Tổng thuật Đề tài cấp bộ trọng điểm “Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thanh tra

doc 70 trang phuongnguyen 1870
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tổng thuật Đề tài cấp bộ trọng điểm “Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thanh tra", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • doctong_thuat_de_tai_cap_bo_trong_diem_tu_tuong_ho_chi_minh_ve.doc

Nội dung text: Tổng thuật Đề tài cấp bộ trọng điểm “Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thanh tra

  1. TỔNG THUẬT ĐỀ TÀI CẤP BỘ TRỌNG ĐIỂM “TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC THANH TRA” 1
  2. Mục lục TỔNG THUẬT 1 ĐỀ TÀI CẤP BỘ TRỌNG ĐIỂM 1 PHẦN MỘT 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC THANH TRA 1 1. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh 1 2. Định hướng nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thanh tra 7 PHẦN HAI 13 I. Nội dung Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thanh tra 13 1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về thanh tra, kiểm tra 13 2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về giải quyết khiếu nại, tố cáo 29 3. Quan điểm Hồ Chí Minh về chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu 36 4. Yêu cầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cán bộ thanh tra 47 II. Học tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, chống tham ô, lãng phí và yêu cầu đối với cán bộ thanh tra viên giai đoạn hiện nay 53 1. Học tập, vận dụng các quan điểm của Hồ Chí Minh về công tác thanh tra 53 2. Học tập, vận dụng các quan điểm của Hồ Chí Minh về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo 57 3. Học tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đấu tranh chống tham nhũng 59 4. Học tập, vận dụng các yêu cầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cán bộ thanh tra trong giai đoạn hiện nay 61 PHẦN BA: 63 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 64 1
  3. PHẦN MỘT MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC THANH TRA Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân; về chống tham ô, lãng phí, quan liêu, thực hành tiết kiệm; về nền văn hóa dân tộc và hiện đại; về đạo đức cách mạng; về đoàn kết trong Đảng, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh Tư tưởng Hồ Chí Minh đã và đang soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi. Đó là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một học thuyết cách mạng, cùng với chủ nghĩa Mác - Lê nin, là nền tảng tư tưởng của Đảng, kim chỉ nam cho hành động của cách mạng Việt Nam. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh không theo lối tầm chương trích cú mà nghiên cứu một cách hệ thống, nắm vững và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn những tư tưởng, quan điểm cốt lõi nhất về những vấn đề cơ bản nhất. Đó cũng là định hướng và yêu cầu quan trọng khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thanh tra 1. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, trước hết phải nghiên cứu nguồn gốc, cái tạo nên bản chất cốt lõi, xuyên suốt hình thành trong con người Hồ Chí Minh trong suốt chiều dài của sự nghiệp. Về phương diện lý luận, nhiều nhà nghiên cứu coi nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh xuất phát từ 3 điểm cơ bản là: Chủ nghĩa yêu nước và truyền thống văn hóa nhân ái của dân tộc Việt Nam; tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây; Chủ nghĩa Mác – Lênin. Ba yếu tố trên kết hợp với 2
  4. nhân cách cá nhân kiệt xuất của Người được đúc rút từ quá trình hoạt động thực tiễn của Người tạo nên tư tưởng Hồ Chí Minh. 1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh, sự kế thừa và phát triển chủ nghĩa yêu nước, truyền thống văn hóa nhân ái của dân tộc Việt Nam Có thể khẳng định rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đi tìm con đường cho cách mạng Việt Nam với tấm lòng của một người Việt Nam yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước của Người được tiếp thu từ truyền thống yêu nước từ ngàn đời của cha ông. Đó là một truyền thống yêu nước, thương nòi, tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường. Truyền thống đó đã khiến Người không cam tâm nhìn cảnh nước mất nhà tan, đồng bào mình lầm than trong kiếp nô lệ. Truyền thống đó đã hun đúc người thanh niên Nguyễn Tất Thành quyết tâm ra đi tìm con đường cứu nước, cứu dân. Lịch sử đã chứng minh rằng, dân tộc Việt Nam là dân tộc hình thành rất sớm. Nước chúng ta có từ thời Vua Hùng, có quốc gia dân tộc từ thời đại Văn Lang, Âu Lạc. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc văn hiến, có một nền văn hóa truyền thống lâu đời, đó là truyền thống nhân nghĩa, độc lập, tự lực tự cường của một dân tộc được hình thành sớm, truyền thống này được hình thành từ cuộc đấu tranh khuất phục thiên nhiên và chống kẻ thù xâm lược giữ gìn đất nước. Tinh thần nhân nghĩa, đoàn kết, tương thân tương ái được thể hiện thông qua thực tiễn các cuộc đấu tranh làm chủ thiên nhiên và chống giặc ngoại xâm. Vì vậy, trách nhiệm của con cháu là phải giữ gìn và bảo vệ bờ cõi non sông như lời Bác Hồ đã căn dặn “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Trong những truyền thống tốt đẹp đó, chủ nghĩa yêu nước là dòng chảy xuyên suốt lịch sử dân tộc ta. Lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh dân tộc ta là một dân tộc có lòng yêu nước nồng nàn, và trên hết đó là một dân tộc có ý chí kiên cường, bất khuất, không chịu làm nô lệ, kiên quyết bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc mình. Truyền thống đó đã thấm đẫm trong Chủ tịch Hồ Chí Minh mà Người đã mang theo trong suốt cuộc đời mình. Chính chủ nghĩa yêu nước đã thôi thúc Người ra đi tìm đường cứu nước. Có thể coi đó là hành trang giá trị nhất của 3
  5. người thanh niên Nguyễn Tất Thành, nó là cơ sở, là động lực trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Nhận thức về lòng yêu nước của con người Việt Nam, Người nói: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Tư tưởng yêu nước, thương dân của Người được hình thành từ rất sớm. Từ nhỏ cậu bé Nguyễn Sinh Cung đã được nuôi dưỡng trong truyền thống yêu nước và đấu tranh bất khuất của quê hương sông Lam núi Hồng, một mảnh đất địa linh, nhân kiệt. Người được thừa hưởng trí tuệ uyên bác của người cha là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc và ảnh hưởng, hấp thụ những bài học về lòng nhân ái, đức hy sinh cao cả của mẹ là bà Hoàng Thị Loan. Những năm tháng thơ ấu, Người đã chứng kiến cảnh nước mất, nhà tan, đời sống nhân dân lầm than, cơ cực, sự thống trị của thực dân Pháp vô cùng hà khắc và bạo tàn. Các cuộc đấu tranh do các tầng lớp sĩ phu yêu nước lãnh đạo đều đi đến thất bại. Cách mạng Việt Nam khi đó khủng hoảng về đường lối. Tiếp thu truyền thống yêu nước, với tư duy độc lập sáng tạo, Hồ Chí Minh đã sớm hình thành chí hướng và tìm con đường đi cho cho riêng mình. Hồ Chí Minh rất trân trọng và khâm phục tinh thần đấu tranh bất khuất của những chí sĩ yêu nước trước đó, nhưng Người có suy nghĩ khác với con đường cứu nước của các bậc tiền bối. Người cho rằng con đường Đông du của cụ Phan Bội Châu chẳng khác nào “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”, còn cụ Phan Chu Trinh thực hiện các biện pháp cải lương, chẳng khác nào “xin giặc rủ lòng thương”. Năm 1911, Người ra đi tìm đường cứu nước. Người không đi theo con đường của các bậc tiền bối đã đi, mà đi theo con đường riêng của mình. Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước đã mang theo truyền thống yêu nước, nhân ái, tự lực, tự cường của dân tộc, với một tinh thần yêu nước sâu sắc, một hoài bão cứu nước, cứu dân và một lòng tin ở sức ta có thể giải phóng cho ta. 1.2. Tiếp thu tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây 4
  6. Có thể thấy trong tư tưởng Hồ Chí Minh có rất nhiều biểu hiện của việc tiếp thu những giá trị nhân văn của cả văn hoá phương Đông và phương Tây Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong một gia đình Nho giáo, từ nhỏ Người đã học chữ Hán với các thầy là bậc túc nho yêu nước, làu thông Tứ Thư, Ngũ Kinh. Ảnh hưởng của Nho giáo đối với Người rất lớn, đạo đức Nho giáo đã thấm vào tư tưởng của Người, những triết lý hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo giúp đời, đề cao văn hóa, lễ giáo và coi trọng học hành. Khi đọc những bài viết của Người, dù ở bất cứ lĩnh vực nào, ta đều thấy có rất nhiều luận điểm, phạm trù, mệnh đề của Nho giáo được Hồ Chí Minh sử dụng có chọn lọc, đưa vào đó những tư tưởng mới, phù hợp với điều kiện của đất nước và thời đại, đặc biệt trên lĩnh vực đạo đức. Người tiếp thu tinh hoa Nho giáo và đứng trên quan điểm cách mạng để sử dụng Nho giáo, tức là tiếp thu có phê phán. Cũng giống như Mác tiếp thu có phê phán tư tưởng của các nhà khoa học xã hội tư sản; triết học duy vật của Phơ-Bách và phép biện chứng của Hêghen, Hồ Chí Minh có cách nhìn nhận khách quan, khoa học đối với Nho giáo, Người đánh giá đúng đắn vai trò, ý nghĩa của Nho giáo trong lịch sử tư tưởng xã hội nhân loại. Cũng như vậy là sự tiếp thu có chọn lọc tinh tuý của Phật giáo - một nguồn gốc tư tưởng, triết lý, văn hóa phương Đông du nhập vào Việt Nam rất sớm. Những điểm tích cực của Phật giáo đã để lại những dấu ấn hết sức sâu sắc trong tư duy hành động, cách ứng xử của Hồ Chí Minh. Người kế thừa những tư tưởng tiến bộ, tích cực của Phật giáo, đó là tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn; nếp sống giản dị, thanh liêm; đề cao tinh thần bình đẳng; không xa rời đời sống mà luôn gắn bó với dân tộc, đất nước. Ảnh hưởng của tư tưởng Lão – Trang cũng thể hiện đậm nét trong con người Chủ tịch Hồ Chí Minh với lòng yêu thiên nhiên, lối sống giản dị, hòa mình với thiên nhiên của Người. Văn hóa phương Tây với tư tưởng dân chủ cách mạng cũng thể hiện đậm nét trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ khi Người còn học ở các trường Tiểu học Đông Ba, Quốc học Huế, 5
  7. Người đã say mê môn học lịch sử và tìm hiểu về cuộc Đại cách mạng Pháp năm 1789. Một điểm quan trọng tác động đến Hồ Chí Minh là tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, nó là xuất phát điểm để Người xác định hướng đi tìm đường cứu nước của mình. Người kể lại: Vào trạc tuổi 13, tôi có nghe được những từ “Tự do, bình đẳng, bác ái”, lúc đó các sĩ phu yêu nước đang bàn với nhau về những từ này, điều đó thôi thúc Người quyết tâm sang phương Tây, sang Pháp để tìm hiểu tự do, bình đẳng, bác ái, xem họ làm thế nào để trở về cứu nước, cứu đồng bào. Qua đó, có thể thấy tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái có ảnh hưởng rất mạnh đến Hồ Chí Minh trước khi xuất dương tìm đường cứu nước. Những tư tưởng dân chủ của các nhà khai sáng như Vônte, Rútxô, Môngtexkiơ cũng ảnh hưởng đến tư tưởng Người. Khi sang Mỹ, Người đã tiếp thu giá trị về quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của tất cả các dân tộc, Người tiếp thu và hình thành phong cách dân chủ của mình từ trong cuộc sống thực tiễn ở châu Âu. Cần nhấn mạnh rằng tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh không phải đi ra nước ngoài người mới biết đến. Tinh thần về quyền của người dân, quyền sống ở nước ta đã có, Cụ Phan Bội Châu đã đề cập đến, Cụ Phan Chu Trinh thuộc phái dân quyền hiểu rất rõ về dân chủ. Cụ Nguyễn Sinh Sắc đã tặng Phan Chu Chinh câu thơ: “dân quyền tiên tổ chức”. Điều đó cho thấy, Hồ Chí Minh đã biết đến khái niệm dân quyền khi còn ở trong nước. Trong quá trình bôn ba nước ngoài, Người biết đến “Thế kỷ ánh sáng”, “Cách mạng Pháp” Người nghiên cứu, tiếp thu có phê phán những tư tưởng dân chủ của phương Tây. Điều này thể hiện rõ khi Người viết bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa và tinh thần của Hiến pháp năm 1946. 1.3. Sự tiếp thu, vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác – Lênin Cần nhấn mạnh rằng, Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Lênin rồi mới đến với chủ nghĩa Mác-Lênin. Trong tác phẩm “Đường cách mệnh” Người viết “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất là chủ nghĩa Lênin”. Người đến với chủ nghĩa Lênin vì “Luận cương” của Lênin nói tới vấn đề thuộc địa. Chính chủ nghĩa yêu nước đã dẫn Người đến với 6
