Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi pháp Nguyễn Thành Ân

pdf 41 trang phuongnguyen 1910
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi pháp Nguyễn Thành Ân", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftim_hieu_tho_han_mac_tu_o_mot_vai_phuong_dien_thi_phap_nguye.pdf

Nội dung text: Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi pháp Nguyễn Thành Ân

  1. Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi pháp Nguyễn Thành Ân Lời nói đầu Thơ mới là một hiện tượng văn học rất phong phú, đa dạng và phức tạp trong nền văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945. Nó thật sự là một cuộc cách mạng trong thi ca, thơ mới đã thực hiện một bước tổng hợp hết sức quan trọng giữa những thành tựu của thi ca phương Tây và thi ca phương Đông với truyền thống thi ca dân tộc. Nhờ bước tổng hợp đó mà thi ca Việt Nam đã góp phần tiến nhanh trên con đường hiện đại hóa. Trong phong tào Thơ mới, xuất hiện lên rất nhiều tên tuổi nổi bậc như Xuân Diệu, Huy cận, thế Lữ, Lưu Trọng Lưu, Chế Lan Viên mà cho tới nay, các nhà nghiên cứu phê bình văn học ít nhiều đã làm rõ những đặc điểm về nghệ thuật, phong cách của họ. Riêng đối với Hàn Mặc Tử thì vẫn có nhiều ý kiến khác nhau, thơ Hàn Mặc Tử lại là một hiện tượng đặc biệt trong phong trào Thơ mới. Nếu như Xuân Diệu được xem là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Thi nhân Việt Nam_Hoài Thanh, Hoài Chân) thì Hàn Mặc Tử được xem là một đỉnh núi thơ lạ nhất mà chỉ xuất hiện một lần duy nhất trong thi ca Việt Nam hiện đại. Dù các nhà nghiên cứu phê bình đã tốn nhiều công sức để giải mã về thơ Hàn Mặc Tử nhưng hành trình đi tìm lời giải đáp cho vấn đề Hàn Mặc Tử anh là ai ? mà Chế Lan Viên từng nêu ra vẫn chưa có câu trả lời nào thật thỏa đáng, hiện tượng Hàn Mặc Tử vẫn đang là vấn đề gây nhiều hứng thú, hấp dẫn đối với độc giả đương đại. Khi tìm hiểu về thơ Hàn Mặc Tử, tôi nhân thấy có mấy điểm sau đây mà chúng ta cũng cần phải suy nghĩ: Thứ nhất, cuộc đời đời của Hàn Mặc Tử mắc phải chứng bệnh nan y “bệnh hủi” và ông mất khi tuổi đời đang còn rất trẻ, bên cạnh đó ông cũng có rất nhiều “ người tình” với những chuyện tình không thành. Nhưng chúng ta cũng không nên vin vào cớ này mà gán ép những sự đau đớn, giày vò cả về thể xác lẫn tinh thần vào trong thơ Hàn Mặc Tử, mặc dù những điều đó ít nhiều đều có tác động đến nhà thơ trong quá trình sáng tác. Bởi chúng ta tiếp cận thơ của Hàn Mặc Tử trên khía cạnh văn bản tác phẩm nghệ thuật và đi sâu vào thế giới nghệ thuật của tác giả biểu hiện qua tác phẩm, chứ không phải tìm hiểu về các sự việc liên quan đến cuộc đời riêng tư của tác giả. Thứ hai, Hàn Mặc Tử chịu ảnh hưởng của nhiều trào lưu, chủ nghĩa khác nhau, một mặt ông kế thừa truyền thống thi ca của dân tộc và thơ cổ điển (Đường thi), mặt khác ông tiếp thu ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn, tượng trưng và siêu thực của phương Tây (chủ yếu là của Baudelaire, Verlaine, Andre Breton, Lamartine ). Cho nên thơ Hàn Mặc Tử có sự giao thoa, pha trộn lẫn nhau giữa hai nền thi ca phương Đông và phương Tây, nói như GS Phan Cự Đệ: “Hàn mặc Tử đã đi một chặng đường dài từ cổ điển qua lãng mạn rồi từ lãng mạn chuyển nhanh sang tượng trưng và chớm đến siêu thực, rồi cuối cùng lại trở về chủ nghĩa lãng mạn” (Thơ văn Hàn Mặc Tử, phê bình và tưởng niệm). Vì vậy, việc tiếp cận thơ Hàn Mặc Tử là không hề dễ dàng, đòi hỏi chúng ta phải có những hiểu biết nhất định về các trào lưu, chủ nghĩa có ảnh hưởng đến thơ Hàn Mặc Tử, trong quá trình nghiên cứu chúng ta cũng cần phải chỉ ra sự ảnh hưởng của nó đối với thơ Hàn Mặc Tử ở những cấp độ khác nhau. Thứ ba, cần phải thừa nhận một điều là thơ Hàn Mặc Tử mang đậm sắc thái tôn giáo, đầy chất đạo và chất đời. Nhưng theo ý kiến của tôi, chúng ta tiếp cận thơ Hàn Mặc Tử từ khía cạnh văn học, khía cạnh nghệ thuật của tác phẩm, vì thế chúng ta cũng không nên đi nhiều về vấn đề tôn giáo như: ảnh hưởng của Phật giáo, Đạo giáo, Thiên chúa giáo xét cho cùng, tôn giáo chỉ là việc 1
  2. Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi pháp Nguyễn Thành Ân ngoài đời của thi sĩ mà thôi. Nói như vậy không có nghĩa là khi nghiên cứu thơ Hàn Mặc Tử, chúng ta sẽ bỏ qua sự ảnh hưởng của tôn giáo, bởi dù muốn dù không thì cũng cần phải bàn đến đôi điều vì sự ảnh hưởng của nó trong thơ Hàn Mặc Tử là không thể chối bỏ được. Cái cốt lõi là chúng ta phải làm sáng tỏ thế giới giới nghệ thuật trong thơ Hàn Mặc Tử. Thứ tư, khi tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử chúng ta cũng cần phải nắm những quan niệm về nghệ thuật của Hàn Mặc Tử cũng như những tuyên ngôn nghệ thuật của nhà thơ và kể cả Trường thơ loạn (có mối quan hệ mật thiết với nhà thơ, Hàn Mặc Tử là chủ súy của Trường thơ loạn), những quan niệm hay tuyên ngôn, suy nghĩ về thi ca của Hàn Mặc Tử cũng như của Trường thơ loạn là một trong những chìa khóa để giúp chúng ta tiến hành giải mã thơ Hàn Mặc Tử. Nghiên cứu khoa học là cơ hội để mọi người tìm tòi, khám phá những tri thức mới đồng thời cũng là “ôn cố tri tân”, nắm vững những cái cơ bản để hiểu thêm những điều mới mẻ. Qua đó, con người có thể hoàn thiện mình và hiểu biết thêm về thế giới và con người. Nghiên cứu văn học cũng không ngoài mục đích vừa nói trên. Nghiên cứu ở góc độ thi pháp học đòi hỏi phải có sự trang bị kiến thức cơ bản về văn học, triết học, lý luận và một điều quan trọng nữa là phải có một khả năng quan sát, sáng tạo, tư duy Thiết tưởng đó cũng là những khó khăn gặp phải nhưng vượt lên trên tất cả, bằng sự say mê, lòng yêu mến, bằng tinh thần ham học hỏi, giao lưu thì chúng ta sẽ thu được thành quá xứng đáng với khả năng của mình và xem đó là một niềm vui lớn trong quá trình nghiên cứu, học tập. Tập tiểu luận này nghiên cứu thơ Hàn Mặc Tử từ góc độ thi pháp học ở ba phương diện: quan niệm nghệ thuật về con người, không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật. Trong khả năng và phạm vi kiến thức, tôi xin được trình bày những ý kiến của mình ở những phương diện thi pháp vừa nêu của thơ Hàn Mặc Tử để chia sẻ cùng các bạn. Kiến thức như một biển cả mênh mông, vô tận trong khi sự hiểu biết của con người có giới hạn ví như một giọt nước giữa lòng đại dương bao la kia, và vì vậy tập tiểu luận chắc chắn sẽ không tránh khỏi những sai sót nhất định, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của bạn đọc gần xa. Nguyễn Thành Ân 2
  3. Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi pháp Nguyễn Thành Ân A. GIỚI THIỆU TÁC GIẢ ,TÁC PHẨM: I. Cuộc đời: Hàn Mặc Tử tên thật Nguyễn Trọng Trí, sinh năm 1912, mất năm 1940, mới 28 tuổi. Quê Mỹ Lệ, Đồng Hới, Quảng Bình. Tổ tiên họ Phạm, ông cố Phạm Nhương, ông nội Phạm Bồi, vì liên can quốc sự trốn vào Thừa Thiên đổi ra họ Nguyễn. Cha Nguyễn Văn Toản, mẹ Nguyễn Thị Duy, anh Nguyễn Bá Nhân, hai chị Như Nghĩa, Như Lễ, và hai em Nguyễn Bá Tín, Nguyễn Bá Hiếu. Ông học tiểu học ở Quãng Ngãi, khi cha chết, mẹ dọn về Qui Nhơn, ở đây ông tập làm thơ Đường luật lúc 16 tuổi lấy bút hiệu là Minh Duệ Thị. Học trường Qui Nhơn đến năm thứ ba, ông ra Huế học tại trường dòng Pellerin, chính đất Thần Kinh non nước hữu tình có truyền thống thơ phú, nơi quy tụ nhiều nhân tài đã ảnh hưởng và mở cánh cửa tư duy trí tuệ tài hoa thúc đẩy ông trở thành thi nhân. Ông đăng thơ trên báo Phụ Nữ Tân Văn, Sài Gòn với bút hiệu Phong Trần. Thời gian này Đông Dương khủng hoảng kinh tế, gia đình sa sút, không còn điều kiện ông phải nghỉ học đi làm sở đạc điền một độ, bị đau rồi mất việc. Vào Nam làm báo ít lâu lại trở về Qui Nhơn, kế đó mắc bệnh hủi vào Nhà thương Quy Hòa và mất tại đó. Khi vào Sài Gòn làm báo ông lấy bút hiệu Lệ Thanh (tên làng Mỹ Lệ, chánh quán Tân Thanh ghép lại). Ông chiếm giải nhất cuộc thi thơ của một câu lạc bộ thơ, bút hiệu Lệ Thanh nổi tiếng từ đó. Ông cộng tác với báo Trong Khuê Phòng, Đông Dương Tuần Báo, Người Mới. Năm 1936 khi chủ trương tờ phụ trương văn chương báo Sài Gòn, ông mới đổi là Hàn Mạc Tử. Tập thơ Đường luật mang tên Lệ Thanh Thi Tập có 3 bài Thức khuya, Chùa hoang, Gái ở chùa được Phan Sào Nam (Phan Bội Châu) họa vận lại. Năm 1936 tập thơ Gái quê xuất bản là một chuyển hướng sang Thơ mới. Cuối năm 1936, Hàn Mặc Tử đề xướng việc thành lập Trường thơ Loạn (còn gọi là nhóm thơ Bình Định hay Bàn Thành tứ hữu), ban đầu Trường thơ Loạn gồm bốn thành viên: Hàn Mặc Tử, Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên, sau có thêm Bích Khê, Hoàng Diệp, Quỳnh Dao Quách Tấn và Yến Lan, hai thành viên của nhóm, khi còn sống đều đã khẳng định Trường thơ Loạn là một nhóm thơ. Ở đó, sự gắn kết với nhau bằng tình thi ca, bằng hữu, hơn là một trường phái sáng tác. Sau khi Hàn Mặc Tử mất (1940), Trường thơ Loạn bắt đầu tan rã. Mặc dù Yến Lan, Chế Lan Viên và Bích Khê vẫn chơi thân với nhau, song không còn ai tha thiết với việc duy trì hoạt động Trường thơ. Nó còn tồn tại một thời gian nữa, rải rác trong các sáng tác của Bích Khê và kết thúc cùng với sự qua đời của người “mang rõ phong cách của Trường thơ Loạn, người công dân trung thành của vương quốc” là Bích Khê vào năm 1946. 3
  4. Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi pháp Nguyễn Thành Ân Năm 1938, thấy bệnh tình khó qua khỏi, gia cảnh càng sa sút, Hàn Mặc Tử sau nhiều lần do dự đã quyết định vào bệnh viện phong cùi Qui Hòa chữa miễn phí để tránh gánh nặng cho gia đình, đến năm 1940 ông qua đời. II. Tác phẩm: Hoạt động cầm bút của Hàn Mặc Tử Tác diễn ra nhiều thể loại, trong đó thơ ca là lĩnh vực chủ yếu và đạt nhiều thành tựu đáng kể, bên cạnh đó lĩnh vực văn xuôi và kịch thơ cũng có nhiều đóng góp cho văn học Việt Nam, ngoài ra ông còn tham gia viết báo, viết tựa cho các tập thơ của Chế Lan Viên, Bích Khê Tác phẩm của Hàn Mặc Tử gồm: các tập thơ Lệ Thanh thi tập, Gái quê, Đau thương, Xuân như ý, Thượng thanh khí, và các vở kịch thơ Cẩm châu duyên, Duyên kỳ ngộ, Quần tiên hội,và Chơi giữa mùa trăng (văn xuôi). Trong các tác phẩm của Hàn Mặc Tử thì chỉ có Gái quê là được xuất bản (1936) khi nhà thơ còn sống. Lệ Thanh thi tập, đây là tập thơ cổ điển (thơ Đường luật), nhưng hiện nay vẫn chưa xác định được số lượng bài thơ là bao nhiêu vì di cảo của Hàn Mặc Tử để lại do nhà thơ Quách Tấn (bạn thân của Hàn Mặc Tử) cất giữ nhưng sau đó đã bị thất lạc gần hết. Gái quê, tập thơ xuất bản năm 1936, với những bài thơ bình dị, mộc mạc của cảnh vật làng quê, những xúc cảm ban đầu tình yêu đôi lứa của tuổi thanh xuân nhưng lại nồng nàn, rạo rực. Đau thương, hay còn gọi là thơ Điên gồm ba phần: Hương thơm, Mật đắng, máu cuồng và hồn điên. Tập thơ chứa đựng những niềm đau khổ, rối loạn, nó phát ra những khúc nhạc buồn thương day dứt và tỏa ra một bầu không khí ảm đạm. Lời thơ dình máu mang một nỗi đau thương mãnh liệt, một linh hồn cô độc, khổ não. Tập thơ đi từ lãng mạn đến tượng trưng. Xuân như ý và Thượng thanh khí, Hàn Mặc Tử đi lần lần từ địa hạt tượng trưng đến địa hạt siêu thực. Tập thơ là lời ca tụng cái xuân thơm của trời đất, đây là một mùa xuân theo ý muốn của thi nhân, mùa xuân trong tưởng tượng với bao lời kinh cầu nguyện, hương đức hạn, hoa phẩm tiết, nhạc thiêng liêng và mang đậm chất tôn giáo. Bên cạnh đó là những giấc chiêm bao huyền bí. Cẩm châu duyên, vở kịch thơ với người tình tưởng tượng của tác giả: nàng Thương Thương. Lời thơ nhẹ nhàng, trong sáng với một mối tình thơ mộng và đậm đà. Duyên kỳ ngộ, cũng với người tình Thương Thương, thi sĩ Hàn Mặc Tử đi tìm một nguồn thơ mới lạ, lạc lối vào chỗ nước non thanh tú, trong ấy là những suối, những chim và những tiếng tiêu reo cùng với khúc tình tự, bày tỏ giữa chàng và nàng. Quần tiên hội, là vở kịch thơ nối tiếp theo câu chuyện Duyên kỳ ngộ nhưng viết chưa xong. Tác phẩm này có phần nào “tiên cốt” hơn các vở kịch thơ trước đó. 4
