Ước tính lượng phát thải dinh dưỡng từ hoạt động nuôi cá lồng tại vịnh Bến Bèo, Cát Bà, Hải Phòng

pdf 6 trang phuongnguyen 1720
Bạn đang xem tài liệu "Ước tính lượng phát thải dinh dưỡng từ hoạt động nuôi cá lồng tại vịnh Bến Bèo, Cát Bà, Hải Phòng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfuoc_tinh_luong_phat_thai_dinh_duong_tu_hoat_dong_nuoi_ca_lon.pdf

Nội dung text: Ước tính lượng phát thải dinh dưỡng từ hoạt động nuôi cá lồng tại vịnh Bến Bèo, Cát Bà, Hải Phòng

  1. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 32, Số 3S (2016) 77-82 Ước tính lượng phát thải dinh dưỡng từ hoạt động nuôi cá lồng tại vịnh Bến Bèo, Cát Bà, Hải Phòng Trịnh Thị Lê Hà1,*, Đoàn Văn Bộ1 Khoa Khí tượng Thủy văn và Hải dương học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN, 334 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 08 tháng 8 năm 2016 Ch nh s a ngày 26 tháng 8 năm 2016; Chấp nhận đăng ngày 16 tháng 12 năm 2016 Tóm tắt : Kết quả ước tính lượng các chất thải N, P từ hoạt động nuôi lồng bè tại vịnh Bến Bèo cho thấy có tới 91% N và 90% P trong tổng lượng các thành phần N, P đầu vào (qua thức ăn) bị mất vào môi trường. Lượng thải tương ứng là 323,5t N và 37,3t P trong một vụ nuôi với sản lượng cá là 982,9t. Lượng N được thải ra dưới dạng vô cơ hòa tan (DIN) chiếm 48% tổng lượng N trong thức ăn được s dụng, lượng P được thải ra dưới dạng vô cơ hòa tan (DIP) chiếm 21,5% tổng lượng P trong thức ăn s dụng. Lượng N thải ra dưới dạng hữu cơ rắn (PON) chiếm 43% tổng lượng N trong thức ăn s dụng, lượng P thải ra dưới dạng hữu cơ rắn (POP) chiếm 68% tổng lượng P trong thức ăn s dụng. Từ khóa: Nuôi, cá, dinh dưỡng, vô cơ, hữu cơ, hòa tan, rắn. 1. Đặt vấn đề ở đây chiếm 63% tổng số lượng bè nuôi quanh khu vực đảo. Tổng diện tích các bè nuôi khoảng Chất thải từ các hoạt động nuôi trồng thủy 6ha trên 10ha điện tích mặt nước có thể nuôi sản chủ yếu là thức ăn thừa và các sản phẩm bài trồng [1]. Với mật độ phát triển như vậy, khả tiết của sinh vật. Tùy thuộc vào mức độ sản năng ô nhiễm rất dễ xảy ra. Đã có những báo xuất, khả năng đồng hóa của khu vực, các chất cáo từ người dân về biểu hiện cá chết do ngạt thải này có thể gây ra những tác động đến chất khí và cá nuôi chậm lớn. lượng nước và trầm tích. Với các tác động xấu, Bài báo này là những kết quả bước đầu môi trường có thể bị ô nhiễm, năng suất nuôi trong việc đánh giá hiệu quả của hoạt động nuôi trồng bị suy giảm, năng lực của vùng nước tiếp và áp lực từ hoạt động nuôi lên môi trường nhận bị hủy hoại. thông qua các đánh giá về dòng thải và lượng Để đánh giá được khả năng chịu tải của môi thải phát sinh từ hệ thống nuôi. trường, những tác động môi trường của hoạt động nuôi trước hết cần phải có các thông tin về chất thải, lượng thải phát sinh từ hệ thống nuôi. 2. Tài liệu và phương pháp nghiên cứu Bến Bèo là một trong những khu vực nuôi 2.1. Ước tính dòng thải dinh dưỡng từ hoạt trồng thủy sản thuộc đảo Cát Bà có mức độ tập động nuôi trồng dựa trên cân bằng vật chất trung lồng bè nhiều nhất. Số lượng các bè nuôi trong cá và hệ thống nuôi trồng ___ Theo nguyên tắc cân bằng khối lượng thức Tác giả liên hệ. ĐT.: 84-988243503 ăn được cá lấy vào (If) sẽ bằng tổng lượng thức Email: hatl@vnu.edu.vn 77
