cận thường tìm cách tranh thủ ảnh hưởng những lợi thế của Hà Nội để phát triển. (2)(3) ngày 30/03/2010. ___ (2) UBND TP Hà Nội: Tình hình hội nhập kinh tế quốc tế của Thành phố Hà Nội sau 3 năm Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới (2007-2009) phương hướng, nhiệm vụ năm 2010 và các năm tiếp theo. ngày 30 tháng 12 năm 2009. (3) Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) được xác định trên cơ sở 10 tiêu chí: 1) Chính sách phát triển kinh tế tư nhân. 2) Tính minh bạch. 3) Đào tạo lao động. 4) Tính năng động và tiên phong của lãnh đạo. 5) Chi phí thời gian để thực hiện quy định của Nhà nước. 6) Thiết chế pháp lý. 7) Ưu đãi đối với doanh nghiệp Nhà nước. 8) Chi phí không chính thức. 9) Tiếp cận đất đai và sự ổn định trong sử dụng đất. 10) Chi phí gia nhập thị trường.
  5. 158 P.V. Dũng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 26 (2010) 154-163 Trong bối cảnh mới của đất nước, bài toán tục hành chính rườm rà cũng là những nhân tố khó đặt ra cho thành phố Hà Nội chính là phải ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả hoạt động đẩy mạnh khả năng cạnh tranh, phát triển Thủ của doanh nghiệp. Do đó, tỷ trọng công nghiệp đô theo hướng bền vững, để xứng đáng là đầu của Hà Nội càng lớn, tốc độ tăng trưởng càng tầu tăng trưởng kinh tế của vùng kinh tế trọng nhanh, sức cạnh tranh của Hà Nội sẽ càng kém. điểm Bắc Bộ và của cả nước. Trong những năm vừa qua, chỉ số phát triển giá trị sản xuất công nghiệp của Hà Nội cao hơn của cả nước là nguyên nhân quan trọng làm cho 3. Một số khuyến nghị nhằm nâng cao vai trò chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh của Hà Nội chỉ ở mức nhà nước, phát triển Thủ đô theo hướng bền trung bình. vững Có thể khẳng định rằng, phát triển các ngành công nghiệp truyền thống như dệt may, Để phát triển bền vững Hà Nội cần đi trước da giày, sản xuất phụ tùng và lắp ráp xe hơi, xe cả nước trong việc chuyển đổi mô hình tăng máy không phải là lợi thế của Hà Nội. Nhìn trưởng theo chiều rộng sang mô hình tăng chung, Hà Nội chưa có đột phá về kinh tế dựa trưởng theo chiều sâu. trên các lợi thế của mình. Do đó, cơ cấu ngành Trên phạm vi cả nước, mô hình tăng trưởng kinh tế của Hà Nội trong nhiều năm nay hầu theo chiều rộng đã tới hạn, đang bộc lộ rất như không có thay đổi đáng kể (xem bảng 4). nhiều nhược điểm. Đối với Hà Nội, những Từ đó có thể khẳng định, tăng trưởng kinh tế nhược điểm này càng được thể hiện rõ ràng. của Hà Nội trong những năm qua chủ yếu dựa Nếu tiếp tục phát triển các ngành công nghiệp vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng, sử truyền thống, với giá thuê đất, tiền công lao dụng nhiều vốn và lao động, trình độ công nghệ động ở Hà Nội đắt hơn nhiều so với các địa thấp, tiêu hao năng lượng và vật chất cao, hiệu phương khác thì chi phí sản xuất của các doanh quả đầu tư thấp so với cả nước (tổng vốn đầu tư nghiệp ở Hà Nội sẽ cao hơn chi phí sản xuất xã hội trên địa bàn thành phố chiếm 16,21% của các doanh nghiệp cùng ngành ở các địa tổng vốn đầu tư cả nước, song chỉ tạo ra 12,1% phương khác. Tình trạng ách tắc giao thông, thủ GDP cả nước)(4). Bảng 3: Chỉ số phát triển công nghiệp của cả nước và Hà Nội 2005 2006 2007 2008 2009 Cả nước 17,1 16,8 16,7 13,9 7,6 Hà Nội 19,9 21,8 22,1 15,9 8,3 Tổng cục thống kê: Niên giám thống kê 2009, Nxb Thống kê, Hà Nội - 2010, tr.367. Bảng 4: Cơ cấu kinh tế của Hà Nội trong những năm qua (%) 2000 2005 2006 2007 2008 2009 Nông, lâm nghiệp, thủy sản 10,4 6,9 6,4 6,6 6,5 6,3 Công nghiệp, xây dựng 36,4 40,7 41,4 41,3 41,1 41,1 Dịch vụ 53,2 52,4 52,2 52,1 52,4 52,6 Cục thống kê Hà Nội: Niên giám thống kê 2009, Hà Nội - tháng 5/2010 tr.60 (tính theo Hà Nội mở rộng).(4) ___ (4) UBND TP Hà Nội: Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, Hà Nội, tháng 4 năm 2010, tr.13-14.