  5. Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi pháp Nguyễn Thành Ân Chơi giữa mùa trăng, ánh trăng mùa thu lan tỏa trên dòng sông như trong cõi mộng, chứa đựng dòng tư tưởng trong sạch thánh thiện, không những có trăng mà còn có các yếu tố nhạc và hương. Một tác phẩm văn xuôi không kém phần đặc sắc về nội dung và hình thức B. TÌM HIỂU MỘT VÀI PHƯƠNG DIỆN THI PHÁP THƠ HÀN MẶC TỬ: Thi pháp học có một lịch sử phát triển rất sớm và được xác lập đầu tiên bởi tác phẩm Nghệ thuật thơ ca của Arixtot, nội dung của nó là trình bài những nguyên lý về cách thức sáng tạo của các tác giả thời cổ đại. Trải qua từng giai đoạn phát triển với nhiều trường phái nghiên cứu khác nhau nhưng cho đến nay Thi pháp học vẫn đang là lĩnh vực tồn tại nhiều quan niệm khác nhau với nhiều cuộc tranh luận gay gắt và chưa đi đến chỗ thống nhất được. Về định nghĩa thi pháp học thì cũng có nhiều ý kiến khác nhau nhưng có lẽ định nghĩa dưới đây của V.Girmunxky là cô đúc nhất: Thi pháp học là khoa học nghiên cứu thi ca (văn học) với tư cách là nghệ thuật. Những định nghĩa khác chỉ là sự khai triển của nó mà thôi. Nội dung nghiên cứu của thi pháp học là nghiên cứu hệ thống cấu trúc và những thuộc tính nghệ thuật của văn học từ góc độ nghệ thuật. Nghệ thuật của mỗi người, mỗi dân tộc, mỗi thời đại đều khác nhau cho nên nghiên cứu thi pháp học cũng phải tuân thủ theo những quan niệm nghệ thuật của dân tộc, của thời đại ấy. Nếu xem thi pháp học là một bộ phận hoặc đồng nhất nó với lý luận văn học là không hợp lý. Thi pháp học chỉ nghiên cứu hệ thống cấu trúc và những thuộc tính của văn học dưới góc độ nghệ thuật, cho nên phải xem thi pháp học là một bộ môn độc lập trong hệ thống các bộ môn nghiên cứu khoa học. Thi pháp học nghiên cứu văn học ở tất cả các thể loại như thơ ca, truyện, tiểu thuyết, kịch Việc nghiên cứu thi pháp học hiện nay đang chiếm vị trí ngày càng quan trọng trong nghiên cứu văn học. Đối tượng nghiên cứu của thi pháp học là hình thức mang tính nội dung. Nội dung của văn học là cuộc sống đã được ý thức và cũng là sự ý thức về cuộc sống, còn hình thức của văn học là tính xác định của cuộc sống, của ý thức về cuộc sống. Do đó, giữa hình thức và nội dung có mối quan hệ sâu sắc: nghiên cứu hình thức cũng là nghiên cứu nội dung. Thi pháp học nghiên cứu văn học ở rất nhiều phương diện nhưng tập trung ở một số phương diện cốt lõi sau đây: - Quan niệm nghệ thuật về con người. - Không gian nghệ thuật. - Thời gian nghệ thuật. - Thể loại và kết cấu. - Ngôn ngữ. 5
  6. Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi pháp Nguyễn Thành Ân Tiểu luận này nghiên cứu thơ Hàn Mặc Tử từ góc độ thi pháp ở ba phương diện như đã nói trong Lời nói đầu, đó là: quan niệm nghệ thuật về con người, không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật. Cũng cần nói thêm rằng, Hàn Mặc Tử là một hiện tượng rất lạ trong phong trào Thơ mới của nền văn học hiện đại Việt Nam giai đoạn 1930-1945, chịu sự ảnh hưởng của rất nhiều trào lưu chủ nghĩa phương Tây. Do vậy, nghiên cứu thơ Hàn Mặc Tử phải nhìn từ góc độ hoàn cảnh lịch sử, thời đại và những quan niệm về nghệ thuật của giai đoạn văn học lúc bấy giờ. I. Quan niệm nghệ thuật về con người: Thi pháp học xem hình tượng con người, cách xây dựng nhân vật là một phạm trù rất quan trọng. Con người chính là đối tượng chủ yếu của văn học, là trung tâm của quan niệm thẩm mỹ của người nghệ sĩ khi sáng tác ở bất cứ thời đại nào. Thơ mới 1932- 1945 đã cho chúng ta hình ảnh về con người trong quan hệ tình yêu, trong trạng thái mộng mơ, buồn sầu, cô đơn, đặc biệt đã chú trọng khắc hoạ hình ảnh con người trong tiềm thức. Quan niệm nghệ thuật về con người khởi nguồn từ nhu cầu tự bộc lộ của nhà thi sĩ, nó gắn liền với cái tôi trữ tình của nhà thơ. Đó là tiếng nói bên trong tâm hồn thi nhân. Con người là yếu tố trung tâm trong thế giới hình ảnh của thơ trữ tình và luôn được hình tượng hóa ở các mức độ khác nhau. Hình tượng con người hiện lên như một nhân vật đặc biệt. Nó là kết quả của sự khái quát hóa hiện thực, nhưng trước hết là hiện thực chủ thể. Quan niệm nghệ thuật về con người là sự biểu hiện con người tinh thần của nhà nghệ sĩ, song nó không đồng nhất đơn giản với con người nhà thơ. Hàn Mặc Tử là nhà thơ đã có rất nhiều đóng góp về phương diện này. 1. Con người vũ trụ: Một trong những đặc điểm của văn hoá phương Đông là coi con người như một bộ phận của thế giới “Thiên, Địa, Nhân”, con người là một “tiểu vũ trụ”. Điều này thể hiện trong văn chương thành con người tương thông, tương cảm với thiên nhiên. Từ đó sản sinh ra một đặc điểm nghệ thuật của thơ ca, đặc biệt là thơ ca dân gian và thơ ca trung đại: dùng thiên nhiên làm thứ “ngôn ngữ thứ hai” để miêu tả và diễn đạt các trạng thái tình cảm của con người. Đặc điểm này được tiếp nối và cách tân bởi Thơ mới. Khi Thế Lữ “du hồn” vào thiên nhiên, khi nỗi buồn của Bích Khê “vương cây ngô đồng” hoặc khi Huy Cận cảm ứng với vạn vật “nghìn cây mở ngọn, muôn lòng hé phơi” thì có nghĩa là giữa thiên nhiên và con người còn có sự phân cách. Ở Hàn Mặc Tử sự phân cách này biến mất, ông hoà nhập hoàn toàn vào thiên nhiên, không phân biệt chủ thể – khách thể. Điều này làm cho thơ ông đậm chất siêu thực. Trong bài Nói chuyện với Gái quê ông tự khắc hoạ hình ảnh của mình: Ta thường giơ tay níu ngàn mây Đi lại lang thang trên ngọn cây. Hàn Mặc Tử không làm xiếc ngôn từ, ông thực sự tin và sống với những hình ảnh do mình tưởng tượng ra, hay nói như Chế Lan Viên, ông “không làm thơ mà bị thơ làm”. Do hoà nhập với thiên nhiên, do khí chất con người, Hàn Mặc Tử có những hành động lạ lùng “ngoắt đám mây”, “đuổi theo trăng”, “kìm sao bay” Nỗi đau, nỗi nhớ của con 6
  7. Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi pháp Nguyễn Thành Ân người không phải được diễn tả một cách gián tiếp kiểu “vật mình vẫy gió tuôn mưa” mà được diễn tả bằng tác động trực tiếp của con người tới thiên nhiên, gây ra những ấn tượng rất mạnh, lạ: Em xé toang hơi gió Em bóp nát tơ trăng Em túm muôn trời lại Em cắn vỡ hương ngàn (Em điên) Đây không phải là việc nhân cách hoá, phú cho sự vật những tình cảm của con người. Nhân cách hoá được thể hiện bằng thủ pháp so sánh, còn Hàn Mặc Tử ít dùng thủ pháp so sánh. Ông coi sự vật hiển nhiên là con người “Thôi rồi ! Con trăng nó bị vướng trên cành trúc kia kìa, thấy không ? Nó gỡ mãi mà không sao thoát ra được, biết làm thế nào hở Trí ?” (Chơi giữa mùa trăng). Bởi nếu có sự phân cách giữa chủ thể và khách thể thì khách thể sẽ gợi lên ở chủ thể những ấn tượng, cảm nghĩ theo kiểu “tức cảnh sinh tình”. Hàn Mặc Tử thực sự sống trong đối tượng, trải nghiệm cùng đối tượng. Nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thuý cho rằng trong thơ Hàn Mặc Tử có hiện tượng “người hoá trăng” và “trăng hoá người” mà “người hoá” mọi vật mọi vật đều mang những tình cảm của con người: trời “từ bi cảm động ứa sương mờ”, trăng “choáng váng với hoa tàn cùng ngả”, gió “say ướt mướt trong màu sáng”, hơi nắng “liếm cặp môi tươi” Lối tư duy này gần với lối tư duy của người nguyên thuỷ cổ xưa, đồng nhất con người với sự việc và ngược lại. Trong bài viết có tính chất tuyên ngôn Nghệ thuật là gì ?, ông viết: “Nhưng muốn tìm cái tính cách thiêng liêng của nó (tức nghệ thuật) thì nên đóng vai nghệ sĩ quăng mình đi giữa cái vũ trụ mênh mang rượt nà theo những nguyện vọng cao xa, thì sẽ thấy hình ảnh rõ rệt của nghệ thuật”. Quan điểm này có phần tương đồng với quan điểm của Xuân Diệu “là thi sĩ nghĩa là ru với gió ” .Thực tại tẻ ngắt nên các nhà thơ lãng mạn phải đi tìm “cái phi thường” ở ngoài thực tại. Do quan niệm không gian trên cao là nơi “chứa đầy hoa mộng” nên con người trong thơ ông luôn luôn hướng lên cao, khi thì “thần trí dâng cao đến chính trời”, khi “lên chơi cung quế” Trong tiền kiếp con người là “chim phượng hoàng, vỗ cánh bay chín tầng trời Đâu Suất”. Hầu như không có hình ảnh con người trên đường, con người ra đi trong thơ của các nhà thơ lãng mạn khác, chỉ có hình ảnh con người bay trong không gian. Dường như càng lên cao, niềm hứng khởi của tác giả càng mãnh liệt: Hồn vốn ưa phiêu diêu trong gió nhẹ Bay giang hồ không sót một phương nào Càng lên cao dây đồng vọng càng cao (Say thơ) 2. Con người trong những trạng thái cảm xúc nghịch lý: Thi sĩ Hàn Mặc Tử mải miết đi trong một thi trình độc đáo từ thơ cũ đến thơ mới. Trong vườn thơ Đường luật (Lệ Thanh thi tập), người ta thấy xuất hiện một con người có tầm vóc trượng phu, đầu đội trời, chân đạp đất “nam nhi chí” mang những sắc thái vũ trụ qua các bài thơ Thức khuya, Chùa hoang, Tuồng đời, Cảnh khuya cảm tác, 7
  8. Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi pháp Nguyễn Thành Ân Buồn thu, đặc biệt là bài Đêm khuya tự tình với sông Hương. Đó là chất Đời, cảm hứng thời thế của một con người theo kiểu nhà nho xưa. Nhưng trong con người nho sĩ tài tử đó đã ẩn hiện một con người khác: con người mang cảm hứng trữ tình lãng mạn. Một nhà nho chính tông thì không thể viết: Bấy lâu sát ngõ, chẳng ngăn tường Không dám sờ tay sợ lắm hương Xiêm áo hôm nay tề chỉnh quá Dám ôm hồn cúc ở trong sương. (Hồn cúc) Rõ ràng đây là một con người bạo dạn ghê gớm, tuy chưa vượt qua hẳn quan niệm “nam nữ thụ thụ bất thân”. Sau này trong Gái quê, con người ấy hiển hiện với chân dung của kẻ si tình mơ mộng thương vụng nhớ thầm: Em có ngờ đâu trong những đêm Trăng ngà giãi bóng mặt hồ êm Anh đi thơ thẩn như ngây dại Hứng lấy hương nồng trong áo em Say mơ vướng phải mùi hương ướp Yêu cái môi hường chẳng nói ra (Âm thầm) Từ đây Hàn Mặc Tử xuất hiện chính như một nhà thơ mới lãng mạn sau khi trút bỏ y phục cổ điển. Người ta cho cho rằng đây mới là con người sâu lắng của Hàn Mặc Tử với đầy đủ các tư thế trữ tình và các cung bậc cảm xúc, lần lượt đi qua các tập Thơ Điên, Xuân như ý, thượng thanh khí, Cẩm châu duyên, Quần tiên hội Nhìn một cách bao quát, con người trong thơ Hàn Mặc Tử trong toàn bộ sự ngiệp sáng tác của nhà thơ hiện ra như một chỉnh thể vừa có vẻ nhất quán lại vừa hết sức phức tạp. Nó dung chứa sự bất hòa giữa các đồi cực cảm xúc và cũng hàm ẩn sự thống nhất giữa chúng. Những cảm xúc nghịch lý ấy đặt bên nhau làm nên cái lạ trong thơ Hàn Mặc Tử. 3. Con người cô đơn, đau đớn: Con người cô đơn là một mô típ quen thuộc của thơ lãng mạn. Xuân Diệu, Nguyễn Bính cô đơn vì không tìm thấy sự chia sẻ, cảm thông của ngoại giới “Thôn đoài ngồi nhớ thôn Đông, cau thôn đoài nhớ giầu không thôn nào”. Hàn Mặc Tử cô đơn vì bị cách ly khỏi thế giới: “Anh nằm ngoài sự thực, em nằm trong chiêm bao” (Anh điên). Khoảng cách chia ly trong thơ ông không phải là sự chia cắt trong một không gian giới hạn như bên ấy, bên này, thôn Đoài, thôn Đông mà là sự chia cắt trong hai không gian hoàn toàn cách biệt ngoài sự thực, trong chiêm bao, ngoài mây nước, bên kia trời Chính vì khoảng cách không gian vô cùng như vậy mà nỗi cô liêu của con người càng trở nên khủng khiếp “một vũng cô liêu cũ vạn đời”. Những đau thương thể xác và tinh thần 8
