Tư tưởng “tài mệnh tương đố” và “hồng nhan bạc mệnh” trong truyện Kiều - TS. Đoàn Lê Giang

ppt 63 trang phuongnguyen 3810
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tư tưởng “tài mệnh tương đố” và “hồng nhan bạc mệnh” trong truyện Kiều - TS. Đoàn Lê Giang", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • ppttu_tuong_tai_menh_tuong_do_va_hong_nhan_bac_menh_trong_truye.ppt

Nội dung text: Tư tưởng “tài mệnh tương đố” và “hồng nhan bạc mệnh” trong truyện Kiều - TS. Đoàn Lê Giang

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA VĂN HỌC VÀ NGƠN NGỮ LỚP HÁN NƠM 06 CHUYÊN ĐỀ NGUYỄN DU ĐỀ TÀI: TƯ TƯỞNG “TÀI MỆNH TƯƠNG ĐỐ” VÀ “HỒNG NHAN BẠC MỆNH” TRONG TRUYỆN KIỀU GVHD: TS. ĐỒN LÊ GIANG
  2. NHĨM SINH VIÊN THỰC HIỆN • BÙI THỊ HIẾU 0660066 • TRƯƠNG THỊ DIỆU HIỀN 0660071 • PHẠM THỊ LÀNH 0660110 • VŨ THỊ LUYẾN 0660125 • DƯƠNG THỊ NGHE 0660139 • VÕ THỊ NGỌC PHƯỢNG 0660164 • PHẠM THỊ MỸ QUẤT 0660166
  3. TĨM TẮT NỘI DUNG TRÌNH BÀY I. Mở bài. II. Thân bài • Cơ sở hình thành tư tưởng TMTĐ&HNBP trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. – Điều kiện lịch sử xã hội – Cuộc đời Nguyễn Du • Bản thân • Cuộc sống hiện thực – Ảnh hưởng của ba tư tưởng Nho - Phật - Đạo • Quan niệm của Nho giáo • Quan niệm của Đạo giáo • Quan niệm của đạo Phật
  4. 2. Tư tưởng TMTĐ&HNBP: a. Tài mệnh tương đố - Định nghĩa Tài, Mệnh - Giải thích “tương đố” Từ xưa TÀI và MỆNH vốn tương khắc (định nghĩa của cổ nhân) , “mệnh trời” áp đặt.[dẫn thơ và lời của những tác gia khác-nếu cĩ, lời trong kinh phật, Khổng tử, Lão Trang] - Nỗi thống khổ của người xưa - Nỗi thống khổ của người nay (thời Nguyễn Du), loại người mới trong xã hội bấy giờ, mầm mống những người tự do, cĩ ý thức về bản thân, mong muốn được hạnh phúc. xuất hiện quá sớm, cịn yếu ớt nên chịu bi kịch vấn đề thời đại và con người. b. Hồng nhan bạc mệnh - Định nghĩa và giải thích theo điển cố, điển tích (cĩ thể dẫn Vương Chiêu Quân, Tây Thi) Hồng nhan bạc mệnh như là “thiên kinh địa nghĩa” trời đã định, người khơng thể đẹp hơn thiên nhiên vượt quá quy luật nên gặp hoạ (hồng nhan hoạ thuỷ, khuynh quốc, khuynh thành) - Dẫn thơ Kiều (phân tích giá trị của câu thơ đĩ đối với tồn tác phẩm) Thơ khác (của Nguyễn Du, Chinh phụ ngâm, Cung ốn ngâm khúc) c. Cái chung của TMTĐ&HNBP Đều là “thiên mệnh”
  5. 3. Câu chuyện đời và xã hội quanh Kiều ứng với HNBP&TMTĐ a. Cuộc đời bi thương của Kiều - Tài năng và nhan sắc Kiều (phân tích thơ + ca tụng) - Số phận nghiệt ngã (liệt kê và dẫn thơ tất cả những lần Kiều gặp nạn, chịu bất cơng, đánh đập, hành hạ cả thể xác lẫn tâm hồn) - Nỗi đau đớn và nước mắt tuyệt vọng của Kiều. b. Thuyết TMTĐ&HNBP ứng với những nhân vật khác - Từ Hải : tài mệnh tương đố - Đạm Tiên: Hồng nhan bạc mệnh - Thuý Vân – Kim Trọng: những người cĩ tài, cĩ sắc nhưng khơng bị ứng với thuyết TMTĐ&HNBP (“cho thanh cao, mới được phần thanh cao”) - Hồ Tơn Hiến: tài kinh luân c. Thuyết TMTĐ&HNBP ứng với Truyện Kiều đúng hay sai? Đúng trong trường hợp nào và sai trong trường hợp nào?
