Tính thống nhất và đa dạng văn hoá: Giáo dục và vấn đề bản sắc dân tộc Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá
Bạn đang xem tài liệu "Tính thống nhất và đa dạng văn hoá: Giáo dục và vấn đề bản sắc dân tộc Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- tinh_thong_nhat_va_da_dang_van_hoa_giao_duc_va_van_de_ban_sa.pdf
Nội dung text: Tính thống nhất và đa dạng văn hoá: Giáo dục và vấn đề bản sắc dân tộc Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá
- TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 10, SỐ 09 - 2007 TÍNH THỐNG NHẤT VÀ ĐA DẠNG VĂN HOÁ: GIÁO DỤC VÀ VẤN ĐỀ BẢN SẮC DÂN TỘC VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HOÁ Phạm Hồng Tung ĐHQG-HN TÓM TẮT:Tiếp cận từ khía cạnh văn hoá chính trị với quan niệm rằng bản sắc dân tộc là một phức hệ tâm linh của toàn thể cộng đồng dân tộc dựa trên những định hướng giá trị và được biểu hiện ra thông qua những đặc trưng, những biểu tượng và phương thức ứng xử văn hoá của cộng đồng dân tộc ấy, trong phần thứ nhất của bài viết này tác giả kiểm chứng lại bốn cách định nghĩa về dân tộc Việt Nam của các học giả nước ngoài được K.W Taylor tổng kết lại trong một bài nghiên cứu công bố từ năm 1998. Trong phần tiếp theo, tác giả phân tích và chỉ ra vai trò của giáo dục, nhất là giáo dục sử học, trong quá trình xã hội hoá phương thức hình dung về cộng đồng dân tộc Việt Nam đối với thế hệ trẻ. Theo tác giả, cần phải khắc phục cách trình bày lịch sử dân tộc phiến diện, một chiều, bởi lẽ cách giáo dục lịch sử như vậy không giúp cho người học hình dung đúng về bản sắc dân tộc Việt Nam với ý nghĩa là cái thống nhất trong những cái đa dạng. 1. Đặt vấn đề các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và Năm 1942, trong khi lãnh đạo Mặt trận chống giặc ngoại xâm. Đầu thế kỷ 20, khi Việt Minh và nhân dân Việt Nam chuẩn bị xướng ra phong trào Đông Du, mở đầu cho lực lượng cho cuộc vùng lên giải phóng một trào lưu yêu nước kiểu mới, Phan Bội 2 dân tộc, Hồ Chí Minh đã soạn ra một tài Châu đã soạn ra Việt Nam vong quốc sử, liệu tuyên truyền có tên là: “Lịch sử nước đồng thời một số chí sĩ yêu nước khác ta”, mở đầu bằng câu: cũng đã soạn ra nhiều bài thơ “kêu hồn “Dân ta phải biết sử ta, nước” để thức tỉnh lòng yêu nước và ý thức giống nòi của người Việt Nam.3 Xa Cho tường gốc tích nước nhà Việt hơn nữa, ngay từ đầu kỷ nguyên độc lập Nam”1 (các thế kỷ thứ 10, 11) đã xuất hiện bài thơ Cần phải nói ngay rằng Hồ Chí Minh “Nam quốc sơn hà” bất hủ, được lưu không phải là người Việt Nam đầu tiên sử truyền rộng rãi trong nhiều thế hệ người dụng lịch sử dân tộc như một phương tiện Việt Nam. Như vậy, từ rất lâu ở Việt Nam tuyên truyền hữu hiệu, nhằm đánh thức ý giáo dục lịch sử dân tộc dưới các hình thức thức dân tộc của nhân dân Việt Nam trong khác nhau đã được coi như một phương Trang 87
- Science & Technology Development, Vol 10, No.09 - 2007 thức khơi dậy và củng cố ý thức dân tộc, orientations) và hệ giá trị (value systems) nhất là trong những thời điểm sự tồn vong được xã hội hoá (socialization) và được của dân tộc Việt Nam bị đe doạ hay thách lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. thức bởi nguy cơ ngoại xâm. Kết quả là, Do vậy, thông qua giáo dục mà các đặc như học giả phương Tây Alexander B. tính dân tộc được khẳng định, duy trì hay Woodside từng nhận xét: "Độ sâu sắc của biến đổi, các biểu tượng dân tộc được nhận ý thức về lịch sử và văn hoá dân tộc của biết và thừa nhận, các phương thức ứng xử nhân dân Việt Nam có thể làm cho các nhà văn hoá được chấp nhận và trở nên phổ dân tộc chủ nghĩa kém trí tưởng tượng biến. Câu thơ của Hồ Chí Minh trong bài hoặc những tín đồ tôn giáo Âu - Mỹ thực "Dạ bán" nhận định về vai trò của giáo dục sự kinh ngạc."4 đối với sự hình thành tính cách con người, Tuy nhiên, ý thức dân tộc, tình cảm suy rộng ra cũng nghiệm đúng đối với sự dân tộc hay bản sắc dân tộc không chỉ bao hình thành tính cách dân tộc: gồm và không chỉ dựa trên ý thức về lịch "Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn, sử dân tộc hay một thứ chủ nghĩa yêu nước Phần nhiều do giáo dục mà nên."5 chung chung nào đó, mà theo chúng tôi, thì Bài viết này không có tham vọng đi bản sắc dân tộc (national identity) phải là sâu nghiên cứu và thảo luận kỹ về tất cả một phức hệ tâm linh của toàn thể cộng các vấn đề vốn hết sức phức tạp của một đồng dân tộc dựa trên những định hướng chủ đề rộng lớn là giáo dục và vấn đề bản giá trị và được biểu hiện ra thông qua sắc dân tộc và đa dạng văn hoá, mà trong những đặc trưng, những biểu tượng và chừng mực nhất định, xin đề xuất những phương thức ứng xử văn hoá của cộng kiến giải riêng về một số vấn đề cụ thể liên đồng dân tộc ấy. quan đến vấn đề giáo dục và bản sắc dân Hiểu theo nghĩa đó, giáo dục thực sự tộc Việt Nam mà thôi. Và cũng trong có vai trò quan trọng đối với sự hình thành chừng mực nhất định, chúng tôi xin liên hệ và biến đổi của hệ giá trị văn hoá, đạo đức, tới vấn đề này ở khu vực Đông Á và Đông chính trị của các thế hệ người nối tiếp nhau Nam Á. của các cộng đồng dân tộc, và do đó có vai 2. "Thống nhất trong đa dạng" và trò rất quan trọng đối với sự hình thành và vấn đề bản sắc dân tộc Việt Nam biến đổi của bản sắc dân tộc, bởi lẽ thông Trong bài tham luận tại Hội nghị Quốc qua giáo dục những giá trị văn hoá tế về Việt Nam học lần thứ nhất tại Hà Nội (cultural values), định hướng giá trị (value (1998) GS. Keith W. Taylor cho biết trong Trang 88
- TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 10, SỐ 09 - 2007 suốt thời kỳ Chiến tranh lạnh, giới Việt rằng từ nhiều thế kỷ trước cuộc xâm lăng Nam học ở Mỹ đã tìm cách định nghĩa Việt của thực dân Pháp, trên đất Việt Nam đã Nam.6 Sau nhiều cuộc tranh luận, cuối tồn tại một nhà nước quân chủ tập quyền cùng nhiều nhà khoa học Mỹ đã đề xuất đảm bảo sự thống nhất của quốc gia - dân định nghĩa Việt Nam theo 4 hướng tiếp tộc. Về văn hoá, toàn dân tộc có những giá cận: "Trước hết, một Việt Nam thực tế trị chung căn bản và có nhiều biểu tượng nhất thiết là một Việt Nam thống nhất; và văn hoá chung. Ngôn ngữ chính là tiếng sau đó, một Việt Nam thực tế là một Việt nói của tộc người luôn chiếm phần đa số Nam làng xã; một Việt Nam Nho giáo và tuyệt đối, được các tộc người thiểu số thừa một Việt Nam cách mạng."6 Đây cũng là nhận như tiếng nói phổ thông vv cách mà giới Việt Nam học ở nước ngoài Tuy nhiên, đi sâu vào tìm hiểu thì sự thường tiếp cận để khám phá bản sắc dân thực lại càng ngày càng khác xa với những tộc Việt Nam. Nhưng càng đi sâu nghiên nhận định và phán đoán ban đầu. Các sự cứu, họ càng tỏ ra lúng túng, thậm chí mất khác biệt (diversities) càng ngày càng lộ rõ phương hướng. Tương tự như vậy, trong số ra trên nhiều phương diện. Về lịch sử, cộng các nhà khoa học Việt Nam tìm cách khám đồng dân tộc mà ngày nay gọi là "dân tộc phá bản sắc dân tộc mình, một số người Việt Nam" hiển nhiên không trùng khít với cũng tỏ ra càng ngày càng lúng túng, các cộng đồng người Việt cổ - chủ nhân nhưng lại lúng túng theo một cách rất của nước Văn Lang hay Âu Lạc, mà ngược riêng. lại là kết quả của một quá trình lâu dài, Trở lại với bốn hướng tiếp cận nói trong đó, trên hành trình lịch sử của mình, trên, trước hết hãy kiểm chứng lại phán các cộng đồng người Việt cổ đã cuốn theo đoán khoa học rằng "Một Việt Nam thực tế nó, hoà trộn vào trong nó nhiều cộng đồng nhất thiết phải là một Việt Nam thống người khác, trong những điều kiện khác nhất". Đối với người Việt Nam nói chung, nhau và ở những thời điểm khác nhau. Về số đông các nhà khoa học Việt Nam và khía cạnh tộc người, điều hiển nhiên là dân nhiều nhà khoa học nước ngoài nói riêng, tộc Việt Nam đã là và luôn luôn là một dân thì dường như tính thống nhất (unity) của tộc đa sắc tộc (a multi-ethnic nation), với dân tộc Việt Nam là một sự thật hiển một tộc người chiếm đa số tuyệt đối là nhiên. Dân tộc Việt Nam vốn là một dân người Việt (Kinh). Về ngôn ngữ, tiếng Việt tộc thống nhất, với ý chí thống nhất mạnh là ngôn ngữ "phổ thông" được sử dụng bởi mẽ, lấn lướt các xu hướng cát cứ, ly khai; tất cả các tộc người, và trên mọi vùng của Trang 89
- Science & Technology Development, Vol 10, No.09 - 2007 lãnh thổ. Tuy nhiên tiếng Việt không phải nước ngoài thậm chí đã đi tới những nhận là ngôn ngữ duy nhất, và cũng không phải định cực đoan, phủ nhận hoàn toàn tính là một thứ ngôn ngữ đồng nhất, mà ngược thống nhất của dân tộc Việt Nam. Theo lại có rất nhiều phương ngữ (dialect), khác Keith W. Taylor thì: "Ngày nay, ở Bắc Mỹ, nhau không chỉ ở giọng điệu (accent), từ càng ngày người ta càng ít quan tâm tới vựng, mà còn cả cấu trúc và văn hoá ngôn cách định nghĩa Việt Nam và càng tin rằng ngữ nữa. Về tôn giáo, tín ngưỡng, trên đất không có một cái gì gọi là một một Việt Việt Nam đã và luôn luôn tồn tại nhiều tôn Nam thực tế, không có một cái gì có thể coi giáo bên cạnh nhau và hoà trộn vào nhau. là một truyền thống Việt Nam duy nhất Về văn hoá, sự khác biệt về hệ giá trị của hoặc một bản sắc Việt Nam duy nhất, mà các nhóm và các cộng đồng người trong trái lại, cho dù chúng ta hiểu thế nào về từng thời kỳ lịch sử có thể còn cần khám khái niệm Việt Nam thì khái niệm đó đã và phá thông qua những nghiên cứu tỉ mỉ và luôn luôn bao hàm nhiều thứ."7 Theo phải được tiếp cận theo cách đa chiều, hướng này, khi khảo sát về xứ Đàng Trong nhưng từ những gì quan sát được cũng có trong thế kỷ 17 và 18, Li Tana đã đi tới thể chỉ ra rất nhiều sự khác biệt về lối khái niệm về một "Altenative Vietnam" sống, về phong tục tập quán và biểu tượng (một Việt Nam khác), với những đặc điểm văn hoá và ứng xử văn hoá của các nhóm về văn hoá, chính trị và kinh tế căn bản người khác nhau Đặc biệt là trong thời khác với Đàng Ngoài.8 Xa hơn nữa, trong kỳ Đổi mới hiện nay, khi đất nước mở cửa, một công trình nghiên cứu khác, Keith W. chuyển dần từ nền kinh tế tập trung, quan Taylor thậm chí cho rằng cái gọi là "tính liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, thống nhất" hay "bản sắc" của dân tộc Việt ngày càng tăng cường giao lưu và hội nhập Nam là vô cùng mờ nhạt và chỉ dựa trên với khu vực và thế giới thì mọi lĩnh vực những định hướng bề mặt (surface của đời sống dân tộc ngày càng trở nên đa orientations) mà không có sự cố kết bền dạng và luôn biến đổi với tốc độ ngày càng vững.9 gia tăng. Theo cách tương tự người ta cũng có Dựa trên những sự quan sát như trên thể xem xét lại những cách tiếp cận khác về những khác biệt văn hoá (cultural trong nỗ lực khám phá bản sắc dân tộc Việt diversities) và xu hướng đa dạng hoá ngày Nam. Nhiều nhà khoa học đã rất có lý khi càng gia tăng của đời sống dân tộc Việt cho rằng về căn bản Việt Nam là một dân Nam hiện đại mà một số nhà nghiên cứu tộc nông dân - nông thôn - nông nghiệp Trang 90
- TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 10, SỐ 09 - 2007 hay là một “Việt Nam làng xã”. Sự thực xác hơn GS. Hà Văn Tấn đã từng chỉ ra hiển nhiên là cho đến tận đầu thế kỷ 21 rằng: "Chính từ những mối liên hệ siêu Việt Nam về căn bản vẫn là một đất nước làng mà hình thành ý thức cộng đồng siêu dựa trên nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa làng, rồi từ ý thức cộng đồng siêu làng tiền nước với khoảng trên 70% cư dân sống ở dân tộc hình thành ý thức cộng đồng siêu khu vực nông thôn, trong các làng xã. Xa làng dân tộc ".11 hơn, trong suốt chiều dài lịch sử, làng xã Tuy làng xã có vai trò cực kỳ quan luôn luôn là phương thức tổ chức xã hội trọng như vậy, nhưng sẽ không đầy đủ, căn bản nhất của người Việt và là nơi bảo không hoàn toàn chính xác khi tiếp cận tồn phong tục, tập quán, tiêu biểu cho sức làng xã như một phương thức để định sống mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam trải nghĩa bản sắc dân tộc Việt Nam, trong quá qua các biến thiên lịch sử dữ dội (nước mất khứ cũng như hiện tại. Trong lịch sử, làng nhưng còn làng, và nhờ còn làng mà cuối xã dù là cộng đồng quan trọng nhất, nhưng 10 cùng còn nước). Lối sống và ứng xử cũng không phải là loại cộng đồng xã hội “nông dân”, “làng xã” là lối sống và ứng duy nhất của cư dân Việt. Ở khu vực nông xử không phải chỉ của riêng những người thôn, bên cạnh làng xã còn có các vạn chài dân sống trong làng xã, mà cũng còn có của ngư dân, các bản, mường của cư dân ảnh hưởng khá mạnh mẽ đối với nhiều vùng núi. Bên cạnh cộng đồng làng, như nhóm cư dân thành thị, bởi lẽ thành thị Hà Văn Tấn đã chỉ ra, còn có các cộng không những luôn luôn giữ mối quan hệ đồng liên làng và siêu làng và đó là những tương tác chặt chẽ nhiều mặt với thôn quê, cộng đồng đóng vai trò rất quan trọng mà còn luôn luôn bị làng xã “xâm thực” trong sự hình thành nên ý thức cộng đồng thông qua các dòng di dân từ nông thôn ra siêu làng tiền dân tộc và ý thức dân tộc. Và thành thị. Ngày này, khi quá trình đô thị ngay cả khi chúng ta nói tới "cộng đồng hoá ngày càng gia tăng ào ạt thì dường như làng xã Việt Nam" thì cũng cần phải ghi làn sóng nông thôn "xâm thực" thành thị (ít nhớ rằng không bao giờ đó là một khái nhất là về phương diện dân cư và lối ứng niệm dùng để chỉ một loại cộng đồng duy xử) càng được tăng cường. Lối sống, lối nhất, mà ngược lại đó là một thuật ngữ ứng xử làng xã và đặc biệt là tinh thần dùng để bao hàm chung (có thể rất thiếu cộng đồng làng xã thậm chí đã được coi chính xác) nhiều loại "cộng đồng làng xã" như một cấp bậc phát triển hay một cội khác nhau: có cộng đồng làng nông nguồn của ý thức dân tộc Việt Nam. Chính nghiệp, lại có cộng đồng làng thủ công Trang 91
- Science & Technology Development, Vol 10, No.09 - 2007 nghiệp và làng buôn. Trước khi nước Việt tầm quan trọng sống còn đối với quốc gia - được mở dần về phía nam, thì hẳn rằng dân tộc xét trên nhiều phương diện. những cư dân nông thôn của Champa, Từ khi các thành thị Việt Nam trở Funam vv đã có hình thức cộng đồng xã thành các thành thị hiện đại theo mô hình hội riêng - rất tiếc chúng ta còn biết quá ít phương Tây, tuy cư dân thành thị vẫn tiếp về điều này. Rồi sau đó, khi nước Việt tục chiếm một tỷ lệ nhỏ trong thành phần Nam đã trải dài "từ Mục Nam Quan tới dân cư, vai trò của thành thị càng trở nên Mũi Cà Mau" thì làng xã ở miền Bắc, quan trọng hơn trong đời sống dân tộc. Miền Trung và miền Nam lại cũng rất khác Mặc dù một bộ phận không nhỏ của cư dân nhau. Vì vậy, bản thân cái gọi là "một Việt thành thị vẫn duy trì mối liên hệ chặt chẽ Nam làng xã" cũng đã không phải là một với các vùng thôn quê và lối sống, lối ứng khái niệm có nội hàm chặt chẽ và đồng xử của thị dân Việt Nam vẫn còn mang nhất, để có thể từ đó hay qua đó mà tiếp nặng tính nông dân, làng xã và cho dù các cận, định nghĩa về bản sắc dân tộc Việt thành thị hiện đại vẫn tiếp tục chịu sự Nam. "xâm thực" của nông thôn, nhưng một lối Hơn nữa, trong lịch sử cũng như hiện sống thị dân, văn hoá thị dân với những tại, đặc biệt là từ khoảng thế kỷ 10 trở đi, ở đặc điểm văn hoá riêng đã ra đời và ngày Việt Nam đã xuất hiện những thành thị, lúc càng định hình rõ nét, trở thành một bộ đầu là thành thị trung cổ, và sau đó là phận năng động, tiên phong