  9. Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi pháp Nguyễn Thành Ân của ông bộ lộ thành tiếng nấc, tiếng khóc, tiếng cười, tiếng rú. Đó là nỗi đau sâu sắc, trần trụi, mang tầm vóc vũ trụ: Nghệ hỡi Nghệ, muôn năm sầu thảm Nhớ thương còn một nắm xương thôi (Muôn năm sầu thảm) Nỗi đau được diễn tả bằng nhịp điệu của sự cuồng trí vô vọng: Anh nuốt phứt hàng chữ Anh cắn vỡ lời thơ Anh cắn cắn cắn cắn Hơi thở đứt làm tư. (Anh điên) hoặc bằng nhịp điệu buồn thấm thía: Rao rao gió thổi phương xa lại Buồn đâu say ngắm áo xuân ai. Lay bay lời hát, ơ buồn lạ E buồn trong mộng có đêm nay. (Buồn ở đây) Từ điểm nhìn của con người bi quan các nhà Thơ mới hay nói đến cái chết. Cái chết ngang trái của những người trinh nữ “hồng nhan bạc mệnh”, “cái chết lạnh lẽo không giọt nước mắt của người đời xót thương Trong thơ Hàn Mặc Tử còn có những cái chết kì dị, lạ thường: mây chết đuối, trăng tự tử. Phải chăng đó là nỗi ám ảnh về cái chết đang đến gần với tác giả, và phải chăng cũng từ thực tế của thân xác đau thương mà trong thơ ông có nhiều hình ảnh máu đến thế ? Làn môi thiếu nữ tươi như máu, mặt nhật tan thành máu, gánh máu, máu đang tươi Cuộc đời trong quan niệm của các nhà thơ lãng mạn là sự dở dang, không trọn vẹn. Thơ Hàn Mặc Tử cũng nằm trong cảm hứng ấy. Cũng như Xuân Diệu, ngay khi sự sống đương hồi mơn mởn trong mùa xuân tươi thắm là thế Hàn Mặc Tử đã nhìn thấy cái kết cục ảo não của nó: Sóng cỏ xanh tươi gợm tới trời Bao cô thiếu nữ hát bên đồi Ngày mai trong đám xuân xanh ấy Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi. (Mùa xuân chín) Một trong những tiêu chuẩn để đánh giá tài năng nghệ sĩ là cái lạ, cái độc đáo. Sáu mươi năm trước, đọc thơ Hàn Mặc Tử, Hoài Thanh viết: “Ta chỉ thấy trong văn thơ cổ kim không có gì kinh dị hơn”. Thơ ca Hàn Mặc Tử lạ trong cách suy nghĩ, lập ý, so sánh, trong cách dùng từ ngữ, hình ảnh. Và cái lạ nhất là một con người phải trải qua 9
  10. Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi pháp Nguyễn Thành Ân những nỗi đau thể xác và tinh thần ghê gớm như vậy nhưng giọng thơ nói chung không bi quan mà luôn mơ ước, hướng tới thế giới vĩnh hằng và cũng là con người đã viết ra một trong những vần thơ trong sáng nhất của thơ ca Việt Nam: Trong làn nắng ửng khói mơ tan Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng Sột soạt gió trêu tà áo biếc Trên giàn thiên lý bóng xuân sang (Mùa xuân chín) 4. Con người “thèm khát” ái tình mà lại đầy mặc cảm khắc kỷ: Ngay từ thơ cổ điển (Lệ Thanh thi tập) và tập thơ lãng mạn đầu tiên Gái quê, đã xuất hiện con người này trong tư thế một chàng trai mới lớn tràn đầy sức sống, sung mãn khí huyết, rạo rực ước mơ tình tự ái ân, nhưng lại tự đắp một con đê ngăn giữ nhưng con thủy triều khát vọng của lòng mình. Phía bên này bờ đê là dồn dập trào dâng những cơn sóng thèm, muốn, rạo rực, đắm đuối, buâng khuâng, bồi hồi, tự tình Động thái phổ biến của con người “thèm khát” này trong Hàn Mặc Tử là đuổi theo, chạy theo, rẽ lối, rượt theo những bóng giai nhân, nương tử: Đêm ấy mơ hoa ở dọc đàng Say sưa ta đuổi bóng trăng đang Vẩn vơ luồn gió như lưu luyến Đem lại bên tai tiếng thở than (Chạy theo hạnh phúc) Sóng đuổi nhau về sở giang Xa xôi ai biết thiếp mong đợi chàng (Trên bờ) A ha ! Ta đuổi theo trăng Ta đuổi theo trăng Trăng bay lả lả ngả trên cành vàng Tới đây là tôi được gặp nàng (Rượt trăng) Cái tâm trạng “thèm khát” yêu đương bộc lộ rất xô bồ, dạn dĩ: Lúc ấy lòng ta như rạo rực Buâng khuâng thèm uống rượu Quỳnh Dao Ai ơi thèm lắm cái yêu đương (Chạy theo hạnh phúc) Chữ thèm càng về sau xuất hiện càng nhiều với tần số cao: 10
  11. Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi pháp Nguyễn Thành Ân Thèm thuồng nên mới say sưa (Vẩn vơ) Làn môi mỏng mảnh tươi như máu Đã khiến môi tôi mấp máy thèm (Gái quê) Đã nhìn tận mắt con chi nữa Ta vội kề môi cắn kẻo thèm (Quả dưa) Đi đôi với thèm là khát, là uống và nuốt. Tất cả đều là trạng thái khao khát hưởng thụ tình ái một cách mãnh liệt: Sóng sao mặt nước rung rinh Lòng ta khát miếng chung tình từ lâu Uống đi cho bớt khô hầu Uống đi cho bớt cái sầu mênh mang Có ai nuốt ánh trăng ngàn Có ai nuốt cả bóng nàng tiên nga Đã thèm cái giấc mơ hoa (Uống trăng) và có khi phải liếm nữa mới thỏa: Hoa nắng dịu dàng đầy nũng nịu Sau rò khẽ liếm cặp môi tươi. (Nắng tươi) Thơ Hàn Mặc Tử cũng không giấu giếm những khao khát ái tình cháy bỏng của chàng trai bị giày vò yêu đương bằng điệp khúc ta thích: Ta thích đứng lặng trên bờ ao Lắng nghe trong bụi tiếng thì thào Của hai luồng gió đang vương vấn Mà tiếng lòng ta cũng rạt rào. Ta thích ngồi mơ dưới gốc đa Chờ người năm ngoái có đi qua Yêu thương níu lại rồi tình tự Tiếng lá vèo bay ta ngỡ là. Ta thích len vào trong đám lau Núp chờ trăng xuống để quàng nhau 11
  12. Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi pháp Nguyễn Thành Ân Giả đó ân ái như năm ngoái Gió lại, ta ngờ nàng tới sau (Mơ) Chàng trai sung mãn mơ ước ấy “chờ người năm ngoái” đi qua “níu lại tình tự”, để “chờ trăng xuống” mà “quàng nhau”, “giả đò ân ái”. Khao khát ái tình biến thi sĩ trở thành kẻ tình si vụng trộm: Tôi thích nép mình sau cánh cửa Hé nhìn dáng điệu của người yêu (Tôi không muốn gặp) Rạo rực yêu đương thậm chí đã có lúc lên tới mức điên cuồng: Đêm nay ta lại phát điên cuồng Quên cả hổ ngươi cả thẹn thùng Đứng mãi trước thềm nghe ngóng mãi Tiếng đàn the thé ở bên song (Tình thu) Có lúc khao khát ái tình đã hướng tới hôn nhân: Ông mai mối cười như ngô nở Người ta cưới cả xuân cả vợ Nên ân tình nổi máu trên môi Còn em sao chưa biết hổ người Để mai mốt anh đi lẽ hỏi. (Cưới xuân, cưới vợ) Rồi nghĩ đến hưởng thụ ái ân, hạnh phúc: Ái tình bắt đầu căng Hoa thơm thì nín lặng Hương thơm thì bay lan Em tôi thì hổn hển Áo xiêm lấm tấm vàng. (Sáng trăng) Khi hương thơm kề lỗ miệng Khi tình mới chạm vào nhau Đôi ta bắt chước thì sao ? (Bắt chước) Những câu thơ khao khát ái tình của Hàn Mặc Tử dồn dập như sóng triều cứ sục sôi mãi theo chiều dài thi ca không sao kể xiết. Nhìn vào diện mạo ngôn ta thấy “nhà thơ ở đây đã phóng chiếu những rạo rực bản năng ra ngoài vũ trụ” (Con mắt thơ_Đỗ Lai 12
  13. Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi pháp Nguyễn Thành Ân Thúy), còn với Hoài Thanh, Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam thì nhận xét: “tập Gái quê và Une voix sur la voice (của Phạm Văn Ký) đều bắt nguồn từ tình dục”. Người ta cũng truy tìm nguyên nhân của những từ ngữ gắn với ái tình, thể xác lộ liễu của thơ Hàn Mặc Tử như sờ sẫm, da thịt trắng rợn mình, thậm chí cả những hành động dường như ám chỉ đến việc giao hoan: Ôi chao mê toàn thân như khoái cảm Như đêm xuân uống phải rượu Quỳnh Tương Không đâu mà có điều chi vừa chạm Đến tâm linh báo hiệu phi thường Má ơi má núng đồng tiềng Môi sao ướt đỏ ta thèm biết bao Nắng ơi nắng có lên cao Làm sao da thịt hồng hào thế kia Mùi thơm sao nỡ bay lìa Xem duyên tái hợp rồi về mà đang (Duyên kỳ ngộ) Thơ Hàn Mặc Tử là “sự kết hợp của chất nhục cảm dân dã, trần tục với chất thánh thiện siêu thoát tạo ra sự nghịch lý, chướng, dẫu hiện đại” (Kinh nghiệm thơ và hành trình tinh thần của Hàn mặc Tử_Võ Long Tê). Thèm khát tình ái đến mãnh liệt, dạn dĩ mới chỉ là một nửa trong con người của Hàn Mặc Tử. Còn nửa kia là sự dằn lòng chế khắc những dục vọng ham muốn của bản thân: sự khắc kỷ của thi sĩ. Ở trên, chúng ta mới chỉ đề cập đến những cơn thủy triều khát vọng tình ái dữ dội, có lúc lăm le tràn qua con đê vô hình trong Hàn Mặc Tử. Giờ đây, phía còn lại của con đê là một hồ nước bao la, thanh sạch vô ngần, mặt hồ tâm hồn trong vắt của chàng thi sĩ như buổi sơ khai. Bên cạnh những khát khao mãnh liệt là sự chế khắc của một con người nhút nhát, vụng về, xấu hổ, ngần ngại trong tình yêu. Nhìn thấy tình nhân, con người ấy không dám đối diện, gặp mặt: Có lần trong thấy người tôi yêu Đôi má đỏ bừng tôi chạy theo Tìm thấy hương thừa trong nếp gió Thơ ơ, làn gió thoảng bay vèo (Tôi không muốn gặp) Chàng trai si tình không dám gặp người yêu mà chỉ đứng xa yêu trộm nhớ thầm, “nép mình sau cánh cửa” để nhìn theo: Tôi không muốn gặp người tôi yêu Có lẽ vì tôi mắc cỡ nhiều Sắc đẹp nõn nà hay quyến luyến Làm tôi hoa mắt nói không đều. (Tôi không muốn gặp) 13
  14. Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi pháp Nguyễn Thành Ân Đó cũng là tâm trạng không dám sờ tay sợ lấm hương đối lại khát khao dám ôm hồn cúc ở trong sương. Bên cạnh con người thèm khát tình ái như bốc lửa với những dự tưởng khá kỹ về những “kịch bản “ yêu đương bằng cảm giác hương thơm kề lỗ miệng và ngon như tình mới cắn, lại là một con người hiền lành, luôn tự “chừa” cho mình một khoảng vọng mỹ nhân, đứng xa thật xa để chiêm ngưỡng những dung nhan khả ái của người thương, dù rằng có khi đứng xa quá sẽ nhìn không rõ lắm nhưng vẫn đẹp và mơ hồ: Mơ khách đường xa, khách đường xa Áo em trắng quá nhìn không ra (Đây thôn Vỹ Dạ) Chàng trai si tình tự khắc chế những cơn bão lòng tình ái yêu đương: Đừng ! Đừng ! Cô chớ nên nghe Những lời ta nói là mê mê mê ! Cô đi về ! Cô đi về Nhìn ta một cái trinh kia không còn ( ) Cô đã cho hồn ta mó tới Chết to rồi ! Mất cả ý tươi non Mắt nhắm đi nha ! Mắt nhắm đi nha ! Đừng nghĩ gì nha ! Đừng nghĩ gì nha ! (Ý trinh) Và như vậy, từ cái khoảng vọng mỹ nhân trinh bạch ấy, con người thi sĩ tự kỷ ám thị đã rơi vào một khoảng vọng ái tình. Nghĩa là luôn đứng xa mà hoài vọng tình yêu âm thầm, nồng si say đắm ngắm nhìn người thương và hết sức nhút nhát. Con người ấy tự cho mình luôn luôn có một khoảng cách xa vời trước ái tình: Khách xa gặp lúc mùa xuân chín (Mùa xuân chín) Mơ khách đường xa, khách đường xa (Đây thôn Vỹ Dạ) Tôi đứng xa lắm xin chừa tôi đi (Say nắng) Khoảng vọng ái tình ngày càng xa vời và trở thành vực thẳm ghê gớm trong tâm hơn của “người trai tơ thùy mỵ” (Duyên kỳ ngộ). Đó là mặc cảm chia lìa, tự khắc chế, ngăn lòng mình trước tình yêu cháy bỏng. Nỗi ám ảnh về cái xa ấy ngày càng sâu đậm 14