  6. 4. Cách nhìn và thái độ của Nguyễn Du đối với hai tư tưởng này và (mở rộng)nỗi chua chát về cuộc đời lận đận của bản thân. Đời Kiều hay là đời tác giả. TMTĐ&HNBP đối với Nguyễn Du là quy luật cuộc sống, lời than ốn với xã hội Phong kiến Vấn đề mâu thuẫn xh: người tài tử, người phụ nữ xinh đẹp tài hoa với xã hội phong kiến hà khắc mà đồng tiền đã bắt đầu lún sâu vào xã hội, khẳng định thế lực của nĩ. Tiếng nĩi đồng cảm của tác giả đối với số phận bất hạnh của người phụ nữ cũng như đối với những tài tử trong xã hội. Tâm sự và hình ảnh của Nguyễn Du qua tư tưởng TMTĐ&HNBM III. Kết bài
  7. 1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG TÀI MỆNH TƯƠNG ĐỐ & HỒNG NHAN BẠC MỆNH
  8. 1.a. Ảnh hưởng từ điều kiện lịch sử - xã hội Thời đại mà Nguyễn Du sinh ra và trưởng thành là giai đoạn đất nước ta xảy ra nhiều sự kiện, nhiều biến cố lớn lao và dữ dội nhất. Đĩ là khoảng thời gian vừa đau thương, nhưng cũng vừa quật khởi, vừa là bi kịch nhưng cũng vừa là bản anh hùng ca. Tuy nhiên, màu sắc chung cho cả giai đoạn này vẫn là một màu tối đen, xám xịt.
  9. 1.b.￿Ảnh￿hưởng￿từ￿cuộc￿đời￿tác￿giả • Cuộc￿đời￿Nguyễn￿Du￿nổi￿bật￿hơn￿hết￿vẫn￿là￿những￿ trang￿buồn￿của￿một￿con￿người￿tài￿hoa￿lại￿cĩ￿thừa￿ bất￿hạnh.￿ • Ơng￿đã￿hịa￿vào￿dịng￿người￿nghèo￿khổ,￿đáng￿ thương,￿chỉ￿vì￿thấp￿cổ￿bé￿họng￿mà￿phải￿gánh￿chịu￿ bao￿nhiêu￿điều￿bất￿cơng,￿ngang￿trái￿của￿cuộc￿đời.￿ • Ơng￿thấu￿hiểu￿được￿nỗi￿niềm￿khơng￿biết￿ngỏ￿cùng￿ ai￿của￿người￿phụ￿nữ￿trong￿xã￿hội￿phong￿kiến,￿khi￿ mà￿giá￿trị￿của￿họ￿chỉ￿đáng￿giá￿như￿đồ￿chơi￿trong￿ tay￿người￿đàn￿ơng.￿Chứng￿kiến￿nhiều￿hơn￿những￿ cảnh￿con￿người￿càng￿tài￿hoa,￿nhan￿sắc￿thì￿càng￿ truân￿chuyên,￿bất￿hạnh.￿
  10. 1.c.￿Ảnh￿hưởng￿từ￿ba￿Tư￿tưởng￿Nho,￿ Phật,￿Lão￿-￿Trang • Nho giáo Đạo Trung dung, là sự quân bình, cái gì cũng khơng nên quá mức và cũng khơng nên quá bất cập, phải nằm ở giữa hai thái cực đĩ, chỉ cần thiên lệch bên nào thì nhất định ẩn chứa trong đĩ là điều họa, là cái mầm khơng tốt vậy. Luật Âm dương dung hợp (bỉ sắc tư phong), trong sự vận hành, sự kết hợp của âm và dương, nếu cĩ cái này thì nhất định sẽ mất cái khác. Cĩ càng nhiều thì mất cũng càng nhiều. Thuyết Thiên mệnh, con người ta sống thì phải biết mệnh trời mà làm theo. Trong cực khổ mà ta biết đĩ là mệnh trời khĩ tránh, vui vẻ chấp nhận thử thách thì ta càng đỡ khổ, chứ nếu ta khơng tri mệnh, khơng bằng lịng chấp nhận thì nỗi khổ càng vây lấy ta nhiều hơn.