  2. 78 T.T.L. Hà, Đ.V. Bộ / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 32, Số 3S (2016) 77-82 ăn được cá đồng hóa (Af) cộng với lượng chất môi trường dưới dạng chất thải rắn (phân). thải rắn (phân) mà cá thải ra môi trường (Ff). Lượng chất thải này có thể được ước tính như Lượng thức ăn được đồng hóa một phần sẽ sau: được s dụng để xây dựng mô tế bào, phần còn Ff = If – Af = If × (1-AEf) (5) lại được đào thải qua mang và qua nước tiểu. Đối với một hệ thống nuôi trồng, lượng các Do đó, I có thể được biểu diễn như sau: f chất thải thoát ra, ngoài những sản phẩm đào If = Af + Ff = Gf + Ef + Ff (1) thải từ cá còn có thêm lượng thức ăn thừa và trong đó, Gf là sự tăng trưởng và duy trì sinh lượng cá chết. Trong nghiên cứu này lượng cá khối, Ef là lượng bài tiết. chết không được tính đến vì t lệ cá chết chủ Lượng thức ăn được đồng hóa trên lượng yếu tập trung trong 1 đến 2 tháng đầu khi giống thức ăn được cá ăn vào được gọi là hiệu suất mới thả nên lượng vật chất thải ra không đáng đồng hóa (AEf). Hiệu suất đồng hóa N, P trong kể. Hơn nữa, cá chết còn được s dụng lại làm thức ăn có thể được xác định bằng công thức: thức ăn cho cá nuôi nên lượng phát thải không AE = A /I (2) tạo ra dòng vật chất riêng trong hệ thống. Vì f f f vậy nguồn vật chất rắn từ thức ăn thừa là dòng Theo đó, lượng N, P được cá đồng hóa sẽ thải duy nhất góp phần vào dòng thải chung. được s dụng cho sự sinh trưởng và tăng trọng Tổng lượng dòng thải này có thể chiếm tới 20 lượng cơ thể, đồng thời cũng được giải phóng đến 40% tổng lượng thức ăn được đưa vào hệ ra môi trường qua quá trình hô hấp và bài tiết thống [2-4]. của sinh vật. Theo đó, tổng lượng thức ăn đưa vào hệ Hiệu suất tăng trưởng của sinh vật (GEf) là thống trong quá trình nuôi (IF) được biểu diễn một đại lượng sinh thái, có thể được xác định như sau: dựa trên sản lượng sinh khối và lượng thức ăn được tiêu thụ trên cùng một đơn vị. IF= AF + FF + LF (6) Lượng các hạt vật chất hữu cơ N, P (trong GEf = Gf/If (3) thức ăn) thoát ra môi trường (LPOX) sẽ bằng Hiệu suất tăng trưởng đối với các thành tổng lượng các thành phần đó trong chất thải phần N, P cũng tương tự như vậy. rắn của cá (FX) và trong thức ăn thừa (LX): Nếu C thường được giải phóng dưới dạng LPOX = FX + LX (7) CO qua quá trình hô hấp thì N và P chủ yếu 2 với x là N hoặc P được cá giải phóng dưới dạng amoniac (NH3) 3- qua mang và PO4 trong nước tiểu. Lượng các Phần hòa tan của các hạt vật chất này sẽ tạo thành phần dinh dưỡng bị đào thải được xác ra lượng vật chất hữu cơ hòa tan (LDOX) và được định bởi lượng dinh dưỡng được đồng hóa trừ xác định như sau: đi lượng dinh dưỡng được giữ lại trong sinh LDOX = LPOX × SF (8) khối theo phương trình: Trong đó, SF là t lệ hòa tan của chất thải cá Ef = Af –Gf = (If × AEf) – Gf (4) và thức ăn thừa. Khi đó, dòng vật chất rắn Trong đó, I là tổng lượng các thành phần N, (LNPOX) được phát thải từ hệ thống nuôi sẽ bằng P trong thức ăn được cá lấy vào. AE là hiệu tổng lượng các chất thải dinh dưỡng