  15. Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi pháp Nguyễn Thành Ân trong không gian cõi thực, mà khủng khiếp hơn đó con là khoảng cách siêu thực giữa cõi mơ và cõi thực: Anh nằm ngoài sự thực Em ngồi trong chiêm bao Cách xa nhau biết mấy (Anh điên) Anh đứng cách xa hàng thế giới Lặng nhìn trong mộng miệng em cười (Lưu luyến) Con thuyền tình “lững lờ trong hiu quạnh” không thể tới “bến lòng em” bởi vì “xa xôi quá biết làm sao” và “anh đứng cách xa hàng thế giới” cò thể mãi mãi là “khách đường xa” Người thi sĩ lắm lúc yêu đến cuồng tâm dại trí, nhớ đến như điên, như dại vậy mà trước hưởng thụ ái ân lại tự trao cho mình một khoảng vọng ái tình kỳ lạ. Động thái kiềm chế khắc kỷ này bật thành lời thơ van vỉ, có cảm giác như là van xin chính mình. Đã khao khát ái tình, người ta thường mong đến hôn nhân, nhưng Hàn Mặc Tử lại muốn cái giây phút hưởng thụ hạnh phúc ân ái xin hãy đừng vội đến, vì một lẽ: Những cái gì thơm đã tới kề Tôi e tình tứ bớt say mê Không còn ý nhị ban đầu nữa Sẽ chán trường và sẽ chán chê (Tối tân hôn) Nói cách khác, tình yêu chỉ đẹp trong mộng tưởng hơn là khoái cảm nhục dục tầm thường. Điều này hợplý với quan niệm “tình cảm” của Hàn Mặc Tử trong Quan niệm thơ. Với thi sĩ, điều quan trọng là được sống bằng mơ mộng, tuyệt nhiên không phải là hưởng thụ nhục dục thân xác tầm thường: Cho nên tôi tưởng tối tân hôn Chưa tới còn xa để được buồn Để sống trong niềm thương nhớ đã Để còn mường tượng đến giai nhân (Tối tân hôn) Với Hàn Mặc Tử, tình yêu là chiêm ngưỡng mê say chứ không phải chiếm đoạt sở hữu trần tục. Yêu là giữ gìn cái Đẹp vĩnh viễn như một nguồn tươi, sự trắng trong nguyên vẹn, một vẻ yêu và một vẻ tân Có lẽ vì thế mà khi nàng Thương Thương đắm say trao tình và chờ đợi: Tất cả em là trân châu quý giá Dành cho anh riêng hưởng hạnh phúc này 15
  16. Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi pháp Nguyễn Thành Ân Em kết tinh ở bao thanh sắc lạ Tòa thiên nhiên đúc sẵn để mê say (Duyên kỳ ngộ) Thì người trai tơ thùy mỵ lại chối từ cao thượng: Anh chỉ ngó say em trong chốc lát Để hồn thơ dào dạt với mây bay Gần em luôn để hưởng bao khoái lạc Thưa em ! Không ! Anh đâu dám mê say Thôi chào em, giờ đi không trở lại Anh xa rồi mà hương phấn vẫn theo luôn (Duyên kỳ ngộ) Ta hiểu vì đâu mà trong lòng người thi sĩ “đồng trinh” Hàn Mặc Tử lúc nào cũng tồn tại một con đê ngăn giữ những đợt thủy triều ân ái rạo rực. Phía bên kia con đê ấy là gương nước phẳng lặng trong vắt của mặt hồ ái tình thanh sạch vô ngần. Hai đối cực nghịch lý ấy được dung hòa trong một con người kỳ dị của thi sĩ. Nghịch lý này giải thích vì sao thơ Hàn Mặc Tử vừa là tiếng gầm của cơn cuồng lưu sôi sục khát vọng tình yêu cháy bỏng nơi thượng nguồn, cuồn cuộn vẩn đục tình ái qua những miền bờ bãi thời gian trầm lụy, khổ ải, lại vừa là dòng cẩm châu trong vắt thanh và thơm tho đến vô ngần, ngào ngạt hương sắc êm dịu. 5. Con người phân thân, con người trong tiềm thức: Thời đại mới đã cấp cho con người cái nhìn mới về thế giới xung quanh, về bản thân. Con người trong Thơ mới khao khát khám phá bản thân, họ hay tự hỏi “Ta là ai?” , “Tôi là ai?”. “Họ nhìn sâu vào bản thể mình, tâm hồn mình và có những khám phá lí giải tinh vi. Con người trong thơ Xuân Diệu, Huy Cận là con người thống nhất về linh hồn, thể xác, con người trong thơ Hàn Mặc Tử bị phân đôi: Tôi dìm hồn xuống một vũng trăng êm Cho trăng ngập trăng dồn lên tới ngực Hai chúng tôi lặng yên trong thổn thức (Hồn là ai?) Sự phân cách hồn xác xuất phát từ cuộc đời tác giả (thân xác bệnh tật bị cách ly với mọi người) và cao hơn thế, phản ánh ước mong của tác giả: giải thoát thân xác hữu hình để tồn tại vĩnh viễn “cho tan ra hoà hợp với tình anh”. Con người bị lạ hoá với bản thân, không hiểu bản thân nên hay tự hỏi: “Hồn là ai ? Là ai ? Tôi không hay ?” (Hồn là ai ?). Trong khi Thế Lữ tự gián cách với bản thân nhìn mình một cách khách quan bằng con mắt của người ngoài cuộc “Thế Lữ là anh chàng kỳ khôi” thì Hàn Mặc Tử nhìn mình từ bên trong: Hồn đã lạnh, hình như hồn ớn lạnh 16
  17. Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi pháp Nguyễn Thành Ân Không buồn về với thể xác đêm nay (Hồn qua đêm) Nhà thơ Vũ Quần Phương có một nhận xét khá xác đáng về thơ Hàn Mặc Tử: “Từ Thơ Điên ông hoàn toàn quay vào nội tâm để viết, một nội tâm hoàn toàn bị cắt đứt với các sự kiện xã hội, các giao tiếp xã hội, hoàn toàn cô đơn và luôn luôn phải đối mặt với cái chết, luôn luôn bị hành hạ vì nỗi đau thân xác” . Có thể nói thêm rằng Hàn Mặc Tử là một trong những người đầu tiên trong lịch sử thơ ca Việt Nam khám phá trạng thái vô thức của con người. Nói cách khác trạng thái vô thức là một trong những đối tượng thơ ca của Hàn Mặc Tử. Đó là một trong những lí do làm cho thơ ông khó hiểu. Điểm qua tựa đề các tập thơ, bài thơ của Hàn Mặc Tử ta thấy rõ điều này: Say nắng, Cao hứng, Say trăng, Nhớ nhung, Máu cuồng, Hồn điên Ông diễn tả trạng thái tinh thần của mình khi nghe nhạc. Miêu tả “phút thôi miên”, miêu tả cuộc phiêu lưu của hồn “muôn bóng ý thun dần lên chót vót”, trạng thái cuồng của thi sĩ “trí ta sẽ cuồng lên khoái trá”. Rất nhiều lần ông nói đến giây phút thăng hoa của tinh thần “thần trí người đã mê man”, “trí rất ngớp bởi chưng xuân hồn hậu” Trạng thái khi say thơ “cả lòng say tót khí linh thiêng” và trạng thái tinh thần khi làm thơ cũng trở thành đối tượng miêu tả: Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút Mỗi lời thơ đều dính não cân ta Bao nét chữ quay cuồng trong máu vọt Như mê man chết điếng cả làn da (Rướm máu) Con người và sự vật torng thơ Hàn Mặc Tử thường ở trong trạng thái say. Gió “say lướt mướt trong màu sáng”, trăng xuân “tràn trề say chới với”, con người “say kinh cầu nguyện, say trời tương tư”, cả vũ trụ đều ở trong trạng thái quay cuồng “Say, say, say lảo đảo cả trời thơ”. Với trạng thái tinh thần như vậy ta hiểu vì sao thời gian nghệ thuật trong thơ ông chủ yếu là thời gian ban đêm. Đêm là thời điểm thuận lợi nhất cho trí tưởng tượng mãnh liệt của nhà thơ được phát huy cao độ. Có lạ lùng chăng khi một con người bị cách ly với thế giới bên ngoài, một tín đồ Thiên Chúa ngoan đạo lại hay nhắc tới khoái lạc ? Cũng có khi Hàn Mặc Tử nói tới khoái lạc của đời sống xác thịt, nhưng chủ yếu là khoái lạc tinh thần. Ông tìm thấy khoái lạc trong những giây phút thăng hoa của tinh thần: khi thì thơ, khi “ngoại cảnh hay thâm tâm đồng xáo động”. Ông có một định nghĩa lạ lùng về thơ : “thơ là sự ham muốn vô biên những nguồn khoái lạc trong trắng của một cõi trời cách biệt” (Quan niệm thơ). Sáng tạo nghệ thuật là đem tới những cái lạ, cái người khác chưa từng nói đến, nghĩ đến. Thơ Hàn Mặc Tử đầy rẫy cái lạ. Lạ trong cách nhìn thế giới: Hơi nắng dịu dàng đầy nũng nịu Sau rào khẽ liếm cặp môi tươi (Nắng tươi) Cái lạ trong cách cảm nhận sự vật: “Ta đã ngậm hương trăng đầy lỗ miệng”, lạ trong trạng thái tinh thần lê mê, rã rời, lướt mướt, điên cuồng trong cách biểu lộ tình 17
  18. Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi pháp Nguyễn Thành Ân cảm: “Say tê trăng sần sượng cả làn da”, trong cách dùng từ, so sánh, liên tưởng: “Xuân trên má nường thơ, ngon như tình mới cắn” (Cao hứng), lạ trong cách chuyển ý nhanh và xa, tức thơ ông có sự chuyển kênh rất mau lẹ, phản ánh nội lực tinh thần, khả năng liên tưởng mạnh mẽ, chính vì vậy mà tác giả của Thi nhân Việt Nam cảm thấy “mệt lả” khi đọc thơ Hàn Mặc Tử. Ở bài Trăng vàng trăng ngọc tác giả đi từ ý tưởng “bán trăng” đến “bán đoàn viên, ước hẹn hò” và đến lời hẹn: Bao giờ đậu trạng vinh quy đã Anh lại đây tôi thối chữ thơ. Có thể dẫn ra rất nhiều ví dụ như vậy: Mơ hoa, Lang thang, Ngủ với trăng Điều này làm cho kết cấu một số bài không chặt chẽ, một khổ thơ được dùng hai bài khác nhau. Trong một bài có sự chuyển đổi đại từ nhân xưng: từ ta sang tôi, từ mi đến ta đến tôi Đồng thời ông còn có những chuyển đổi rất mau lẹ từ ấn tượng tinh thần đến cảm nhận thể xác. Điều này cho ta thấy giác quan của ông rất nhạy bén. Ông sống thực sự cả tinh thần và thể xác với những cái đang xảy ra. Nhìn trăng ông cảm thấy “ngọt ngào trong cổ họng như vừa uống xong ngụm nước lạnh, mát đến tê hết cả lưỡi và hàm răng” (Chơi giữa mùa trăng). Từ nỗi nhớ người yêu đến hành động vô thức “Anh đi thơ thẩn như ngây dại, hứng lấy hương nồng trong áo em”. Từ trạng thái ghen đến phản ứng xúc giác “miệng lưỡi khô khan hết cả thèm” (Ghen) Sự chuyển biến nhanh chóng của quá trình “ngoại cảnh xâm lấn xác thịt và linh hồn” chi phối sự chuyển đổi đột ngột của ngôn ngữ thơ từ miêu tả sang đối thoại hoặc độc thoại: Trong khóm vi lau dào dạt mãi Tiếng lòng ai nói sao? Sao im đi Ô kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe. (Bẽn lẽn) Nhiều nhà nghiên cứu phát hiện Hàn Mặc Tử hay dùng những từ liên quan đến môi, miệng như: nuốt, thèm thuồng, hớp, uống Một mặt ông hớp, đớp, nuốt váng trời, miếng cười, mùi trăng mặt khác lại ợ ra, mửa ra, ọc ra trăng, thơ, hồn, nguồn thơm Bên đồi ta ợ ra trăng cả Ướt áo nhưng mà chưa no nê (Ý trinh) Sự kết hợp giữa những hình ảnh, từ ngữ vốn rất xa nhau về nghĩa như vậy cho ta thấy tính chất trần tục và thoát tục của thơ Hàn Mặc Tử. Nhà nghiên cứu Bùi Xuân Bào trong bài viết Thi ảnh khẩu cảm trong thơ Hàn Mặc Tử lý giải vấn đề trên như sau: “Đối với Hàn Mặc Tử, thi hứng có nghĩa là thi sĩ nhận một luồng cảm hứng từ ngoại giới vào thể xác và tâm hồn, và sau đó thi sĩ biến luồng cảm hứng đó thành lời thơ”. Có thể giải thích thêm: ông tiếp nhận tinh hoa từ ngoại giới “đón từ xa một ý thơ” và phát tiết ra thơ bằng tất cả tinh lực chính vì thế mà ông có những vần thơ rướm máu. Và những hành động “cười nói làm sao cho hả hơi”, “cắn lời thơ để máu trào” giống như là sự giải thoát những ẩn ức, tâm trạng hoặc nỗi đau đè nặng trong lòng. 18