  11. • Lão - Trang: Sự tồn tại đồng thời của các cặp mâu thuẫn, trái ngược nhau, nếu như đã cĩ cái tốt, đẹp thì nhất định sẽ cĩ phần xấu, ác. Quy luật Phản phục: phúc là nơi nương tựa của họa và ngược lại.
  12. • Phật giáo: Ảnh hưởng sâu sắc từ Phật giáo, Nguyễn Du đã vận dụng vào luật Nhân quả, mà hạt nhân của nĩ là thuyết về Nghiệp . Phật nĩi: con người ta gieo nhân nào thì gặp quả đĩ, cĩ thể thấy ngay cái quả do nhân mình gieo trong kiếp này, nhưng cũng cĩ khi là kiếp khác. Nghiệp là kết quả của hành động chúng ta lặp đi lặp lại. Nếu hành động đúng, tốt thì nghiệp báo ta sẽ tốt, cịn nếu ta làm việc xấu, mắc nợ cuộc đời thì nghiệp báo sẽ bắt ta phải trả. Khi vận dụng luật Nhân quả, vận dụng Nghiệp vào mà giải thích, ta sẽ hiểu rằng, con người nếu tiền kiếp đã gieo quả xấu, làm việc ác, thì kiếp này vẫn phải trả nợ vậy.
  13. 2. Giải thích về Tài mệnh tương đố Hồng nhan bạc mệnh
  14. 2.a. Tài mệnh tương đố • Tài là tài năng, là những phẩm chất hay năng lực của một người mới sinh ra đã cĩ hay trau dồi mà cĩ. ‘ • Mệnh là ý trời, là sự cơng bằng một cách kì dị của Hĩa Cơng, Hĩa Nhi, của cổ máy vũ trụ, của “Hồng quân”, làm cho cuộc đời của một người trở nên tốt, xấu, xa hoa hay nghèo khĩ , tất cả đều đã được định sẵn trong quỹ đạo hoạt động của tự nhiên.
  15. • Tài mệnh tương đố là nỗi thống khổ khơng nĩi nên lời của bao nhiêu bậc tài hoa, bao nhiêu tài tử, nỗi thống khổ của kẻ biết vì sao mình khổ mà khơng thể thay đổi được cuộc sống của chính mình, mong muốn thay đổi nhưng khơng biết làm sao thay đổi, mong cầu được hạnh phúc nhưng lại khơng thể hạnh phúc, chỉ cịn biết uất hận, nghẹn ngào, phiêu dạt trong kiếp sống đọa đày theo “ý trời”.
  16. 2.b. Hồng nhan bạc mệnh • Hồng nhan là những người phụ nữ đẹp, được trời ban cho sắc đẹp cực kì diễm lệ, một tâm hồn mẫn tiệp tài hoa thu hút mọi người. • Bạc mệnh là chết non, chết sớm, phận mỏng, lao đao nhiều trắc trở.
  17. • Người xưa quan niệm vẻ đẹp của người phụ nữ vượt quá vẻ đẹp của tự nhiên, tức là vượt qua định mức cao nhất là trời thì vận mệnh long đong nhiều cay đắng, khổ sở. • Hồng nhan họa thủy, hồng nhan với nét đẹp khuynh quốc khuynh thành gây điên đảo các bậc anh hùng, vương tơn quý tộc gây nước mất nhà tan, trở thành tội nhân của đất trời cũng khơng ít nhưng cũng khơng thốt khỏi cái vịng lẩn quẩn, khơng thốt khỏi định mệnh đã an bài.
  18. 3.a. Cuộc đời bi thương của Kiều • Tài năng và nhan sắc của Thúy Kiều • Số phận nghiệt ngã • Nỗi đau đớn và nước mắt tuyệt vọng của Kiều
  19. Tài năng và nhan sắc của Thúy Kiều Mai cốt cách tuyết tinh thần Làn thu thủy nét xuân sơn, Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh Thơng minh vốn sẵn tính trời, Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm Tay tiên giĩ táp mưa sa
  20. Kiều tài sắc, tài hoa, lại cịn mang trong người cả hai chữ “tài tình”. • Vây phủ quanh thân Kiều ngày cịn thơ ngây là hai lần thơm nức • Đến khi Kiều đã chịu biết bao nhiêu sĩng giĩ của cuộc đời, nhan sắc của nàng vẫn khơng cĩ chút gì thay đổi.