rắn (LPOX) suất đồng hóa đối với mỗi loại. G là lượng N, P trừ đi tổng lượng hòa tan (LDOX) của chúng: có trong sinh khối khi thu hoạch và được xác LNPOX = LPOX - LDOX (9) định bởi hàm lượng N, P có trong cá nhân với 2.2. Giá trị các hệ số và số liệu sử dụng sản lượng cá thu hoạch. Các số liệu liên quan đến sản lượng nuôi Trong tổng lượng thức ăn mà cá ăn vào, trồng, lượng thức ăn được s dụng được tính phần không được tiêu hóa sẽ được bài tiết ra toán dựa trên các thông tin cung cấp từ người
  3. T.T.L. Hà, Đ.V. Bộ / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 32, Số 3S (2016) 77-82 79 nuôi (qua kết quả điều tra phỏng vấn). Các hệ - 0,0275mg/100g, NO3 - 0,33mg/100g, PO4 - số đồng hóa, hàm lượng N, P trong thức ăn và 8,5mg/100g [6]. Các giá trị này sẽ được s trong mình cá, t lệ hòa tan của chất thải cá dụng trong tính toán lượng hữu cơ hòa tan từ được tham khảo từ những tài liệu liên quan thức ăn thừa. (bảng 1). T lệ thức ăn thừa (lượng thất thoát vào môi trường) được lấy bằng 38% tổng lượng thức ăn được s dụng. Đây là giá trị thu được từ 3. Kết quả và thảo luận kết quả nuôi th nghiệm ngoài hiện trường 3.1. Tình hình nuôi trồng tại khu vực nghiên cứu (nuôi lồng) của Leung và các cộng sự (1999) tại trạm nghiên cứu cá biển Kat O, Hồng Kông. Bến Bèo là một vịnh hẹp nằm ở phía đông Đối tượng nuôi thí nghiệm là loài song chấm nam đảo Cát Bà với diện tích mặt nước khoảng 2 (Epinephelus areolatus) với thức ăn nuôi là cá 6km , xung quanh có các đảo bao bọc tạo thành tạp. Sai số chuẩn được ghi nhận là ± 8%. Cũng một vùng nước kín rất thuận lợi cho hoạt động theo nghiên cứu này, t lệ trọng lượng khô trên nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là nuôi cá lồng bè. trọng lượng ướt trong thức ăn cá tạp xấp x Hiện tại trên vịnh có 305 bè với 5.687 ô 30%, còn trong cá nuôi là 26% [5]. lồng (số liệu thống kê năm 2016 của Ban quản So với thức ăn tổng hợp, lượng dinh dưỡng lý các vịnh đảo Cát Bà), kích thước mỗi ô hòa tan từ thức ăn thừa là cá tạp lớn hơn nhiều khoảng 3m×3m×3m và 3m×4m×3m (dài × do chúng dễ bị phân hủy, kích thước các hạt bị rộng × cao). rơi vãi nhỏ, tốc độ thẩm thấu lớn. Theo kết quả Kết quả điều tra, phỏng vấn thực tế các hộ thí nghiệm của trung tâm nghiên cứu phát triển nuôi vào tháng 9/2016 cho thấy, đối tượng nuôi nuôi trồng thủy sản Lampung, Indonesia, khả chủ yếu ở đây là các loài thuộc nhóm cá mú hòa tan của thức ăn là cá tạp khi lắng xuống đáy (song chấm xanh, song chấm đỏ, song hổ, ) lồng được xác định dựa trên nồng độ gia tăng chiếm khoảng 90% còn lại là các loài cá khác của NH3, NO2, NO3, PO4 trong nước khi tiếp (cá côi, cá gáy, cá giò, các hồng, ) chiếm xúc với thức ăn. Kết quả đo đạc cho thấy nồng khoảng 10%. độ các chất và ion hòa tan đạt giá trị cao nhất Thức ăn được s dụng là cá tạp đánh bắt từ trong ngày đầu và giảm nhiều khi sang ngày thứ tự nhiên, với lượng cho ăn hàng ngày dao động 2 và thứ 3. T lệ nồng độ của chúng so với trọng từ 5 đến 7kg cho một ô lồng khoảng trên 300 lượng thức ăn thí nghiệm trong cùng khối nước con cá nuôi. ngày đầu lần lượt là NH3 - 0,036mg/100g, NO2 Bảng 1. Giá trị của