nhất của đời những thành thị hiện đại. Một đặc điểm sống cộng đồng dân tộc Việt Nam. Hơn chung xuyên suốt các giai đoạn lịch sử là: nữa, quá trình đô thị hoá hiện đại, đặc biệt cư dân thành thị luôn luôn chỉ chiếm một là từ mấy thập kỷ gần đây, đã tạo ra một tỷ lệ nhỏ trong thành phần cư dân Việt luồng chảy văn hoá mới, xuyên thủng các Nam. Tuy nhiên, không phải vì vậy mà dân luỹ tre làng, làm cho đời sống văn hoá thôn cư thành thị có vị trí không đáng kể gì quê ngày càng biến đổi nhanh chóng và trong đời sống cộng đồng dân tộc nói sâu sắc. Trong bối cảnh đó, cách tiếp cận chung và sự hình thành và biến đổi của bản định nghĩa bản sắc dân tộc Việt Nam từ sắc dân tộc Việt Nam nói riêng. Trái lại, góc nhìn làng xã, từ hệ luận nông thôn - ngay trong thời kỳ trung đại, thành thị nói nông dân - nông nghiệp ngày càng trở nên chung và kinh đô nói riêng đã luôn luôn là xa rời thực tiễn. các trọng trấn, là trung tâm chính trị, quân Xem xét lại một cách toàn diện, cách sự, nơi hội tụ của nhân tài bốn phương, có tiếp cận định nghĩa Việt Nam như một dân Trang 92
- TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 10, SỐ 09 - 2007 tộc Nho giáo hay Nho giáo hoá một bộ phận lớp trên của cư dân nông thôn (confucianized) cũng tỏ ra bất cập. Bất cứ (rural elite) mà thôi. ai nghiên cứu về Việt Nam cũng đều có thể Hướng tiếp cận thứ tư, tìm cách định thừa nhận ảnh hưởng của Nho giáo đối với nghĩa Việt Nam thực tế là một "Việt Nam đời sống cộng đồng dân tộc Việt Nam là to cách mạng" (a revolutionary Vietnam) tỏ lớn, lâu dài và đa dạng trên nhiều lĩnh vực. ra là cách tiếp cận chứa đựng nhiều bất cập Tuy nhiên, cách quan niệm Việt Nam là nhất, nhưng đáng tiếc, dường như lại là một dân tộc Nho giáo hoá chỉ có ý nghĩa cách tiếp cận phổ biến nhất của giới Việt khi đặt Việt Nam trong mối liên hệ so sánh Nam học trong thế kỷ 20. Có thể nói rằng với các dân tộc không nằm trong khu vực cho đến trước Chiến thắng Điện Biên Phủ Đông Á (tức là không nhằm so sánh Việt thế giới chỉ dành cho Việt Nam một sự Nam với Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn quan tâm tối thiểu. Từ sau sự kiện trên cho Quốc). Đây là cách tiếp cận, so sánh phổ đến khi cuộc Chiến tranh lạnh kết thúc, biến của những chuyên gia Đông Nam Á Việt Nam trở nên nổi tiếng trên thế giới học, khi họ so sánh Việt Nam với "các chủ yếu vì đó là một trong những nơi đối quốc gia Ấn Độ hoá" trong khu vực Đông đầu căng thẳng nhất giữa phe XHCN và Nam Á. Điều quan trọng hơn là, cách quan phe TBCN, là nơi những siêu cường số niệm về một "Việt Nam Nho giáo hoá" tự một của thế giới buộc phải chấp nhận bản thân nó không phản ánh đầy đủ bản những thất bại cay đắng và là biểu tượng chất của đời sống văn hoá dân tộc Việt của tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh Nam trong lịch sử cũng như hiện tại, bởi lẽ dũng cảm vì độc lập dân tộc, tự do Sự bên cạnh Nho giáo, còn có các yếu tố khác nổi tiếng mang tính chất định mệnh này đã cũng không kém phần quan trọng, góp khiến cho hình dung chung của nhân loại phần tạo nên cái gọi là "những truyền về Việt Nam trong suốt nửa sau của thế kỷ thống lớn" (great traditions) trong cấu trúc 20 là một đất nước của chiến tranh và cách văn hoá Việt Nam, như Phật giáo, Lão mạng. Có thể thấy rõ điều này khi nhìn vào giáo, và sau này là các trào lưu tư tưởng danh mục hàng nghìn công trình của học phương Tây. Còn ở tầng "thấp" hơn của giả nước ngoài viết về Việt Nam được những cái gọi là "những truyền thống nhỏ" công bố trong thế kỷ 20, ta có thể dễ dàng (little traditions) dường như Nho giáo chỉ nhận ra rằng tuyệt đại đa số các nghiên cứu có ảnh hưởng ở mức độ nhất định trong đều tập trung vào chủ đề chiến tranh và cách mạng Việt Nam. Thậm chí, trong số Trang 93
- Science & Technology Development, Vol 10, No.09 - 2007 những công trình khác không trực tiếp viết phong tục tôn thờ anh hùng dân tộc (làm về chủ đề này, thì cũng gián tiếp nhằm Thành Hoàng của các làng xã hoặc tại các hướng tới sự "giải mã" nguồn gốc và diễn đền miếu khác). Như vậy, không có gì trình của các cuộc chiến tranh và cách ngạc nhiên khi nói đến lịch sử Việt Nam, mạng ở Việt Nam. trước hết người ta nói đến lịch sử của các Góp phần không nhỏ vào tình hình trên cuộc chiến tranh. Đến thế kỷ 20, đối với là giới nghiên cứu khoa học xã hội ở Việt dân tộc Việt Nam thì trước hết cũng là thế Nam. Cho tới trước năm 1990 có thể nói kỷ của cuộc đấu tranh cách mạng hết sức tuyệt đại đa số các công trình được công ác liệt, gian khổ nhằm giải phóng dân tộc bố trong hai lĩnh vực sử học và văn học và bảo vệ độc lập và thống nhất đất nước. đều tập trung vào chủ đề chiến tranh và Tuy nhiên, dù sao thì chiến tranh và cách mạng, trong khi các chủ đề khác về cách mạng cũng vẫn là những điều kiện bất kinh tế, xã hội, văn hoá, tín ngưỡng vv thường của lịch sử, kể cả lịch sử dân tộc chỉ dành được sự quan tâm hạn chế, và Việt Nam. Không thể định nghĩa về bản cũng hướng tới phục vụ cho chủ đề chiến sắc của bất cứ một dân tộc nào, trong bất