  8. chủ nghĩa Lênin. Trong bài “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin” Người viết: “Lúc bấy giờ, tôi ủng hộ Cách mạng Tháng Mười chỉ là theo cảm tính tự nhiên Tôi tham gia Đảng Xã hội Pháp chẳng qua là vì các “ông, bà” ấy đã tỏ đồng tình với tôi, với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Còn Đảng là gì, công đoàn là gì, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là gì, thì tôi chưa hiểu”. Năm 1920 là một bước ngoặt lớn đối với cuộc đời hoạt động của Người, từ chủ nghĩa yêu nước chân chính Người đã đến với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Trong thời gian hoạt động, Người tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu về chủ nghĩa Mác-Lênin, đặc biệt thời gian làm việc ở Liên Xô, Người đã hiểu khá sâu sắc về chủ nghĩa Mác-Lênin và phong trào cộng sản quốc tế. Sự tiếp thu, vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin là một định hướng quyết định hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh đi vào hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác- Lênin. Người nhận thấy rằng, không phải chỉ dân tộc mình cần được giải phóng mà cần giải phóng những con người cùng khổ. Người nhận ra mối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa với cách mạng chính quốc; mối quan hệ giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản; mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng vô sản, rồi đi đến giải phóng con người. Chủ nghĩa Mác- Lênin trang bị thế giới quan cách mạng, phương pháp luận duy vật biện chứng để Hồ Chí Minh tổng kết lịch sử, tổng kết thực tiễn tìm ra con đường cứu nước, Hồ Chí Minh cho rằng: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. 1.4. Quá trình hoạt động thực tiễn, nhân cách cao cả và tài năng kiệt xuất của Hồ Chí Minh Có thể khẳng định rằng, rất ít nhà cách mạng có được quá trình hoạt động thực tiễn phong phú như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Một người dân mất nước, một nho sinh, Người đã đi năm châu bốn bể, trải qua đủ thứ nghề từ dạy học đến làm bồi tàu Người đã đi qua nhiều nước, tiếp thu văn hóa của nhiều nền văn hóa khác nhau, thu nhận ở mỗi nước một thực tiễn sinh động. Với tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, óc phê bình tinh tường, Người có cách nhìn nhận độc đáo, khoa học. 7
  9. Những người khác đến Hắclem thấy vòng nguyệt quế, thấy tượng thần tự do, song Người lại thấy những người da đen ở cách tượng thần tự do rất xa. Người sang Anh quốc, cường quốc với nền đại công nghiêp. Người trở lại nước Pháp, tới Pari. Người qua Trung Quốc, sang Liên Xô. Quá trình bôn ba tìm chân lý cách mạng, tiếp thu và phát triển những giá trị tiến bộ của các học thuyết, tư tưởng trên thế giới, Người không ngừng học tập, bền bỉ trau rèn nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức của thời đại và vốn kinh nghiệm quý báu trong đấu tranh của phong trào cách mạng trên thế giới. Con người Hồ Chí Minh, nhân cách Hồ Chí Minh là một yếu tố quan trọng tạo nên tư tưởng của Người, phẩm chất cá nhân cao đẹp đã đưa Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, Người tiếp nhận, chọn lọc, chuyển hóa những tinh hoa của dân tộc và nhân loại để làm giàu cho kho tàng tư tưởng của chính mình. Hồ Chí Minh là hình ảnh của sự kết hợp đức từ bi, bác ái của đạo Phật, triết học của C.Mác và thiên tài cách mạng của Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh có vị trí hết sức quan trọng trong việc phản ánh bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin soi đường cho cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. 2. Định hướng nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thanh tra 2.1. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thanh tra phải xuất phát từ tư tưởng Hồ Chí Minh về việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước dân chủ nhân dân, nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân Nguồn gốc của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước lại xuất phát từ tinh thần yêu nước thương dân, một tinh thần dân tộc cao cả và sâu sắc của người. Người từng nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành Nếu cần có đảng phái thì sẽ là đảng của dân tộc Việt Nam. Đảng đó chỉ có một mục đích làm cho dân tộc ta hoàn toàn độc lập” Người đến với Chủ nghĩa Mác - Lênin từ tấm lòng của một người yêu nước, Người đến với Chủ nghĩa Mác - Lênin bởi vì Người thấy đó là chủ nghĩa duy nhất đúng đắn, giúp cho dân tộc, cho nhân dân Việt Nam thoát khỏi ách nô lệ, “tự do là 8
  10. đây, cơm áo là đây”, Chủ nghĩa đó không chỉ nhằm giải phóng giai cấp mà còn giải phóng các dân tộc bị áp bức với khẩu hiệu “Giai cấp vô sản trên toàn thế giới và các dân tộc thuộc địa đoàn kết lại” và Người khẳng định: “Con đường giải phóng dân tộc không có con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản”. Sau khi lãnh đạo Cách mạng giành chính quyền thì vấn đề xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân được đặt lên hàng đầu. Vấn đề giành chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng. Nhưng với Hồ Chí Minh cách mạng không chỉ giành chính quyền mà quan trọng hơn nữa là phải xây dựng chính quyền đó thực sự là của dân, do dân và vì dân, đó mới chính là mục tiêu cao nhất của Người “Chính phủ là công bộc của dân vậy. Các công việc của Chính phủ làm phải nhằm một mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi người. Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy. “Việc gì có lợi cho dân thì phải làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”1 “Muốn cho dân yêu, muốn được lòng dân, việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh Nói tóm lại, hết thảy những việc có thể nâng cao đời sống vật chất tinh thần của dân phải được ta đặc biệt chú ý” 2. Không thể kể hết những điều tâm huyết của Người khi nói về việc xây dựng một nhà nước của dân và thực sự vì dân. Vì vậy cần phải xây dựng chính quyền thực sự vì dân cũng như có độc lập thì nền độc lập đó phải mang lại hạnh phúc cho nhân dân mới có ý nghĩa “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì”3. Với nhãn quan cách mạng sáng suốt cùng với sự tiếp thu có chọn lọc tinh hoa của triết học pháp quyền phương Tây, Người đã nhìn thấy trước những vấn đề có thể nảy sinh, những khuyết tật bẩm sinh của quyền lực. Quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nhân dân nhưng nếu không có những cơ chế giám sát, kiểm soát, quyền lực đó rất dễ bị tha hoá, Chính phủ từ chỗ là của dân sẽ trở thành Chính phủ cai trị dân, cán bộ đảng viên từ chỗ là công bộc của dân nếu không biết tự rèn luyện thường xuyên và không được kiểm soát tốt sẽ trở thành các quan cách mạng chỉ lo “vinh thân phì gia”, “xung quanh các Uỷ ban nhân dân, một vài nơi tiếng 1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, H.1995, tập 4, tr.22, 23 2 Sđd, tập 4, tr.47,48 3 Sđd, tập 4, tr.56,58 9
  11. phàn nàn oán thán nhiều hơn tiếng khen. Những Uỷ ban đó không những không được dân yêu còn bị dân khinh, dân ghét là khác nữa” 1. Tất cả mối quan tâm lo lắng đó cùng với những biểu hiện của bệnh quan liêu mất dân chủ, lợi dụng chức quyền để mưu lợi cá nhân, ức hiếp quần chúng xuất hiện ngay từ những ngày đầu giành chính quyền đã thôi thúc Hồ Chủ tịch tìm ra một cơ chế thích hợp để giám sát các cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước. Quá trình thảo luận để ban hành Sắc lệnh số 64/SL thành lập Ban thanh tra đặc biệt đã lý giải cho điều này. Điều đầu tiên của Sắc lệnh số 64/SL là “Chính phủ sẽ thành lập ngay một Ban thanh tra đặc biệt có uỷ nhiệm là đi giám sát tất cả các công việc và các nhân viên của các Uỷ ban nhân dân và các cơ quan của Chính phủ”. Toàn bộ những nhiệm vụ của Ban thanh tra đặc biệt quy định tại Điều 2 của Bản sắc lệnh quan trọng này từ việc giải quyết khiếu nại của dân, xem xét, xử lý những cơ quan và cá nhân phạm lỗi đến việc đề nghị lên Chính phủ những điều cần sửa đổi trong các cơ quan đều thống nhất trong một mục tiêu duy nhất là bảo đảm các cơ quan nhà nước và cán bộ, nhân viên nhà nước thực hiện đúng trách nhiệm của mình, bảo đảm sự liêm chính và phục vụ nhân dân. 2.2. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thanh tra trong sự thống nhất giữa các quan điểm của Người về công tác thanh tra với các quan điểm về công tác kiểm tra của Đảng, giữa sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Bộ máy nhà nước Đây cùng là vấn đề hết sức quan trọng về phương pháp luận cần phải lý giải và thống nhất về nhận thức. Do đặc điểm của cách mạng Việt Nam, sự hình thành nhà nước dân chủ nhân dân gắn bó chặt chẽ với sự ra đời và quá trình lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Quá trình hoàn thiện nhà nước dân chủ nhân dân cũng là quá trình khẳng định vai trò to lớn, sự lãnh đạo, toàn diện tuyệt đối của đảng. Đảng ta là đảng cầm quyền. Đảng lãnh đạo thông qua việc đề ra đường lối chủ trương trong các Nghị quyết, thông qua hoạt động của các cán bộ đảng viên trong bộ máy nhà nước. Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, một nhà nước của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Chính vì vậy, ở nước ta có sự thống nhất hữu cơ giữa sự lãnh đạo của Đảng, 1 Báo cứu quốc số 65, ngày 12 tháng 10 năm 1945 10
  12. sự quản lý của Nhà nước và việc thực hiện quyền lực nhân dân. Cơ chế đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ thể hiện tinh thần đó. Một mặt Đảng tăng cường năng lực lãnh đạo của mình, mặt khác Đảng lãnh đạo xây dựng và nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước. Chính vì vậy giữa lãnh đạo và quản lý, giữa tổ chức Đảng và các cơ quan nhà nước, giữa công tác thanh tra nhà nước và công tác kiểm tra của đảng, giữa việc tăng cường giáo dục và kiểm soát việc thực hiện chức trách công vụ để bảo đảm tính liêm chính của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước với việc giáo dục phẩm chất chính trị và tính tiên phong gương mẫu của người đảng viên luôn gắn bó chặt chẽ với nhau. Đặc biệt trong thời gian nước ta mới giành được độc lâp, chính quyền còn non trẻ sơ khai, sự lãnh đạo của đảng là trực tiếp và cụ thể, khi đó “Đảng, chính quyền, đoàn thể” là một thể thống nhất biểu hiện cho sự đại diện quyền lực của nhân dân. Chính vì lẽ đó nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thanh tra cần được đặt trong sự thống nhất giữa các quan điểm của Người về công tác thanh tra với các quan điểm về công tác kiểm tra của Đảng, giữa sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Bộ máy nhà nước. Chính vì vậy không thể trên cơ sở sự phân tích các từ ngữ, thuật ngữ, khái niệm mà Hồ Chủ tịch đã dùng để phân tách các vấn đề bao trùm có tính chất hệ thống thể hiện tư tưởng về nhà nước và cách mạng của Người. Hồ Chủ tịch nói: “Lãnh đạo đúng nghĩa là: 1. Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng 2. Phải tổ chức sự thi hành cho đúng; 3. Phải tổ chức sự kiểm soát ” Trong tác phẩm “Một việc mà các cơ quan lãnh đạo cần thực hành ngay”, Người nói: “Khi có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ, và do nơi kiểm tra” Tại Sắc lệnh số 64/SL thành lập Ban thanh tra đặc biệt, quy định Ban thanh tra đặc biệt có nhiệm vụ là “giám sát” Hồ Chủ tịch còn dùng nhiều thuật ngữ 11
  13. khác như “củ soát” “theo dõi” tuỳ từng chỗ, đối với từng lĩnh vực hoạt động khác nhau, khi thì tại các Hội nghị của Đảng, khi thì đối với cơ quan nhà nước hoặc các tổ chức xã hội, đoàn thể. Tóm lại, mặc dù dùng nhiều cách nói khác nhau nhưng tựu trung lại đó đều thể hiện tư tưởng của Hồ Chủ tịch về công tác kiểm soát hoạt động của cơ quan đảng, bộ máy nhà nước và các cán bộ, đảng viên trong các cơ quan tổ chức đó, những người thực hiện quyền lực nhà nước. Đây là một vấn đề không thể bỏ qua khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thanh tra. 2.3. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh cần nghiên cứu hệ thống quan điểm của Người về công tác thanh tra, kiểm tra nói chung và những mặt công tác có tính chất truyền thống của ngành thanh tra, đó là công tác thanh tra, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và công tác đấu tranh chống tham nhũng Đây là vấn đề quan trọng cần thống nhất về mặt nhận thức ngay từ đầu để có định hướng nghiên cứu và xác định được phạm vi nghiên cứu. Trên thực tế công tác thanh tra, kiểm tra, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và công tác chống tham nhũng (mà Hồ Chủ tịch thường gọi là nạn tham ô, nạn lãng phí và bệnh quan liêu) đều là những mảng công tác hết sức quan trọng trong hoạt động lãnh đạo của Đảng và sự quản lý điều hành của Nhà nước. Khác với các lĩnh vực công tác khác, chẳng hạn lĩnh vực xét xử chỉ do Toà án thực hiện, lĩnh vực điều tra do các cơ quan điều tra tiến hành, công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo và đấu tranh chống tham nhũng lại thuộc trách nhiệm của toàn đảng, toàn dân, toàn bộ hệ thống chính trị. Tuy nhiên, nhìn từ phương diện lịch sử sẽ thấy rằng, các tổ chức thanh tra đóng vai trò quan trọng trong công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và đấu tranh chống tham nhũng. Sắc lệnh số 64/SL ngày 23/11/1945, văn bản đánh dấu sự ra ra đời của ngành thanh tra mặc dù còn rất sơ khai nhưng đã có những quy định về chức năng nhiệm vụ, quyền hạn bao hàm đầy đủ các phương diện hoạt động này của ngành thanh tra. Nói một cách khác, nội hàm của khái niệm công tác thanh tra đã bao hàm các lĩnh vực thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và đấu tranh chống tham nhũng. Vì vậy, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thanh tra phải kết hợp giữa việc nghiên cứu hệ thống quan điểm của Người về công tác thanh tra, 12