các hệ số được s dụng trong tính toán [4-10] (DW: trọng lượng khô, WW: trọng lượng ướt) Hệ số Giá trị Nguồn tham khảo T lệ thức ăn thừa (% tống lượng thức ăn s dụng) 38 Leung et al. (1999) T lệ N trong cá (% DW) 11,50 Leung et al. (1999) T lệ P trong cá (% WW) 0,40 Talbot et al. (1986) T lệ N trong thức ăn (% WW) 3,40 FAO (2011) T lệ P trong thức ăn (% WW) 0,40 FAO (2011) Hiệu suất đồng hóa N 0,919 Leung et al. (1999) Hiệu suất đồng hóa P 0,5 Reid et al. (2009), Bureau et al. (2003) Lượng chất thải rắn (phân) của cá (mg khô/kg trọng 2730,9 Leung et al. (1999) lượng cơ thể/ngày) T lệ N bị hòa tan từ phân cá (% DW) 15 Chen et al. (2003) T lệ P bị hòa tan từ phân cá (% DW) 15 Sugiura et al (2006)
  4. 80 T.T.L. Hà, Đ.V. Bộ / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 32, Số 3S (2016) 77-82 Thời điểm thả giống đến thời điểm có thể Như vậy, sau một chu kỳ nuôi là 12 tháng, thu hoạch khoảng 10 đến 12 tháng tùy từng loại toàn bộ hệ thống nuôi trồng trong khu vực nghiên cá và kích thước con giống thả. Mật độ thả cứu sẽ phát thải ra một lượng vật chất rắn N, P lần giống khoảng 500con/ô với kích thước từ 7- lượt là 151,8 tấn và 28,3 tấn. T lệ N/P trong dòng 10cm, tương đương 70-100g/con. thải là 5,4, không quá cách xa t số Redfield T lệ cá chết khoảng 40% tập trung chủ yếu nhưng vẫn cho thấy lượng P vẫn nhiều hơn mức vào 2 tháng đầu khi con giống đang thích nghi yêu cầu của thực vật dù không nhiều. với môi trường. Sau đó lượng cá chết không Xét t lệ cân bằng vật chất cho thấy, trong đáng kể trừ khi có dịch bệnh. tổng lượng N đầu vào (qua thức ăn) ch có 8,3% Theo ước tính của chủ nuôi qua các vụ thu được giữ lại trong sinh khối, 43% được thải ra hoạch, mức tăng trọng trung bình của cá loài cá ngoài dưới dạng hữu cơ rắn, 48% dưới dạng vô cơ mú khoảng 40g/tháng. hòa tan và một t lệ không đáng kể dưới dạng hữu cơ hòa tan. Đối với P, trong tổng lượng P đầu 3.2. Giá trị ước tính vào ch có 9,5 % được giữ lại trong sinh khối, Với chu kỳ nuôi là 12 tháng, tổng sản lượng 21,5% thải ra ngoài dưới dạng vô cơ, 68% dưới cá thu hoạch cuối vụ khoảng 982,9 tấn, trung dạng hữu cơ rắn, 1% dưới dạng hữu cơ hòa tan. bình 172,8kg/ô lồng. Lượng thức ăn được s Như vậy, có tới 91%N và 90%P trong tổng dụng cho cả vụ nuôi khoảng 1.0378,8 tấn. Hệ lượng N và tổng lượng P có trong thức ăn s số chuyển đổi thức ăn (FCR) tương ứng là 10,6. dụng đã bị thất thoát ra ngoài với tổng khối Đây là hệ số khá phổ biến đối với các hoạt động lượng tương ứng là 323,5 tấn N và 37,6 tấn P, nuôi s dụng cá tạp làm thức ăn với cách thức trung bình 1kg cá thải ra 329gN và 38gP. cho ăn và chất lượng thức ăn kém. Hiệu suất tăng trưởng trung bình (GE) đối với N, P lần Qua kết quả phân tích cân bằng t lệ có thể lượt là 0,13 và 0,15. Như vậy ch có khoảng thấy chất lượng thức ăn đang s dụng tại khu 13% N và 15% P được cá lấy vào dành cho sự vực nghiên cứu còn kém, kỹ thuật nuôi chưa đạt tăng trưởng. Phần còn lại được thải ra môi yêu cầu, dẫn đến sự thất thoát lớn các chất dinh trường qua quá trình bài tiết và trao đổi chất. dưỡng ra môi trường. Điều này hoàn toàn phù Trong đó t lệ N được cá đào