  19. Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi pháp Nguyễn Thành Ân 6. Con người mơ ước: Thơ Hàn Mặc Tử cũng như thơ của các nhà thơ lãng mạn khác, tràn đầy mộng ước. Họ coi đó là một trong những cách phủ nhận thực tại. Xuân Diệu tự coi mình là “con chim đến từ núi lạ”. Huy Cận tự khắc hoạ hình ảnh của mình là “chàng trai gối mộng trên trang sách”, Hàn Mặc Tử coi mình là “người trong mộng”. Thân xác càng đau đớn cái chết càng đến gần, mộng ước càng cháy bỏng. Hàn Mặc Tử không chỉ mơ mộng, ông thực sự sống trong mộng không phân biệt cái thực và cái ảo “Tôi ngồi dưới bến đợi nường Mơ”. Vì sao Hàn Mặc Tử hay mơ ước như vậy ? Thực tế đời ông không cho phép ông sống trong cuộc sống bình thường như mọi người, ông chỉ có thể yêu trong mộng, sống trong mộng. Nhưng dù cho số phận của ông không khắc nghiệt đến như vậy thì ông cũng không thể thoả mãn với thực tế. Ông luôn mang cảm giác khát, thèm nhưng không phải là đói cơm, khát nước như có người lầm tưởng. Ông “khát miếng chung tình”, khát khao thèm thuồng “những vật lạ muôn đời” nghĩa là khát khao cái tuyệt đối, vô biên, cái không có trong cuộc sống trần thế “Tôi tìm ánh nắng vạn đời vương”. Vì thế con người ấy phải đi tìm nó ở Đức Chúa Trời, tức ở một “cõi trời cách biệt”, ở thế giới ước mơ hay còn gọi là Thiên Đàng trong niềm tin của một tín đồ Thiên chúa giáo để có thể “hưởng cái thơ khác nữa”. Thế giới thơ của ông là “bến xa mơ”, “nẻo mơ”, “xứ mộng”. Trong khi các nhà thơ khác mơ về quá khứ thì thế giới mộng của Hàn Mặc Tử nằm ở niềm tin, ở ảo giác của ông, nằm ngay trong hiện tại: Từ đầu canh một tới canh tư Tôi thấy trăng mơ biến hoá như Hương khói ở đâu ngoài xứ mộng Cứ là mỗi phút mỗi nên thơ. (Huyền ảo) Điều này giải thích vì sao thơ Hàn Mặc Tử ít có kết cấu tương phản kiểu xưa – nay, gặp gỡ – chia ly . như thơ của Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Thế Lữ. Các nhà thơ này dùng kết cấu tương phản để bộc lộ sự thất vọng với thực tế trong khi thơ Hàn Mặc Tử tràn đầy niềm mong đợi về một mùa “xuân như ý”. Chính vì vậy nên dù thơ của ông là thơ của một con người ý thức rõ cái chết đang đến gần nhưng thơ không gợi lên cảm giác bi quan tối tăm như thơ Vũ Hoàng Chương. Những từ ngữ tiêu tán, biến hoá, tan . Trong thơ không mang cái nghĩa thông thường của nó: cái chết, sự tàn lụi mà là sự biến hoá của vật chất từ dạng này sang dạng khác: Nước hoá thành trăng ra nước Lụa là ướt đẫm cả trăng thâu (Huyền ảo) Hoặc là sự hoà hợp, nhất thể của vật chất, của thân xác đau thương trong một thế giới khác: Một hồn đau rã lần theo hương khói Một bài thơ cháy tan trong nắng rọi 19
  20. Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi pháp Nguyễn Thành Ân Một lời run hoi hóp giữa không trung Cả niềm yêu ý nhớ, cả một vùng hoá thành vũng máu đào trong ác lặn: Đấy là tất cả người anh tiêu tán Cùng trăng sao bàng bạc xứ say mơ Cùng tình anh tha thiết như văn thơ Ràng rịt mãi cho đến ngày tận thế. (Trường tương tư) hoà tan thành một thể mới để chiến thắng thế giới vật chất hữu hình, để trương tồn mãi cùng vạn vật: Chúng ta biến em ơi, thành thanh khí Cho tan ra hoà hợp với tình anh Của trời đất, của muôn vàn ý nhị Và tình ta sáng láng như trăng thanh. (Sáng láng) II. Không gian nghệ thuật: Không gian nghệ thuật là một phương diện của thi pháp học, nó chứa đựng những mã thông tin về quan niệm thế giới của nhà nghệ sĩ. Vậy không gian nghệ thuật là gì ? Không gian là một trong những hình thức để thế giới và con người tồn tại, không gian là tất cả những gì đang tồn tại xung quanh chúng ta, nó là vũ trụ, là thiên nhiên bao la vô cùng. Bản thân con người cũng là một thế giới riêng ở trong lòng thiên nhiên, vũ trụ. Trong tác phẩm nghệ thuật, con người xuất hiện với tư cách là hình tượng con người, chúng ta không thể tách hình tượng ra khỏi không gian mà nó tồn tại. Vậy không gian nghệ thuật chính là hình tượng không gian trong tác phẩm, là không gian trong quan niệm của tác giả. 1. Không gian điểm hẹn ái tình: Từ địa hạt Đường thi cổ điển, sẵn có những rung động lãng mạn của một cái tôi trữ tình khao khát yêu đương, Hàn Mặc Tử bước tới chân trời thơ mới, hòa nhập với cảm xúc mới của cả thế hệ thi sĩ đang đắm say với “trời tình”, “bể ái” như Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư Những khát vọng tình yêu đã làm nên biết bao rung đông xao xuyến, những nhịp đập hồi hộp giăng mắc suốt hành trình thi ca Hàn Mặc Tử. Với Xuân Diệu, điểm hẹn ái tình là “Mảnh vườn tình ái”. Nguyễn Bính lại hay nói đến “Vườn quê” và “Đất khách”. Trong con mắt yêu đương của Hàn Mặc Tử thì lúc nào cũng thế, ở đâu cũng thế, không gian luôn luôn thấm đẫm cái nhìn về điểm hẹn tình yêu trai gái. Trong tập Gái quê, ta thấy xuất hiện không gian vườn tình, vẻ đẹp của những miệt vườn xanh tốt xứ Huế đã đi vào thơ Hàn Mặc Tử và hiện ra bằng bức tranh thiên nhiên “đầy trinh tiết và đầy thanh sắc”. 20
  21. Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi pháp Nguyễn Thành Ân Về một phương diện nào đó, vườn đã trở thành mô típ quen thuộc về không gian ái tình trong văn học. Đối với Hàn Mặc Tử, vườn là điểm hẹn ái tình của chàng thi sĩ luôn rạo rực yêu đương. Trong cái vườn thơ rộng rung rinh không bờ bến của Hàn Mặc Tử có biết bao mảnh vườn tình ái với vẻ đẹp tuyệt mỹ: Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền (Đây thôn Vỹ Dạ) Thơ Hàn Mặc Tử có nhiều hình ảnh hoa trái như gợi ra những vườn cam, vườn me, vườn dâu, vườn dưa. Tiếp đó là các điểm hẹn với sự có mặt của thiên nhiên thơ mộng, thanh vắng, đầy thanh sắc, gợi tình, dễ liên tưởng đến nơi trai gái hẹn hò tình tự như bến nước, hồ nước, dòng nước, khóm cây Không phải ngẫu nhiên mà Hàn Mặc Tử hay nhắc đến bến sông trăng, dòng nước buồn thiu, bến Tầm Dương, bến Hàn Giang, bến lòng em, sông Hằng, sông Ngân, cầu Ô Thước Gió theo lối gió mây đường mây Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay. (Đây thôn Vỹ Dạ) Sông Ngân Hà nổi giữa màn đêm (Đà Lạt trăng mờ) Thuyền anh neo đậu bến Hàn Giang (Khói hương tan) Tôi ngồi ở bến Hàn Giang Khóc thôi mây nước bàng hoàn suốt đêm (Bến Hàn Giang) Thu đây rồi ! Bước lên cầu Ô Thước (Đừng cho lòng bay xa) Trăng vàng ngọc, trăng ân tình chưa phỉ ! Ta nhìn trăng, khôn xiết ngâm ngùi trăng Ta vãi tung thơ lên tận sông Hằng Thơ phép tắc bông kêu rên thống thiết. (Phan Thiết ! Phan Thiết) Điểm hẹn tình yêu trong thơ Hàn Mặc Tử hay gắn với khóm cây (trên đọt tre già, khóm thùy dương, khóm vi lau, bờ liễu, cành liễu, ngàn lau, sóng cỏ, giàn thiên lý, cành trúc ) như là dấu tích kỷ niệm lứa đôi: Trên đọt tre già trăng lưỡi liềm 21
  22. Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi pháp Nguyễn Thành Ân Hỡi trăng hãy chặt khóm thùy dương (Tiếng Vang) Trăng nằm sóng soải trên cành liễu (Bẽn lẽn) Bên khóm thùy dương em thướt tha Bên này bờ liễu anh trông qua (Âm thầm) Ánh nắng lao xao trên đọt tre (Quả dưa) Trên giàn thiên lý bóng xuân sang Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời (Mùa xuân chín) Đó là những hình ảnh cây lá thanh nhã hữu tình trong khuôn viên của mảnh vườn tình ái trần gian. Điểm hẹn tình yêu chủ yếu trong mộng tưởng, đây là vườn nên hoa lá xôn xao và ươm trồng những hoa trái đặc biệt. Đó là “trái trăng chao vô hạn” (Say thơ), nó không còn là mảnh vườn trần gian nữa. Ở đó mọc lên: Trái cây bằng ngọc vỏ bằng gấm Hoa lá hồ nghi sự lạ đời (Xuân đầu tiên) Cuối cùng, không gian điểm hẹn ái tình của Hàn Mặc Tử là chốn nước non thanh tú thanh sạch, gió mát trăng trong: Ở đây có suối đoàn viên Có cây phối hợp, có duyên ngọc vàng. (Duyên kỳ ngộ) Đó quả là vườn tiên mộng tưởng, chốn Bồng Lai tiên cảnh, Đào Nguyên tiên nữ trong thơ. Nơi ấy có chim kêu, vượn hót, suối trong, tiếng tiêu trong sáng gọi bạn tình: Ta reo lên với đàn thông rủ rỉ Cho lay bay tình ý ở xa xăm Xin mời chàng tài hoa thi sĩ đó Ngồi xuống đây bên thảm ngọc vườn châu. (Duyên kỳ ngộ) 22
  23. Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi pháp Nguyễn Thành Ân Như vậy, từ mảnh vườn tình ái nơi trần thế, Hàn Mặc Tử đi qua những điểm hẹn ái tình giăng mắc suốt vườn thơ rộng rung rinh không bờ bến để đến với mảnh vườn ái tình tâm tưởng là những vườn trăng, vườn mơ, vườn tiên. Từ bến sông trăng ở thôn Vỹ Dạ, thi sĩ đã đi đến bến mộng, bến tình và chủ đích cuối cùng là bến lòng em. Nhưng tiếc thay, con thuyền trăng, con thuyền tình ái trên dòng sông trăng, dòng sông thi ca mộng tưởng cứ mải miết mãi mà không sao tới được bến lòng em. 2. Không gian vây bủa, rớm máu: Định mệnh số phận nghiệt ngã đã xô đẩy Hàn Mặc Tử đến vực thẳm cô đơn, dường như phải cách ly hoàn toàn với cuộc đời. Nhà thơ luôn luôn sống trong cảm giác bị vây hãm, bủa vây trong cái không gian trời sâu, giếng thẳm. Ám ảnh đó cứ đeo bám thi sĩ và hiện ra bằng tâm trạng cô độc khủng khiếp: Tôi đang còn đây hay ở đâu Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu ? (Những giọt lệ) Chao ôi ! Ghê quá trong tư tưởng Một vũng cô liêu cũ vạn đời (Cô liêu) Sau khi mắc bện nan y, Hàn Mặc Tử luôn ám ảnh và mặc cảm về thân phận bị bỏ rơi. Thi sĩ chới với tuyệt vọng giữa không gian hãi hùng của trời sâu, chốn lưu đày của những thân phận bất hạnh. Ngoài ám ảnh không gian trời sâu, Hàn Mặc Tử còn bị ám thị bởi không gian đáy giếng tối om bủa vây mịt mùng. Thi sĩ đã: Thét chòm sao hoảng rơi vào đáy giếng Mà muôn năm rớm máu trong không gian. (Rướm máu) Thi sĩ lại rùng rợn khi cảm nhận: Người lắng nghe, lắng nghe trong đáy giếng Tiếng vàng rơi chìm lỉm xuống hư vô (Thi sĩ Chàm) Và hoảng sợ tột cùng: Miệng giếng hả ra Nuốt ực bao la Nuốt vì sao rồi Loạn rồi ! Loạn rồi, ôi giếng loạn! 23
  24. Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi pháp Nguyễn Thành Ân Ta hoảng hồn, hoảng vía, ta hoảng thiên Nhảy ùm xuống giếng vớt trăng lên (Trăng tự tử) Tâm trạng phổ biến của Hàn Mặc Tử là lúc nào cũng cảm thấy bị số phận vây bủa, như đang rơi tụt xuống một vực thẳm hư vô không đáy với tốc độ khủng khiếp. Cảm giác ấy kêu lên một tiếng vọng dài thê thiết trong không gian: Trời hỡi bao giờ tôi chết đi Bao giờ tôi hết được yêu vì Bao giờ mặt nhật tan thành máu Và khối lòng tôi cứng tợ si (Những giọt lệ) Mặt trời đổ máu lênh láng tràn ngập khắp vũ trụ mênh mông còn con người thì thu nhỏ lại cô độc nhỏ bé trong một khối lòng cứng tợ si. Con người giờ đây chỉ còn một và một mà thôi: Một khối tình nức nở giữa âm u Một hồn đau rã lần theo hương khói Một bài thơ cháy tan trong nắng rọi Một lời run hoi hóp giữa không trung. (Trường tương tư) Và tất cả “hóa thành vũng máu đào trong ác lặng” (Trường tương tư). Có thể xem đây là ám ảnh siêu thực khủng khiếp trong Hàn Mặc Tử: mặt nhật tan chảy thành máu, vũ trụ tinh không nhuộm đỏ một màu máu rùng rợn. Nỗi thương đau quằn quại đã hiện ra bằng một không gian và cả thời gian rướm máu vô tận “mà muôn năm rướm máu trong không gian” (Rướm máu). Những hình ảnh vũng máu, vũng trăng, vũng hồn, vũng cô liêu, vũng sông ngày càng dày đặc ám ảnh trong thơ Hàn Mặc Tử: Ta cắm thuyền chính giữa vũng hồn ta Đây bãi cô liêu lạnh hững hờ (Biển hồn ta) Tôi dìm hồn xuống một vũng trăng đêm Cho trăng ngập trăng dồn lên tới ngực (Hồn là ai) Cứ để ta ngất ngư trong vũng huyết Trải niềm đau trên mảnh giấy mong manh (Rướm máu) Chao ôi ! Ghê quá trong tư tưởng Một vũng cô liêu cũ vạn đời (Cô liêu) 24