  14. kiểm tra, đấu tranh chống tham nhũng với tư cách là những nhiệm vụ quan trọng của quá trình xây dựng bộ máy nhà nước của dân, do dân, vì dân với việc nghiên cứu hệ thống quan điểm của người về các chức năng, nhiệm vụ của ngành thanh tra Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử được thể hiện trong các bài nói, bài viết, những lời huấn thị cán bộ thanh tra tại các Hội nghị ngành thanh tra và cả trong các văn bản pháp luật quy định chức năng nhiệm vụ của các tổ chức thanh tra nhà nước trong các thời kỳ lịch sử. Đó là những nội dung không thể tách rời trong quá trình nghiên cứu. Điều đó cũng thể hiện sự nhất quán trong tư tưởng quan điểm của Người về xây dựng nhà nước cũng như phản ánh sự gắn bó hữu cơ giữa công tác thanh tra với các mặt công tác khác trong hoạt động tổng thể của bộ máy nhà nước ta. 2.4. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thanh tra cần quán triệt tinh thần của Chỉ thị số 23-CT/TW ngày 27 tháng 3 năm 2004 Làm rõ hệ thống những quan điểm của Hồ Chí Minh về công tác thanh tra, đó là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa của nhân loại. Điều đó đòi hỏi khi nghiên cứu, đánh giá những luận điểm của Người cần đánh giá sự kết hợp giữa vấn đề quyền lực nhân dân, về nhà nước và Cách mạng, về thanh tra và kiểm tra, kiểm soát và các vấn đề lý luận khác của chủ nghĩa Mác - Lênin, các tư tưởng triết học và pháp quyền của phương Tây, các giá trị nhân văn cao cả của triết học phương Đông cũng như những giá trị tinh hoa mang tính truyền thống của Việt Nam với sự vận dụng sáng tạo của Hồ Chủ tịch vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt nam trong từng giai đoạn lịch sử. Đồng thời các quan điểm tư tưởng đó thể hiện nhãn quan thiên tài, sáng suốt cùng với cốt cách nhân ái của một người hết mực yêu nước, thương dân của cá nhân con người Hồ Chí Minh. Việc nghiên cứu không chỉ giản đơn trong việc phân tích những quan điểm của người mà còn đào sâu hơn nữa trong việc tìm hiểu nguồn gốc và quá trình hình thành phát triển tư tưởng đó cũng như tính thực tiễn trong hệ thống quan điểm của Người. Đặc biệt là cần thấu triệt các quan điểm đó trong tư tưởng Hồ Chí Minh để soi sáng những vấn đề lý luận đang đặt ra trong tình hình thiện nay 13
  15. và có những giải pháp định hướng để nâng cao hiệu quả, hiệu lực của công tác thanh tra đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ và tình hình mới. Chỉ có như thế việc nghiên cứu với xứng ngang tầm yêu cầu tìm hiểu tư tưởng một con người vĩ đại như Hồ Chí Minh, mới thấy hết trách nhiệm nặng nề và vinh dự lớn lao mà Người đã trao cho ngành thanh tra cũng như mỗi người làm công tác thanh tra. PHẦN HAI TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC THANH TRA I. Nội dung Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thanh tra Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thanh tra là hệ thống các quan điểm của Người về công tác thanh tra, kiểm tra; giải quyết khiếu nại, tố cáo; chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu; về các yêu cầu của Người đối với đội ngũ cán bộ thanh tra 1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về thanh tra, kiểm tra 1.1 . Vị trí, vai trò của công tác thanh tra; mục đích hoạt động thanh tra 1.1.1. Vị trí, vai trò của công tác thanh tra a) Thanh tra là công tác quan trọng và có tính chất thường xuyên của cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước các cấp Ngay từ những ngày đầu lập nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất chú ý tới việc sử dụng, phát huy vai trò công tác thanh tra. Tại cuộc họp Chính phủ ngày 13/11/1945, Hồ Chủ tịch đề nghị “các Bộ trưởng có thể chia nhau đi thanh tra một khu vực gần Hà Nội. Bộ Nội Vụ sẽ khảo cứu và lập một chương trình về việc này”. Ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 64/SL thành lập Ban Thanh tra đặc biệt, có nhiệm vụ giám sát tất cả công việc và các nhân viên của Uỷ ban nhân dân và các cơ quan của Chính phủ. Vị trí, vai trò quan trọng của công tác thanh tra được thể hiện trong nhiều bài viết, bài nói, chỉ thị của Hồ Chủ tịch ở nhiều lúc, nhiều nơi. Tại Hội nghị tổng kết thanh tra toàn miền Bắc tháng 4 năm 1957, Hồ Chủ tịch căn dặn “cán bộ thanh 14
  16. tra giúp trên hiểu biết tình hình địa phương và cấp dưới, đồng thời cũng giúp cho các cấp địa phương kịp thời sửa chữa, uốn nắn nếu làm sai, hoặc làm chậm. Cho nên trách nhiệm của công tác thanh tra là quan trọng”1. Vai trò của các cơ quan thanh tra được thể hiện ngay từ Sắc lệnh số 64/SL ngày 23 tháng 11 năm 1945 thành lập Ban Thanh tra đặc biệt. Tại Sắc lệnh này quy định Ban Thanh tra đặc biệt có toàn quyền “nhận các đơn khiếu nại của nhân dân; điều tra, hỏi chứng, xem xét các tài liệu giấy tờ của UBHC hoặc các cơ quan của Chính phủ cần thiết cho công việc giám sát; đình chức, bắt giam bất cứ nhân viên nào trong UBHC hay của Chính phủ đã phạm lỗi”. Công tác thanh tra cũng là một biện pháp quan trọng trong việc ngăn ngừa, phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý mà thiếu sự kiểm tra, thanh tra thì sẽ dẫn đến bệnh quan liêu, tham ô, lãng phí và chỉ có tăng cường kiểm tra, kiểm soát thì mới chống được các tệ nạn này. Người nói “muốn chống bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy; muốn biết các nghị quyết có được thi hành không, thi hành có đúng không; muốn biết ai ra sức làm, ai làm cho qua chuyện, chỉ có một cách là khéo kiểm soát”2. Cùng với việc phát hiện và xử lý các vi phạm pháp luật, thanh tra còn đóng vai trò như một biện pháp phòng ngừa hữu hiệu các vi phạm pháp luật. Thanh tra cùng với các phương thức kiểm tra, giám sát luôn là hiện thân của kỷ cương pháp luật; công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát dù được thực hiện dưới bất cứ hình thức nào, cũng luôn có tác dụng hạn chế, răn đe những hành vi vi phạm pháp luật của các đối tượng quản lý. Mặt khác, các giải pháp được đưa ra từ hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát không chỉ hướng vào việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, mà còn có tác dụng khắc phục các kẽ hở của chính sách, pháp luật, ngăn ngừa tận gốc mầm mống phát sinh những vi phạm pháp luật. Tại Hội nghị cán bộ thanh tra toàn miền Bắc lần thứ nhất ngày 19/4/1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói “nếu Trung ương Đảng, Chính phủ có nghị quyết, chỉ thị đưa về các ngành, các địa phương, kết quả thế nào không có thanh tra khó mà 1 Một số văn kiện chủ yếu của Đảng và Chính phủ về công tác thanh tra. Uỷ Ban Thanh tra của Chính phủ, 1977 2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, H.1995, tập 5, tr.287. 15
  17. biết được địa phương nào làm tốt, làm vừa, làm xấu; có làm hay không làm trên không biết; địa phương nhiều khi tự mình cũng không biết; trên không thấu dưới; dưới không thấu trên. Thanh tra là để theo dõi xem các kế hoạch, chỉ thị, chính sách đó, các địa phương đã chấp hành thế nào”1. Xuất phát từ vị trí, vai trò của công tác thanh tra là một nội dung, một phương thức thực hiện sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng và sự chỉ đạo, điều hành của chính quyền các cấp, do vậy sự lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên của các cơ quan lãnh đạo Đảng và Nhà nước có ý nghĩa quyết định đến hiệu lực, hiệu quả thanh tra. Thực tiễn công tác thanh tra thời gian qua cho thấy, địa phương nào, ngành nào chú trọng đến công tác thanh tra thì địa phương đó, ngành đó thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước, ít có khiếu nại, tố cáo; ngược lại nơi nào không chú trọng đúng mức đến công tác thanh tra, kiểm tra thì nơi đó không thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của mình. Thanh tra là công tác quan trọng, vì vậy Đảng và Nhà nước phải chú trọng đến công tác xây dựng tổ chức và bố trí cán bộ làm công tác thanh tra, nhằm đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra. Cần phải quán triệt sâu sắc các quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bố trí cán bộ và về tổ chức đối với công tác thanh tra. Hồ Chủ tịch khẳng định, tăng cường công tác tổ chức, cán bộ thanh tra cả về số lượng và chất lượng, đặc biệt là chất lượng, là một yêu cầu cần thiết để công tác thanh tra phát huy được vai trò của mình. Tại Hội nghị cán bộ thanh tra toàn miền Bắc năm 1960, Hồ Chủ tịch huấn thị “Một số ban thanh tra chưa được củng cố, cán bộ còn thiếu vì các cấp lãnh đạo địa phương chưa nhận rõ công tác thanh tra là quan trọng, nên chưa chú ý tăng cường cán bộ đúng mức, chưa giúp đỡ, lãnh đạo nó một cách chặt chẽ”2. Củng cố tổ chức, đáp ứng đủ số lượng cán bộ làm công tác thanh tra là một yêu cầu quan trọng, tuy nhiên điều quan trọng hơn là phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thanh tra. Lựa chọn, bố trí người làm công tác thanh tra đáp ứng được các yêu cầu về phẩm chất, năng lực, kinh nghiệm là yêu cầu tiên quyết để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra. Cần phải thấm nhuần quan điểm của Hồ 1 Một số văn kiện chủ yếu của Đảng và Chính phủ về công tác thanh tra, UB Thanh tra của Chính phủ, 1977, tr.7 2 Sđd, tr.16 16
  18. Chủ tịch về bố trí cán bộ làm công tác thanh tra “Không thể gặp ai cũng phái đi kiểm tra. Người lãnh đạo phải tự mình làm việc kiểm tra mới đủ kinh nghiệm và oai tín. Nhưng người lãnh đạo cần phải có một nhóm cán bộ nhiều kinh nghiệm và giàu năng lực để giúp mình đi kiểm tra”1. Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vì thanh tra là công tác quan trọng của cơ quan lãnh đạo Đảng và Nhà nước, do đó phải được tiến hành thường xuyên. Công tác thanh tra nếu không được tiến hành thường xuyên tất yếu sẽ dẫn tới bệnh quan liêu, mệnh lệnh và từ đó sẽ tiếp tục gây ra những tác hại to lớn khác cho sự nghiệp cách mạng. Trên thực tế có không ít lãnh đạo địa phương, đơn vị chưa coi trọng vai trò công tác thanh tra, kiểm tra dẫn tới kỷ luật không được thi hành nghiêm túc, dân chủ không được bảo đảm, khiếu kiện của nhân dân dai dẳng, phức tạp làm tốn rất nhiều tiền của và công sức của các cơ quan Nhà nước để giải quyết. Thông qua công tác thanh tra, kiểm tra mới biết chủ trương, nghị quyết của Đảng, cơ chế, chính sách của Nhà nước đi vào cuộc sống ra sao? Có được thực hiện đầy đủ hay không? Cũng qua việc thường xuyên thanh tra, kiểm tra mà các nhà lãnh đạo, quản lý có được những thông tin phản hồi từ thực tế cuộc sống, đó là những dữ liệu quan trọng để đề ra những chủ trương, chính sách sát hợp với đòi hỏi của thực tiễn. Thanh tra thường xuyên là một yêu cầu không thể thiếu nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Muốn đảm bảo tính thường xuyên của công tác thanh tra, yêu cầu cần thiết đặt ra là người lãnh đạo, quản lý phải tạo điều kiện cho tổ chức thanh tra hoạt động theo đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Hoạt động thanh tra phải được bảo đảm tính độc lập tương đối, thanh tra phải tuân theo pháp luật, chỉ tuân theo pháp luật và không ai được cản trở hoạt động thanh tra. Tính thường xuyên trong hoạt động thanh tra do chính đặc điểm, tính chất của hoạt động chấp hành, điều hành trong quản lý hành chính Nhà nước quyết định và có mối quan hệ chặt chẽ với yêu cầu kịp thời của việc ra các quyết định lãnh đạo, quản lý. Thực tế đã chứng minh trong nhiều tình huống, các biện pháp quản lý nếu được áp dụng kịp thời thì sẽ giải quyết được những vấn đề, nhưng cũng với biện 1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, H.1995, tập 5, tr.521. 17
  19. pháp đó, nếu chậm được áp dụng thì sẽ không giải quyết được tình huống, thậm chí còn phản tác dụng. Đích thân Hồ Chủ tịch, sau khi nghe báo cáo của cán bộ thanh tra, đã có thư xin lỗi gửi đồng bào liên khu IV về việc cán bộ ở một vài nơi làm sai Chỉ thị của Chính phủ và đường lối của Đoàn thể trong quan hệ với người dân. Đó là một minh chứng sinh động cho việc người lãnh đạo kịp thời xử lý những vấn đề do thanh tra đề xuất, kiến nghị. b) “Thanh tra là tai mắt của trên, là người bạn của dưới” đây là quan điểm có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn rất sâu sắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ vị trí và vai trò đặc biệt của thanh tra trong hoạt động của nhà nước và đời sống xã hội. Người đã ví thanh tra quan trọng như tai mắt của con người - như bộ phận cấu thành cơ thể con người, là phương tiện cực kỳ trọng yếu giúp cho con người nhận thức và phát triển trí tuệ. Điều đó có nghĩa là, cũng giống như tai mắt của cơ thể con người, thanh tra được Chủ tịch Hồ Chí Minh xem như là một bộ phận cấu thành hữu cơ của quản lý nhà nước, là phương tiện nhận thức của quá trình quản lý nhà nước. Giữa chúng không có khoảng cách. Bởi quản lý nhà nước, quản lý xã hội mà không có thanh tra, kiểm tra xem như không có quản lý. Nếu tách rời thanh tra, kiểm tra khỏi quản lý nhà nước, quản lý xã hội thì khác nào tách rời cái tai, cái mắt khỏi cơ thể con người; tách rời phương tiện nhận thức và phát triển trí tuệ của con người ra khỏi con người. Cũng với tư tưởng đề cao vai trò của thanh tra trong quản lý nhà nước, ba năm sau, tại Hội nghị cán bộ thanh tra toàn quốc (05/3/1960) Chủ tịch Hồ Chí Minh lại nhấn mạnh: “có thể nói, cán bộ thanh tra là tai mắt của Đảng và Chính phủ, tai có sáng suốt thì người mới sáng suốt” 1. Lần này, Người chỉ ra một cách cụ thể rằng Đảng và Chính phủ là những thực thể lãnh đạo và quản lý đất nước không được tách rời lãnh đạo, quản lý với kiểm tra, thanh tra. Đảng và Chính phủ phải phát huy vai trò của kiểm tra, thanh tra, phải gắn bó với nó trong quá trình lãnh đạo, quản lý. Phải xem thanh tra, kiểm tra là một khâu quan trọng không thể thiếu được trong lãnh đạo, quản lý và điều hành của những người đứng đầu các cơ quan Đảng và nhà nước. Bởi qua kiểm tra, thanh tra giúp cho người lãnh đạo, quản lý cấp trên thấy được những yếu kém, thiếu sót, những điểm chưa phù hợp, thiếu đồng bộ của đường lối chính sách, của hệ thống pháp luật, đánh giá 1 Huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị cán bộ thanh tra ngày 05/3/1960. 18