thải lớn hơn t lệ P. hợp với kết quả điều tra, khi mà thức ăn được người nuôi mua về không được bảo quản tốt, Tổng các vật chất vô cơ hòa tan (DIN và thời gian cho ăn, cách thức cho ăn và lượng DIP) do cá thải ra là 171,7 tấn N/vụ nuôi và thức ăn s dụng không theo quy trình. Mọi hoạt 8,94 tấn P/vụ nuôi. T lệ DIN/DIP trong chất động nuôi ch dựa trên kinh nghiệm truyền thải là 19,3, so với t số Redfield (= 7,2), t lệ miệng và điều kiện kinh tế của người nuôi. này cho thấy lượng N vô cơ thải ra vượt quá nhu cầu của thực vật nổi. So với các kết quả nghiên cứu khác, lượng chất thải N của nghiên cứu này lớn hơn nhiều Lượng vật chất rắn (PON và POP) do cá bài lượng chất thải N được báo cáo từ hoạt động tiết là 17,7 tấn N/vụ nuôi và 12,9 tấn P/vụ nuôi. nuôi tương tự (đối với loài song chấm) tại Vân Lượng này cộng với lượng hữu cơ rắn trong Đồn, Quảng Ninh (179,48gN/kg cá nuôi) do thức ăn thừa tạo ra lượng chất thải hữu cơ lớn Mai và Tuấn (2012) thực hiện [11]. Cũng theo với tổng lượng các hạt vật chất lên đến 151,82 một báo cáo khác gần đây của Loan và Tuấn tấn N/vụ nuôi và 28,65 tấn P/vụ nuôi. Tuy (2014), lượng N đưa vào môi trường từ hoạt nhiên, một phần các hạt vật chất sẽ bị hòa tan động nuôi cá song và cá giò tại khu vực Bến sau khi tiếp xúc và tồn đọng trong môi trường. Bèo lần lượt là 156,49gN/kg cá nuôi và Phần hòa tan của các hạt tạo thành lượng hữu 81,59gN/kg cá nuôi [12]. Sự chênh lệch này cơ hòa tan với tổng lượng không lớn, khoảng phát sinh từ hai cách tiếp cận khác nhau. Ở hai 26kgN/vụ nuôi và 346kgP/vụ nuôi. nghiên cứu công bố trước, lượng chất thải N
  5. T.T.L. Hà, Đ.V. Bộ / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 32, Số 3S (2016) 77-82 81 được tính chủ yếu dựa trên hệ số chuyển đổi 4. Kết luận FCR, hàm lượng N trong thức ăn và trong cá theo công thức của Foy và Rosell (1991). Trong Phương pháp cân bằng khối có thể giúp ước đó lượng thức ăn thừa không nằm trong hệ số tính được lượng chất thải N, P từ nguồn dinh chuyển đổi đã tạo ra sự khác biệt lớn giữa các dưỡng đầu vào trong hoạt động nuôi lồng bè. giá trị so sánh. Hơn nữa thức ăn thừa, đặc biệt Dựa trên mối tương quan giữa các đại lượng là thức ăn tươi từ cá tạp là nguồn thải hữu cơ theo dòng dinh dưỡng trong hệ thống bài tiết, quan trọng trong các hoạt động nuôi trồng. tiêu hóa có thể ước tính được lượng dinh dưỡng Nhưng so với kết quả thí nghiệm của Leung vô cơ và hữu cơ sinh vật thải ra. và các cộng sự (1999), giá trị lượng thải N tính Đối với hệ thống nuôi, dòng các hạt vật chất được không có sự chênh lệch nhiều. Nếu kết phát sinh là tổng lượng vật chất rắn sinh vật thải quả thí nghiệm là 321kgN/tấn cá nuôi [5] thì kết ra và lượng vật chất từ thức ăn thừa. quả tính ch lớn hơn 8kg/tấn cá nuôi. Kết quả ước tính cho thấy trong một chu kỳ Khác N, P không phải là thành phần chất nuôi với sản lượng thu hoạch khoảng 982,9 tấn thải được quan tâm trong hệ thống nuôi. Các cá, các hoạt động nuôi lồng bè trong vịnh Bến dẫn liệu liên quan về lượng thải này cũng rất Bèo đã thải vào môi trường (bao gồm cả dạng hạn chế. Ở một số nghiên cứu ngoài nước đã hòa tan và rắn) 