  21. • Tài năng và nhan sắc của Thúy Kiều cịn được thể hiện qua ngơn ngữ của nàng. Nĩ như là một thơng điệp làm tăng thêm sự sắc sảo, thơng minh của nàng trong lịng người khác: Biết dường khinh trọng, biết lời phải chăng • Đến tên cáo già Hồ Tơn Hiến mà cịn bị chinh phục: Nghe càng đắm, ngắm càng say, Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình.
  22. Số phận nghiệt ngã Trăng già độc địa làm sao Cầm dây chẳng lựa buộc vào tự nhiên
  23. Trải qua bao sĩng giĩ đoạn trường, một nàng Kiều sắc nước hương trời đã chịu bao nghiệt ngã đổ lên tấm thân yếu mềm của mình. Ngồi cảnh “Thanh y hai lượt, thanh lâu hai lần”, Kiều đã phải trải qua 2 lần đi trốn, 4 lần định tự tử, 2 lần đi tu, 6 lần lấy chồng, mấy lần bị địn và hành hạ
  24. • Tuổi cập kê nén lịng vì chữ hiếu bán mình chuộc cha, đâu hay rằng một bước lại sa vào vịng nhục nhã, muốn thốt cũng khơng được. • Tấm thân ngọc ngà trong 15 cái xuân xanh của tuổi trẻ chỉ biết tới mùi của đau khổ. Tiếc thay một đĩa trà mi Con ong đã tỏ đường đi lối về
  25. • “Lời ngọt thì lọt đến xương”, quả đúng vậy, biết Tú Bà và Mã Giám Sinh lừa mình, Kiều rút dao tự tử thế nhưng khi nghe lời “khuyên giải” của Tú Bà, Kiều tiếp tục sống. • Tưởng Sở Khanh là một chính nhân quân tử, Kiều lĩe lên một hy vọng giải thốt thân mình, khơng ngờ gã họ Sở lừa lọc lại cùng phường với Tú Bà. • Kiều hứng lấy một trận roi “nát thân bồ liễu”, rồi chịu đày thân mình lại chốn lầu xanh, sống kiếp “làm vợ khắp người ta”, để khi “khi tỉnh rượu lúc tàn canh, giật mình mình lại thương mình xĩt xa”.
  26. • Cứ ngỡ Thúc Sinh cĩ thực lịng mà chung sống, nào ngờ thế gian độc địa, Thúc Ơng lấy làm điều sỉ nhục mà cáo quan, Kiều lại thêm một phen sống dở chết dở vì địn roi quan phủ. Vượt qua thử thách với trí thơng minh và tấm lịng bao dung, nhẫn nhịn, Kiều được sống những ngày được làm người. • Thật thương thay người cĩ lịng nhưng trời vẫn khơng tha. Thúc Sinh lại là kẻ “nhất vợ nhì trời”, Kiều lại phải chịu thêm địn roi và bao tủi nhục
  27. • Cũng cùng đường mà liều mình đem thân gởi chốn thiền mơn, dè đâu chẳng được yên thân, đã trốn đi, vào chùa rồi lại cịn sa vào tay Bạc Bà, Bạc Hạnh. • Tưởng rằng gặp được Từ Hải, trả ân báo ốn thế nhưng lại rơi vào vịng lẩn quẩn khơn cùng. • Ân ốn vừa báo xong, người chưa phút gặp song thân chẳng may lại gặp phải nạn mới, chỉ bởi nhẹ dạ.