  20. được năng lực, trách nhiệm điều hành và quản lý của người lãnh đạo, quản lý cấp dưới, đánh giá một cách đầy đủ, đúng đắn nơi nào, cá nhân nào làm tốt hoặc làm chưa tốt để biểu dương, uốn nắm kịp thời. Đúng là, khi ví “Thanh tra là tai mắt của trên, là người bạn của dưới” Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra một cách sâu sắc rằng, thanh tra không chỉ có vai trò giúp cho người lãnh đạo, quản lý xem xét đường lối chủ trương, chính sách và pháp luật của Đảng và nhà nước đề ra có được thực hiện hay không, được thực hiện như thế nào và đến đâu; mà còn có vai trò giúp xem xét lại chính chủ trương, chính sách và pháp luật của mình đề ra đúng hay không đúng. Như vậy, đối với người lãnh đạo và quản lý thì thanh tra đúng là phương tiện nhằm nhận thức và phát triển tư duy, kiểm tra lại chính mình, để chủ động điều chỉnh lại chủ trương, chính sách và pháp luật cho phù hợp với quá trình quản lý nhà nước. Làm được điều đó, thanh tra chính là “tai mắt của trên”. Cùng với vai trò là “tai mắt của trên”, thanh tra còn là “bạn của dưới”. Điều đó có nghĩa là đối với những người là lãnh đạo quản lý cấp dưới thì thanh tra chính là người bạn giúp mình nhìn thấy, biết được, phát hiện và chỉ cho mình thấy được những việc mình làm đúng, làm tốt để tiếp tục phát huy, những việc làm sai, làm không đầy đủ, làm thiếu trách nhiệm để khắc phục sửa chữa nâng cao năng lực và trách nhiệm của mình. Như vậy, thanh tra chính là người bạn, người giúp đỡ mình trong quá trình thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước. Vậy mà không ít người nhận thức không đầy đủ, chẳng những không coi trọng thanh tra mà còn sợ hãi thanh tra, tìm cách lảng tránh thanh tra. Đúng như Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã có lần đến thăm và nói chuyện với Hội nghị thanh tra (24/3/1972) rằng: “Vị trí và tầm quan trọng, tác dụng của công tác thanh tra là ở chỗ nó phải phát hiện cho mình những cái mà mình cần biết, nó thường xuyên là tai mắt của mình, nó biết nhìn, biết thấy, biết phát hiện và biết chỉ cho mình những cái mà mình cần biết. Cho nên hôm nay tôi nói với các đồng chí điểm này để các đồng chí chú ý. Các đồng chí không coi trọng thanh tra tức là tước một cái vũ khí cần thiết của người lãnh đạo, không tài gì mình thấy hết đâu”. Thanh tra chỉ có thể đảm đương được vai trò là “là tai mắt của trên, là người bạn của dưới” khi “cán bộ thanh tra như cái gương cho người ta soi mặt, gương 19
  21. mờ thì soi không được”. Để trở thành “cái gương soi”, Bác đã căn dặn: “cán bộ thanh tra cố gắng học tập, học cái hay, tránh cái dở, trau dồi đạo đức cách mạng, nâng cao trình độ lý luận, trình độ nghiệp vụ và trình độ chuyên môn để làm việc cho tốt thì đó mới là tiền đồ vẻ vang, là xứng đáng với sự tín nhiệm của Đảng và Chính phủ”1. Tóm lại, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, công tác thanh tra phục vụ thiết thực cho sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước đối với đời sống xã hội, do vậy công tác thanh tra có vai trò rất quan trọng và có tính chất thường xuyên của cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Đây là một trong những nội dung cơ bản trong tư tưởng của Người về công tác thanh tra và những nội dung này phải được quán triệt đầy đủ trong quá trình xây dựng hệ thống các cơ quan Thanh tra Nhà nước trong điều kiện phát triển đất nước hiện nay. 1.1.2. Mục đích hoạt động thanh tra Thanh tra là nhằm mục đích giúp cấp trên nắm được tình hình, giúp cấp dưới sửa chữa, uốn nắn những sai lầm, lệch lạc; giúp đỡ cấp dưới thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật. Người viết: “Chính sách đúng là nguồn gốc của thắng lợi. Song từ nguồn gốc đi đến thắng lợi thực sự, còn phải tổ chức, phải đấu tranh. Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công hay thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ, và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích”2. Người giải thích cụ thể rõ thêm: “Mục đích sự tổ chức công tác là: động viên toàn thể nhân dân hăng hái thi hành chính sách đã định. Mục đích lựa chọn cán bộ là dùng nhân tài cần phải hợp lý, chớ dùng thợ mộc làm nghề thợ rèn và cho họ hiểu rõ mọi mặt các công việc họ phải phụ trách. Mà muốn biết sự động viên ấy và sự thực hành ấy đã đến mức nào thì phải có kiểm tra”3. Bằng những kết luận thanh tra đánh giá đúng thực trạng việc thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật ở một địa phương, một ngành hoặc ở những đơn vị cơ quan được thanh tra, kiểm tra với những nhận xét ưu, khuyết điểm; làm rõ 1 Huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị thanh tra miền Bắc ngày 05/3/1960. 2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, H.1995, tập 5, trang 521 3 Sđd. 20
  22. những nguyên nhân và có những kiến nghị sửa chữa, khắc phục những khuyết điểm, thiếu sót mà thanh tra đã phát hiện và cơ quan được thanh tra thừa nhận, trong đó có những sơ hở, khiếm khuyết của chủ trương, chính sách, pháp luật, cơ chế quản lý giúp cho cơ quan lãnh đạo của Đảng, Nhà nước không những nắm được tình hình thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật, chỉ thị, mệnh lệnh mà còn có cơ sở thực tiễn để nghiên cứu, bổ sung, sửa đổi hoàn thiện chủ trương, chính sách, pháp luật, cơ chế quản lý đã ban hành, hoặc ban hành chính sách, cơ chế quản lý mới phù hợp với sự phát triển của cách mạng. Quan điểm này của Hồ Chí Minh được thể hiện ngay trong Sắc lệnh 64/SL thành lập ngành thanh tra, trong đó ghi rõ: “Ban thanh tra có quyền đề nghị những điều cần sửa đổi trong các cơ quan”. Quan điểm đó thường xuyên được Hồ Chí Minh nhắc đến trong các bài nói, bài viết giáo huấn cho ngành thanh tra để luôn xác định đúng đắn mục đích của hoạt động thanh tra qua các thời kỳ lịch sử. 1.2 . Về nguyên tắc, phương pháp kiểm tra, thanh tra 1.2.1. Kiểm tra, thanh tra phải kịp thời, cụ thể, khách quan Hoạt động thanh tra giúp cấp trên nắm được tình hình, giúp cấp dưới sửa chữa, uốn nắn những sai lầm, lệch lạc; giúp đỡ cấp dưới thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật. Do vậy, công tác thanh tra luôn luôn đòi hỏi tính kịp thời. “Khi đã có Nghị quyết thì phải lập tức đốc thúc sự thực hành nghị quyết ấy, phải biết rõ sự linh hoạt và cách làm việc của cán bộ và nhân dân địa phương ấy. Có như thế mới kịp thời thấy rõ những khuyết điểm và những khó khăn để sửa đổi các khuyết điểm và tìm cách giúp đỡ để vượt qua mọi khó khăn” 1, như vậy, hoạt động thanh tra mới “giúp cơ quan, đơn vị được thanh tra nâng cao tinh thần trách nhiệm và ý thức tổ chức kỷ luật, vừa kịp thời biểu dương những người tốt, việc tốt, vừa kịp thời giáo dục và xử lý đúng mức đối với những người mắc khuyết điểm, sai lầm”2. Tính kịp thời đã được thể chế thành quy định mang tính nguyên tắc cho hoạt động thanh tra đó là “hoạt động thanh tra phải tuân theo pháp luật, bảo đảm tính chính xác, khách quan, công khai, dân chủ, kịp thời” 1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, H.1995, tập 5, tr.521 2 Nghị quyết số 164/CP ngày 31/8/1970 của Hội đồng Chính phủ về việc tăng cường công tác thanh tra 21
  23. Thanh tra phải đến tận nơi, xem tận chỗ, đây là phương thức hoạt động đặc trưng của công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát. Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã tiến hành thanh tra (hay kiểm tra, kiểm soát) phải đi đến tận nơi, xem tận chỗ. Người nói: “Thanh tra muốn biết, muốn thấy, muốn hiểu rõ sự thật ở cơ quan, địa phương nào đấy phải đến tận nơi, nghe ngóng, tìm hỏi, chịu khó. Quan liêu sẽ không làm được nhiệm vụ” 1. Như vậy, theo quan điểm của Hồ Chủ tịch, công tác thanh tra không thể dung nạp được bất kỳ một biểu hiện quan liêu nào. Thanh tra là để giúp cấp trên nắm được đầy đủ, chính xác tình hình, đồng thời thanh tra cũng xem xét xem cấp dưới thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật như thế nào, có gì vướng mắc thì tháo gỡ, có gì sai trái thì chấn chỉnh. Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với phương pháp đi đến tận nơi, xem tận chỗ, thanh tra sẽ góp phần chống bệnh quan liêu. Người cho rằng: “Muốn chống bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy; muốn biết các nghị quyết có được thi hành không, thi hành có đúng không; muốn biết ai ra sức làm, ai làm qua chuyện, chỉ có một cách là khéo kiểm soát”. Trong tác phẩm “Một việc mà các cơ quan lãnh đạo cần thực hành ngay” đăng trên báo Sự thật số 103 ngày 30/11/1948, Người viết: “Hiện nay, nhiều nơi cán bộ lãnh đạo chỉ lo khai hội và thảo nghị quyết, đánh điện và gửi chỉ thị, sau đó thì họ không biết gì đến những nghị quyết đó thi hành đến đâu, có những khó khăn trở ngại gì, dân chúng có ra sức tham gia hay không. Họ quên mất kiểm tra ( ) và kiểm tra không nên chỉ căn cứ vào các tờ báo cáo, mà phải đi đến tận nơi”2. Theo quan điểm của Hồ Chủ tịch, thanh tra phải cẩn thận, khách quan. Công tác thanh tra có vai trò rất quan trọng, giúp cho người lãnh đạo, cho cơ quan cấp trên nắm được tình hình chấp hành các chỉ thị, nghị quyết, chủ trương, chính sách, pháp luật ở các cơ quan, đơn vị cấp dưới như thế nào để có những biện pháp điều chỉnh, uốn nắn cho phù hợp. Do đó, những thông tin mà thanh tra cung cấp cho cơ quan cấp trên, cho người lãnh đạo đòi hỏi độ chính xác rất cao. Muốn có được độ chính xác đó, thái độ của người cán bộ thanh tra là phải cẩn thận, xem xét một cách tỷ mỷ, thấu đáo và đánh giá một cách khách quan, không áp đặt theo ý chủ 1 Một số văn kiện chủ yếu của Đảng và Chính phủ về công tác thanh tra, UB Thanh tra của Chính phủ, 1977, tr.7 2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, H.1995, tập 5, tr.520 22
  24. quan của mình, Người khẳng định: “Thái độ của người cán bộ thanh tra là kiểm tra phải cẩn thận. Nghe không được thiên lệch, nghe một bên, nên nghe người này, nghe người kia. Phải khách quan. Chớ do ý muốn và suy đoán chủ quan của mình. Chống quan liêu: Thanh tra muốn biết, muốn thấy, muốn hiểu rõ sự thật ở cơ quan, ở địa phương nào đấy phải đến tận nơi, nghe ngóng, tìm hỏi, chịu khó. Phải cẩn thận, khách quan, điều tra, nghiên cứu kỹ lưỡng, chịu khó”1 1.2.2. Bảo đảm dân chủ trong hoạt động thanh tra Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng một trong những cách thức bảo đảm dân chủ trong hoạt động thanh tra là phê bình và tự phê bình. Đây là yếu tố rất quan trọng tạo nên hiệu quả của công tác thanh tra. Trong bài “Một việc mà các cơ quan lãnh đạo cần thực hành ngay” đăng trên báo Sự thật số 103 ngày 30/11/1948, Người viết: “kiểm tra phải dùng cách thức thật thà tự phê bình và phê bình để tỏ rõ hết mọi khuyết điểm và tìm cách sửa chữa những khuyết điểm ấy. Như thế thì cán bộ càng thêm trọng kỷ luật và lòng phụ trách”2. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng về ý thức đấu tranh phê bình và tự phê bình. Giữa năm 1950, khi nhận được báo cáo của Đoàn thanh tra do cụ Hồ Tùng Mậu, Tổng Thanh tra Chính phủ làm Trưởng đoàn về những vi phạm của chính quyền các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh khi huy động nhân tài, vật lực cho kháng chiến (vi phạm chính sách tôn giáo, huy động quá sức dân, quân phiệt, doạ dẫm, truy bức quần chúng ) Người đã viết thư gửi cho đồng bào Liên khu IV. Trong thư có đoạn viết “Như các ông thanh tra báo cáo lại những việc đó, tôi rất đau lòng. Dù Chính phủ đã ra lệnh trừng trị những cán bộ đó, tôi phải thật thà xin lỗi đồng bào vì những cán bộ sai lầm mà bị oan ức. Tôi thật thà tự phê bình khuyết điểm của tôi là giáo dục và lựa chọn cán bộ chưa được chu đáo. Các cấp Liên khu và tỉnh cũng phải chịu một phần trách nhiệm vì thiếu sự kiểm tra chặt chẽ các cán bộ cấp dưới”. Người nhấn mạnh: “Tôi mong rằng: từ nay các cán bộ đều biết phê bình và tự phê bình, đều cố gắng sửa đổi lối làm việc, theo đúng đường lối của Chính phủ và Đoàn thể, hợp với lòng dân”. 1.3 . Sự kết hợp giữa thanh tra của nhà nước và sự giám sát của nhân dân 1 Một số văn kiện về công tác thanh tra, tr.7-10. 2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, H.1995, t.5, tr.521 23
