Trắc nghiệm và ứng dụng thực hiện đề thi tại trường Trung cấp Kinh tế Kỹ thuật Nguyễn Hữu Cảnh
Bạn đang xem tài liệu "Trắc nghiệm và ứng dụng thực hiện đề thi tại trường Trung cấp Kinh tế Kỹ thuật Nguyễn Hữu Cảnh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
trac_nghiem_va_ung_dung_thuc_hien_de_thi_tai_truong_trung_ca.pdf
Nội dung text: Trắc nghiệm và ứng dụng thực hiện đề thi tại trường Trung cấp Kinh tế Kỹ thuật Nguyễn Hữu Cảnh
- TRẮC NGHIỆM VÀ ỨNG DỤNG THỰC HIỆN ĐỀ THI TẠI TRƯỜNG TRUNG CẤP KINH TẾ KỸ THUẬT NGUYỄN HỮU CẢNH Tóm tắt: Hình thức thi trắc nghiệm ngày càng được giáo viên trường Trung cấp Kinh tế Kỹ thuật Nguyễn Hữu Cảnh sử dụng nhiều thay thế cho hình thức tự luận. Hầu hết các khoa trong nhà trường đều đang sử dụng đề thi theo hình thức trắc nghiệm. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên, nhà trường đã áp dụng đồng bộ các giải pháp như lựa chọn hình thức trắc nghiệm phù hợp với học sinh, thống nhất quy trình thực hiện đề thi, đồng thời, áp dụng thí điểm với một số môn học trong toàn trường. Đa số giáo viên ủng hộ nhưng cũng có những ý kiến trái chiều. Tuy nhiên, việc áp dụng khoa học trắc nghiệm vào trường Trung cấp chuyên nghiệp là thiết thực để nâng cao chất lượng kiểm tra, đánh giá trong nhà trường. Việc thực hiện đề thi và tổ chức thi từ đó cũng dần đi vào hướng chuyên nghiệp. 1. Đặt vấn đề Ở các nước phát triển, thi trắc nghiệm được phổ biến khá rộng rãi. Hầu hết giáo viên được tập huấn kỹ lưỡng kỹ thuật ra đề thi, thẩm định chất lượng câu hỏi. Ngoài ra họ còn được trang bị phần mềm máy tính hỗ trợ, soạn thảo các câu hỏi và đề thi trước khi thi, tính toán, thẩm định các câu hỏi sau khi thi. Có thể nói, mỗi giáo viên là một chuyên gia về trắc nghiệm. Ở Việt Nam, những năm gần đây, hình thức thi trắc nghiệm khách quan bắt đầu được áp dụng cho các kỳ thi quan trọng có tầm quốc gia như kỳ thi tuyển sinh đại học Tuy nhiên không ít các thầy cô giáo vẫn còn xa lạ với trắc nghiệm dẫn tới sự hiểu lầm về trắc nghiệm. Đó là nguyên nhân của những đề thi trắc nghiệm thiếu giá trị đo lường kết quả học tập. Xuất phát từ thực trạng trên, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên nhất là giáo viên mới trong việc biên soạn đề thi trắc nghiệm khách quan các môn học, trường Trung cấp Kinh tế Kỹ thuật Nguyễn Hữu Cảnh đã chủ trương áp dụng khoa học đo lường trắc nghiệm, thống nhất trong việc biên soạn đề thi trắc nghiệm khách quan tại trường. Điều này góp phần nâng cao chất lượng kiểm tra đánh giá cho các môn học tại trường trong thời gian qua. 2. Nội dung 2.1. Khái quát về trắc nghiệm Việc đo lường và đánh giá trong giáo dục đã phát triển từ xa xưa, tuy nhiên có thể nói một ngành khoa học thực sự về đo lường trong tâm lý và giáo dục mới bắt đầu và hình thành từ cuối thế kỷ 19. Ở Châu Âu đặc biệt là Mỹ, lĩnh vực khoa học trắc nghiệm phát triển mạnh trong thế kỷ 20. 1
- Có thể kể những dấu mốc quan trọng trong tiến trình phát triển, như Trắc nghiệm trí tuệ Simon – Binet được xây dựng bởi hai nhà tâm lý người Pháp Alfred Binet và Theodore Simon vào khoảng năm 1905, tiếp đến được cải tiến tại đại học Stanford Mỹ bởi Lewis Terman năm 1916, sau đó được cải tiến liên tục và ngày nay được sử dụng với tên gọi là Trắc nghiệm trí tuệ IQ (Interlligence Quotient). Bộ trắc nghiệm thành quả học tập tổng hợp đầu tiên Stanford Acheevement Test ra đời vào năm 1923 tại Mỹ. Với việc đưa vào chấm trắc nghiệm bằng máy IBM năm 1935, việc thành lập Hội quốc gia về Đo lường trong giáo dục (National Council on Measurement in Eduacation – NCME) vào thập niên 1950, sự ra đời hai tổ chức tư nhân Eduacation Testing Services (ETS) năm 