  28. • Một bước thốt cảnh hồng trần, cũng một bước sa vịng nghiệt ngã, một bước Kiều trở thành phu nhân nhưng một lời của Kiều lại làm cho Từ Hải phải chết đứng giữa vịng vây kẻ thù. • Điều gì đến ắt khơng thể tránh Rằng: “Hồng nhan tự nghìn xưa, Cái điều bạc mệnh cĩ chừa ai đâu
  29. Nỗi đau đớn và nước mắt tuyệt vọng của Vương Thuý Kiều Di chứng nỗi ám ảnh hằn sâu vào thân thể và tâm hồn của những người bạc mệnh vì tài, vì tình, vì nhan sắc. Cái cịn lại sau những lằn roi mà số phận nghiệt ngã quất xuống đời họ là nước mắt là tủi hờn là đau đớn
  30. Lịng đâu sẵn mối thương tâm Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa Lại càng ủ dột nét hoa Sầu tuơn đứt nối châu sa vắn dài Nỗi riêng lớp lớp sĩng dồi Nghĩ địi cơn lại sụt sùi địi cơn Giọng Kiều rền rĩ trướng loan Màu hoa lê hãy dầm dề giọt sương Đau lịng kẻ ở người đi Lệ rơi thấm đá tơ chia rũ tằm
  31. Kiều là cơ gái yếu đuối nhất trong hạng nhi nữ. Khi phải hứng chịu bao đọa đày của trời đất, tình cảm của nàng cứ trào ra lâm li, thống thiết. Người đa tình mà thế gian lại quá vơ tình. Người đa cảm mà cuộc đời cứ hững hờ, vơ cảm. Thúy Kiều cơ độc, lặn ngụp trong nỗi đa sầu đa mang ấy, đến nỗi: Nỗi riêng riêng những bàng hồng Dầu chong trắng đĩa, lệ tràn thấm khăn
  32. • Hết lần này đến lần khác, khi gặp nạn, con người tài sắc, tài hoa, tài tình này chỉ biết khĩc. • Tấm thân Kiều bị vùi dập, chà đạp, hành hạ, lừa gạt, sỉ vả, đến ngao ngán, bi phẫn, uất nghẹn, ê chề. Ấy vậy mà gần 3000 câu thơ, vẫn cịn sĩt lại một nụ cười duy nhất. Nụ cười ấy trở nên quá nhỏ bé giữa biển nước mắt mênh mơng.
  33. Cùng nhau trơng mặt cả cười Dan tay về chốn trướng mai tự tình
  34. • Nếu số mệnh đã cho Thúy Kiều một lần được cười lớn thì cũng cho nàng, lần này phải khĩc đến lả người, đau đến như hồn lìa khỏi xác: Dịng thu như xối cơn sầu Dứt lời nàng cũng gieo đầu một bên Lạ thay oan khí tương triền Nàng vừa phục xuống Từ liền ngã ra.
  35. • Đau khổ tột đỉnh là sự tự dằn vặt chính bản thân mình. Tình huống trớ trêu khiến Kiều là kẻ gián tiếp giết Từ Hải, giết người mình thương yêu, quý trọng, cũng là giết đi hạnh phúc, giết đi chính bản thân mình. Kiều một đời đã sống vì tình và đến đây thì cũng “chết” vì tình, bởi trái tim quá yếu mềm, dại dột.
  36. • Khi bị rơi vào đêm trường đầy trái ngang oan nghiệt, người con gái mang đầy dự cảm về thân phận mong manh ấy chỉ biết khĩc. Nước mắt vơ dụng, nĩ khơng thể kéo con người ta ra khỏi bùn nhơ, khỏi vực sâu tăm tối. Vì thế, nước mắt khơng chỉ tượng trưng cho nỗi đau mà cịn tượng trưng cho sự cúi đầu bất lực, mệt mỏi và cam chịu. Những người tài hoa, tài sắc và tài tình đứng trước cơ trời, trước số mệnh chỉ cĩ thể cúi đầu khuất phục. Họ là những kẻ khơng sao tẩu thốt được khỏi cái án “tài mệnh tương đố”, “hồng nhan bạc mệnh” cứ mãi treo lơ lửng trên đầu. Đã mang lấy nghiệp phong trần Cũng đừng ốn trách trời gần, trời xa
  37. 3.b. Thuyết TMTĐ&HNBM ứng với những nhân vật khác • Khơng chỉ riêng một mình Kiều cĩ sắc, cĩ tài mà phải chịu muơn phần nghiệt ngã. • Thuyết Tài mệnh tương đố, Hồng nhan bạc mệnh cịn vận vào nhiều người khác như Đạm Tiên, Từ Hải, • Đạm Tiên được coi là người tài sắc vẹn tồn: Nổi danh tài sắc một thì, Xơn xao ngồi cửa hiếm gì yến anh. Thế nhưng duyên phận nàng lại quá hẩm hiu: Kiếp hồng nhan cĩ mong manh, Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương.
  38. • Trong dịng chuyển dịch, như một cỗ xe sắp rã mục, xã hội PK cố gồng mình để dìm kiếp người tài hoa vào tuyệt lộ thâm u, rùng rợn: Phũ phàng chi bấy gố cơng, Ngày xanh mịn mỏi má hồng phơi pha . Sống làm vợ khắp người ta, Khéo thay thác xuống làm ma khơng chồng.