  25. Hồ Chí Minh luôn coi trọng hoạt động thanh tra, kiểm tra của Nhà nước cũng như hoạt động giám sát của nhân dân đối với Nhà nước, coi đó là những yếu tố không thể thiếu để xây dựng và hoàn thiện nhà nước của dân, do dân và vì dân. Tuy nhiên, theo Người, hai yếu tố này về bản chất phải kết hợp chặt chẽ với nhau, cộng hưởng với nhau để tạo động lực xây dựng, hoàn thiện và giữ vững bản chất cách mạng của nhà nước. 1.3.1 Quan hệ chặt chẽ với nhân dân là sức mạnh, là nguyên nhân của mọi thắng lợi của Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cách đây mấy trăm năm, đúc kết truyền thống của dân tộc từ ngàn đời, người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi đã rút ra một chân lý vĩnh hằng: “Đẩy thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”, “Lật thuyền mới biết dân như nước”. Tiếp thu truyền thống quý báu trên của dân tộc, Hồ Chí Minh luôn đặc biệt quan tâm tới việc giữ gìn sự gắn bó giữa cơ quan nhà nước, đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước với nhân dân, gắn kết giữa hoạt động của các cơ quan nhà nước với sinh hoạt của quần chúng nhân dân. Người từng căn dặn: “Người lãnh đạo ắt phải có mối liên hệ chặt chẽ giữa mình với dân chúng. Giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi. Vì vậy, cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại.”1 Xuất phát từ quan điểm này mà Người luôn chú trọng tới mọi mối liên hệ giữa Nhà nước với nhân dân. Sự kết hợp chặt chẽ giữa thanh tra, kiểm tra của Nhà nước với giám sát của nhân dân, theo Người, chính là một trong những mối liên hệ mang tính chất sống - còn của Nhà nước ta. Đó có thể coi là một trong những câu trả lời đầu tiên, lý giải cho câu hỏi tại sao phải kết hợp giữa thanh tra, kiểm tra của Nhà nước với giám sát của nhân dân trong luận điểm của Người. 1.3.2 Giám sát của nhân dân phải được coi như một mặt trong công tác thanh tra, kiểm tra của cơ quan nhà nước Khi nói về hoạt động thanh tra, kiểm tra của Nhà nước, Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn mạnh vai trò giám sát của nhân dân. Theo Người, sự giám sát 1 Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, NXB Chính trị Quốc gia, H.1995, trang 286 24
  26. của nhân dân không phải chỉ là yếu tố bên ngoài tác động vào cơ quan nhà nước, vào hoạt động thanh tra mà nó phải được coi như một yếu tố nội sinh, là một mặt của công tác thanh tra, kiểm tra của cơ quan nhà nước. Thậm chí, Người còn coi đây là cách tốt nhất để thanh tra, kiểm tra đối với đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Trong tác phẩm “Sửa đổi lề lối làm việc”, Người viết: “Kiểm soát có hai cách: một cách là từ trên xuống. Tức là người lãnh đạo kiểm soát kết quả những công việc của cán bộ của mình. Một cách nữa là từ dưới lên. Tức là quần chúng và cán bộ kiểm soát sự sai lầm của người lãnh đạo và bày tỏ cái cách sửa chữa sự sai lầm đó. Cách này là cách tốt nhất để kiểm soát các nhân viên”1 Bên cạnh việc nhấn mạnh những yêu cầu về năng lực, về phẩm chất đạo đức đối với những người làm công tác thanh tra, kiểm tra, Hồ Chí Minh còn thường xuyên nhấn mạnh tới vai trò giám sát của quần chúng nhân dân là biện pháp bảo đảm cho hoạt động thanh tra, kiểm tra đúng đắn. Người căn dặn: “Phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm soát đúng thì cũng phải có quần chúng giúp mới được. Những người lãnh đạo chỉ trông thấy một mặt của công việc, của sự thay đổi của mọi người, trông từ trên xuống. Vì vậy, sự trông thấy có hạn. Trái lại, dân chúng trông thấy công việc, sự thay đổi của mọi người, một mặt khác: họ trông thấy từ dưới lên nên sự trông thấy cũng có hạn. Vì vậy, muốn giải quyết vấn đề cho đúng, ắt phải họp kinh nghiệm cả hai bên lại”2. 1.3.3 Kết hợp tốt giữa thanh tra, kiểm tra của Nhà nước với sự giám sát của nhân dân sẽ góp phần hạn chế khuyết điểm, phát huy ưu điểm và bảo đảm hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước Theo Hồ Chí Minh, kết hợp tốt giữa thanh tra, kiểm tra của Nhà nước với sự giám sát của nhân dân là nhân tố quan trọng để hạn chế khuyết điểm, phát huy ưu điểm và bảo đảm hiệu quả trong hoạt động của hệ thống cơ quan nhà nước. Người viết: “Tôi mong rằng: Cán bộ cấp trên phải luôn luôn đôn đốc và kiểm tra công việc cán bộ cấp dưới. Nhân dân thì giúp Chính phủ và Đoàn thể kiểm tra công việc và hành vi của các cán bộ. Như vậy, thì chúng ta tránh khỏi nhiều 1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, H.1995, tập 5, trang 288 2 Sđd, tập, 5, trang 286 25
  27. khuyết điểm, phát triển được nhiều ưu điểm”1 Hiện nay, hoạt động của các cơ quan nhà nước nói chung và hoạt động thanh tra, kiểm tra của các cơ quan nhà nước nói riêng dường như vẫn khép kín trước nhân dân; nhân dân vẫn phải “kính nhi viễn chi” đối với các hoạt động thanh tra, kiểm tra của các cơ quan chức năng. “Tai”, “mắt” nhân dân nhìn thấy mọi biểu hiện lành mạnh hay không lành mạnh trong hoạt động của mọi cơ quan, mọi chức danh nhà nước nhưng “tai”, “mắt” ấy vì nhiều lý do vẫn ít khi được cơ quan nhà nước trọng dụng thực sự. Trong các báo cáo tổng kết hoạt động của các cơ quan, tổ chức, khi đánh giá về những nguyên nhân khách quan và chủ quan tác động tới kết quả và hiệu quả công việc, chúng ta khó có thể gặp được những dòng nào đánh giá về vai trò, ảnh hưởng của nhân dân, của quần chúng. Đây cũng là vấn đề mà chúng ta hiện nay cần phải suy nghĩ một cách nghiêm túc. 1.3.4 Phải trân trọng và cầu thị đối với sự giám sát của nhân dân Một điều hết sức quan trọng trong luận điểm của Hồ Chí Minh về việc kết hợp giữa thanh tra, kiểm tra của Nhà nước với giám sát của nhân dân là thái độ trân trọng của một người đứng đầu Đảng, đứng đầu Nhà nước đối với nhân dân trong việc kêu gọi nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với Nhà nước. Chúng ta hãy xem lại cách kêu gọi nhân dân của Người: “Xin đồng bào hãy phê bình, giúp đỡ giám sát công việc Chính phủ” 2; “Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm trọn nhiệm vụ của mình là người đày tớ trung thành tận tụy của nhân dân” 3. Ngay đối với những việc mà Nhà nước chưa đáp ứng được đòi hỏi của nhân dân, Người không đổ lỗi cho khách quan mà thẳng thắn thay mặt Chính phủ nhận lỗi và xin nhân dân lượng thứ “Còn những việc làm, mà chưa làm được thì xin đồng bào nguyên lượng” 4. Lời lẽ của người đứng đầu Đảng cầm quyền, đứng đầu Nhà nước nói với dân rất gần gũi, ấm áp tình người nhưng cũng chứa đựng đầy trách nhiệm như vậy dường như xoá bỏ mọi khoảng cách giữa Người, giữa Đảng và Nhà nước do Người đứng đầu với quần chúng nhân dân. Điều này là hiếm xảy ra ở một nước vốn trải qua hàng ngàn năm 1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, H.1995, tập 6, trang 66 2 Sđd, tập 5, trang 61 3 Sđd, tập 7, trang 361-362 4 Sđd, tập 5, trang 61 26
  28. phong kiến, nơi mà ý thức hệ phong kiến về đẳng cấp ngay đến thời điểm hiện nay cũng đâu phải đã xoá tan. Đây có lẽ là yếu tố “thần” nhất, cốt lõi nhất, tinh tuý nhất trong luận điểm của Người về sự kết hợp giữa thanh tra, kiểm tra của Nhà nước với giám sát của nhân dân, là một trong những yếu tố góp phần tạo nên vóc dáng Hồ Chí Minh trong lòng dân tộc. Để có được thái độ, ý thức đối với nhân dân như của Hồ Chí Minh chắc chắn đội ngũ cán bộ, công chức chúng ta còn phải nỗ lực rất nhiều. Như vậy, theo Hồ Chí Minh, kết hợp chặt chẽ giữa thanh tra, kiểm tra của Nhà nước với giám sát của nhân dân là một yêu cầu tất yếu đặt ra trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Trong một nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân thì thanh tra, kiểm tra của Nhà nước và giám sát của nhân dân đối với nhà nước phải gắn bó chặt chẽ, hoà đồng với nhau, là hai mặt không thể thiếu của một thể thống nhất và là yếu tố bảo đảm hiệu quả cho nhau. Có kết hợp chặt chẽ thanh tra, kiểm tra của Nhà nước với giám sát của nhân dân thì chúng ta mới có thể xây dựng được Nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân. 1.4 . Về trách nhiệm của lãnh đạo Đảng và Chính quyền các cấp đối với công tác thanh tra 1.4.1. Phải trực tiếp kiểm tra, thanh tra và lãnh đạo, chỉ đạo công tác thanh tra. Sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ đảng và chính quyền có ý nghĩa quyết định đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động của công tác thanh tra. Tại Hội nghị cán bộ thanh tra toàn miền Bắc ngày 19/4/1957, Người huấn thị: Công tác thanh tra là rất quan trọng, “vì vậy các cấp chính quyền cũng như Đảng phải giúp đỡ cho cán bộ thanh tra làm tròn nhiệm vụ đó”. Người nói: “Tôi được báo cáo nhiều nơi, khu, tỉnh không xem trọng thanh tra, nhiều khu, tỉnh chưa có thanh tra, nơi nào có rồi cũng ít giúp đỡ, săn sóc. Thế là không đúng. Cán bộ thanh tra giúp mình xem xét lại chủ trương, chính sách đúng hay không đúng, được thực hiện hay không, nên từ Trung ương trở xuống cần giúp đỡ, xem trọng thanh tra. Không những khu, tỉnh, các Bộ cũng thế. Nếu thanh tra làm được kịp thời ta sẽ tránh được sai lầm. Nếu không có lỗ tai, con mắt, các cơ quan Trung ương, khu, tỉnh sẽ không biết 27
  29. việc dưới như thế nào”. Trong bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ thanh tra toàn miền Bắc năm 1960, Hồ Chủ tịch chỉ rõ: “Một số Ban Thanh tra chưa được củng cố, cán bộ còn thiếu vì các cấp lãnh đạo địa phương chưa nhận rõ công tác thanh tra là quan trọng, nên chưa chú ý tăng cường cán bộ đúng mức, chưa giúp đỡ, lãnh đạo nó một cách chặt chẽ”. Trong bài Huấn thị về công tác thanh tra tại Hội nghị thanh tra toàn miền Bắc năm 1961, một lần nữa, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại đề cập đến trách nhiệm của các Bộ, ngành, các cấp đối với công tác thanh tra. Người khẳng định: “Các Bộ, ngành, các cấp nhất định phải có cơ quan kiểm tra của mình, để theo dõi ngay từ đầu, để kịp thời uốn nắn, sửa chữa các sai lầm, thiếu sót có thể xảy ra. Mà cũng vì vậy, cán bộ lãnh đạo nhất định phải trực tiếp chỉ đạo cơ quan thanh tra của mình”. 1.4.2. Phải quan tâm, giúp đỡ và yêu cầu thanh tra làm tròn nhiệm vụ Thanh tra là để phục vụ sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước cho nên Hồ Chủ tịch luôn nhắc nhở các cấp Uỷ đảng và chính quyền phải quan tâm đến công tác thanh tra. Người nói: “Các Ban Thanh tra làm việc khá hay kém, nhanh hay chậm, trước hết do bản thân mỗi Ban Thanh tra cố gắng, mỗi cán bộ thanh tra cố gắng nhiều hay ít; nhưng còn do các cấp lãnh đạo của Đảng, chính quyền địa phương có quan tâm đến công tác thanh tra hay không. Các cấp lãnh đạo cần quan tâm giúp đỡ các Ban Thanh tra làm việc tốt”. Sự quan tâm của các cấp uỷ đảng và chính quyền đối với công tác thanh tra, theo quan điểm của Hồ Chủ tịch, được thể hiện ở các mặt sau đây: Thứ nhất: Phải quan tâm đến việc tăng cường cán bộ, củng cố tổ chức của các cơ quan thanh tra. Hồ Chủ tịch cho rằng: ở những nơi mà các Ban Thanh tra chưa được củng cố, cán bộ còn thiếu là những nơi mà các cấp lãnh đạo chưa quan tâm đến công tác thanh tra. Người khẳng định, quan tâm đến công tác thanh tra trước hết là quan tâm đến việc tăng cường công tác tổ chức, tăng cường cán bộ thanh tra cả về số lượng và chất lượng. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, khi đề cập đến vấn đề cán bộ, Hồ Chủ tịch nêu ra 5 biện pháp mà các cấp lãnh đạo áp dụng để phát huy năng lực cán 28
  30. bộ. Đó là: 1) Chỉ đạo- Thả cho họ làm, thả cho họ phụ trách, dù sai lầm chút ít cũng không sợ. 2) Nâng cao - Luôn luôn tìm cách cho họ học thêm lý luận và cách làm việc, làm cho tư tưởng, năng lực của họ ngày càng tiến bộ. 3) Kiểm tra - Không phải ngày nào cũng kiểm tra. Nhưng thường thường kiểm tra để giúp họ rút kinh nghiệm, sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm 4) Cải tạo - Khi họ sai lầm thì dùng cách “thuyết phục” giúp cho họ sửa chữa. 5) Giúp đỡ - Phải cho họ điều kiện sinh sống đầy đủ mà làm việc. Khi họ ốm đau phải có thuốc thang. Tuỳ theo hoàn cảnh mà giúp họ giải quyết vấn đề gia đình. Những điều đó rất quan hệ với tinh thần cán bộ và sự thân ái đoàn kết trong Đảng. Thứ hai: Phải quan tâm đến việc thực hiện các kết luận, kiến nghị của Thanh tra. Người cho rằng, Thanh tra là công cụ, là “tai, mắt” của người lãnh đạo, người quản lý cho nên hiệu lực, hiệu quả của công tác thanh tra phụ thuộc rất nhiều vào việc các cơ quan lãnh đạo có quan tâm đến việc thực hiện các kết luận, kiến nghị của Thanh tra hay không. Nếu như các kết luận, kiến nghị của Thanh tra không được các cấp uỷ và chính quyền các cấp quan tâm, thực hiện thì ý nghĩa, vai trò của công tác thanh tra bị ảnh hưởng, uy tín của Thanh tra cũng sẽ giảm sút và nói chung công tác thanh tra sẽ kém hiệu lực và hiệu quả. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương mẫu mực của một người lãnh đạo luôn quan tâm đến các kết luận, kiến nghị của Thanh tra. Giữa năm 1950, ngay sau khi nghe báo cáo kết quả thanh tra của Đoàn thanh tra Chính phủ về những sai lầm nghiêm trọng trong việc huy động nhân tài, vật lực cho kháng chiến ở các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Người đã chỉ đạo Chính phủ xử lý nghiêm minh những cán bộ sai phạm, đồng thời viết thư nhận lỗi với đồng bào Liên khu IV. Trong thư Người còn nêu ra các biện pháp sửa chữa, ngăn ngừa những hiện tượng sai phạm đó, trong đó có đoạn viết: “Cán bộ cấp trên phải luôn luôn đôn đốc, kiểm tra công việc của cán bộ cấp dưới, nhân dân thì giúp Chính 29