  6. P.V. Dũng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 26 (2010) 154-163 159 Vấn đề ô nhiễm môi trường trên địa bàn dịch vụ tài chính, ngân hàng, viễn thông, giáo thành phố ngày càng trở nên nghiêm trọng. dục - đào tạo, y tế, văn hoá Đây là những lĩnh Trong tổng số 11 khu công nghiệp, 49 cụm vực cốt yếu của nền kinh tế hiện đại và Hà Nội công nghiệp, chỉ có 3 khu công nghiệp và 2 có ưu thế nổi trội so với nhiều địa phương khác. cụm công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải Đồng thời, Hà Nội cũng cần chú ý khai thác tập trung. Chỉ có khoảng 85-90% lượng chất tiềm năng khu vực nông thôn rộng lớn. Sản thải rắn được thu gom và 60% được xử lý. xuất nông nghiệp của Hà Nội cần sớm được Trong tổng số 500 nghìn m3/ ngày đêm nước quy hoạch lại theo hướng giảm dần, tiến tới thải sinh hoạt tại khu vực đô thị mới có khoảng ngừng sản xuất lương thực và chăn nuôi những trên 6 nghìn m3 được xử lý. Các con sông trên gia súc truyền thống (lợn, gà, ngan, vịt ) vì sản địa bàn như sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu, xuất những sản phẩm đó không phải là lợi thế sông Lừ, sông Sét, sông Nhuệ, sông Đáy đều của Hà Nội, giá trị gia tăng thấp, tiêu tốn nhiều bị ô nhiễm nặng. tài nguyên. Nông nghiệp Hà Nội cần được quy Chương trình cải cách hành chính của thành hoạch thành những vùng chuyên canh rau sạch, phố chưa theo kịp yêu cầu; thủ tục hành chính trồng hoa, cây cảnh; chăn nuôi những vật nuôi còn nhiều phiền hà, vướng mắc. Tổ chức bộ có giá trị cao như ba ba, cá sấu, chim cảnh, cá máy, chức năng, nhiệm vụ của hệ thống hành cảnh Định hướng phát triển đó không chỉ chính còn cồng kềnh, chồng chéo; sự phối hợp nhằm hiện đại hóa nông nghiệp Thủ đô, mà giữa các cơ quan có lúc, có nơi chưa hài hòa, quan trọng hơn là góp phần đáp ứng nhu cầu hiệu lực quản lý còn hạn chế(5) Tất cả những ngày càng cao của người dân, nâng cao thu điều nêu trên dẫn đến năng lực cạnh tranh của nhập cho nông dân trên địa bàn. Tóm lại, Hà Hà Nội bị suy giảm tương đối, phát triển chưa Nội phải đi nhanh vào hiện đại, phải sớm trở bền vững. Bởi vậy, chuyển đổi mô hình tăng thành trung tâm cung ứng các sản phẩm và dịch trưởng cần được ưu tiên hàng đầu. vụ cao cấp của đất nước và khu vực. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, lực b) Đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực. Đây lượng sản xuất phải dựa trên các ngành kinh tế là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển kinh có hàm lượng tri thức cao. Muốn phát triển rút tế bền vững và Hà Nội lại có ưu thế về nguồn ngắn và bền vững, đất nước ta, trước hết là lực này. Năm 2009, trên địa bàn Hà Nội có 77 những trung tâm kinh tế lớn như Hà Nội, thành trường đại học và cao đẳng (của địa phương 3 phố Hồ Chí Minh phải nhanh chóng tiếp cận trường) với 16541 giáo viên, 643350 sinh kinh tế tri thức. Nếu khai thác được những tiềm viên(6), chiếm hơn 70% cán bộ khoa h ọc đầu năng, thế mạnh hiện có, Hà Nội hoàn toàn có ngành và hơn 50% cán bộ khoa học có trình độ khả năng