  39. • Sống trong một xã hội mà luật thừa trừ luơn bất di bất dịch. Tạo hố đã ban tặng cho con người tài sắc nhưng lại khơng dành tặng cho họ cuộc sống ấm êm hạnh phúc. Cĩ điều bất bình như vậy là bởi, đạo Trời vốn ghét cái trọn vẹn: “ tạo vật đố tồn, tạo hố kị doanh”, cho nên Nguyễn Du mới nĩi: Lạ gì bỉ sắc tư phong, Trời xanh quen thĩi má hồng đánh ghen.
  40. • Từ Hải, một anh hùng “đội trời đạp đất”: Rằng: Từ là đấng anh hùng, Dọc ngang trời rộng vẫy vùng bể khơi Cũng khơng thể tránh khỏi định mệnh, “ trí dũng cĩ thừa” nhưng khi vuớng vào thuyết “tài mệnh tương đố”. Sự “ cơn quyền hơn sức lược thao gồm tài” đĩ thoắt cũng tiêu tan theo một cái chết thê luơng, dữ dội: Khí thiêng khi đã về thần, Nhơn nhơn cịn đứng chơn chân giữa vịng. Trơ như đá, vững như đồng Ai lay chẳng chuyển ai rung chẳng dời.
  41. Chế độ phong kiến rất sợ cái tài, nhưng nếu quan niệm tài là tài hoa, tài tình “ nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa” thì Kim Trọng và Thúy Vân hay Hồ Tơn Hiến cũng là những nhân vật cĩ tài nhưng lại khơng bị quy luật “ tài mệnh tương đố” chi phối.
  42. Ngay từ đầu khi nĩi về Thúy Vân, Nguyễn Du đã thơng báo cho mọi người biết được một tương lai rạng sáng đang được mở ra cho Thúy Vân: Vân xem trang trọng khác vời, Khuơn trăng đầy đặn nét ngài nở nang. Hoa cười ngọc thốt đoan trang, Mây thua nước tĩc tuyết nhường màu da.
  43. Kim Trọng cũng được khơng kém phần ưu ái: Nền phú hậu bậc tài danh, Văn chương nết đất thơng minh tính trời.
  44. • Đối với Hồ Tơn Hiến , đây lại là nhân vật xuất hiện ít nhất trong truyện nhưng khi miêu tả thì chỉ bằng mấy câu thơ, Nguyễn Du đã làm nổi bật lên cái tài kinh luân xuất chúng của hắn: Cĩ quan Tổng đốc trọng thần, Là Hồ Tơn Hiến kinh luân gồm tài . Đẩy xe vâng chỉ đặc sai, Tiện nghi bát tiễu việc ngồi đổng nhung • Hồ Tơn Hiến giết đựợc Từ Hải chỉ bằng sự thơng minh của mình mà khơng phải tốn một chút sức lực nào, sự chiến thắng một cách triệt để đĩ khiến người ta vừa căm hờn vừa khâm phục.
  45. Cĩ sự khác biệt về số phận giữa mọi người là do cái nghiệp từ kiếp trước tạo nên. Bởi thế mà “ cho thanh cao mới được phần thanh cao”.
  46. 3.c. Thuyết TMTĐ&HNBM đúng hay sai? • Tư tưởng Tài mệnh tương đố và Hồng nhan bạc mệnh đã khơng đúng cho tất cả trường hợp. • Đem ba nhân vật nữ tượng trưng cho sắc tài là: Đạm Tiên, Thúy Vân, Thúy Kiều ra cùng đối chiếu. + Thúy Vân là cĩ sắc đẹp hài hịa, dung hợp, nĩ khơng kiêu kỳ, khơng sắc sảo, khơng quá khác thường. + Cái đẹp của Đạm Tiên, Thúy Kiều mới là cái đẹp dữ dội khiến tất cả phải “xơn xao ngồi cửa hiếm gì yến anh”, đẹp đến “lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình”.
  47. • Đạm Tiên và Thúy Kiều cịn trội hơn Thúy Vân bởi tài cầm kỳ thi họa, bởi tư chất thơng minh, mẫn tuệ và sự tinh tường, nhạy cảm. Nhưng quan trọng nhất là cái tình ẩn chứa bên trong hai con người này quá lớn. • Trật tự phong kiến, nhất là trong thời suy, là một thứ trật tự chà đạp lên con người, xem con người chỉ là một lợi khí. Với thứ trật tự ấy, tiện nhất là được những người như Thúy Vân. Một người con gái mới lớn, bàng quan trước tình cảm của người khác và cũng khơng yêu ai.