1947 và American College Testing (ACT) năm 1950, hai tổ chức làm dịch vụ trắc nghiệm lớn thứ nhất và thứ hai Hoa Kỳ, một ngành công nghiệp trắc nghiệm đã hình thành. Từ đó đến nay khoa học về đo lường trong tâm lý và giáo dục đã phát triển liên tục, những phê bình chỉ trích đối với khoa học này cũng xuất hiện thường xuyên nhưng chúng không đánh đổ được nó mà chỉ làm cho nó tự điều chỉnh và phát triển mạnh mẽ hơn [1,15] Các thành tựu lý luận quan trọng của khoa học về đo lường trong giáo dục đạt được cho đến thập niên 70 của thế kỷ trước là “lý thuyết trắc nghiệm cổ điển” (classical test theory). Còn bước phát triển về chất của nó trong khoảng 4 thập niên vừa qua là “lý thuyết trắc nghiệm hiện đại” hoặc “lý thuyết đáp ứng câu hỏi” (Item Response Theory – IRT). IRT đã đạt được những thành tựu quan trọng nâng cao độ chính xác của trắc nghiệm và trên cơ sở lý thuyết đó, công nghệ trắc nghiệm thích ứng máy tính (Computer Adaptive Test – CAT) ra đời. Ngoài ra trên cơ sở của những thành tựu của IRT và ngôn ngữ học máy tính, công nghệ Criterion chấm tự động các bài thi tự luận tiếng Anh nhờ máy tính của EST đã được triển khai qua mạng Internet trong mấy năm qua [1,16]. Trắc nghiệm ở Việt Nam ra đời muộn hơn so với các nước Đức, Pháp, Mỹ, Liên Xô nhưng vào thời điểm nào thì khó mà xác định được. Một điều mà nhiều người hiện nay có thể kiểm chứng được là các học sinh Việt Nam từ đầu thập niên 50 đã được tiếp xúc với trắc nghiệm qua các cuộc khảo sát khả năng ngoại ngữ do các cơ quan quốc tế tổ chức. Các tài liệu sư phạm chỉ đề cập đến trắc nghiệm khách quan về tâm lý và giáo dục một cách sơ sài và một số bài viết trên các tập san giáo dục vào năm 1960.[2,206] 2.2. Thực trạng việc thi trắc nghiệm tại trường Trung cấp Kinh tế Kỹ thuật Nguyễn Hữu Cảnh Ở trường Trung cấp Kinh tế Kỹ thuật Nguyễn Hữu Cảnh, hình thức thi trắc nghiệm ngày càng được giáo viên áp dụng rộng rãi, một số cán bộ chủ chốt cũng được tiếp cận một cách hệ thống về trắc nghiệm khách quan. 2
- Giáo viên nhà trường đang có xu hướng chuyển hình thức đề thi tự luận sang dạng đề thi trắc nghiệm nhưng cách thực hiện bộ câu hỏi và đề thi của mỗi giáo viên khác nhau. Một số giáo viên thực hiện rất tốt việc biên soạn câu hỏi trắc nghiệm khách quan và áp dụng các phần mềm trộn đề thi hiệu quả. Một số giáo viên lại chưa biết cách thực hiện đề thi trắc nghiệm, lúng túng trong việc áp dụng công nghệ vào thực hiện bộ đề thi. Ngoài ra, sau khi tổ chức thi, việc đánh giá lại các bộ đề thi vẫn chưa được giáo viên quan tâm. Hiện nay, hầu hết các khoa trong trường đều đang sử dụng đề thi hình thức trắc nghiệm, từ các môn văn hóa như Anh văn, Văn, Hóa, Lý đến các môn chuyên cơ sở và chuyên ngành như Lịch sử trang phục, Kiến thức thời trang, Vật liệu cơ khí, An toàn lao động, Kết cấu động cơ đốt trong, Khí cụ điện, Vật liệu điện, Đo lường điện, Máy điện, Marketing, Kinh tế quốc tế, Lý thuyết tài chính, Kinh tế vi môn, Lý thuyết thống kê. Nhờ những bộ đề thi trắc nghiệm trong các năm qua giúp giảm tỷ lệ học tủ, quay bài, kiểm tra kiến thức toàn diện, chấm bài nhanh, khách quan. Tuy vậy, nhược điểm tồn tại trong các bộ đề thi trắc nghiệm còn rất nhiều. Các phương án nhiễu (phương án sai) để lộ đáp án, lỗi logic, nội dung thi chưa bám sát mục tiêu môn học , các câu trắc nghiệm trùng nội dung và đáp án 2.3. Việc ứng dụng thi trắc nghiệm Từ những ưu điểm và nhược điểm trên, trường thấy rằng cần phát huy hình thức thi trắc nghiệm vì có nhiều ưu điểm đồng thời từng bước góp phần nâng cao chất lượng đào tạo hiện nay. Tuy nhiên, cần có những tiêu chí và quy trình thống nhất cách thực hiện đề thi trắc nghiệm trong