  31. phủ và Đoàn thể kiểm tra công việc và hành vi của các cán bộ”. Trong vụ án Trần Dụ Châu nhận hối lộ, biển thủ công quĩ gây hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng đến công tác hậu cần quân đội, làm giảm sức chiến đấu của quân đội trong kháng chiến. Người đã kịp thời chỉ đạo các cơ quan chức năng xử lý nghiêm minh vụ việc này, củng cố lòng tin của đồng bào, chiến sĩ đối với Đảng và Chính phủ. Tóm lại, theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, công tác thanh tra có một vị trí, vai trò rất quan trọng. Nó là chức năng thiết yếu của quản lý, là công cụ phục vụ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Thanh tra luôn luôn gắn liền với quản lý, là một nội dung của quản lý. Thanh tra còn là một phương thức phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế, phát hiện và xử lý những biểu hiện quan liêu, tham ô, lãng phí và những hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động quản lý. Xuất phát từ tính chất, vị trí và vai trò của công tác thanh tra nên đòi hỏi sự quan tâm, giúp đỡ, sự trực tiếp chỉ đạo, lãnh đạo của cấp uỷ và chính quyền các cấp. Đây là một trong những yếu tố quyết định đến hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra. 2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về giải quyết khiếu nại, tố cáo Có thể khẳng định rằng, không ai làm công tác thanh tra, công tác tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo của dân lại không nhớ đến lời căn dặn sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đồng bào có oan ức mới khiếu nại hoặc vì chưa hiểu rõ chính sách của Đảng và Chính phủ mà khiếu nại. Ta phải giải quyết nhanh, tốt thì đồng bào thấy rõ Đảng và Chính phủ quan tâm lo lắng đến quyền lợi của họ, do đó mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Chính phủ càng được củng cố tốt hơn”1. Lời huấn thị đó của đã thể hiện rõ nét quan điểm sâu sắc và tính nhân văn cao cả của Người về công tác xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân cũng như khẳng định rõ tầm quan trọng của công tác này. Theo quan điểm đó thì giải quyết khiếu nại, tố cáo là một biện pháp quan trọng và thiết thực để củng cố lòng tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước. 1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, H.1995, tập 10, trang 81-82 30
  32. Trong lời huấn thị trên đây của Hồ Chủ tịch đã thể hiện một cách nhìn nhận sâu sắc về bản chất và ý nghĩa của công tác này 2.1.Quan điểm của Hồ Chí Minh về người khiếu nại và việc khiếu nại Người nói đồng bào có oan ức hoặc chưa hiểu rõ chính sách của Đảng và Chính phủ mà khiếu nại. Câu nói đó thể hiện sự chia sẻ và quan điểm vì dân, luôn luôn đứng về phía người dân của Người. Dù công việc khiếu nại là công việc phức tạp những phải luôn luôn thấu triệt cách nhìn nhận và đánh giá đúng thì mới có một thái độ đúng đắn trong khi tiếp nhận và giải quyết khiếu nại của công dân. Hơn ai hết, Hồ Chủ tịch hiểu rõ con người Việt Nam cần cù chịu thương chịu khó. Nhiều năm bị ách đô hộ phương Bắc chế độ phong kiến đè nén và ảnh hưởng của đạo giáo phương Đông khổ hạnh đã thấm sâu vào tâm lý con người Việt Nam. Chính vì vậy, người dân thường cam chịu thiệt thòi. Cách mạng về đã làm cho họ trở thành người chủ thật sự của đất nước nhưng tâm lý đó vẫn còn hằn khắc trong mỗi con người. Sự e ngại chính quyền, không ưa phiền phức vẫn còn ngự trị mặc dù đã có sự động viên khích lệ và nhà nước dân chủ cố gắng để người dân nói lên tiếng nói của mình, nhất là khi bị thiệt thòi về lợi ích. Vì vậy Hồ Chủ tịch mới nhắc nhở: đồng bào có oan ức thì mới khiếu nại. Có lẽ đây là điều căn dặn mà mỗi người cán bộ, công chức nói chung và cán bộ thanh tra viên làm công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo nên luôn phải suy ngẫm. Người còn nói: đồng bào chưa hiểu chính sách của Đảng và Chính phủ mà khiếu nại đó là một cách nhìn toàn diện sâu sắc và khách quan về một vấn đề tưởng chừng như đơn giản. Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Mọi chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước ban hành cũng nhằm tạo điều kiện phát triển đất nước đem lại hạnh phúc ấm no cho nhân dân. Quyền lợi của mỗi người dân và lợi ích của nhà nước là nhất trí. Làm tốt chủ trương chính sách của Đảng, thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật của nhà nước vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của mỗi người dân. Đó cũng chính là yêu cầu đặt ra cho các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước phải làm cho nhân dân hiểu rõ. Nhất là trong hoàn cảnh cụ thể của nước ta, sau bao năm sống trong cảnh lầm than nô lệ, nghèo nàn, tăm tối, khi 31
  33. trình độ dân trí còn chưa cao, sự hiểu biết nói chung và pháp luật nói riêng còn hạn chế trong khi đó chúng ta còn thiếu các phương tiện truyền thông có thể mang lại những thông tin thiết thực đến cho người dân. Cho nên đôi khi người dân không hiểu hay chưa hiểu rõ việc làm của chính quyền mà sinh ra khiếu nại, thắc mắc. Nhìn ở một khía cạnh khác, bản thân các chủ trương chính sách của chúng ta không phải lúc nào cũng rõ ràng đầy đủ. Bao nhiêu năm qua, chúng ta đã cố gắng để xây dựng một hệ thống pháp luật để điều chỉnh mọi quan hệ xã hội. Các văn bản thường xuyên được sửa đổi, bổ sung đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của một nhà nước pháp quyền. Sự nắm bắt, cập nhật thường xuyên và nhất là hiểu đúng tinh thần và lời văn của những quy định pháp luật hoàn toàn không dễ dàng. Các quy định đó, mặc dù không có gì khác hơn là việc cụ thể hoá, thể chế hoá định hướng và mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, tất cả vì lợi ích nhân dân, không phải đã được mọi người dân hiểu rõ và trong không ít trường hợp sự mâu thuẫn giữa quyền lợi của từng cá nhân với lợi ích chung có thể nảy sinh trong quá trình thực hiện sẽ là những nguyên nhân gây khiếu kiện, thắc mắc, nguyên nhân của việc vì chưa hiểu chính sách của Đảng và Chính phủ mà khiếu nại. Những điều căn dặn của Hồ Chủ tịch không chỉ thể hiện một cách nhìn khách quan, toàn diện mà hơn thế nữa nó là biểu hiện cụ thể tư tưởng của Người. Đó là dù bất luận thế nào, việc của người dân cũng thuộc về trách nhiệm của nhà nước. Nhà nước sinh ra để phục vụ dân, cán bộ, đảng viên phải là công bộc của dân. Dân bị oan ức là do cán bộ, chính quyền làm sai. Dân chưa hiểu là do cán bộ, chính quyền chưa làm cho họ hiểu. Vì vậy chính quyền có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết các khiếu nại, thắc mắc đó. 2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo Chúng ta đều hiểu rằng giải quyết khiếu nại, tố cáo là hình thức biểu hiện trực tiếp của mối quan hệ giữa nhân dân với Nhà nước. Khi người dân có điều gì oan ức mà khiếu nại và những khiếu nại đó được các cơ quan nhà nước có trách 32
  34. nhiệm xem xét, giải quyết kịp thời và thỏa đáng thì người dân sẽ cảm thấy mình nhận được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, thấy mình được tôn trọng, mình là người chủ thực sự của Nhà nước, họ sẽ thấy gần gũi gắn bó, tin yêu chính quyền. Hồ Chủ tịch luôn nhắc nhở trách nhiệm của nhà nước trong việc tiếp nhận và giải quyết khiếu nại cho dân. Người đưa yêu cầu rất cao cho công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của dân. Không những phải tiếp nhận và giải quyết kịp thời mà các cấp chính quyền, các cán bộ, công chức “phải giải quyết nhanh, tốt” các khiếu nại đó. Với Hồ Chủ tịch, lợi ích của nước, của dân là trên hết, việc của dân là việc hàng đầu, những khiếu nại cần phải đựoc xem xét, thậm chí người dân không kêu nài cũng phải chủ động kiểm tra để xem ý kiến người dân thế nào, có thiệt thòi, thắc mắc gì không. Trong Huấn thị về công tác thanh tại Hội nghị cán bộ thanh tra toàn miền Bắc ngày 19/4/1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Trong lúc này, có những cán bộ, đảng viên vì việc này, việc khác mà kêu, cán bộ thanh tra cũng phải xét kịp thời, chóng chừng nào, hay chừng ấy. Đối với nhân dân việc kêu nài, có lúc không kêu nài đi chăng nữa, cán bộ thanh tra cũng phải thăm dò ý kiến nhân dân”. Đề cao trách nhiệm của các cơ quan chính quyền trong việc giải quyết nhanh chóng và có hiệu quả các khiếu nại, tố giác của dân là biểu hiện cụ thể của một nhà nước vì dân mà Hồ Chủ tịch luôn nhấn mạnh. Tinh thần đó được thể hiện qua nhiều văn bản của Nhà nước ta. Thông tư số 436/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 13/9/1958 quy định trách nhiệm, quyền hạn, nhiệm vụ, tổ chức của các cơ quan chính quyền trong việc giải quyết các loại đơn thư khiếu nại, tố giác của nhân dân đã chỉ rõ: “Nghiên cứu và giải quyết các việc khiếu nại và tố giác của nhân dân là một trách nhiệm quan trọng của tất cả các cơ quan nhà nước và các cấp trước nhân dân. Giải quyết tốt, kịp thời thư khiếu tố của nhân dân là biểu hiện tinh thần phụ trách của các cơ quan nhà nước trước nhân dân, là thiết thực bảo đảm quyền tự do dân của nhân dân, thoả mãn những yêu cầu thiết thân của nhân dân, nhờ đó mối liên hệ giữa Nhà nước và nhân dân sẽ được tăng cường”. 33
  35. Một vấn đề nữa thể hiện quan điểm của Hồ Chủ tịch về vấn đề giải quyết khiếu nại “sớm chừng nào, hay chừng ấy” là cần giải quyết khiếu nại ngay từ cơ sở nơi phát sinh khiếu nại của dân. Điều đặc biệt là đối với khiếu nại được gửi lên Trung ương mà hiện nay vẫn bị coi là loại đơn thư vượt cấp, Người vẫn thể hiện sự nhất quan trong tư tưởng “đồng bào có oan ức mà khiếu nại” khi tại Hội nghị công tác thanh tra toàn miền Bắc ngày 5/3/1960 Người căn dặn “Các cô, các chú phải làm thế nào đừng để nhiều thư khiếu nại gửi thẳng đến Bác, vì các địa phương giải quyết không tốt nên họ phải đưa đến Bác”. Lời căn dặn đó là vô cùng thấm thía và đáng cho chúng ta suy nghĩ, xem xét để có một cái nhìn đúng đắn về tình trang đơn thư vượt cấp hiện nay. Khi người dân phát hiện ra việc làm sai trái của cán bộ, của chính quyền thì họ tố giác, tố cáo. Sự tố cáo đó thể hiện tinh thần trách nhiệm của công dân, họ bức xúc, phản ứng với những điều sai trái. Bởi họ cho rằng chính quyền là của dân, là nơi người dân có thể trong cậy, tin tưởng, những người cán bộ, đảng viên là do dân tín nhiệm cử ra để lo toan việc của dân của nước, chính quyền đó phải trong sạch, cán bộ, đảng viên đó phải là người mẫu mực. Họ không chấp nhận những biểu hiện sai trái trong hoạt động của chính quyền hay những biểu hiện sách nhiễu, cửa quyền, hách dịch, tham ô, lãng phí kiểu quan cách mạng như Hồ Chủ tịch từng phê phán. Hồ Chủ tịch không dung tha cho những kẻ lợi dụng danh nghĩa chính quyền nhân dân để mưu lợi cá nhân, đục khoét nhân dân. Khi bị người dân tố cáo, phát giác những kẻ đó phải bị trừng trị thích đáng. Ngay những ngày đầu lập nước, Hồ Chủ tịch đã nhận thức đầy đủ nguy cơ về sự thoái hóa của những người nắm quyền lực và đã kiên quyết đấu tranh với chúng. 2.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về ý nghĩa, vai trò của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo Hồ Chủ tịch đã chỉ rõ ý nghĩa lớn lao của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của người dân. Tại Hội nghị thanh tra toàn miền Bắc ngày 5/3/1960, người nói: “Việc xét và giải quyết khiếu nại, tố giác, các Ban thanh tra ( ) đã góp phần ổn định tư tưởng cho cán bộ, công nhân viên và đồng bào.” Việc giải quyết nhanh chóng, đúng pháp luật các khiếu nại, tố cáo của dân 34
  36. và gắn với nó là việc khôi phục kịp thời các quyền, lợi ích hợp pháp của người dân, đồng thời xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật những người có hành vi sai phạm sẽ củng cố niềm tin yêu của nhân dân vào chính quyền, vào chế độ, vào các chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước, làm cho mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước ngày càng gắn bó, bền chặt. Trong Huấn thị về công tác thanh tra tại Hội nghị cán bộ thanh tra toàn miền Bắc ngày 19/4/1957, Hồ Chủ tịch đã chỉ rõ; “Trong lúc này, có những cán bộ, đảng viên vì việc này, việc khác mà kêu, cán bộ thanh tra phải xét kịp thời, chóng chừng nào hay chừng ấy. Đối với nhân dân, có lúc kêu nài, có lúc không kêu nài đi nữa, cán bộ thanh tra cũng phải đi thăm dò ý kiến nhân dân.” Đặc biệt quan tâm đến nguyên tắc này trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, Hồ Chủ tịch trong một lần khác, tại Hội nghị cán bộ thanh tra toàn miền Bắc ngày 5/3/1960 đã tiếp tục khẳng định: “Về công tác xét và giải quyết các khiếu nại, tố giác, nhiệm vụ của các Ban Thanh tra là phải làm cho nghiêm chỉnh, kịp thời, làm sớm chừng nào hay chừng ấy”, “ Ta phải giải quyết nhanh, tốt thì đồng bào mới thấy rõ Đảng và chính phủ luôn quan tâm lo lắng đến quyền lợi của họ, do đó mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Chính phủ càng được củng cố tốt hơn”. Mối quan hệ mà Hồ Chủ tịch nói ở đây chính là nguồn gốc sức mạnh, nguyên nhân sự thắng lợi của cách mạng Việt nam. Nó thể hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng phải dựa vào sức mạnh toàn dân, “có dân là có tất cả”. Và thể hiện mục tiêu cao cả mà Người phấn đấu là “làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ ” 1. Hồ Chủ tịch cũng đã từng khẳng định: “Trong bầu trời này không gì quí bằng nhân dân,. Trong thế giới này không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”2. Chính vì vậy Người luôn quan tâm đến việc củng cố niềm tin của nhân dân vào chế độ, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân và coi đó là nguồn sức mạnh vô địch đánh thắng mọi kẻ thù tệ hại nhất và như vậy thì phải hết lòng vì công việc của dân. Hồ chủ tịch cho rằng “Muốn cho dân yêu, muốn được lòng dân, việc gì có 1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, H.1995, tập 10, tr.591. 2 Sđd, tập 8, tr.276. 35