  25. Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi pháp Nguyễn Thành Ân Trong bao đêm xao xuyến vũng sông Hằng (Đêm xuân cầu nguyện) Ta lôi đình thấy chiêm bao liền mổ Sao tan tành rơi xuống vũng chiêm bao Trăng tan tành rơi xuống một cù lao (Phan Thiết ! Phan Thiết) Mọi sự vật thiên nhiên vũ trụ điều nhuốm một màu mặc cảm thân phận bi đát của thi nhân. Con người giống như trăng sao đang chết chìm trong lòng giếng lạnh, con quái vật hu vô há miệng nuốt ực bao la, nuốt vì sao để biếng thành giếng loạn. Cảnh tượng trăng vỡ hìm trong lòng giếng lạnh là một ma lực ám gợi ghê người. Lòng người cô đơn, u hoài hóa thành lòng giếng lạnh để chính mình nhảy xuống cái giếng lạnh ấy vớt lấy vầng trăng tâm hồn đang chìm vỡ, buốt giá kinh hoàng. 3. Không gian vượt thoát: Hàn Mặc Tử viết nhiều thơ về trăng, sao và bóng đêm, bời nó là những ám ảnh thời gian tăm tối, cô đơn, u huyền của người thi sĩ. Bị cầm tù bởi thể xác bệnh tật đau đớn dày vò, Hàn Mặc tử liên tiếp có những cuộc “vượt ngục” tinh thần. Thi sĩ muốn quên đi tất cả cái không gian bị vây bủa khổ đau: Anh điên anh nói như người dại Van lạy không gian vòa những ngày (Lưu luyến) Ta chấp hai tay lạy quỳ hoan hảo Ngửa trông cao cầu nguyện trắng không gian (Đêm xuân cầu nguyện) Bây giờ tôi dại tôi điên Chấp tay tôi lại cả miền không gian (Một miệng trăng) Có lúc nhà thơ “ngửa trông cao cầu nguyện trắng không gian”, nghĩa là như muồn xóa đi tất cả những dấu tích bất hạnh thảm kịch đời người, để chỉ còn lại một không gian màu trắng hư vô. Có khi cơn giận sôi sục làm cho thi nhân buông lời nguyền rủa “tôi dọa không gian rủa tới cùng” (Chơi trên trăng), nguyền rủa cái không gian vây bủa, cô đơn của trời sâu, giếng thẳm và không gian rướm máu để bay lên một không gian vũ trụ cao vút trên thinh không Thượng thanh khí. Chính vì thế mà trong thơ Hàn Mặc Tử xuất hiện ám ảnh về một không gian vượt thoát. Nơi đó là “cung Quế”, xứ “Say mơ”, động “Huyền không”, vượt ra ngoài “cõi Hư linh”, có “tiếng nhạc Nghê Thường” thiêng liêng, tràn ngập trăng thanh, gió mát “đầy trinh tiết và đầy thanh sắc”. Nơi đó chính là thế giới mới của riêng Hàn Mặc Tử, là mùa Xuân như ý với Cẩm châu duyên, Duyên kỳ ngộ và Quần tiên hội: 25
  26. Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi pháp Nguyễn Thành Ân Lên chơi cung Quế lần đầu Ôi phép lạ, ôi nhiệm màu Vườn tiên sáng láng như lòng người thương (Chơi trên trăng) Sông Ngân đã im lìm trong tiếng sóng Mà lòng anh rào rạt mãi không thôi ! Ở tầng cao khúc Nghê Thường đồng vọng Nghe gì đâu, em ỡi ! Ráng mây trôi. (Sáng láng) Đấy là tất cả người anh tiêu tán Cùng trăng sao bàng bạc xứ Say Mơ Cùng tình em tha thiết như văn thơ Ràng rịt mãi cho đến ngày tận thế. (Trường tương tư) Không phải ngẫu nhiên mà Hàn Mặc Tử viết nhiều về động thái bay, diễn tả không gian vượt thoát. Lúc nào nhà thơ cũng tự kỷ ám thị về sự vượt thoát khỏi cái ngục tù thể xác, bay lên trong tâm tưởng “Em muốn bay thẳng lên trời ” (Chơi giữa mùa trăng). Hàng loạt từ ngữ diễn tả không gian vượt thoát đã xuất hiện dày đặc trong thơ Hàn Mặc Tử: Cửu trùng là chốn xa xôi lạ Chim én làm sao bay đến nơi (Ghen) Ta không nhấp rượu Mà lòng ta say Vì lòng náo nức muốn Ghì lấy đám mây bay. (Ngủ với trăng) Ta khạc hồn ra ngoài của miệng Cho bay lên hí hửng với ngàn khơi. (Say trăng) Ta há miệng cho nguồn thơm trào vọt Đường thơ bay sáng láng như sao sa. (Nguồn thơm) Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu Hồn tôi bay đến bao giờ mới đậu Trên triều thiên ngời chói ánh hào quang ? (Thánh nữ đồng trinh Maria) 26
  27. Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi pháp Nguyễn Thành Ân Nhớ khi xưa ta là chim Phượng Hoàng Vỗ cánh bay chín tầng trời cao ngất Bay từ Đao Ly đến trời Đâu Suất Và lùa theo không biết mấy là hương. (Phan Thiết ! Phan Thiết) Ta bay lên ! Ta bay lên Gió tiễn đưa ta tới nguyệt thềm Ta ở trên cao nhìn trở xuống Lâng lâng mây khói quyện trăng đêm. (Chơi trên trăng) Có thể nói đó là sự vượt thoát bằng mộng tưởng, mô típ chim Phượng Hoàng gằn vời không gian vượt thoát “Phượng Hoàng bay trong một tối trăng sao”, “Nhớ khi xưa ta là chim Phượng Hoàng” đã thể hiện khát vọng vươn tới sự cao cả, phi thường, đồng thời bộc lộ ý thức kêu hãnh về thiên chức thi nhân của Hàn Mặc Tử. Nếu như trước đây cánh chim hải âu kiêu dũng của Baudelaire từng bay vút lên trời xanh, thoát ly hẳn cuộc sống bụi lầm khổ đau nhân thế, thì nay trên đôi cánh hùng vĩ của Phượng Hoàng, Hàn Mặc Tử như được siêu thăng vượt thoát khỏi mọi đau đớn thể xác “sượng sần tê điếng”, “rướm máu” da thịt khủng khiếp. Cả Baudelaire và Hàn Mặc Tử đều mong muốn trở thành Ông Hoàng của mây trời, của cõi vũ trụ bao la, của thinh không vời vợi, tầng tầng, lớp lớp Thượng thanh khí cao sang tuy nhiên không phải lúc Hàn Mặc Tử cũng vượt thoát bằng mộng tưởng. Con người không thể sống mãi bằng chiêm bao. Đó là chưa kể lúc tỉnh mộng, nhà thơ xót xa vì số phận bơ vơ, phiêu bạc, lạc lối của mình: Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ Em lấy chồng rồi hết ước mơ (Em lấy chồng) Trên đường gió bụi anh lang thang Bụng đói như cào lạnh khớp răng Không có nhà ai cho nghỉ bước Vì anh là kẻ chẳng giàu sang. (Đời phiêu lãng) Và đau đớn khi nhận ra sự phân ly đang diễn ra ngay cả trong không gian: Gió theo lối gió mây đường mây Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay (Đây thôn Vỹ Dạ) Bàng hoàng khi nhận thấy sự phân ly cũng đang diễn ra trong con người mình: Hồn là ai ? Là gì ? Tôi chẳng biết Hồn theo tôi như muốn cợt tôi chơi 27
  28. Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi pháp Nguyễn Thành Ân ( ) Hồn là ai ? Là ai ? Tôi không hay (Hồn là ai) Hệ quả không mong muốn của vượt thoát là có khi phải chấp nhận rơi vào phiêu lãng. Ám ảnh về sự phiêu lãng của một Trích Tiên bơ vơ giữa cõi trần đau khổ và cô đơn được diễn tả bằng các mô típ “Tiên hành khất”, “lãng tử”, “khách bơ vơ”: Lãng tử ơi ! Mi là tiên hành khất Mà không chết lạnh trước mỹ nhân (Lang thang) Trước sân anh thơ thẩn Đăm đăm trông nhạn về Mây chiều còn phiêu bạt Lang thang trên đồi quê. (Tình quê) Mây trằng bay ngang trời vẩn vơ Đời anh lưu lạc tự bao giờ Đi đi đi mãi nơi vô định Tìm cái phi thường cái ước mơ. (Đời phiêu lãng) Và cuối cùng là không gian phiêu diêu trên thinh không ảo giác của linh hồn lưu lạc: Rồi sảng sốt bay tìm muôn tử khí Mà muôn sao xa cách cõi hoang sơ (Hồn lìa khỏi xác) 4. Không gian kỳ dị và lạ thường: Trong bài viết Nghệ thuật là gì ? năm 1935, Hàn Mặc Tử nhấn mạnh nhà thơ cần có “năng lực mạnh mẽ về tinh thần, thứ năng lực ấy nó làm cho con người thêm hứng khởi đi tìm cái sự lạ”. Hàn Mặc Tử “đi tìm cái sự lạ” “ở chốn xa xăm, thiêng liêng và huyền bí”. Nhà thơ “nhấn một cung đàn, bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng”, thơ Hàn có một nguồn “sáng lạ”, lời thơ và tâm thế của người thơ rất kỳ dị. Đọc thơ Hàn Mặc Tử, nhà phê bình Hoài Thanh có cảm nhận mình như lạc vào “cái thế giới kỳ dị”, “đi trong mờ mờ”, thấy nguồn thơ của thi sĩ nảy nở thật lạ lùng. Xuân như ý có những câu thơ đẹp một cách lạ lùng”, cảnh vật trong Máu cuồng và hồn điên “không thấy có tí gì giống với cảnh trước mắt. Trời đất này thực của riêng Hàn Mặc Tử trong văn thơ cổ kim không có gì kinh dị hơn.” 28
  29. Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi pháp Nguyễn Thành Ân Trong cái nhìn nghệ thuật của Hàn Mặc Tử, cái sự lạ kia biểu hiện như một cảnh thực, thứ hiện thực ảo. Cái sự lạ trong vũ trụ thơ ấy xuất hiện cùng với tâm trạng ngạc nhiên, ngỡ ngàng của chủ thể trữ tình. Tiếng động sau vùng lau cỏ mọc Tiếng ca chen lấn từ trong ra Áo quần vo xắn lên đầu gối Da thịt, trời ơi! Trắng rợn mình Nụ cười dưới ấy và trên ấy Không hẹn, đồng nhau nở lẳng lơ (Nụ cười) Gió rủ nhau đi trốn cả rồi Nhỏ to, câu chuyện, ô kìa coi Trong lau như có điều chi lạ Hai bóng lung lay thấy cọ mài (Khóm vi lau) Bỗng đêm nay trước cửa bóng trăng quỳ Sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu Lời nguyện, gẫm xanh như màu huyền diệu Não nề lòng viễn khách giữa cơn mơ (Hãy nhập hồn em) Nhà thơ đi tìm cái lạ chưa đủ, anh ta cần phải chiếm lĩnh cho được cái kỳ dị. Hai thứ đó đan xen với nhau tạo ra hứng thơ mạnh mẽ và vô tận. Lời thơ ngậm cứng, không rên rỉ Và máu tim anh vọt láng lai Thơ ở trong lòng reo chẳng ngớt Tiếng vang tha thiết dội muôn nơi Tiếng thông vi vút như van lơn Mây buồn vơ vẩn bay đầu non Ngây tình, bóng liễu câm không nói Trong khóm vi lau có tiếng than (Trên bờ) Tất cả đường thơ mà thi sĩ họ Hàn đi qua, ngay cả Đường thi cũng đã trổ ra những ánh khác lạ. Mỹ học thơ Hàn có thể gói gọn trong hai phạm trù thẩm mỹ: kỳ dị và lạ thường. Sự kỳ dị và khác lạ đó trước hết ở thi ảnh, thi cảm. Nhà thơ Baudelaire từng hết lời ca ngợi những người tự do, biết “bay vào những trường sáng sủa và thanh sạch ” (Lên cao), tôn vinh “người hiểu được ngôn ngữ của những sự vật câm lặng”. Theo Baudelaire, nguyên tắc mĩ học của thơ ca thuộc về nghệ thuật biểu tượng, ông nhấn mạnh chính “trí tưởng tượng đã dạy cho con người cái ý nghĩa tinh thần của màu sắc, của đường nét, của âm thanh, của mùi hương, từ khởi thuỷ nó đã tạo ra phép ẩn dụ”. Đọc 29
  30. Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi pháp Nguyễn Thành Ân thơ Hàn Mặc Tử, ta thấy lời thơ cũng đầy ánh sáng. Thi cảm, thi ảnh được “nuôi mãi trong nguồn ánh sáng thiêng liêng”. Thi nhân “say sưa đi trong mơ ước”, “đi đến cõi ước mơ hoàn toàn”, “ọc ra từng búng thơ sáng láng”. Thế giới thơ Hàn Mặc Tử có vẻ đẹp của một giấc mộng. Verlaine chủ trương giấc mơ hơn thực tại. Hàn Mặc Tử cũng nói nhiều đến giấc mơ, cảnh chiêm bao, tới thế giới không nhìn thấy. Theo Hàn Mặc Tử, ý thơ nảy sinh từ trời mộng, thơ diễn tả “những tiếng ca của tình cảm, của tưởng tượng, của mơ màng” thi sĩ bị ánh sáng của chiêm bao vây riết. Bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ khá tiêu biểu cho khuynh hướng tìm tòi sáng tạo này. Vì rằng, để có được Đây thôn Vỹ Dạ, Hàn Mặc Tử đã phải đối thoại âm thầm với tấm bưu ảnh, đối thoại với đối tượng lặng câm, với tình yêu đơn phương vô vọng. Hình thức đối thoại ảo truyền tả được khát vọng được yêu, được sống mãnh liệt của nhà thơ. Nhà thơ phá vỡ thế độc thoại bên trong để tạo vẻ đối thoại ảo. Vẻ huyền ảo xa vời của thôn Vĩ hiện về trong tâm thức đau thương của một hồn thơ cô đơn. Thi sĩ tưởng tượng ra một cố nhân đang mong chờ mình, mời mình về thôn Vỹ. Thi sĩ mơ tiếng gọi thiết tha trìu mến của người thương, ao ước nghe thấy lời chào mời giục giã của cô gái ấy. Thế giới Đây thôn Vỹ Dạ tràn đầy ánh sáng, thực ảo chập chờn chuyển hoá lẫn nhau. Con thuyền thơ cứ chảy trôi trong thế giới mộng ảo, trong cõi mơ, con người Huế cũng chìm trong mộng ảo. Nếu thơ Xuân Diệu đề cập nhiều đến sắc và hương thì thơ Hàn Mặc Tử nói nhiều về âm thanh và ánh sáng. Chỗ mạnh của Hàn Mặc Tử là cảm nhận được ánh sáng và âm điệu của sự vật. Hàn Mặc Tử quan niệm đời sống bí mật riêng tư của sự vật nằm ở ánh sáng và âm điệu của nó. Hàn Mặc Tử lạc vào thế giới của cái kì dị và lạ thường, thế giới của âm thanh và ánh sáng lạ. Thế giới ấy có cấu trúc riêng, ý nghĩa riêng, quy luật vận động riêng. Chẳng phải vô cớ Hàn Mặc Tử luôn chú ý tới nắng. Nắng trong thơ thi sĩ họ Hàn trở thành tín hiệu báo mùa: Trong làn nắng ửng khói mơ tan (Mùa xuân chín) Nắng ửng có vẻ riêng trong cái nhìn xuân tình của tác giả. Nắng ửng không chỉ báo hiệu bóng xuân sang mà còn đánh dấu khoảnh khắc: mùa xuân bắt đầu chín. Nắng ửng gắn liền với tâm trạng rạo rực xôn xao ở hồn người. Bài thơ Mùa xuân chín đọng lại cái nắng hắt ra từ cõi nhớ. Nắng trong hoài niệm, thứ nắng hoài vọng chín theo sự chín của mùa xuân, tình xuân. Nắng chín dĩ nhiên đẹp, nhưng phảng phất buồn. Đẹp bởi cảnh xuân, tình xuân nồng nàn. Buồn bởi có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi. Trong bài Ngủ với trăng, nhân vật trữ tình khao khát trăng gió và “đi bắt nắng ngừng, nắng reo, nắng cháy”. Nắng chang chang đốt lòng người thực ra là hình ảnh phái sinh của kiểu nắng cháy. Nhưng nếu nắng chang chang loang ra dọc bờ sông trắng, thì nắng ngừng, nắng reo, nắng cháy ở đây lại xuất hiện trong một không gian khá đặc biệt “trên sóng cành, sóng áo cô gì má đỏ hây hây”. Ngừng, reo, cháy ứng với ba cung bậc tình cảm khác nhau của con người: lặng im, xao xuyến và cuồng si. Ba trạng thái tình cảm ấy đồng nhất với ba cảm xúc sáng tạo. Hoá ra, nắng biểu hiện thi hứng, thi cảm của nhà thơ. 30