thực hiện được điều đó. sau đaị hoc̣ của cả nướ c. Có thể nói rằng, "nhân Để chuyển đổi mô hình tăng trưởng nhằm sĩ Bắc Hà" đang hội tụ ở Thủ đô. Hà Nội lại có phát triển kinh tế Thủ đô theo hướng bền vững, điều kiện thuận lợi hơn nhiều địa phương khác chính quyền Thành phố Hà Nội cần tập trung để giữ chân nguồn nhân lực chất lượng cao này. giải quyết những vấn đề chủ yếu sau. Vấn đề đặt ra là phải sớm có chính sách khai a) Xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại trên cơ thác, sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao sở tiềm năng, lợi thế của Thủ đô. Trước hết, Hà sẵn có. Hà Nội cần coi cả 77 trường đại học và Nội cần tập trung đầu tư cho các ngành công cao đẳng trên địa bàn là của mình và nếu làm nghệ cao như công nghệ thông tin, công nghệ như thế sẽ không cần đầu tư xây dựng mới các năng lượng, công nghệ vật liệu mới, công nghệ trường đại học và cao đẳng cho riêng địa sinh học và các ngành dịch vụ cao cấp như phương. Việc đầu tư, khai thác 77 trường đại ___ ___ (6) Cục thống kê Hà Nội: Niên giám thống kê 2009, Hà (5) Tài liệu trên tr.17. Nội - tháng 5/2010, tr.346 (tính theo Hà Nội mở rộng).
  7. 160 P.V. Dũng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 26 (2010) 154-163 học và cao đẳng sẵn có sẽ nhanh và hiệu quả trưởng của Hà Nội là phát triển khoa học - công hơn nhiều. nghệ. Trong những năm vừa qua, thành phố Trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu, quan tâm chưa đúng mức việc đầu tư cho khâu rộng, Hà Nội có thể và cần phải sử dụng các này. Thực tế cho thấy trên địa bàn hiện nay có chuyên gia nước ngoài để phát triển kinh tế - xã nhiều cơ quan khoa học của Quốc gia nhưng hội. Trong cơ chế thị trường, tiền công do chất mức đầu tư như số liệu bảng 5 thì quá ít, thấp lượng lao động quyết định, không tùy thuộc vào hơn nhiều so với tỷ lệ chi của cả nước cho khoa quốc tịch, màu da Do đó, Hà Nội cần sớm có học - công nghệ. Năm 2008, chi xây dựng cơ lộ trình thực hiện trả lương cho người lao động, bản cho khoa học - công nghệ của Hà Nội là trước hết cho lao động chất lượng cao (không 0,022% tổng thu ngân sách nhà nước của Hà kể chuyên gia là người Việt Nam hay nước Nội, năm 2009 là 0,027%. Đầu tư cho khoa học ngoài) theo chuẩn mực quốc tế. Đây là giải - công nghệ thấp nên khó có thể đẩy nhanh quá pháp quan trọng để phát triển nguồn nhân lực, trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với hạn chế hiện tượng chảy máu chất xám. phát triển kinh tế tri thức. Chính điều này đã c) Phát triển khoa học - công nghệ. Khâu góp phần quan trọng làm cho năng lực cạnh then chốt thứ hai trong chuyển đổi mô hình tăng tranh cấp tỉnh của Hà Nội chỉ ở mức trung bình. Bảng 5: Vốn đầu tư xây dựng cơ bản của địa phương (vốn nhà nước) Đơn vị: tỷ đồng 2005 2006 2007 2008 2009 Tổng số 6307 7574 7674 8616 10547 Nông nghiệp và lâm nghiệp 247 181 322 529 648 Cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác 749 1030 662 419 524 thải, khí thải Bán buôn, bán lẻ; sửa chữa ô tô, xe máy 77 45 26 84 131 