tranh và cách mạng. kỳ thời kỳ lịch sử nào, thông qua những Sự thực lịch sử hiển nhiên là: dân tộc điều kiện và quá trình lịch sử bất thường Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử của như vậy. Cách định nghĩa như vậy sẽ dẫn mình đã phải tiến hành trên dưới 20 cuộc tới cách trình bày và diễn giải phiến diện chiến tranh giải phóng và chiến tranh vệ về lịch sử dân tộc Việt Nam, bỏ qua, xem quốc để giành lại hoặc bảo vệ chủ quyền nhẹ những khía cạnh, những lĩnh vực vô đất nước và quyền tự do của toàn thể cộng cùng quan trọng trong đời sống cộng đồng đồng dân tộc. Đó là chưa kể nhiều cuộc nội dân tộc Việt Nam như lịch sử kinh tế, lịch chiến kéo dài và không kém phần khốc sử văn minh - văn hiến, tôn giáo, tộc người liệt. Trong quá trình đó, dân tộc Việt Nam vv và do đó, sẽ dẫn tới cách nhìn nhận đã lập nên nhiều võ công hiển hách, và đây không đúng về bản sắc dân tộc Việt Nam. là yếu tố góp phần nuôi dưỡng chủ nghĩa Bên cạnh bốn cách tiếp cận nói trên yêu nước truyền thống, lòng tự hào, tự tôn còn có những cách nhìn nhận về lịch sử, dân tộc - những thành tố rất căn bản và văn hoá và bản sắc dân tộc Việt Nam, do quan trọng trong hệ giá trị văn hoá chính bị ảnh hưởng bởi những thiên kiến, định trị của dân tộc Việt Nam. Những yếu tố kiến chính trị hoặc văn hoá mà trở nên này đã được biểu tượng hoá, mã hóa qua phiến diện. Bằng chứng rõ ràng nhất là Trang 94
- TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 10, SỐ 09 - 2007 cách mà các sử gia Nho giáo Việt Nam dạng và trong những cái đa dạng (unity of nhìn nhận và trình bày về lịch sử dân tộc // in diversities). mình. Theo những gì được trình bày trong Trước hết, không nên và không thể bộ quốc sử nổi tiếng Đại Việt Sử ký toàn nhấn mạnh một chiều tính thống nhất thư thì có thể thấy những gì không phù hợp (unity), tính duy nhất (uniqueness) hay sự với các quy phạm của Nho giáo đều bị chê tương đồng (similarity). Cách tiếp cận này bai, bài bác hoặc làm cho lu mờ. Tương tự là không phù hợp trong nỗ lực khám phá như vậy, trong thời kỳ gần đây, do ảnh và trình bày về bản sắc dân tộc của dân tộc hưởng của triết lý chính trị dựa trên học Việt Nam cũng như các dân tộc khác trong thuyết đấu tranh giai cấp và của chủ nghĩa khu vực Đông Nam Á và Đông Á, bởi lẽ, dân tộc mà trong phần lớn các sách giáo như đã trình bày ở trên, Việt Nam và các khoa và giáo trình lịch sử, lịch sử dân tộc dân tộc trong khu vực, trong lịch sử cũng Việt Nam đã được trình bày theo những như hiện nay, đã và đang là những dân tộc khuôn mẫu của các "mặt đối lập" như: đa sắc tộc, đa văn hoá, đa tín ngưỡng. Vả "địch > < trắng" như trên. nào, coi đó như là tính thống nhất hay 3. Giáo dục đại học và cách tiếp cận đồng nhất và tiêu biểu cho bản sắc dân tộc mới đối với vấn đề bản sắc dân tộc Việt Việt Nam thì đều bị rơi vào phiến diện, Nam thiên lệch, và nguy hại hơn, sẽ là cơ sở cho Từ những phân tích (dù còn sơ lược) sự xuất hiện những loại hình “lịch sử dân trên đây, có thể thấy sự cần thiết phải đề tộc chính thống” (official national history), xuất một cách tiếp cận mới đối với bản sắc những dạng “văn hoá đồng phục” (uniform dân tộc Việt Nam. Tương tự như hầu hết culture) hoặc những cách hình dung mang các dân tộc ở khu vực Đông Nam Á và tính loại trừ về cộng đồng dân tộc Đông Á, nói tới bản sắc dân tộc Việt Nam (exclusive imagination of national là nói tới sự thống nhất của những cái đa community). Trang 95
- Science & Technology Development, Vol 10, No.09 - 2007 Thái cực thứ hai cần phải tránh chính ý nghĩa gì. Ngược lại, nếu bắt đầu từ là cách tiếp cận nhấn mạnh một chiều sự những cái riêng, thông qua những cái đa khác biệt (differences) hoặc tính đa dạng dạng để khám phá cái chung, thì chắc chắn (diversity) mà phủ nhận hoàn toàn tính cuối cuối cùng người ta sẽ không tìm thấy thống nhất, tính tương đồng, đi tới phủ cái gì là tiêu biểu cho cái chung, cái thống nhận cả bản sắc dân tộc của dân tộc Việt nhất của toàn thể cộng đồng dân tộc Việt Nam và một số dân tộc khác ở Đông Nam Nam, và do đó sẽ bị mất phương hướng. Á và Đông Á. Sự tồn tại của những sự Vì vậy, cần phải quan niệm khác về cái khác biệt và tính đa dạng trong các lĩnh gọi là tính thống nhất (unity). Theo tôi thì vực của đời sống cộng cộng đồng dân tộc thực tế là có nhiều cấp độ khác nhau của Việt Nam là sự thực khách quan. Tuy tính thống nhất. Tính thống nhất ở cấp độ nhiên, những cái khác biệt và đa dạng đó thấp nhất thì rất gần với cái riêng biệt, và không tồn tại bên cạnh nhau, hoàn toàn hơn nữa cái thống nhất không tồn tại độc tách bạch như những thực thể độc lập, mà lập như một thực thể để trở thành mẫu vật ngược lại luôn luôn trong mối tương tác đa chuẩn (idealtypus) nhằm quy chiếu, đo đạc chiều và với tính cách là những thành tố muôn vàn những cái riêng biệt hết sức đa khác nhau của một chỉnh thể thống nhất. dạng, mà là tồn tại ngay trong bản thân Việc đề xuất và hướng tới cách tiếp những cái riêng biệt đó. cận bản sắc dân tộc Việt Nam theo mô Còn về tính đa dạng (diversity) cũng hình sự thống nhất trong // của những cái phải được quan niệm không phải là cái đa dạng dường dễ dàng nhận được sự đồng chối từ hay loại trừ cái thống nhất, cái tình của giới học giả nhiều nước. Tuy chung, mà trái lại, chính là sự thể hiện sinh nhiên, phân tích và trình bày cụ thể mối động cái chung trong các dạng thức phong quan hệ hết sức phức tạp này như thế nào phú, khác nhau. mới là điều vô cùng khó khăn. Nếu bắt đầu Theo những cách tiếp cận như vậy, có từ cái chung, cái thống nhất và đi tìm hay thể đưa ra một số khuyến nghị cụ thể đối thử khám phá cái chung, cái thống nhất của với giáo dục nói chung và giáo dục đại học những cái đa dạng hoặc trong những cái đa hiện nay, với ý nghĩa giáo dục là môi dạng trước sau cũng rơi vào bế tắc, bởi vì trường có tác động to lớn và trực tiếp nhất người ta sẽ càng ngày càng thấy những cái đến cách tiếp cận của thế hệ tương lai đối chung, cái thống nhất được giả định trước với vấn đề bản sắc dân tộc Việt Nam. càng ngày càng xa rời thực tiễn, không có Trang 96
- TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 10, SỐ 09 - 2007 Trước hết là phương thức giảng dạy và "chính thống" là lịch sử Việt Nam bắt đầu học tập lịch sử dân tộc trong nhà trường. với sự ra đời của "nước Văn Lang" tiếp Như đã nói ở trên, giáo dục lịch sử dân tộc đến Âu Lạc, trải qua thời kỳ Bắc thuộc, đã từng có đóng góp rất to lớn trong việc tiếp đến nước Đại Cồ Việt, Đại Việt, Đại khơi dậy lòng tự hào và ý thức dân tộc của Nam, rồi nước VNDCCH và ngày nay là nhân dân Việt Nam, và đó thực sự đã trở CHXHCN Việt Nam. Trong một thời kỳ thành một động lực tinh thần to lớn trong rất dài người ta luôn mặc nhiên coi đây là cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo cách trình bày lịch sử dân tộc Việt Nam vệ tổ quốc của dân tộc Việt Nam trong duy nhất. Gần đây, một số nhà sử học Việt suốt hai thế kỷ 19 và 20. Tuy nhiên, giáo Nam đã nhận ra rằng mô thức trình bày dục lịch sử dân tộc ở Việt Nam đang đặt ra này ngày càng tỏ ra bất cập và không thể những vấn đề hết sức gay gắt, đặc biệt là chấp nhận được, bởi lẽ trong cách trình bày sự suy giảm sức cuốn hút của lịch sử dân như vậy người ta đã "quên" không trình tộc đối với thế hệ trẻ hiện nay.12 Chất bày lịch sử của các tộc người thiểu số hoặc lượng rất thấp của việc học tập môn lịch sử những cộng đồng khác gia nhập vào cộng trong nhà trường phổ thông đang khiến đồng dân tộc Việt Nam trong những giai toàn xã hội lo ngại. Điều này bắt nguồn từ đoạn muộn hơn. Trong một số tập sách nhiều nguyên nhân, nhưng trong đó có giáo khoa, giáo trình mới được biên soạn nguyên nhân sâu xa nằm trong chính các nhà sử học Việt Nam đã cố gắng trình phương thức và nội dung trình bày lịch sử bày lại lịch sử sử dân tộc Việt Nam như là dân tộc trong nhà trường hiện nay. lịch sử của tất cả các cộng đồng người Điểm bất cập thứ nhất cần phải chỉ ra sống trên phần lãnh thổ ngay nay của Việt là phần nội dung về lịch sử chiến tranh và Nam. Điều đó có nghĩa là bên cạnh "dòng cách mạng vẫn còn chiếm thời lượng quá chính" là lịch sử của người Việt, lịch sử lớn, trong khi những nội dung khác như các tộc người thiểu số đã được quan tâm lịch sử kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng, hơn. Đây là một hướng tiếp cận tích cực, tôn giáo, giáo dục, khoa học vv chỉ được cần được cổ vũ và phát huy. Tuy vậy cũng trình bày rất sơ lược và ít hấp dẫn. Thứ hai, vẫn cần thiết phải chỉ ra rằng ngay cả trong lịch sử dân tộc Việt Nam được trình bày, cách trình bày mới đó thì lịch sử các tộc cho đến nay vẫn chủ yếu vẫn là lịch sử của người khác mới bước đầu được xem xét và tộc người đa số (người Việt, hay người đặt bên cạnh lịch sử của người Việt, chứ Kinh). Mô thức trình bày quen thộc và chưa phải là hoà quyện với nhau trong Trang 97
- Science & Technology Development, Vol 10, No.09 - 2007 những tương tác lịch sử đa chiều, liên tục. Quá trình hội nhập quốc tế và hội nhập Nếu thiếu những mối tương tác này chắc khu vực của Việt Nam trong bối cảnh toàn hẳn các tộc người thiểu số khó có thể trở cầu hoá hiện nay đòi hỏi phải tiếp tục đổi thành những bộ phận của đại gia đình các mới mạnh mẽ hơn nữa việc giảng dạy và dân tộc Việt Nam. học tập về lịch sử văn minh thế giới, văn Về phần giảng dạy và học tập lịch sử minh khu vực trong trường học, nhất là ở thế giới, tưởng chừng như không liên quan bậc đại học. Chúng tôi nghĩ rằng không chỉ gì tới bản sắc dân tộc Việt Nam, nhưng sinh viên các ngành khoa học xã hội và thực tế lại hết sức quan trọng, bởi lẽ chính nhân văn mới cần học lịch sử Việt Nam và nhờ thông qua cái nhìn so sánh lịch sử mà lịch sử thế giới, mà trái lại, đây là hành người học sẽ nhận thức thấu đáo hơn trang tri thức – văn hoá không thể thiếu những đặc tính riêng và bản sắc dân tộc của công dân Việt Nam nói chung và trí Việt Nam. Tuy vậy, cho tới nay phương thức Việt Nam nói riêng trong thế kỷ 21. thức và nội dung giảng dạy lịch sử thế giới Đất nước càng mở rộng cửa giao lưu với chủ yếu mới tập trung vào lịch