  48. • “Kiều là một người rất phiền cho trật tự Phong Kiến” (Hồi Thanh). • Nội tình của Kiều, sức sống Kiều, say mê của Kiều gây rắc rối, lộn xộn cho cái trật tự ấy biết bao nhiêu. Sức sống Kiều khiến cho cái nền phong kiến bị chơng chênh, rạn nứt
  49. • Lại đem ba nhân vật nam trong Truyện Kiều ra so sánh: Từ Hải, Hồ Tơn Hiến và Kim Trọng. • Đây là ba đấng nam tử đầy kỳ tài. + Hồ Tơn Hiến với tài kinh luân, cĩ thể gọi là kẻ “đại trí”. + Từ Hải với tài võ nghệ, lược thao, tài hoa, tài tử, cĩ thể sánh với bậc “đại dũng”. + Kim Trọng thì con nhà chức cao vọng trọng, là bậc tài danh, tài tử, tài hoa, tài tình. Vậy cớ sao bốn chữ “tài mệnh tương đố” chỉ đeo đẳng, và ứng nghiệm với cuộc đời Từ Hải?
  50. • Thứ nhất, cĩ thể nĩi, đĩ là vì Từ Hải là kẻ đứng đầu danh sách những người cĩ hại cho xã hội phong kiến, là tên đầu sỏ chĩa mũi tấn cơng vào các giai tầng cao cấp của thể chế này. • Thứ hai, Từ Hải lại là kẻ quá đa tình. Chàng chết vì bị tình yêu làm mờ mắt: Khĩc rằng trí dũng cĩ thừa Bởi nghe lời thiếp nên cơ hội này
  51. • Hồ Tơn Hiến và Kim Trọng tuy kẻ ác, người thiện nhưng đều là hạng người an tồn cho xã hội phong kiến. + Bản thân Hồ Tơn Hiến là tay sai đắc lực cho chế độ này + Kim Trọng là đứa con yêu của xã hội phong kiến, được “nền phú hậu, bậc tài danh” làm bệ đỡ vững chắc, được cả xã hội Phong Kiến giữ gìn, bao bọc.
  52. • Mệnh trời là một lẽ, yếu tố quan trọng cịn là lịng người. Cái sắc, cái tài ấy cĩ được xã hội ưng thuận thì mới được “thanh cao”, nếu đã làm mất lịng rồi thì lập tức sẽ bị triệt tiêu, vùi dập. • Tài mệnh tương đố, hay chính lịng người đố kị, Hồng nhan bạc mệnh hay chính nhân tình bạc bẽo. Kẻ muốn vươn lên ắt sẽ bị đạp xuống, kẻ muốn phá hủy trật tự, ắt sẽ bị cái trật tự ấy phá hủy. Trời khơng muốn và lịng người cũng khơng dung thứ cho những tài, sắc và tình phi thường. Bởi thế, tài mệnh tương đố, hồng nhan bạc mệnh, đúng hay sai, cịn tùy thuộc vào từng người, từng cảnh
  53. Cách nhìn và thái độ của Nguyễn Du đối với TMTĐ và HNBM Đời Kiều hay là đời tác giả?
  54. • Qua cuộc đời “Hết nạn nọ đến nạn kia, thanh lâu hai lượt thanh y hai lần; khi Vơ Tích khi Lâm Tri, nơi thì lừa đảo nơi thì xĩt thương; thoắt buơn về thoắt bán đi, mây trơi bèo nổi thiếu gì là nơi” của Thúy Kiều, Nguyễn Du khái quát thành quy luật chung: “Trăm năm trongcõi người ta, Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau;
  55. • Cĩ ý kiến cho rằng Truyện Kiều chính là một tác phẩm phỏng theo tâm sự cĩ thực của chính tác giả: “Cụ với Kiều tuy sinh khơng đồng thời, ở khơng đồng xứ, nhưng cũng là một thanh một khí ( ). • Cụ là một người trung thần mà gặp buổi Lê suy, cũng như Kiều là một người trinh nữ gặp cơn gia biến. Dù cụ cĩ muốn trung với Lê hồng, song nhà đổ một cây chống sao cho nổi, khác gì Kiều, muốn thủ nghĩa với Kim Trọng, song chuộc cha thế phải bán mình ” (Lê Văn Hịe).