Vận tải, kho bãi 2378 3846 3304 3307 4048 Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ 16 - 2 16 20 Cục thống kê Hà Nội: Niên giám thống kê 2009, Hà Nội - tháng 5/2010, tr.211-212 (tính theo Hà Nội mở rộng). Với tỷ lệ đầu tư cho khoa học - công nghệ tư trực tiếp nước ngoài Hoạt động chuyển thấp như vậy, trình độ khoa học - công nghệ giao công nghệ chỉ bền vững khi khoa học cơ của Hà Nội tất yếu chậm được cải thiện; những bản và khoa học ứng dụng phát triển đến trình ngành kinh tế có hàm lượng khoa học - công độ nhất định nên việc đầu tư cho nghiên cứu và nghệ cao chưa được quan tâm đúng mức. Vì triển khai có ý nghĩa quan trọng đặc biệt. vậy, để giải quyết những bất cập trên thành phố Thứ hai, cần phải sử dụng công nghệ nhiều cần phải: tầng nhưng ưu tiên công nghệ hiện đại. Công Thứ nhất, phải ưu tiên đầu tư cho những nghệ truyền thống có ưu điểm là không cần ngành khoa học - công nghệ mũi nhọn, phục vụ nhiều vốn; phù hợp trình độ người lao động, phát triển kinh tế tri thức. Đó là công nghệ điều kiện đất đai, tài nguyên; tạo được nhiều thông tin, công nghệ vật liệu mới, công nghệ việc làm Tuy nhiên, công nghệ truyền thống năng lượng, công nghệ sinh học Đây là những tất yếu dẫn đến năng suất lao động, chất lượng lĩnh vực khoa học - công nghệ quyết định sự sản phẩm và hiệu quả kinh tế thấp; nền kinh tế, phát triển của nền kinh tế tri thức. Điều đó có doanh nghiệp và sản phẩm sẽ không có khả thể thực hiện thông qua việc mua các bằng phát năng cạnh tranh, đất nước bị tụt hậu; tài nguyên minh sáng chế, hợp tác nghiên cứu khoa học và bị cạn kiệt và môi trường bị ô nhiễm Do đó, triển khai công nghệ giữa các nước, thu hút đầu muốn nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập
  8. P.V. Dũng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 26 (2010) 154-163 161 kinh tế quốc tế thành công, phát triển bền vững, Khi có thị trường khoa học - công nghệ, các Hà Nội cần đi ngay vào hiện đại, từng bước loại sản phẩm sẽ được chào bán trên thị trường và bỏ công nghệ lạc hậu. các doanh nghiệp có cơ hội tiếp xúc với nhiều Thứ ba, xây dựng hệ thống các chính sách loại công nghệ khác nhau, có thể mua bất kỳ kinh tế - xã hội hỗ trợ cho sự phát triển của loại hàng hoá nào phù hợp với nhu cầu của họ khoa học và công nghệ. Sự phát triển của khoa và vì vậy việc sử dụng sẽ tạo ra hiệu quả cao. học và công nghệ không chỉ tuỳ thuộc vào đội Ngược lại, việc nâng cao hiệu quả sử dụng công ngũ cán bộ, vào đầu tư mà còn phụ thuộc rất nghệ sẽ kích thích mở rộng cầu của doanh nhiều vào các chính sách. Để tạo điều kiện cho nghiệp về hàng hoá khoa học - công nghệ; đẩy khoa học - công nghệ phát triển, các chính sách mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ. kinh tế - xã hội phải hướng vào giải quyết Những vai trò trên đây làm cho sự phát triển thị những vấn đề cơ bản như: xây dựng những hình trường khoa học - công nghệ trở thành điều thức tổ chức, quản lý hoạt động khoa học - kiện cho sự phát triển khoa học - công nghệ, công nghệ phù hợp; kết hợp