sử của thế giới bên ngoài thì con người Việt Nam những trung tâm văn minh lớn, những siêu càng phải có hiểu biết tốt hơn về dân tộc cường và những sự kiện (quân sự và chính mình và về thế giới. Đó chính là cơ sở để trị) quan trọng. Trong khi đó lịch sử của “hội nhập mà không hoà tan”, để đóng góp các khu vực ngoại vi "kém phát triển", của tích cực hơn vào quá trình tăng cường hiểu khu vực Đông Nam Á và Đông Á, của biết lẫn nhau và xây dựng một thế giới, những nhân vật, sự kiện, quá trình lịch sử một khu vực Đông Á và Đông Nam Á thực “ít quan trọng” chỉ được trình bày rất sơ sự hoà bình, hợp tác và phát triển. lược, khô cứng, phiến diện và hầu như Cuối cùng, trên cơ sở những quan sát không có liên hệ gì với nhau hoặc với Việt bước đầu ít nhiều mang tính chất “kinh Nam. Gần đây giới sử gia Việt Nam đã có nghiệm chủ nghĩa”, chúng tôi muốn nêu ra cố gắng rất lớn, chuyển từ việc giảng dạy một vài ý kiến về việc giảng dạy, trình bày "lịch sử thế giới" kiểu thông sử, sang giảng một số vấn đề văn hoá, liên quan tới bản dạy "lịch sử văn minh thế giới" với cái sắc dân tộc Việt Nam trong nhà trường. nhìn đa chiều, toàn diện hơn. Tuy nhiên, Phương hướng chúng tôi đề xuất để phần nội dung dành cho lịch sử khu vực tiếp cận bản sắc dân tộc Việt Nam là (xin Đông Nam Á và Đông Nam Á còn chưa nhắc lại) nhìn nhận văn hoá Việt Nam như tương xứng. là cái thống nhất trong và của những cái đa Trang 98
- TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 10, SỐ 09 - 2007 dạng (unity of//in diversities). Theo đó, Thứ hai, trong một số tài liệu có tính những cách tiếp cận hướng tới việc đề xuất chất giáo khoa, nền văn hoá dân tộc đã một, một số yếu tố hay đặc điểm nào đó được trình bày theo những cách khá sơ của văn hoá Việt Nam, coi đó như tiêu chí giản, quy vào trong các mục mô tả về tư để nhận biết bản sắc văn hoá Việt Nam, tưởng, văn học, nghệ thuật, tín ngưỡng, tôn cần được xem xét lại và luận giải trong giáo, kiến trúc vv Cách trình bày như vậy mối quan hệ đa chiều với những cái đa là mới chỉ đề cập đến bề mặt, đến các hiện dạng, dị biệt. Xin nêu ra một số ví dụ: tượng, các hình thức thể hiện của văn hoá Thứ nhất, đó là xu hướng đề cao quá trong một số lĩnh vực, mà không chỉ được mức hệ luận “âm – dương” và thuyết ngũ ra các định hướng giá trị, những xu hướng hành trong nghiên cứu về văn hoá Việt vận động và những đặc điểm quan trọng Nam. Với cách tiếp cận này nhiều nhà nhất của văn hoá Việt Nam. Hơn nữa, xét nghiên cứu đã phân tích khá sâu sắc một số về nội dung, phần lớn những điều được đặc điểm của văn hoá Việt Nam. Tuy trình bày trong các mục như trên chỉ phản nhiên, càng ngày hướng tiếp cận này càng ánh đời sống văn hoá của tộc người đa số, bộc lộ những bất cập không nhỏ. Trước tức là người Việt (Kinh), trong khi đó, đời hết, cần phải chỉ ra rằng hệ luận “âm – sống và những giá trị văn hoá của các tộc dương” và quan niệm “ngũ hành” không người thiểu số, mối tương tác văn hoá giữa phải là hệ luận văn hoá riêng của người các tộc người trong từng thời kỳ lịch sử chỉ Việt Nam, mà là hệ luận chung của một số giành được rất ít sự quan tâm. dân tộc trong khu vực Đông Á và Đông Thứ ba, việc trang bị kiến thức về văn Nam Á. Hơn nữa, hệ luận này chỉ có ý hoá dân tộc và văn hoá các dân tộc khác nghĩa khi được vận dụng để trình bày, trên thế giới, nhất là các dân tộc láng giềng phân tích một số đặc điểm hoặc biểu tượng cho học sinh phổ thông và sinh viên đại văn hoá, nhưng không đủ tính thao tác luận học, đặc biệt là sinh viên các ngành, các (functionally) khi cần phân tích, khảo cứu trường đại học, cao đẳng thuộc các khối về sự biến đổi của các hệ giá trị văn hoá. khoa học tự nhiên, kỹ thuật, kinh tế vv là Và cần phải nói thêm rằng hệ luận này hết sức sơ giản và không có hệ thống. dường như chỉ thích hợp trong nghiên cứu Hành trang tri thức văn hoá dân tộc và văn về văn hoá truyền thống, nhưng không phù hoá, văn minh thế giới của thế hệ người hợp trong nghiên cứu về các quá trình và Việt Nam tương lai quả thực còn rất nghèo hiện tượng văn hoá đương đại. Trang 99
- Science & Technology Development, Vol 10, No.09 - 2007 nàn, không đáp ứng được đòi hỏi hội nhập thức ứng xử của các tộc người thiểu số, và của đất nước trong bối cảnh toàn cầu hoá. quan trọng hơn, là mối tương tác văn hoá Để khắc phục những bất cập nói trên, của các tộc người trên lãnh thổ Việt Nam, theo chúng tôi cần xem xét lại toàn bộ thực cùng góp phần bồi đắp nên những giá trị trạng, nghiên cứu kỹ hơn đòi hỏi của đất văn hoá cao đẹp của dân tộc. Thứ ba, trong nước và của thời đại về hành trang văn hoá bối cảnh hội nhập quốc tế và hội nhập khu của thế hệ tương lai. Trên cơ sở đó có thể vực ngày càng gia tăng như hiện nay, cần phải xây dựng những hệ giải pháp đồng bộ, phải nghiên cứu để tạo điều kiện cho học vừa có tầm chiến lược, lại phải cụ thể, thiết sinh, sinh viên Việt Nam hiểu biết tốt hơn thực nhằm nâng cao chất lượng và hiệu về văn hoá nhân loại, đặc biệt là văn hoá quả các môn học, bài học về văn hoá-văn