  37. lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh. Phải chú ý giải quyết hết các vấn đề dầu khó đến đâu mặc lòng, những vấn đề quan hệ đến đời sống của dân. Phải chấp đơn, phải xử kiện cho dân mỗi khi người ta đem tới”1 Từ một khía cạnh khác, Hồ Chủ tịch luôn nhấn mạnh đến việc phát huy vai trò của người dân trong việc kiểm soát các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước, coi đó là phương thức kiểm soát có hiệu quả nhất giải quyết khiếu nại, tố cáo cũng chính là một cách gián tiếp thực hiện quyền giám sát của công dân đối với nhà nước. Hồ Chủ tịch nói: “Kiểm soát có hai cách: một cách là từ trên xuống. Tức là ngưòi lãnh đạo kiểm soát kết quả những công việc của cán bộ mình. Một cách nữa là từ dưới lên. Tức là quần chúng và cán bộ, kiểm soát sự sai lầm của người lãnh đạo và bày tỏ cái cách sửa chữa sự sai lầm đó. Cách này là cách tốt nhất để kiểm soát ”2 Sự kiểm soát đó cũng là giúp chính quyền khắc phục được sai lầm khuyết điểm để thực sự là chính quyền vì dân, dân là chủ. “Dân là chủ thì chính quyền phải là đầy tớ. Khi dân dùng đầy tớ làm việc cho mình, thì phải giúp đỡ Chính phủ. Nếu Chính phủ sai thì phải phê bình, phê bình không phải là chửi trong nhân viên có nhiều khuyết điểm Xin đồng bào hãy phê bình, giúp đỡ giám sát công việc của Chính phủ” 3. Có lẽ không có một lời lẽ nào chân tình và cầu thị hơn như lời của Hồ Chỉ tịch - một vị nguyên thủ quốc gia - trước quốc dân đồng bào, tự đặt mình dưới sự phê bình giám sát của nhân dân. Đó cũng là thái độ mà mỗi người cán bộ, đảng viên phải có trước những lời phàn nàn, thắc mắc, những điều khiếu nại, tố cáo của nhân dân trước những việc làm sai trái của mình hay cấp dưới của mình để mà bình tĩnh lắng nghe và xem xét thấu tình đạt lý. Bao nhiêu năm qua, những lời căn dặn của người vẫn giữ nguyên giá trị và mỗi cán bộ thanh tra viên phải luôn học tập và thấm nhuần. Trước mỗi khó khăn, vất vả trong công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của dân đều phải nhớ rằng: “Đồng bào có oan ức hoặc vì chưa hiểu chính sách của Đảng và Chính phủ 1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, H.1995, tập 4, tr.47-48 2 Sđd, tập 5, tr.287-288 3 Sđd, tập 5, tr.60-61 36
  38. mà khiếu nại”. 3. Quan điểm Hồ Chí Minh về chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề phòng, chống tham ô, quan liêu, lãng phí. Người cho rằng đó chính là “tàn dư”, “nọc xấu” của “tham nhũng”. Theo Người, tham nhũng là bản chất, gắn liền với chế độ thực dân, phong kiến. Dưới chế độ cách mạng – chế độ dân chủ nhân dân, tham nhũng không còn tồn tại, chỉ còn những tàn dư của tham nhũng là tham ô, quan liêu, lãng phí. Đó chính là ba thứ "giặc nội xâm" nguy hiểm không kém "giặc ngoại xâm"; nếu toàn Đảng, toàn dân không kiên quyết đấu tranh phòng, chống thì sẽ dẫn đến những suy thoái, đổ vỡ không thể lường hết được. Hồ Chủ tịch đã có nhiều bài nói, bài viết chỉ rõ bản chất, nguyên nhân, phân tích các tác hại của tham ô, quan liêu, lãng phí. Người cũng đã đề ra nhiều chủ trương, biện pháp phòng, chống tham nhũng. Người cho rằng việc thực hiện các chủ trương, biện pháp đó là nhiệm vụ rất quan trọng, cần được Đảng, Nhà nước và toàn thể quần chúng nhân dân tiến hành thường xuyên, liên tục. 3.1. Quan điểm của Hồ Chủ tịch về chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu Chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu là mối quan tâm lớn, thường xuyên của Hồ Chủ tịch. Người coi tham ô, lãng phí là “tội lỗi đê tiện nhất trong xã hội”. Người chỉ rõ bản chất của tham ô: “là lấy của công làm của tư. Là gian lận tham lam”, “tham ô là trộm cướp”. Người nêu ra một khái niệm khái quát, làm rõ bản chất tham ô: “Tham ô là gì? - Đứng về phía cán bộ mà nói, tham ô là: ăn cắp của công làm của tư đục khoét của nhân dân ăn bớt của bộ đội Tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của chung của Chính phủ để làm quỹ riêng 37
  39. cho địa phương mình, đơn vị mình cũng là tham ô. - Đứng về phía nhân dân mà nói, tham ô là: ăn cắp của công, khai gian, lậu thuế”1 Một điểm đặc trưng của hành vi tham ô theo Hồ Chủ tịch chính là việc biến “của công” thành “của tư”. Nhưng hiểu thế nào là “của công”, thế nào là “của tư”? “Của công” chính là tài sản của nhân dân, do nhân dân đóng góp, phục vụ mục đích chúng là giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước. “Của tư” không chỉ là tài sản riêng của một cán bộ, công chức nào. Tài sản chung khi không dành phục vụ mục đích chung, chỉ dành làm của riêng, quỹ riêng cho một tập thể, một điạ phương cũng bị coi là “của tư”. Bất cứ hành vi nào lấy “của công” làm “của tư” cũng đều bị Hồ Chủ tịch coi là hành vi tham ô. Đây chính là hành vi tham ô hiểu theo nghĩa rộng. Theo nghĩa này, chủ thể của hành vi tham ô không chỉ là cán bộ, công chức - những người nắm chức vụ, quyền hạn nhất định trong bộ máy nhà nước. Người dân bình thường nếu như “ăn cắp của công, khai gian, lậu thuế” cũng có thể là chủ thể của hành vi tham ô. Trong công cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa, mọi nguồn lực đều phải được huy động cho sự nghiệp cách mạng. Nếu như tiền vốn, tài sản công bị chiếm đoạt dưới bất cứ hình thức nào, để phục vụ cho lợi ích cá nhân hẹp hòi thì đều có thể bị coi là tham ô. Sâu sắc hơn nữa, Hồ Chủ tịch còn chỉ ra một hình thức tham ô tinh vi, rất khó nhận thấy trong cuộc sống đời thường, đó là tham ô gián tiếp. Người nêu ra một thí dụ về tham ô gián tiếp: “một cán bộ, Chính phủ, nhân dân trả lương hàng tháng đều cho, nhưng lại kém lòng trách nhiệm, đứng núi này, trông núi nọ, làm việc chậm chạp, ăn cắp giờ của Chính phủ, của nhân dân” 2. Đây là một hình thức tham ô đặc biệt. Tuy không nhanh chóng gây hậu quả nghiêm trọng như những hành vi trực tiếp chiếm đoạt tài sản công, nhưng “tham ô gián tiếp” xảy ra hàng ngày, thường xuyên, liên tục, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động đúng đắn của bộ máy nhà nước, hiệu lực của quản lý nhà nước, là một trong những 1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, H.1995, tập 6, tr.488. 2 Sđd, tập 6, tr.436 38
  40. mối nguy hại lớn đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước. Cùng với tham ô, lãng phí cũng bị Hồ Chủ tịch coi là một tội lỗi đối với đất nước, đối với nhân dân. Lãng phí là những việc làm của cán bộ cơ quan nhà nước, quân đội, xí nghiệp và nhân dân làm hao tổn, tốn kém vô ích sức lao động, thời giờ, tiền của. Người nói: “Có người lại nói tham ô mới có tội, còn lãng phí thì không có tội. Thực ra việc khác nhau nhưng kết quả vẫn hao tổn của công, của Chính phủ, của nhân dân” 1. Không những thế, có khi lãng phí còn có hại nhiều hơn tham ô, vì “lãng phí rất phổ biến: lãng phí của cải, thì giờ, lực lượng của nhân dân, của Chính phủ”. Hồ Chủ tịch chỉ ra các loại lãng phí: “lãng phí sức lao động”, ‘lãng phí thời giờ”, “lãng phí tiền của”. Mỗi loại lại có rất nhiều hình thức khác nhau, trên các lĩnh vực khác nhau: nông nhiệp, công nghiệp, vận tải, tài chính Tất cả đều dẫn đến một hậu quả, “có khi còn tai hại hơn tham ô”, đó là gây thiệt hại, thất thoát tài sản của Nhà nước, của nhân dân, ảnh hưởng đến công cuộc kháng chiến kiến quốc. a) Do đâu mà có tham ô, lãng phí Tham ô, lãng phí là những căn bệnh nguy hiểm. Muốn chống tham ô, lãng phí hiệu quả, cần phải tìm hiểu nguồn gốc, nguyên nhân của chúng. Hồ Chủ tịch đã nói: “Tham ô, lãng phí đều do bệnh quan liêu mà ra”2. Người chỉ rõ tệ quan liêu chính là căn nguyên sâu xa, nguyên nhân trực tiếp, là điều kiện của tham ô, lãng phí. Người khẳng định nơi nào có tệ quan liêu thì ở đó có tham ô, lãng phí; mà quan liêu càng nặng thì tham ô, lãng phí càng nhiều. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có rất nhiều bài nói, bài viết bàn về tệ quan liêu. Người phân tích cặn kẽ, chỉ ra bản chất, nguyên nhân, biểu hiện cụ thể của bệnh quan liêu. Theo Hồ Chủ tịch, quan liêu là “bệnh giấy tờ, bệnh hình thức, không thực tế, là xa cách quần chúng, không theo đường lối quần chúng, làm không đúng chính sách của Chính phủ và của Đoàn thể” 3. Quan liêu là cán bộ phụ trách xa rời thực tế, không đi sâu đi sát công việc, việc gì cũng không nắm vững, chỉ đạo một cách đại khái, chung chung. Quan liêu là xa rời quần chúng, không rõ lai lịch, tư 1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, H.1995, tập 6, tr.436 2 Sđd, tập 6, tr.394 3 Sđd, tập 6, tr.394 39
  41. tưởng và công tác của cán bộ mình, không lắng nghe ý kiến của quần chúng, sợ phê bình và tự phê bình. Tác phong của người cán bộ mắc bệnh quan liêu là thiếu dân chủ, không giữ đúng nguyên tắc lãnh đạo tập thể, phân công phụ trách. Người nêu và lên án mạnh mẽ các biểu hiện của bệnh quan liêu. Theo Hồ Chủ tịch, người cán bộ mắc bệnh quan liêu là những người mang nặng chủ nghĩa cá nhân, luôn chỉ nghĩ đến lợi ích của bản thân, coi thường lợi ích của nhân dân, của Nhà nươc. Bệnh quan liêu có các các biểu hiện: đối với công việc không nắm rõ, không tường tận nội dung công việc, chậm chạp, thiếu ý thức đối với công việc, chỉ “làm cho qua chuyện”; đối với cấp dưới, đối với nhân dân thì chỉ biết ra “mệnh lệnh”, không biết giải thích, khuyến khích, giáo dục cấp dưới, không biết động viên, làm cho dân chúng tự giác, lại càng không biết lắng nghe ý kiến của cấp dưới, phê bình, góp ý của nhân dân. Nhưng cũng chính những người cán bộ quan liêu đó, đối với bản thân thì lại dễ dãi, không chịu tu dưỡng, phấn đấu, học tập để tiến bộ, ngại khó, ngại gian khổ, chỉ lo vun vén, chỉ biết hưởng thụ, chỉ chăm lo cho bản thân, lúc nào cũng muốn “nhân dân phụng sự mình”, trước mặt nhân dân thì lên mặt “quan cách mạng”. Theo Hồ Chủ tịch, người cán bộ mắc bệnh quan liêu còn có biểu hiện “đối với công việc thì trọng hình thức, mà không xem xét mọi mặt, không vào sâu vấn đề. Chỉ biết khai hội nghị, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy chứ không kiểm tra đến nơi, đến chốn” 1. Khi triển khai thực hiện công việc của bản thân, giao nhiệm vụ cho cấp dưới mà không biết kiểm tra thì sẽ không có điều kiện giải thích, hướng dẫn, đôn đốc cấp dưới, không kịp thời phát hiện, chấn chỉnh hay xử lý vi phạm, điều này dẫn đến công việc sẽ không có hiệu quả, gây thiệt hại về tài sản, tiền bạc, công sức của Nhà nước, của nhân dân. Theo Hồ Chủ tịch, vì những người và những cơ quan lãnh đạo mắc bệnh quan liêu thành thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững. Kết quả là những người xấu, những cán bộ kém tha hồ tham ô, lãng phí. Điều đó dẫn đến hậu quả là không những bản thân người cán bộ mắc bệnh quan liêu có hành vi tham ô, lãng phí để chiếm đoạt của công làm của tư, thoả mãn lợi ích cá nhân mà việc buông lỏng 1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, H.1995, tập 6, tr.489 40
  42. quản lý, điều hành, giáo dục cán bộ không đến nơi đến chốn, bao che, ô dù dẫn đến việc để xảy ra tham ô, lãng phí của cán bộ cấp dưới, gây thiệt hại, thất thoát tài sản của Nhà nước, thời giờ, công sức của nhân dân. b) Tai hại do các tệ tham ô, lãng phí, quan liêu gây ra Hồ Chủ tịch khẳng định quan liêu, tham ô, lãng phí là “bạn đồng minh của thực dân, phong kiến”, “kẻ thù của nhân dân, của bộ đội, của Chính phủ” 1. Bởi vì, tham ô, lãng phí có tác hại rất lớn. Trước hết và trực tiếp, nó gây thiệt hại cho tài sản của nhà nước, của nhân dân. Cán bộ được giao quản lý tài sản của Nhà nước, của nhân dân, tài sản do những nước bạn đóng góp, giúp đỡ để phục vụ cho kháng chiến, kiến quốc, nâng cao đời sống của nhân dân. Do chủ nghĩa cá nhân, do tư lợi một số cán bộ đã tham ô, chiếm đoạt của công, biến của công thành của tư, xâm phạm đến của công của Nhà nước, của tập thể, làm hại đến sự nghiệp xây dựng nước nhà, có hại đến công việc cải thiện đời sống của nhân dân. Cùng với tham ô, lãng phí cũng gây thiệt hai, thất thoát một lượng lớn tài sản công. Do mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh, do thiếu tinh thần trách nhiệm, một số cán bộ đã lãng phí rất nhiều tiền bạc, công sức, thời giờ của Nhà nước, của nhân dân. Không trực tiếp trộm cắp của công làm của riêng nhưng lãng phí diễn ra thường xuyên, dưới nhiều hình thức cũng gây tổn hại nghiêm trọng cho Nhà nước, cho nhân dân không kém tham ô. Tham ô, lãng phí còn làm tha hoá, suy thoái đạo đức cách mạng của cán bộ, phá hoại tinh thần trong sạch, ý chí vượt khó của cán bộ, nhân dân, xói mòn lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước. Hồ Chủ tịch khẳng định: phần đông cán bộ, đảng viên, đoàn viên, công nhân viên chức ta đều trong sạch, tận tuỵ, đều là mang bản chất, đạo đức cách mạng là cần, kiệm, liêm, chính. Họ không ngại gian khổ, hy sinh vì cách mạng, vì nhân dân. Nhưng vẫn còn một bộ phận cán bộ do tham ô, quan liêu, lãng phí, do mưu lợi cá nhân, chỉ nghĩ đến hưởng thụ đã thoái hoá, biến chất, không giữ được đạo đức cách mạng. Điều này làm giảm sức chiến đấu của Đảng, giảm lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, làm hại đến sự nghiệp cách mạng. 1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, H.1995, tập 6, tr.490 41