toàn trường, giúp giáo viên hạn chế tối đa những sai sót thường gặp trong quá trình thực hiện đề thi. Nhà trường đã áp dụng, các giải pháp như sau: Một là, lựa chọn hình thức trắc nghiệm phù hợp trình độ học sinh THCS. Với đặc thù của trường trung cấp chuyên nghiệp (TCCN) học sinh chủ yếu tốt nghiệp THCS, nếu sử dụng nhiều hình thức sẽ gây khó khăn vì vậy nhà trường thí điểm chọn loại trắc nghiệm đúng - sai và trắc nghiệm nhiều lựa chọn. Hai là, thống nhất quy trình thực hiện đề thi. Quá trình thực hiện được mô tả qua lưu đồ gồm các bước như: phân tích nội dung môn học, xác định mục tiêu kiểm tra đánh giá, lập dàn bài trắc nghiệm, lấy ý kiến giáo viên, thử nghiệm trong các bài kiểm tra hệ số 1 và hệ số 2, phân tích câu hỏi, hoàn thiện bộ câu hỏi. Trong mỗi bước, nhà trường hướng dẫn cụ thể mục đích và cách thức thực hiện từng bước kèm theo ví dụ minh họa dễ hiểu. Ba là, áp dụng thí điểm với một số môn học trong toàn trường. Trong khi thực hiện có nhiều ý kiến trái chiều của giáo viên. Những giáo viên chưa 3
- quen với cách làm này đa số là giáo viên lâu năm, hạn chế về kỹ năng sử dụng máy tính và ngại việc thay đổi. Mặc dù vậy, với quyết tâm cao nhà trường đã áp dụng đại trà vào các môn học. Trường đã huy động hầu hết giáo viên đóng góp ý kiến cho các bộ câu hỏi các môn học. Từ đó dần tạo thói quen thực hiện đề thi và tổ chức thi ngày càng chuyên nghiệp. Song song với việc áp dụng quy trình thực hiện bộ câu hỏi cho mỗi môn học một cách chặt chẽ, nhà trường cũng dần áp dụng phần mềm để thực hiện các thao tác trộn đề thi trên máy, tổ chức thi và chấm thi trên máy. Qua gần một năm áp dụng nhà trường đã có những kết quả đáng khích lệ. Tỷ lệ đề thi trắc nghiệm sai sót giảm 40%, đề thi phân loại được 90% học sinh giỏi và học sinh yếu kém. Qua đó góp phần đánh giá đúng thực lực của học sinh. 3. Kết luận Với mong muốn ngày càng nâng cao chất lượng đào tạo, trường Trung cấp Kinh tế Kỹ thuật Nguyễn Hữu Cảnh từng bước cải thiện các khâu trong quá trình dạy học trong đó có khâu kiểm tra, đánh giá. Việc áp dụng trắc nghiệm trong quá trình kiểm tra đánh giá là xu hướng đúng đắn đối với nhà trường. Muốn làm tốt công tác này, bản thân mỗi giáo viên phải phấn đấu toàn diện, trong đó, đổi mới khâu kiểm tra đánh giá là một nội dung cực kỳ quan trọng. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Lâm Quang Thiệp (2008): Trắc nghiệm và ứng dụng, NXB KHKT. [2] Dương Thiệu Tống (2005): Trắc nghiệm & Đo lường thành quả học tập, NXB Khoa học xã hội. [3] Lâm Quang Thiệp (1994), Những cơ sở của kỹ thuật trắc nghiệm, NXB Vụ đại học Hà Nội. [4] Nguyễn Đức Trí, Hoàng Anh (2008), Quy trình, phương pháp xây dựng ngân hàng câu hỏi, đề thi và tổ chức đánh giá kiến thức nghề, NXB Tổng cục dạy nghề. * Ý kiến và đề xuất cho đăng báo của giáo viên hướng dẫn: Thành phố Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2013 GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN 4
- BÀI BÁO KHOA HỌC THỰC HIỆN CÔNG BỐ THEO QUY CHẾ ĐÀO TẠO THẠC SỸ Bài báo khoa học của học viên có xác nhận và đề xuất cho đăng của Giảng viên hướng dẫn Bản tiếng Việt ©, TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH và TÁC GIẢ Bản quyền tác phẩm đã được bảo hộ bởi Luật xuất bản và Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam. Nghiêm cấm mọi hình thức xuất bản, sao chụp, phát tán nội dung khi chưa có sự đồng ý của tác giả và Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh. ĐỂ CÓ BÀI BÁO KHOA HỌC TỐT, CẦN CHUNG TAY BẢO VỆ TÁC QUYỀN! Thực hiện theo MTCL & KHTHMTCL Năm học 2016-2017 của Thư viện Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Tp. Hồ Chí Minh.