các dân tộc láng giềng. minh trong nhà trường nói chung và nhà Thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ của toàn cầu hoá trường đại học nói riêng. Một số nguyên và kinh tế tri thức. Tương lai của nhân loại tắc chung có thể đề xuất làm cơ sở cho sẽ được định nghĩa bởi chính trí tuệ của công việc nói trên là: thứ nhất, phải coi nhân loại thể hiện qua những bước tiến trọng việc trang bị tri thức toàn diện về văn khổng lồ của khoa học và công nghệ; qua hoá dân tộc cho sinh viên tất cả các ngành, khả năng bảo vệ môi trường sống; bảo vệ các hệ, trong đó không chỉ lưu ý tới việc hoà bình, nhưng chắc chắn cũng còn thông trang bị nội dung tri thức, mà chính là phải qua khả năng của các dân tộc trong việc giới thiệu cho người học những cơ sở lý nhận biết về bản sắc dân tộc mình, biết tôn thuyết, những cách tiếp cận khoa học về vinh và phát huy những giá trị văn hoá tốt văn hoá, tránh cái nhìn phiến diện, một đẹp của dân tộc mình và của nhân loại. Các chiều, võ đoán, kỳ thị về văn hoá dân tộc trường đại học ở Việt Nam và các nước và văn hoá nhân loại. Thứ hai, dân tộc Việt trong khu vực Đông Nam Á và Đông Á Nam đã và luôn luôn là một dân tộc đa sắc cần phải phối hợp chặt chẽ hơn nữa trong tộc, đa tín ngưỡng và đa văn hoá. Vì vậy việc nghiên cứu các giá trị, hiện tượng và phải tạo điều kiện để người học khám phá quá trình văn hoá, khám phá sâu sắc hơn tính thống nhất và tính đa dạng của văn về tính thống nhất và tính đa dạng văn hoá hoá dân tộc. Bên cạnh những giá trị, những trong từng nước và trong toàn khu vực, biểu tượng, những quá trình văn hoá của trên cơ sở đó góp phần đổi mới các phương người Việt (kinh) cần chú trọng giới thiệu thức giáo dục lịch sử và văn hoá để chuẩn về đời sống văn hoá, giá trị và phương Trang 100
- TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 10, SỐ 09 - 2007 bị hành trang đi tới tương lai của mỗi dân tộc và toàn khu vực. UNITY IN DIVERSITIES: EDUCATION AND THE VIETNAMESE CULTURAL IDENTITY DURING THE GOBALIZATION Pham Hong Tung VNU-HN ABSTRACT: Approaching the issue from the political cultural respect and basing on the conception, that national identity is a spiritual complex of the whole national communitty based on common value orientations that are realizing in national characteristics, national symbols and ways of cultural behaving, in the first part of this article the author examines the four ways, in which foreign scholars have tried to define Vietnamese national identity. These have been summed up by K.W. Taylor in one of his studies published in 1998. In the second part of this article, the author points out the important role of education, particularly of history education, in the socialization of the ways in which the young generation imagine of their national community. According to Pham, the Vietnamese educators have to overcome the ways that provide a one-sided or exclusive nationalist imagination, because they do not support the young generation of Vietnamese to understand their national identity as a unity of // in diversities. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Hồ Chí Minh, Toàn tập, T. 3, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 221. [2]. Có ý kiến cho rằng tác phẩm này không phải do Phan Bội Châu, mà do Lương Khải Siêu biên soạn. Chúng tôi cho rằng đây là một ý kiến không có căn cứ vững chắc. Xem: Kawamoto Kuniye, "Tác phẩm thời kỳ đầu của Phan Bội Châu và Lương Khải Siêu và một vài vấn để trong phong trào Đông Du", in trong: Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Quan hệ văn hoá, giáo dục Việt Nam-Nhật Bản và 100 năm phong trào Đông Du, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006, tr. 346-353. [3]. Phan Bội Châu còn có các tác phẩm như "Hải ngoại huyết thư", "Nam hải bô thần ca"; Phan Châu Trinh viết "Tỉnh quốc hồn ca"; Nguyễn Quyền viết "Kêu hồn nước"; Trang 101
- Science & Technology Development, Vol 10, No.09 - 2007 Nguyễn Ngô Đoan viết "Vịnh Hai Bà Trưng", Phạm Tất Đắc viết "Chiêu hồn nước" vv [4]. Woodside, Alexander B., Community and Revolution in Modern Vietnam, Boston, 1976, p. 1. [5]. Hồ Chí Minh, sđd, tr. 383. [6]. Taylor, Keith W, Vietnamese Studies in North America, Keynote Speech No.2. Paper presented at the First International Conference on Vietnamese Studies, Hanoi, p. 1., (1998). [7]. Ibid., tr. 2. [8]. Ibid., tr. 1. [9]. See: Li Tana, An Alternative Vietnam? The Nguyen Kingdom in the Seventeenth and Eighteenth Centuries, Journal of Southeast Asian Studies, No. 29, National University of Singapore Pres, tr. 111-121, (March 1998). [10]. Taylor, Keith W., Surface Orientations in Vietnam: Beyond Histories of Nation and Region, In: The Journal of Asian Studies, No.4 (November 1998). [11]. Hà Văn Tấn, Làng, liên làng, siêu làng (mấy suy nghĩ về phương pháp), in trong: Khoa Lịch sử, Một chặng đường nghiên cứu lịch sử (1995-2000), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 51—58, (2000). [12]. Hà Văn Tấn, sđd, tr. 54. Trang 102