chặt giữa hoạt phát triển kinh tế tri thức. động khoa học và công nghệ với giáo dục và d) Đột phá vào xây dựng cơ chế, thể chế. đào tạo để thực sự phát huy vai trò quốc sách Hiện nay nước ta nhiều cơ chế, thể chế còn hàng đầu, tạo động lực đẩy nhanh công nghiệp thiếu hoặc không phù hợp đã làm cho nhiều hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức(7); quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách khuyến khích và buộc các doanh nghiệp (cả tư của Nhà nước và Chính quyền thành phố không nhân và nhà nước) ứng dụng các thành tựu khoa được thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, học - công nghệ vào sản xuất, kinh doanh và ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển bền vững. huy động khả năng của họ, nhất là khả năng về Từ đấy dẫn tới việc nhiều nguồn lực không tài chính; mở rộng các hình thức hợp tác với được huy động hoặc sử dụng không hiệu quả; các nước dưới nhiều hình thức nhằm tranh thủ nhiều cơ quan chức năng của thành phố, một bộ sự giúp đỡ quốc tế, nhanh chóng theo kịp trình phận không nhỏ cán bộ, công chức đã không độ khoa học - công nghệ của khu vực và thế thực hiện đầy đủ chức trách của mình Do đó, giới; đảm bảo các quyền lợi vật chất cho cán bộ có thể coi sự thiếu hụt cơ chế, thể chế là nguyên khoa học và công nghệ thông qua chính sách nhân quan trọng nhất của những hạn chế trong tiền lương, tiền thưởng, phụ cấp, trợ cấp phát triển bền vững ở Hà Nội trong những năm qua. Bởi vậy, để phát triển bền vững, trong Thứ tư, phát triển thị trường khoa học - những năm tới, Thành phố cần phải coi việc công nghệ. Cùng với việc thúc đẩy nhanh hơn hoàn thiện cơ chế, thể chế là khâu đột phá. sự lan truyền của tri thức khoa học, sự xuất hiện Thực hiện khâu đột phá này đòi hỏi trước của thị trường khoa học - công nghệ cùng hệ hết, phải coi cơ chế, thể chế là một phần của thống luật pháp bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, các chiến lược, kế hoạch phát triển; các chủ trương, thể chế hỗ trợ thị trường sẽ bảo vệ được lợi ích chính sách của thành phố. Việc rà soát, điều chính đáng của các chủ thể sở hữu các hàng hóa chỉnh, bổ sung các cơ chế, thể chế phải được khoa học - công nghệ; tạo động lực to lớn trong tiến hành thường xuyên. Hai là, các cơ chế, thể việc sáng tạo. Nhờ những thông tin từ thị chế phải đảm bảo mở rộng quy mô và hiệu quả trường, các hoạt động nghiên cứu được định sử dụng các nguồn lực nhằm thực hiện mục tiêu hướng chính xác hơn, có thể rút ngắn dược thời của các chiến lược, kế hoạch phát triển; các chủ gian nghiên cứu cũng như tổ chức triển khai các trương, chính sách Ba là, các cơ chế, thể chế công nghệ mới. phải quy định rõ và có chế tài buộc các tổ chức, cá nhân thuộc các cơ quan công quyền phải ___ thực hiện trách nhiệm của mình. (7) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu e) Nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý của toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội- Đảng bộ và Chính quyền thành phố. Trong giai 2006, tr.210.