  31. Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi pháp Nguyễn Thành Ân Nắng trong thơ Hàn Mặc Tử có “tuổi” và có tình. Người ta thường nói: trăng sáng, sao sáng, còn Hàn Mặc Tử lại cảm thấy nắng sao. Nắng reo đã lạ, nắng sao, nắng trong đêm thì lại càng kỳ dị. Có lẽ thứ nắng ấy chỉ xuất hiện trong thế giới thi ca của Hàn Mặc Tử với một tâm thế trữ tình đặc biệt “buồn trong mộng” (Buồn ở đây). Nắng trong thơ Hàn thường gắn với hoài niệm, phảng phất duyên tình: nắng vàng con mắt thấy duyên đâu. Nắng gắn với duyên phận, nắng mang nỗi niềm cô đơn: “không duyên hồ dễ mong theo nắng” (Duyên kỳ ngộ). Nắng, thứ ánh sáng đặc biệt trong thơ Hàn, biến ảo theo cường độ nỗi đau, nỗi nhớ. Biên độ nắng không có giới hạn, rộng mở theo không gian xa cách, theo “thế giới ảo huyền”. Nắng ửng làm “khói mơ tan”, nắng dọi làm “bài thơ cháy”. Ngay cả nắng mai cũng “dìu dịu mối sầu vương” (Duyên kỳ ngộ). Nắng là một loại ánh sáng đặc biệt, “ánh sáng của chiêm bao, huyền diệu” (Chơi giữa mùa trăng). Nắng trở thành tín hiệu thẩm mỹ, báo hiệu “mùa thơ đang chín” (Kêu gọi). Nắng kích thích trí tưởng tượng của nhà thơ bay vào cõi mơ: Nắng càng cao lòng ta càng hừng hực Thơ lên rồi bay quá giải nhàn vân (Duyên kỳ ngộ) Ôi chao thơ ngầm bay theo dải nắng Lộng vào xiêm áo mỏng manh sao (Duyên kỳ ngộ) Sự vận động của nắng tạo ra thi giới của “cái tột cùng”. Nắng vừa hoá giải đau thương vừa ràng rịt nỗi đau. Nắng được nhìn qua lăng kính của hồn và xác. Nắng ơi, nắng có lên cao Làm sao da thịt hồng hào thế kia (Duyên kỳ ngộ) Nói đến hồn, đến thơ không thể không nhắc tới nắng. Nắng hoà quyện với hồn, với thơ. Nắng và hồn ở trong thơ: cái vũ trụ do Hàn Mặc Tử sáng tạo ra. Hàn Mặc Tử ít nói đến nắng thu, nắng hè thi sĩ có ấn tượng nhiều hơn với nắng xuân. Nắng xuân ám ảnh, quấn riết lấy thi sĩ. Xuân trong thi giới của Hàn Mặc Tử cũng khá lạ: xuân mộng, xuân gấm, xuân thơm, xuân lịch sự. Hình tượng “xuân” chẳng qua do con người hoá thân mà thành, nhưng không phải con người trần tục, trần thế mà một người “ngọc”, người của “cõi mộng, cao quí thanh sạch” (Cô gái đồng trinh). Tuổi xuân là Ngọc như ý, tên xuân là Dạ lan hương. Xuân gắn với mơ ước, “xuân tắm nắng tươi” (Tiếng vang), nắng mới. Ánh sáng trong thơ thi sĩ họ Hàn có hình khối, hương sắc chiếm vị trí quan trọng trong thơ, gần như trở thành đơn vị đo đếm thế giới. Bên cạnh ánh sáng của nắng, Hàn Mặc Tử còn thường tả ánh sáng của trăng. Hàn Mặc Tử thường tả ánh sáng trong trẻo của trăng rằm. “Trăng tượng trưng cho một mùa ao ước và hơn nữa, hiện hình của một nguồn khoái lạc chê chán.” (Chơi giữa mùa trăng) Trong trăng có hương thơm, có nhạc, có hơi thở và có tình. Tình thoát ra ở điệu nhạc mênh mang trong bờ bến của chiêm bao. 31
  32. Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi pháp Nguyễn Thành Ân Trong chiêm bao, trong vùng mộng siêu thời gian, đến gió cũng phảng phất những tiếng kêu rên của thương nhớ xa xưa. Thế giới ánh sáng thu hẹp ở hình tượng “trăng”. Thế giới trăng, thế giới của những ao ước nhớ thương hợp thành một thể thống nhất: thế giới nghệ thuật. Trăng nằm sóng soải trên cành liễu Đợi gió đông về để lả lơi Hoa lá ngây tình không muốn động Lòng em hồi hộp chị Hằng ơi (Bẽn lẽn) Trăng nằm, thơ mộng, chông chênh và hư huyền quá. Mà lại nằm sóng soải thì thật táo bạo, gợi tình. Cảm xúc thơ bừng lên, rạo rực men say ái tình. Cái khao khát “cuồng điên” của trăng biểu hiện trong tư thế, tâm trạng, thậm chí cả trong cái ý nghĩ trần thế: để lả lơi. Con người trong thơ Hàn Mặc Tử được bao bọc bằng ánh sáng, bằng huyền diệu, say sưa và ngây ngất vì ánh sáng, bầu trời càng sáng con người càng “hứng trí”. Thậm chí đi trong ánh sáng đê mê, không biết là có mình và nhận mình là ai nữa. Ánh sáng tạo ra ở chủ thể sáng tạo cảm giác siêu thoát hay hư vô. Ánh sáng với vẻ trắng trong, đồng trinh, thanh thoát của nó - trong cảm quan của Hàn Mặc Tử - là hiện thân của Đấng tối linh, của Đức Mẹ. Ánh sáng được ví với thứ ma lực vô song, xô thi sĩ đến bờ huyền diệu. “Mùa trăng bát ngát lòng tôi rực lên cảm hứng”, “từ sự thực đi tới bào ảnh, từ bào ảnh đi tới huyền diệu, và từ huyền diệu đi tới chiêm bao. Cảm giác mông lung đã trùm lên sự vật và cõi thực, bị ánh sánh của chiêm bao vây riết ” (Chiêm bao với sự thực). Ánh sáng vừa vĩnh viễn vừa không vĩnh viễn. Có ánh sáng thực, ánh sáng mộng. Có thứ ánh sáng tan thành bọt, có loại ánh sáng muôn năm mà thi sĩ khao khát chiếm giữ được. Trong cảm quan Hàn Mặc Tử, ánh sáng của các vì tinh tú giống như châu ngọc, hào quang, ánh sáng của sao, trăng hợp lại thành một vùng trời mộng, khí hạo nhiên. Biết bao nhiêu thứ ánh sáng, nổi bật là ánh trăng. Chỗ nào cũng trăng, “tưởng chừng như bầu thế giới cũng đang ngập lụt trong trăng, đang trôi nổi bình bồng đến một địa cầu nào khác cả không gian đều chập chờn những màu sắc phiếu diễu ” Trên con đường sáng láng ấy, Hàn Mặc Tử đi “tìm chân lý ngàn năm” (Chiêm bao với sự thực). Bên cạnh hình ảnh ánh sáng, thơ Hàn Mặc Tử cũng tràn đầy âm thanh. Đó là “tiếng thất thanh rùng rợn”, là “giọng hờn đau trăm vạn nỗi niềm riêng”. Hơn một lần thi sĩ nghe thấy âm thanh kỳ dị ở chốn âm u: Một khối tình nức nở giữa âm u Một hồn đau rã lần theo hương khói Một bài thơ cháy tan trong nắng rọi Một lời run hoi hóp giữa không trung (Trường tương tư) 32
  33. Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi pháp Nguyễn Thành Ân Trường tương tư tái hiện tiếng nói siêu thực, tiếng nói dị thường. Cảm quan về sự tồn tại của cái lạ thường đã xui khiến Hàn Mặc Tử tìm đến thế giới Hư Vô, tới cõi vô cùng. Mới hay cõi siêu hình cao tột bậc Giữa hư vô xây dựng bởi trăng sao (Siêu thoát) Cũng hình như, em hỡi, động Huyền Không Mà đêm nghe, tiếng khóc ở đáy lòng Ở trong phổi trong tim trong hồn nữa (Trường tương tư) Thi nhân nhạy cảm với mọi âm thanh, đặc biệt là âm thanh vang lên từ tư tưởng, âm thanh từ cõi mờ, cõi huyền của cuộc sống. Xuân Diệu bồng bột, đôi mắt xanh non biếc rờn nên nhìn mọi thứ đều tươi mới: Không muốn đi, mãi mãi ở vườn trần, Chân hoá rễ để hút mùa dưới đất. Còn Hàn Mặc Tử cứ đi mãi vào sâu thế giới tâm linh, thế giới huyền hoặc của hồn và máu. Hàn Mặc Tử thấy mọi vật đang ở chặng cuối cùng hoặc đương lao nhanh về ngày tận thế, nên ông thấy trước cả “thế giới âm u”. Hàn Mặc Tử thường tạo ra một thế giới mênh mông, không giới hạn: không gian dày đặc toàn trăng cả Tôi cũng trăng và nàng cũng trăng. Nhà thơ của những Hương thơm và Mật đắng thường nắm lấy tính chất tượng trưng của mọi hiện tượng. Thi nhân đồng hoá thể với Hư Vô: Đây là tất cả người anh tiêu tán Cùng trăng sao bàng bạc xứ mơ say Theo cách diễn đạt của Hàn Mặc Tử, thì Hư vô là một thực tại đặc biệt, có thanh sắc, hình hài: Ánh trăng mỏng quá không che nổi Những vẻ xanh xao của mặt hồ Những nét buồn buồn tơ liễu rủ Những lời năn nỉ của Hư vô Mới hay cõi siêu hình cao tột bực Giữa hư vô xây dựng bởi trăng sao Xa lắm rồi, xa lắm, hãi nhường bao Ai tới đó chẳng mê man thần trí (Huyền ảo) Hàn Mặc Tử viết bằng tưởng tượng và “giấc mơ” trọn vẹn của chính mình. Mọi thứ trong thế giới thơ Hàn Mặc Tử đều huyền ảo. Cái huyền ảo luôn đẹp, bất kỳ cái 33
  34. Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi pháp Nguyễn Thành Ân huyền ảo nào cũng đẹp (André Breton), đọc thơ Hàn Mặc Tử, người đọc phải tư duy và nhìn theo nhà thơ. 5. Không gian vĩnh hằng: Đọc thơ Hàn Mặc Tử ta thấy ông muốn vươn tới một không gian vĩnh hằng tồn tại cùng vũ trụ, cho dù là siêu hình mộng ảo. Đây là khát vọng mảnh liệt nhất của Hàn Mặc Tử. Nhà thơ trải qua tất cả đau thương và rướm máu cả về thể xác lẫn tinh thần để được hồi sinh trong “cõi trời vô thủy vô chung”. Theo quan niệm của thi sĩ thì đó là nơi Trích tiên từng được hưởng hoan lạc vô biên của năm muôn năm và trời muôn trời. Đặc biệt, với Hàn Mặc Tử thì nơi ấy là nơi có “Trời hạo nhiên một cõi”, “Trời cách biệt vô thủy vô chung” có ánh bình minh Bắc Đẩu “chiếu cùng hết khắp ba ngàn thế giới” (Ave Maria). Đó còn là xứ “Say Mơ”, chốn “Phượng Trì”, là “Cung Quế”, “Cung Quảng Hàn”, có “lụa trời ai dệt với ai căng”. Thi sĩ sẽ có y phục lạ nhất, trường cửu nhất trong vũ trụ: Áo ta rách rưới trời không vá Mà bốn mùa trăng mặc vải trăng. (Lang thang) Bốn mùa vần xoay của vũ trụ đều là “xuân” cả “Liên hồ đây bốn mùa xuân cả bốn” (Quần tiên hội) và “Tứ thời xuân ! Tứ thời xuân non nước” (Nguồn thơm). Bốn mùa xuân ấy là: Xuân vô cùng đến ngàn năm ơn phước (Duyên kỳ ngộ) Xuân bay khắp thần trí (Tài hoa) Xuân vô ra không biết bao nhiêu (Cưới xuân cưới vợ) Xuân kỳ lạ ấy “là phong vị tái hòa của năm muôn năm, trời muôn trời trên châu lưu thượng tầng không khí, bàng bạc cả dãi Hà Sa, chen lấn vô tận tâm hồn tạo vật khí xuân là mạch trường xuân bất tử” (Tựa Xuân như ý). Đó là không gian, thời gian sẽ được vẽ ra bằng tiên nghiệm, siêu hình, tiềm thức, siêu cảm mà các tôn giáo gợi ý cho Hàn Mặc Tử: Đây Miên trường, đây Vĩnh cửu Tề phi Cao cao vượt với hai hàng bóng vía Trời nhật nguyệt bắt cầu vồng tứ phía (Đừng cho lòng bay xa) Ở đây nhà thơ sẽ cao giọng: 34