323,5 tấn N và 37,6 tấn P. T số được công bố, các giá trị báo cáo rất khác nhau. N/P trong dòng thải là 8,6, không quá cao so Theo Wu (1995) có khoảng 82% P từ thức ăn với t số Redfield. của cá bị mất ra môi trường [13], còn theo Trong tổng lượng N, P cung cấp từ thức ăn, Pearson và Black (2001) có khoảng 34 - 41% P chiếm t lệ thải lớn nhất là lượng N được thải ra trong thức ăn thoát ra môi trường dưới dạng hòa dưới dạng vô cơ hòa tan (48%) và lượng P được tan [14]. Trong nghiên cứu của mình, Islam thải ra dưới dạng hữu cơ rắn (68%). (2005) đã đưa thành phần P vào quỹ dinh Cũng giống như mọi mô hình tính toán, giá dưỡng của hoạt động nuôi lồng biển để tính trị của số liệu đầu có ảnh hưởng lớn đến kết quả toán, kết quả thu được cho thấy có khoảng tính. Đối với một số biến khó xác định như t lệ 71,4% lượng P đầu vào bị thất thoát ra môi thức ăn thừa, sự đồng hóa N, P của sinh vật có trường [3]. Một nghiên cứu khác của Strain và thể tạo ra những thay đổi trong kết quả tính. Vì Hargrave (2005) cũng s dụng phương pháp vậy các ước tính gần đúng những giá trị này sẽ cân bằng khối để ước tính lượng thải P hòa tan cho những kết quả có độ tin cậy cao. từ nuôi cá hồi, giá trị thu được là 4,9kg /tấn cá nuôi [15]. Với cách tiếp cận bằng mô hình, Giá trị ước tính lượng hữu cơ hòa tan trong Bouwman và các cộng sự (2013) đã báo cáo tài liệu này ch có tính chất tham khảo. Hiện tại rằng có khoảng 27% P mà cá lấy vào thải ra chưa có một phương pháp chính thống nào có môi trường dưới dạng hòa tan, 40% dưới dạng thể xác định được t lệ hòa tan của các hạt hữu rắn, 33% được giữ lại trong mình cá [16]. cơ rắn. Mặc dù không thể so sánh giá trị ước tính P trong nghiên cứu này với các giá trị tham khảo Tài liệu tham khảo vì đối tượng nuôi, vùng nuôi, quy trình nuôi [1] Đề án “Quy hoạch, quản lý nghề nuôi trồng thủy khác nhau. Tuy nhiên, các giá trị có được đã nói sản và bảo vệ môi trường trên các vịnh thuộc quần lên được sự hiện diện của thành phần P trong đảo Cát Bà giai đoạn 2016-2020”, Ban quản lý chất thải với các t lệ tham khảo (bao gồm cả t các vịnh đảo Cát Bà, 2016. lệ cân bằng). Đáng chú ý là quy mô của P so N [2] Beveridge M. C. M (1987), Cage Aquaculture, Fishings News Books, Farnham. trong chất thải, các giá trị ước tính P thường [3] Islam MS (2005), Nitrogen and phosphourus rất nhỏ. budget in coastal and marine cage aquaculture and
  6. 82 T.T.L. Hà, Đ.V. Bộ / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 32, Số 3S (2016) 77-82 impacts of effluent loading on ecosystem: review Ichthyol 19:114-117 doi:10.1046/j.1439- and analysis towards model development, Marine 0426.2003.00449.x. Pollution Bulletin 50, p.48-61. [10] Sigiura SH et al (2006), Effluent profile of [4] Reid et al. 2009, A review of the biophysical commercially used low-phosphorus fish feeds. properties of salmonid faeces: implication for Environmental Pollution 140:95-101. aquaclture waste dispersal models and integrated [11] Nguyễn Thị Mai, Lê Anh Tuấn, Tác động của multi-trophic aquaculture. Aquaculture Reseachs việc s dụng thức ăn tươi trong nuôi cá biển lên 40, p.257-273 môi trường