  43. Trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, cả nước phải huy động và đã huy động được mọi nguồn lực: của cải vật chất, công sức, tinh thần Vì sự nghiệp cách mạng của đất nước, “chiến sỹ thì hy sinh xương máu, đồng bào thì hy sinh mồ hôi nước mắt để đóng góp” 1. Những kẻ tham ô, lãng phí đã chiếm đoạt, đã phí phạm, huỷ hoại những nguồn lực ấy. Điều này dẫn đến một hậu quả nguy hại lớn hơn nữa, đó là sự cản trở, phá hoại sự nghiệp cách mạng, “làm chậm trễ công cuộc kháng chiến và kiến quốc của ta”. c) Chống tham ô, lãng phí là cách mạng Sự nghiệp cách mạng do toàn thể hệ thống chính trị, toàn thể quần chúng nhân dân tiến hành, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Bác Hồ. Đấu tranh giành độc lập dân tộc, tiêu diệt chế độ thực dân, phong kiến, xây dựng đất nước tiến lên xã hội chủ nghĩa là nội dung, mục tiêu của cách mạng. Hồ Chủ tịch khẳng định: “tham ô, lãng phí, quan liêu là những xấu xa của xã hội cũ” 2, tham ô là đặc trưng, gắn liền với thực dân, phong kiến. Đấu tranh chống thực dân, phong kiến, xây dựng xã hội mới phải bao hàm cả đấu tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu. Cách mạng không thể thành công hoàn toàn nếu vẫn còn tham ô, lãng phí. Vì vậy, chống tham ô, lãng phí là một nội dung, nhiệm vụ quan trọng của cách mạng. Tham ô, lãng phí, quan liêu ngăn trở, phá hoại sự nghiệp cách mạng. Tài sản của Nhà nước, của cải, công sức của nhân dân bị chiếm đoạt, lãng phí. Đội ngũ cán bộ cách mạng bị tha hoá, suy thoái đạo đức, sút giảm tính chiến đấu. Đó là hậu quả nguy hại tham ô, lãng phí , quan liêu gây ra, đe doạ gây ra đối với cách mạng. Do vậy, đấu tranh chống tham ô, lãng phí chính là để loại bỏ những trở lực của cách mạng, phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. d) Chống tham ô, lãng phí là dân chủ Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Quyền lực thuộc về nhân dân. Tất cả tài sản là của nhân dân. Nhân dân đóng góp mồ hôi xương máu, tiền của cho công cuộc kháng chiến, xây dựng đất nước. Vì vậy, bảo vệ của công, chống tham ô, lãng phí là bảo vệ tài sản của nhân dân, bảo vệ quyền dân chủ của 1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, H.1995, tập 6, tr.490. 2 Sđd, tập 6, tr.494 42
  44. nhân dân. Hồ Chủ tịch chỉ rõ: “phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu ắt phải dựa vào lực lượng quần chúng thì mới thành công” 1. Dân chủ tức là nhân dân làm chủ. Cán bộ là người được giao quản lý tài sản để thực hiện các nhiệm vụ do nhân dân giao phó. Vì vậy, nhân dân có quyền và nghĩa vụ giám sát, phê bình cán bộ, đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, tham ô, lãng phí. Sự tham gia của quần chúng quyết định sự thành công của công cuộc đấu tranh phòng, chống tham ô, lãng phí. Quần chúng tham gia tích cực, đông đảo thì cuộc đấu tranh càng mang lại hiệu quả cao. Bác Hồ khẳng định: “Quần chúng tham gia càng đông, thành công càng đầy đủ, mau chóng”2. 3.2. Quan điểm chỉ đạo công tác phòng, chống tham ô, lãng phí của Hồ Chủ tịch Công tác chống tham ô, lãng phí là rất quan trọng, phải được tất cả các cấp, các ngành quan tâm và tiến hành thường xuyên. Cũng như các mặt trận khác, muốn giành thắng lợi trên mặt trận chống tham ô, lãng phí; chúng ta phải nắm được các quan điểm chính chỉ đạo cuộc đấu tranh trên mặt trận đó. Hồ Chủ tịch nêu rõ: “phải có chuẩn bị, có kế hoạch, có tổ chức, ắt phải có lãnh đạo và trung kiên”3. Đấu tranh chống tham ô, lãng phí cần phải bằng hệ thống các biện pháp đồng bộ, cả trước mắt và lâu dài, kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”. Cùng với việc xây dựng cơ chế phòng, chống, tấn công tham ô, lãng phí trên tất cả các lĩnh vực, cần xác định và tập trung vào các lĩnh vực trọng tâm và các biện pháp chủ yếu. Yếu tố quan trọng, quyết định hiệu lực, hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tham ô, lãng phí chính là công tác lãnh đạo. Cũng như trong tất cả các hoạt động khác của cách mạng nước ta, sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Đảng, thông qua các chủ trương, chính sách mang tính chỉ đạo, thông qua các tổ chức, các cấp uỷ Đảng, chính là mấu chốt, quyết định sự thành bại của cuộc đấu tranh chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu. Hồ Chủ tịch luôn nhấn mạnh trong cuộc đấu tranh chống tham ô, lãng phí 1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, H.1995, tập 6, tr.495. 2 Sđd, tập 6, tr.495 3 Sđd, tập 6, tr.490 43
  45. phải kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền, giáo dục và cưỡng chế, trong đó lấy tuyên truyền, giáo dục là nền tảng, cơ sở. Người nói: “Trong phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu, giáo dục là chính, trừng phạt là phụ”. Việc tuyên truyền, giáo dục cần được đặc biệt coi trọng, làm cho cán bộ hiểu được sự nguy hại, xấu xa của tham ô, lãng phí, từ đó có các hành động tích cực nhằm phòng, chống. Đồng thời, qua công tác tuyên truyền, giáo dục sẽ giúp nêu gương tốt, lên án các hành vi tham ô, lãng phí, góp phần vào việc tích cực ngăn chặn nạn tham ô, lãng phí. Nhưng khi cần thiết, đối với những kẻ đã suy thoái về đạo đức, không chịu rèn luyện, ăn năn hối cải, cố tình tư lợi, chiếm đoạt tài sản của nhà nước, của nhân dân, phá hoại sự nghiệp cách mạng, phải trừng trị thẳng tay, đúng pháp luật để bảo vệ sự nghiêm minh của pháp luật và để răn đe, làm gương. 3.3. Các biện pháp phòng, chống tham ô, lãng phí, quan liêu Trên cơ sở nhận thức sâu sắc sự nguy hiểm, tìm ra bản chất, nguyên nhân của tham ô, lãng phí, quan liêu, Hồ Chủ tịch đã nêu ra hàng loạt biện pháp nhằm đấu tranh phòng, chống. Trong các biện pháp phòng, chống tham ô, lãng phí, quan liêu, Hồ Chủ tịch đặc biệt chú trọng biện pháp phát động tư tưởng của quần chúng. Người nói: “làm cho quần chúng khinh ghét tệ tham ô, lãng phí, quan liêu; biến hàng ức, hàng triệu con mắt, lỗ tai cảnh giác của quần chúng thành những ngọn đèn pha soi sáng khắp mọi nơi, không để cho tệ tham ô, lãng phí, quan liêu còn chỗ ẩn nấp”1. Quần chúng là lực lượng chính của cách mạng, sự tham gia tích cực của quần chúng quyết định sự thành bại của cách mạng. Trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham ô, lãng phí, quan liêu, quần chúng nhân dân giám sát cán bộ, công chức, kịp thời phát hiện sai phạm, phê bình, lên án các biểu hiện tiêu cực của cán bộ. Sự giám sát gắt gao của quần chúng nhân dân đối với cán bộ, công chức nhà nước, thông qua các hình thức khác nhau là một cơ chế ngăn ngừa tham ô, lãng phí hữu hiệu. Đồng thời, sự giám sát chặt chẽ, với các phản ánh, kiến nghị kịp thời của nhân dân sẽ giúp các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sớm phát hiện các hành vi tham ô, lãng phí, từ đó có các biện pháp xử lý phù hợp. Tham ô, lãng phí, quan liêu là biểu hiện sự tha hoá, suy thoái đạo đức của cán bộ, công chức Nhà nước. Vì vậy, Hồ Chủ tịch luôn luôn chú trọng các biện 1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, H.1995, tập 10, tr.576 44
  46. pháp nhằm trong sạch hoá, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng đối với đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Người cho rằng tệ tham ô, lãng phí do chủ nghĩa cá nhân, bệnh quan liêu gây ra. Đó là chỉ lo vun vén, hưởng thụ, không quan tâm đến rèn luyện, tu dưỡng, thiếu trách nhiệm với công việc, không quan tâm đến tâm tư, nguyên vọng của cấp dưới, của nhân dân, sợ sự giám sát, phê bình. Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, bệnh quan liêu chính là biện pháp phòng ngừa tham ô, lãng phí hữu hiệu nhất. Để đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, bệnh quan liêu có hiệu quả, Người chỉ thị: “Đảng ta phải ra sức tăng cường giáo dục toàn Đảng về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, về đường lối, chính sách của Đảng, về nhiệm vụ và đạo đức của người đảng viên”1. Người cán bộ cần xác định đúng vai trò của mình là công bộc của nhân dân, nhiệm vụ của mình là phục vụ sự nghiệp cách mạng, đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, luôn đi sâu, đi sát công việc, gần gũi quần chúng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nâng cao tinh thần tập thể, ý thức kỷ luật. Người cán bộ phải không ngừng tu dưỡng, phấn, luôn luôn học hỏi, học trong sách vở, học hỏi cấp trên, cấp dưới và nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người khởi xướng, phát động, chỉ đạo và hướng dẫn phong trào phê bình và tự phê bình trong đội ngũ cán bộ, Đảng viên. Người chỉ đạo: “bộ đội, cơ quan, đoàn thể và nhân dân phải tổ chức một phong trào thật thà tự phê bình và phê bình từ cấp trên xuống, cấp dưới lên” 2. Trong phong trào này, mỗi cán bộ, Đảng viên phải luôn ý thức tự phê bình và phê bình, không phải để đả kích, hạ bệ nhau, mà để cùng nhau nhận thức các sai lầm, khuyết điểm, cùng bàn cách khắc phục, sửa chữa, để thực hiện chức trách, công vụ tốt hơn. Tự phê bình và phê bình phải hướng đến sự đoàn kết của cán bộ, Đảng viên, hướng đến nâng cao tinh thần trách nhiệm, tinh thần vượt khó để hoàn thành các nhiệm vụ của cách mạng. Hồ Chủ tịch nêu quan điểm chỉ đạo đối với việc tự phê bình và phê bình, theo đó, cán bộ, Đảng viên “tự kiểm thảo và kiểm thảo người khác phải thật thà, phải dựa vào sự thực, phải đào tận gốc rễ những khuyết điểm. Không nên thoa vẽ, che giấu. Không nên ít thít ra nhiều, càng không nên nói việc nhỏ bỏ việc 1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, H.1995, tập 12, tr.439 2 Sđd, tập 6, tr.395 45
  47. lớn, nói việc cũ quên việc mới”1. Người nêu các bước thực hiện tự phê bình và phê bình, trước hết, tự phê bình và phê bình ở các “tiểu tổ”. Sau đó, cơ quan triển khai kiểm thảo chung. Phê bình và tự phê bình phải tiến hành từ trên xuống, từ dưới lên, phải làm thường xuyên, liên tục, phải có báo cáo, điều tra, hướng dẫn việc kiểm thảo. Sau khi công khai, thật thà tự phê bình và phê bình, cán bộ, Đảng viên phải kiên quyết sửa đổi những sai lầm, khuyết điểm. Theo Hồ Chủ tịch, người cán bộ phải là tấm gương về sự trong sáng, lòng tận tuỵ, ý chí vượt khó, về phẩm chất đạo đức cách mạng; phải luôn luôn thực hiện “Cần, kiệm, liêm, chính”. Người dạy rằng: “Muốn giữ vững nhân cách, tránh khỏi hủ hoá thì phải luôn thực hành 4 chữ mà Bác thường nói. Đó là: Cần, Kiệm, Liêm, Chính”2. Bác Hồ có rất nhiều bài nói, bài viết về Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Hồ Chủ tịch phân tích, giải thích cụ thể cặn kẽ thế nào là Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Người nói: “Cần tức là tăng năng suất trong công tác, bất kể công tác gì. Kiệm là không lãng phí thì giờ, của cải của mình và của nhân dân. Liêm tức là không tham ô và luôn luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của nhân dân. Chính là việc phải thì dù nhỏ cũng phải làm, việc trái thì dù nhỏ cũng tránh” 3. Người yêu cầu, hướng dẫn cán bộ, công chức thực hành Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Người cho rằng đó chính là phẩm chất cần phải có của người cán bộ cách mạng. Hồ Chủ tịch coi giáo dục, thuyết phục, các biện pháp về tư tưởng, về phòng ngừa là chính, là nền tảng trong cuộc đấu tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu. Đồng thời, Người luôn nhấn mạnh việc nghiêm trị các hành vi tham ô, lãng phí. Việc trừng trị nghiêm khắc hành vi tham ô, lãng phí phải đúng các quy định của pháp luật, không được nể nang người có chức vụ, địa vị, với mục đích bảo vệ công lý, đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật, răn đe, làm gương cho những kẻ đang hoặc có ý định tham ô. Người chỉ thị: “Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ Bất Liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”. Cùng với rất nhiều bài nói, bài viết, Bác Hồ đã có những hành động hết sức cụ thể minh chứng rằng Bác luôn nhân từ, coi giáo dục, thuyết phục là chính, nhưng Người cũng rất nghiêm khắc đối với những kẻ tham ô, tư lợi, phá hoại sự nghiệp cách mạng. Đại tá Trần 1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, H.1995, tập 6, tr.492 2 Sđd, tập 7, tr.347 3 Sđd, tập 7, tr.392 46