  35. Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi pháp Nguyễn Thành Ân Ta sống mãi với trăng sao gấm vóc Trong nắng thơm trong tiếng nhạc thần bay (Trường thọ) Có thể thấy tất cả đều vĩnh hằng trong một thứ không gian ảo mộng siêu thực trong thơ Hàn Mặc Tử. Những cảm giác và quan niệm về không gian khách quan của đời sống thực đã hoàn toàn biến hóa, “vỡ vụn” thành “muôn mảnh”. Hàn Mặc Tử đã hợp lưu “muôn mảnh” ấy tạo ra một thứ vũ trụ mới tồn tại trong một kiểu không gian nghệ thuật tưởng tượng đầy màu sắc chủ quan. Đây chính là cách bày tỏ khát vọng mảnh liệt muốn trường tồn cùng vũ trụ của một tư duy thơ nhuốm màu siêu thực và tôn giáo duy tâm siêu hình. III. Thời gian nghệ thuật: Thời gian cùng với không gian là những hình thức tồn tại của thế giới và con người, không có gì có thể tồn tại ngoài không gian và thời gian và chính không gian, thời gian làm nên tính xác định cho sự vật. Giữa không gian và thời gian có mối quan hệ biện chứng với nhau, có thể xem thời gian là chiều thứ tư của không gian vậy, thời gian là một đại lượng để xác định quá trình tồn tại, vận động và phát triển của mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới. Vậy thời gian nghệ thuật là gì ? Theo giáo sư Trần Đình Sử: thời gian nghệ thuật là hình tượng thời gian được sáng tạo nên trong tác phẩm. Theo cách hiểu như vậy thì thời gian nghệ thật trong thơ Hàn Mặc Tử chính là hình tượng thời gian mang tính chủ quan của nhà thơ Hàn Mặc Tử, thời gian nghệ thuật trong thơ Hàn Mặc Tử không diễn ra theo mũi tên một chiều của thời gian khách quan mà nó mang tính cảm xúc, tính quan niệm (đầy chất chủ quan) của thi sĩ. 1. Thời gian truy đuổi: Hiếm có ai nói về nỗi cô đơn và bi kịch số phận như Hàn Mặc Tử bằng cách tái hiện không gian nghệ thuật có một không hai như thế này. Dưới áp lực nghiệt ngã của định mệnh, Hàn Mặc Tử như phải “sống” như “cái chết” của mình. Hằng ngày thi sĩ nhìn “chiếc đồng hồ cát số phận” vơi nhanh dần những hạt thời gian còn lại. Bị số phận “truy kích”, Hàn Mặc Tử sáng tạo dồn dập để chạy đua với tử thần. Thế là ám ảnh thời gian truy đuổi hình thành, lúc nào thi sĩ cũng ám ảnh nỗi lo chuyến đò tình ái lỡ làng: Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay (Đây thôn Vỹ Dạ) Nhịp điệu thời gian tâm tưởng là truy đuổi, gấp gáp. Trong thơ Hàn Mặc Tử xuất hiện ra nhiều từ ngữ diễn tả các động thái, các cung bậc tâm trạng ấy: đuổi, bắt, kịp, mau lên, cho mau, tiếc, kìm Trong Tựa Xuân như ý Hàn Mặc Tử viết: “Cho mau lên dồn ánh nguyệt vào đây”, ở một chỗ khác lặp lại “cho mau lời nguyện nóng lên không”. Nhà thơ hoảng hốt trước thời gian trôi đi: 35
  36. Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi pháp Nguyễn Thành Ân Lòng anh luôn mơ hoảng với ngày trôi (Ái khanh hỡi) Sự truy đuổi ngày càng quyết liệt: Tôi gò trăng lại, tôi kìm sao bay (Chơi trên trăng) Bắt ! Bắt ! Thơ bay trong gió loạn (Ước ao) A ha ! Ta đuổi theo trăng (Rượt trăng) Thậm chí là: Ta đi bắt nắng ngừng, nắng reo, nắng cháy (Ngủ với trăng) Tôi vo tiếc mến như vo lụa Tôi giết thời gian trong nắm tay (Chơi trên trăng) Em túm muôn trời lại Em cắn vỡ hương ngàn (Em điên) Đến khi nỗi tuyệt vọng cùng cực thức dậy, nhà thơ tự nhủ lòng: Thôi kéo về đừng cho lòng bay xa (Đừng cho lòng bay xa) Thời gian nghệ thuật luôn mang dấu ấn chủ quan của nhà nghệ sĩ. Với Hàn Mặc Tử nhịp điệu thời gian truy đuổi cứ ẩn hiện theo tâm trạng nhà thơ. Từ Thơ Điên trở về sau, ấn tượng vội vã, truy đuổi ngày càng xuất hiện nhiều hơn với tần số ngày càng dày đặc hơn. 2. Thời gian gấp khúc, đứt gãy: Số phận Hàn Mặc Tử là một chuỗi thời gian dở dang, nhất là về tình yêu và sự sống. Tài hoa và bạc mệnh là một nghịch lý của biết bao tài tử giai nhân như J.Leiba từng viết: Thi nhân bạc đầu sớm hơn ai (Hoa bạc mệnh) 36
  37. Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi pháp Nguyễn Thành Ân Nhưng ở Hàn Mặc Tử điều này quá nghiệt ngã, đau khổ. Ám ảnh về sự gấp khúc quanh co và “đứt gãy” trở thành mô típ thời gian nghệ thuật trong thơ của thi sĩ. Đó là những thay đổi bất ngờ, đột ngột: Tiếng gà gáy rụng trăng đầu hạ Tôi hoảng hồn lên giận sững sờ. (Một miệng trăng) “Trăng rụng” nghĩa là đêm hết, mà thi sĩ lại sống nhiều với trăng đêm, nên cơn giận nổi sôi lên “sững sờ”. Có lúc vầng trăng “ngã ngửa”, “sấp mặt”, “vỡ tan”: Gió rít tầng cao trăng ngã ngửa Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô (Say trăng) Dòng mạch thời gian biến đổi theo tâm tưởng khiến mạch thơ thi nhân liên tục rẽ ngoặc: Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ Em lấy chồng rồi hết ước mơ. (Em lấy chồng) Ngày mai thi nhân sẽ “bỏ” làm thi sĩ, nhưng hôm nay thì vẫn làm thơ. Một trường hợp khác cũng tương tự như vậy, giữa khung cảnh Mùa xuân chín tươi non rạng rỡ niềm vui, các cô thôn nữ đang say sưa trong tiếng hát thì đột nhiên nhà thơ liên tưởng đến mặc cảm chia lìa: Ngày mai trong đám xuân xanh ấy Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi. (Mùa xuân chín) Trong bài Đây thôn Vỹ Dạ, tâm trạng thi nhân đang vui với “nắng mới”, “nắng hàng cau”, với “vườn ai mướt quá xanh như ngọc” và “lá trúc che nang mặt chữ điền” thì nỗi buồn chia ly ập đến cùng trăng đêm. Từ sớm mai vụt biến đến trăng khuya là một sự “đứt gãy” của tâm trạng đầy bất ngờ: Gió theo lối gió mây đường mây Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có trở trăng về kịp tối nay. Đến đoạn cuối thì hoàn toàn là thời gian ám ảnh dày đặc một màu sương khói nhạt nhòa trong tâm tưởng, không thể phân biệt được đêm ngày: Ở đây sương khói mờ nhân ảnh 37
  38. Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi pháp Nguyễn Thành Ân Ai biết tình ai có đậm đà. Phải đây là thời gian đồng hiện, xen lẫn hiện tại, quá khứ và tương lai theo các trạng thái tâm trạng và mặc cảm chia lìa, , đứt gãy, một thứ thời gian “gấp khúc” nội tâm của thi nhân ? Thậm chí tiếng đàn ngân nga du dương ở nơi tiên cảnh vĩnh hằng “chốn nước non thanh tú” cũng đột nhiên phải: Ôi ôi! Hãm bớt cung trầm lại (Cẩm châu duyên) Ngay đến giấc mộng tình Thương Thương đẹp như mơ vây mà bất ngờ nhuốm màu ly biệt: Anh sắp đi và hai hàng lệ ứa Cả đau thương thương dồn dập xót tâm bào ( ) Anh chỉ ngó em trong chốc lát Để hồn thơ rào rạt với mây bay. ( ) Thôi chào em, giờ đi không trở lại Anh xa rồi mà hương phấn vẫn theo luôn ( ) Bỏ nàng đi để hồn ta mang mác ( ) Thôi thôi em mộng tàn theo châu lệ (Duyên kỳ ngộ) Tình yêu nở hoa thơm ngát rồi chợt tàn phai bởi biệt ly bất ngờ xuất hiện. Ám ảnh chia phôi, lỡ làng in dấu trong nhiều hình ảnh, ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử. Nó gợi ra cái gì đột ngột, gấp khúc, đứt gãy trong cảm giác về thời gian ngắn ngủi của cuộc đời người thi sĩ tài hoa mệnh đoản. C. Kết Luận: Hàn Mặc Tử sau khi đạt đến trình độ mỹ học Đường thi cổ điển (Lệ Thanh thi tập) đã lướt qua lãng mạn (Gái quê và phần đầu của Đau thương) bước vào tượng trưng, chớm đến siêu thực (phần sau của Đau thương, Xuân như ý, Thượng thanh khí) rồi cuối cùng trở về với lãng mạn mang màu sắc phương Đông (Cẩm châu duyên, Duyên kỳ ngộ, Quần tiên hội). Đây là một hiện tượng lạ trong phong trào Thơ mới. Chịu ảnh hưởng của các trào lưu lãng mạn, tượng trưng, siêu thực phương Tây, Hàn Mặc Tử đã công bố những tuyên ngôn nghệ thuật “kinh dị”. Đó là trạng thái sáng tạo kỳ lạ theo các quan niệm lãng mạn, tượng trưng, ngả màu siêu thực, đẩy quan niện “nghệ thuật vị nghệ thuật” đến tột đỉnh. Đối tượng thẩm mỹ của “Thơ Điên” là thế giới tiên nghiệm, tiềm thức, chiêm bao. 38
  39. Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi pháp Nguyễn Thành Ân Thơ Hàn Mặc Tử còn là những biến hóa “kinh dị” cua một con người vỡ tung thanh muôn mảnh Hồn, Xác, Trăng, Máu trong những hoàn cảnh đau thương thảm kịch số phận, tạo ra cái Lạ của Hàn Mặc Tử với cảm xúc lãng mạn đắm say và cũng đầy nghịch lý, vừa cuồng si, thèm khác lại vừa mặc cảm khắc kỷ, tuyệt vọng thê thảm mà cũng đầy hoan lạc vô biên. Cõi thơ Hàn Mặc Tử tràn đầy những không gian, thời gian nghệ thuật kỳ lạ. Khao khát tình yêu nồng si cuồng dại đã hình thành không gian điểm hẹn ái tình với những mô típ vườn tình. Thảm kịch số phận ám ảnh thi sĩ tạo thành không gian rướm máu, không gian vây bủa, thời gian truy đuổi. Mặc cảm chia lìa, đoản mệnh trong Hàn Mặc Tử tạo ra thời gian gấp khúc, đứt gãy đột ngột. Cuối cùng là khát vọng hướng dến không gian, thời gian vĩnh hằng Hàn Mặc Tử là hiện tượng độc đáo của phong trào Thơ mới trên những lộ trình thi ca cổ điển, lãng mạn, tượng trưng, siêu thực, kế thừa được những thành tựu văn học dân tộc trong bối cảnh giao lưu phương Đông và phương Tây, thanh lọc tinh hoa của nhân loại vào quá trình hiện đại hóa thi ca mà vẫn thấm đẫm bản sắc Việt Nam. Nghiên cứu thơ Hàn Mặc Tử ở góc độ thi pháp sẽ cho ta một cái nhìn rất tổng thể, bao quát thế giới nghệ thuật của nhà thơ. Mặc dù tiểu luận này chỉ nghiên cứu ở ba phương diện thi pháp là chưa đủ nhưng cũng đã phần nào cho ta thấy được diện mạo của một nhà thơ được xem là lạ nhất, và khi tiếp cận thơ Hàn Mặc Tử ở những phương diện khác chúng ta cũng có những cơ sở nhất định để khám phá, đi sâu hơn nữa vào nghệ thuật trong thơ Hàn Mặc Tử 39
  40. Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi pháp Nguyễn Thành Ân DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO - Chu Quang Tiềm_Tâm lý văn học (Khổng đức Đinh Tấn Dung dịch)_Nxb Đại học quốc gia TP.HCM_TP.HCM_2003. - Chu Văn Sơn_Thơ Điên Hàn Mặc Tử, thi học của cái tột cùng_Tạp chí văn học, số 11_2000. - Đỗ Đức Hiểu_Thi pháp hiện đại_Nxb Hội nhà văn_Hà Nội_2000. - Đỗ Lai Thúy_Con mắt thơ_Nxb Giáo dục_Hà Nội_1997. - Hoàng Ngọc Hiến_Văn học gần và xa_Nxb Giáo dục_TPHCM_2006. - Hoài Anh_Chân dung văn học_Nxb Hội nhà văn_Hà Nội_2001. - Hoài Thanh, Hoài Chân_Thi nhân Việt Nam_Nxb Văn học_Hà Nội_2009. - Lại Nguyên Ân_150 thuật ngữ văn học_Nxb Đại học quốc gia Hà Nội_Hà Nội_2004. - Lê Bá Hán (chủ biên)_Tinh hoa thơ mới, thẩm bình và suy ngẫm_Nxb Giáo dục_Hà Nội_1998. - Lữ Huy Nguyên_Hàn Mặc Tử thơ và đời_Nxb Văn học_Hà Nội_1995. - Lý Hoài Thu (biên soạn)_Tuyển tập Phan Cự Đệ (tập 3)_Nxb Giáo dục_TPHCM_2006. - Ngô Viết Dinh (biên soạn)_Đến với thơ Hàn Mặc Tử_Nxb Thanh niên_Hà Nội_1998. - Nguyễn Thái Hòa_Từ điển tu từ phong cách thi pháp học_Nxb Giáo dục_Hà Nội_2006. - Nguyễn Thị Dư Khánh_Thi pháp học và vấn đề giảng dạy văn học trong nhà trường_Nxb Giáo dục_TPHCM_2006. - Nguyễn Toàn Thắng_Hàn Mặc Tử và nhóm thơ Bình Định_NXb Giáo dục_Hà Nội_2007. - Tôn Thảo Miên (biên soạn)_Hàn Mặc Tử tác phẩm và lời bình_Nxb Văn học_Hà Nội_2007. - Trần Đình Sử_Dẫn luận thi pháp học_NXb Giáo dục_TPHCM_1998. - Trần Thị Huyền Trang_Hàn Mặc Tử, Hương thơm và Mật đắng_Nxb Hội nhà văn_Hà Nội_1997. - Vương Trí Nhàn_Hàn Mặc Tử hôm qua và hôm nay_Nxb Hội nhà văn_Hà Nội_1996. 40
  41. Tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử ở một vài phương diện thi pháp Nguyễn Thành Ân MỤC LỤC Tiêu đề Trang Lời nói đầu 1 A. Giới thiệu về tác giả, tác phẩm: 3 I. Cuộc đời: 3 II. Tác phẩm: 4 B. Tìm hiểu một vài phương diện thi pháp thơ Hàn Mặc Tử: 5 I. Quan niệm nghệ thuật về con người: 6 1. Con người vũ trụ: 6 2. Con người trong những trạng thái cảm xúc nghịch lý 7 3. Con người cô đơn, đau đớn: 8 4. Con người thèm khát ái tình mà lại đầy mặc cảm khắc kỷ: 10 5. Con người phân thân, con người trong tiềm thức: 16 6. Con người mơ ước: 19 II. Không gian nghệ thuật: 20 1. Không gian điểm hẹn ái tình: 20 2. Không gian vây bủa, rớm máu: 23 3. Không gian vượt thoát: 25 4. Không gian kỳ dị lạ thường: 28 5. Không gian vĩnh hằng: 34 III. Thời gian nghệ thuật: 35 1. Thời gian truy đuổi: 35 2. Thời gian gấp khúc, đứt gãy: 36 C. Kết luận: 38 Danh Mục Tài Liệu Tham Khảo 40 Mục Lục 41 41