  56. • Nguyễn Bách Khoa, nĩi về Truyện Kiều một cách quyết đốn như chân lý bao giờ cũng nằm sẵn trong túi áo: “Truyện Kiều kia, Nguyễn Du viết ra khơng phải chỉ để diễn tả tâm sự, cũng khơng phải chỉ để tả thời đại ơng. Nguyễn Du viết Truyện Kiều là để tự giải thốt bằng cách tự thực hiện mình ở các vai trị ở cái sân khấu trên đĩ tấn trị đã diễn ra đủ hồi, đủ lớp”.
  57. • Nguyễn Du suy nghĩ về cuộc đời, cảm khái về cuộc đời, về những điều trơng thấy mà đau đớn lịng. Do gắn bĩ với con người, với cuộc sống và do phải trải qua những năm lang thang và gian truân, ơng đặc biệt thương xĩt người cĩ tài cĩ tình. Ấy là những nhà thơ nổi tiếng trác tuyệt mà cuộc đời trải qua muơn vàn bất hạnh; là những bậc anh hùng hào kiệt mà thất thế; là những người phụ nữ sắc đẹp khuynh thành mà phải chịu số phận buồn thảm.
  58. • Trong tư tưởng ơng, những lực lượng tàn phá cái hay cái đẹp ơng khái quát thành số mệnh. Trong thế giới hình tượng Truyện Kiều, lần lượt xuất hiện bọn quan lại, bọn lừa lọc, buơn người, những thủ phạm trực tiếp gây ra số kiếp long đong của nàng Kiều. Hiện thân của họ là những đồi phong bại tục. Đây là thực tại của những thiết chế trong xã hội phong kiến suy tàn. Nên mâu thuẫn giữa chế độ phong kiến và bản chất con người là ý nghĩa đích thực, là bản chất của thế giới hiện thực được mơ tả qua nội dung Truyện Kiều. Nhưng tác giả lại nhận thức với một ý nghĩa siêu hình: bản chất của nĩ là mâu thuẫn giữa Tài và Mệnh. Tài mệnh tương đố là niềm tin sâu sắc của tác giả.
  59. • Chế độ phong kiến trên đà tan rã, nên khơng dung nỗi tài hoa. Khơng gian lồng lộng mà tài hoa khơng cĩ điểm tựa để tồn tại. Nên Đỗ Thập Nương làm kỹ nữ, Thúy Kiều bán mình, Giả Bảo Ngọc phải uất hận ra đi; những người ấy, tình của họ đầy đến mức đành phải “khối tình ơm xuống tuyền đài chưa tan”. Xã hội ấy khơng dung nổi hồng nhan; “hồng nhan bạc mệnh” đâu phải là một thành kiến để thở than, bốn chữ này là bản tổng kết kinh nghiệm ngàn năm sự đời dưới chế độ phong kiến.
  60. • Nĩi cho cùng, sự mâu thuẫn ở đây là mâu thuẫn trong con người, trong tư tưởng của ơng chứ khơng phải giữa Tài, Sắc và Mệnh. • Nguyễn Du đã thật tài tình khi ngấm ngầm đẩy Kiều trở về với cuộc sống thanh sạch, đã khiến cho tâm hồn Kiều vẫn giữ được những phẩm chất cao thượng cho đến phút hạ màn. Đĩ dường như cũng là ước mơ, là khát vọng của ơng về một lối thốt, một chân trời bình yên, tươi sáng cho những người tài hoa bạc mệnh.
  61. KẾT LUẬN • Nĩi cho cùng, Truyện Kiều đã đặt ra vấn đề TMTĐ và HNBM thực chất là đặt vấn đề về sự mâu thuẫn giữa người tài tử - một loại người trong xã hội phong kiến hà khắc mà đồng tiền đã bắt đầu khẳng định thế lực của nĩ. • Đồng thời qua đĩ, ta cịn thấy được tâm sự và hình ảnh của Nguyễn Du cũng như tiếng nĩi đồng cảm của ơng đối với số phận bất hạnh của người phụ nữ và những tài tử trong xã hội.
  62. CHÚNG TƠI CẢM ƠN THẦY VÀ CÁC BẠN ĐÃ QUAN TÂM THEO DÕI!