ở vùng biển Vân Đồn, t nh Quảng [5] Leung KMY et al. (1999), Nitrogen budgets for Ninh, Tạp chí Khoa học – Công nghệ thủy sản, the areolated grouper Epinephelus areolatus trường Đại học Nha Trang, số 2/2012. cultured under laboratory conditions and in opem- [12] Phạm Thị Loan, Lê Anh Tuấn, Nuôi cá biển tại sea cages. Marine Ecology Progress Series, Vol. Cát Bà, Hải Phòng: Tình hình s dụng thức ăn, 186, p.271-281. hiệu quả kỹ thuật và tác động môi trường, Tạp chí [6] FAO (2011), Annex 2 “Comparison of the Khoa học – Công nghệ thủy sản, trường Đại học environmental impact between fish fed trash Nha Trang, số 1/2015. fish/low-value fish and pellet”. In: The project [13] Wu RSS (1995), The environment impact of TCP/RAS/3203 “Reducing the dependence on the marine fish culture: towards a sustainable futue. utilization of trash fish/low-value fish as an Marine Pollution Bulletin 31, p.159-166. aquaculture feed for marine finfish in the Asian [14] Pearson TH, Black KD (2001), The environmental region”, p.121-147. impacts of marine fish cage culture. In: Black KD [7] Talbot C et al. (1986), Body-composition of (ed) Evironmental impacts of aquaculture, CRC Atlantic salmon (Salmo salar L.) studied by Press, Boca Raton, Fl, p.1-31. neutron-activation analysis. Comp Biochem [15] Strain P, Hargrave B (2005), Salmon aquaculture, Physiol A 85:445-450. nutrient fluxes and ecosystem processes in [8] Bureau DP et al. (2003), Chemical composition southwesterm New Brunswick. In: Hargrave B (ed) and preliminary theoretical estimates of waste Environmental effects of marine finfish aquaculture, outputs of rainbow trout reared in commercial Handbook of environmental chemistry, Vol. 5M, cage culture operation in Ontario. N Am J Springer-Verlag, Berlin, p.29-57. Aquaculture 65, p.33-38. [16] Bouwman L et al. (2013), Mariculture: significant [9] Chen YS et al. (2003), Nutrient leaching and and expanding cause of coastal nutrient settling rate characteristics of the faeces of enrichment, Environmental Research Letters Atlantic salmon (Salmo salar L.) and implications 8:044026. for modelling of solid waste dispersion. J Appl Estimation of Nutrient Loadings from Cage-culture Practices in Ben Beo, Cat Ba Island, Hai Phong Trinh Thi Le Ha, Doan Van Bo Faculty of Hydro-Meteorology and Oceanography, VNU University of Science, 334 Nguyen Trai, Hanoi Abstract: Results of quantifying release rates of nitrogen (N) and phosphorus (P) waste from cage-culture practices in Ben Beo show that 91% N and 91% P of the total feed input was lost to the environment, equivalent to an aquaculture period (12 momths) of about 323,5t N, 37,3t P, based on total fish production of 982,9t. The everage N/P ratio of total waste was 8,6, not far from Redfiel ratio, but with N in excess. It was predicted that 48% feed N was excreted as dissolved inorganic N (DIN), and 21,5% of feed P was excreted as dissolved inorganic P (PIN). Approximately 45% feed N was released as particles, and 68% of feed P was released as particles. Keywords: Culture, fish, nutrient, organic, inorganic, dissolve, particles.