  9. 162 P.V. Dũng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 26 (2010) 154-163 đoạn hiện nay, phát triển rút ngắn và bền vững vĩ đại trong cách mạng dân tộc dân chủ và là tất yếu đối với đất nước ta và với Hà Nội. những thành tựu to lớn trong công cuộc xây Nhưng điều đó không đến tự nhiên, mà phải dựng Chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc Xã hội bằng đường lối phát triển kinh tế - xã hội đúng chủ nghĩa. Ngày nay, nếu Đảng vẫn là của dân, đắn, mô hình phát triển phù hợp, bằng các chiến tiếp tục vì dân thì đương nhiên, dân sẽ tiếp tục lược phát triển kinh tế - xã hội; thông qua hàng tin yêu và đi theo Đảng. Cũng vì vậy, Chính loạt những chính sách và các giải pháp điều hành quyền thành phố phải quán triệt quan điểm vì của Nhà nước và chính quyền các địa phương. dân không chỉ trong các chiến lược phát triển, Những nỗ lực chủ quan phải dựa trên các mà trong từng công việc cụ thể thường ngày. quy luật kinh tế khách quan mới làm cho các Với những tiềm năng, thế mạnh sẵn có; với nguồn lực được sử dụng hiệu quả; định hướng những kinh nghiệm rút ra được từ những thành được nền kinh tế thị trường phát triển bền vững công và chưa thành công trong thời gian qua; theo con đường Xã hội chủ nghĩa. Do đó, việc với sự nỗ lực hơn nữa của Đảng bộ, Chính nhận thức và vận dụng đúng đắn các quy luật quyền và Nhân dân thành phố, Hà Nội hoàn kinh tế - xã hội là đòi hỏi bức thiết, là yêu cầu toàn có khả năng phát triển kinh tế theo hướng hàng đầu trong các hoạt động lãnh đạo, quản lý bền vững, xứng đáng là trung tâm kinh tế, chính của Đảng, Nhà nước và Chính quyền thành phố. trị, văn hoá, khoa học - công nghệ của cả nước. Vì thế, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý có đủ phẩm chất và năng lực là vấn đề đặc biệt quan trọng cả trước mắt và lâu dài. Đó là Tài liệu tham khảo nhân tố quyết định phát triển kinh tế thủ đô theo [1] Cục thống kê Hà Nội: Niên giám thống kê 2009, Hà hướng bền vững. Nội - tháng 5/2010. Cán bộ, nhân viên thuộc bộ máy lãnh đạo, [2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại quản lý của Hà Nội phải là những công dân tiêu biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, biểu của Thủ đô, phải văn minh, thanh lịch. Hà Nội-2006 Điều đó đòi hỏi đội ngũ này không chỉ ở năng [3] Tổng cục thống kê: Niên giám thống kê 2009, Nxb lực làm việc, trách nhiệm trong công việc, mà Thống kê, Hà Nội - 2010. còn phải gương mẫu thực hiện pháp luật, không [4] UBND Thành phố Hà Nội: Tình hình hội nhập kinh tham nhũng, cửa quyền, hách dịch Xây dựng tế quốc tế của Thành phố Hà Nội sau 3 năm Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới (2007- đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý như thế là 2009) phương hướng, nhiệm vụ năm 2010 và các thách thức thật sự nhưng không thể không làm. năm tiếp theo. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch /guest/ktxh, ngày 30 tháng 12 năm 2009. sử, quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân [5] UBND Thành phố Hà Nội: Chiến lược phát triển chính ra lịch sử. Sự lãnh đạo đúng đắn của kinh tế - xã hội Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến Đảng, Nhà nước dựa trên sự đồng thuận của năm 2050, Hà Nội, tháng 4 năm 2010. người dân sẽ tạo ra sức mạnh vô địch. Nhờ hết [6] lòng vì dân, mấy chục năm qua, dân đã tin và Ha-Noi-thap-la-khong-oanrdquo-03141397.html, ngày 30/03/2010. theo Đảng; đất nước ta đã giành được thắng lợi
  10. P.V. Dũng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 26 (2010) 154-163 163 The role of state in Hanoi’s sustainable economic growth Assoc. Prof. Dr. Pham Van Dzung Faculty of Political Economy, University of Economics and Business, Vietnam National University, Hanoi, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam Abstract. Sustainable economic development is the most important goal for every country and locality. As the capital city of Vietnam for almost a thousand year, Ha Noi’s sustainable economic growth is highly essential in many aspects when the country is experiencing major changes. For the past years, Ha Noi has gained significantly socio-economic achievements but those are not really sustainable. For instances, its economic structure is underdeveloped, inefficient and poorly completive. In addition, many social and environmental problems occurred and required to be tackled urgently. As so, the Party, the State and the municipal authority of Ha Noi should implement measures which are in accordance with the world and the country’s developing trends and also in line with the Capital’s potentials, advantages and positions to make it a sustainable economic center.