Tìm hiểu địa danh Ngũ Hành Sơn - Mối liên hệ với làng nghề đá Non Nước

ppt 45 trang phuongnguyen 3360
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tìm hiểu địa danh Ngũ Hành Sơn - Mối liên hệ với làng nghề đá Non Nước", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • ppttim_hieu_dia_danh_ngu_hanh_son_moi_lien_he_voi_lang_nghe_da.ppt

Nội dung text: Tìm hiểu địa danh Ngũ Hành Sơn - Mối liên hệ với làng nghề đá Non Nước

  1. Khoa Địa lí – Địa danh học Bài tập cuối kỳ GVHD :Ths. HOÀNG THỊ DIỆU HUYỀN SVTH : ĐẶNG THỊ HÀ LỚP : 07CDL
  2. 1. Giới thiệu tổng quan về Ngũ Hành Sơn. Đề tài : 2. Các tên gọi theo thời -Tìm hiểu địa danh gian. Ngũ Hành Sơn. 3.Giới thiệu về 5 ngọn núi - Mối liên hệ với làng nghề Ngũ Hành Sơn. đá Non Nước. 4. Mối liên hệ với làng đá Mỹ Nghệ Non Nước.
  3. GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ DANH THẮNG NGŨ HÀNH SƠN Nằm cách trung tâm thành phố Đà Nẵng gần 10km về hướng Đông Nam, quần thể di tích Ngũ Hành Sơn như hòn non bộ khổng lồ sừng sững bên bờ biển đông giữa lòng thành phố năng động, văn minh, hiện đại. Đây là điểm du lịch không thể bỏ qua trên con đường di sản miền Trung, là biểu tượng vĩnh hằng trong lòng mỗi người con quê hương Đà Nẵng, là điểm đến đầy tiềm năng về thiên nhiên, văn hóa, lịch sử, làng nghề, du lịch biển Năm 1980, Bộ Văn hóa (nay là Bộ VHTT&DL) đã xếp hạng khu danh thắng này là di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia. Danh thắng này nằm trên một vùng cát trắng. Về phía đông bắc có làng Hóa Khê, chính đông thuộc ấp Sơn Thủy, làng Quãng Khái, huyện Hòa Vang, tỉnh Quãng Nam ( nay là phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng ).
  4. GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ DANH THẮNG NGŨ HÀNH SƠN Ngũ Hành Sơn, chiếm một vùng đất sát biển Đông Hải và giữa thành phố Đà Nẵng – Hội An, cùng với dãi đất liền bán đảo Sơn Trà, phía bắc là Hải Vân Quan, hướng nam là núi Trà Kiệu, phía tây là dãy Trường Sơn. Ngũ Hành Sơn gồm 5 ngọn núi do thiên nhiên xếp đặt một cách huyền bí trên một bãi đất cát rộng mênh mông, chỉ cách biển 100 thước. Ngũ Hành Sơn, từ trên đỉnh, du khách phóng tầm mắt ra bốn ph ương, hình ảnh một miền trù phú của xứ Ngũ Phụng tề Phi, Tứ Kiệt, Tứ Tuyệt, Tứ Hùng, Tứ Hổ với cảng Tiên Sa huyền thoại, đèo Hải Vân, núi Bà Nà hùng vĩ cùng những giòng sông Thu Bồn, Cổ Cò, Cu Đê hiền hòa quyện với nhau điểm xuyết cho Ngũ Hành Sơn những phụ cảnh đầy chất thơ mộng.
  5. GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ DANH THẮNG NGŨ HÀNH SƠN Ngũ Hành Sơn vì thế, đã tô điểm cho nước Việt Nam một thắng tích kỳ vĩ thu hút hàng triệu, triệu du khách tham quan qua mấy thế kỷ cho đến ngày nay, dòng người trẩy về đay vẫn không dứt. Ngũ Hành Sơn vì thế mà nay tiêu biểu di sản văn hóa đậm bản sắc dân tộc của thành phố Đà Nẵng – thành phố trực thuộc Lễ hội Quan Thế Âm ở trung ương loại I của Việt Nam. Ngũ Hành Sơn
  6. CÁC TÊN GỌI THEO THỜI GIAN Từ xưa, quần thể này được người trong và ngoài nước đặt nhiều tên. Đây là bằng chứng sự quan tâm của người đời trước cảnh trí hùng vĩ này. Trước kia, người Việt đặt tên rất tượng hình; Ngũ Uẩn hay Ngũ Chỉ. Năm ngọn núi như năm ngón tay. Người Pháp gọi “ Les montagnes de marbre”, có nghĩa là Núi Đá Hoa. Ảnh hưởng truyện Tây Du Kí của người Tàu, người ta giải thích na ná với truyện Tây Du Kí. Huyền thoại đức Phật Quan Thế Âm đã dùng pháp khiến Tề Thiên Đại Thánh dù có sức cân đảo vân hàng vạn dặm, vẫn không thoát khỏi bàn tay Đức Phật. Phật Bà Quan Thế Âm còn lưu dấu đến ngày nay và tồn tại mãi. Trong năm ngọn núi, Hỏa Sơn có hai ngọn âm, dương. Người xưa bảo : “ chắc ngón trỏ ( ngón trỏ ứng hỏa ) có tật ! Nên mới xảy ra cớ sự như thế!”.
  7. CÁC TÊN GỌI THEO THỜI GIAN Còn theo thuyết Chiêm Thành, Ngũ Hành Sơn do vỏ trứng của Thần Kim Quy tạo nên. Từ dưới biển thần Kim Quy lên bờ đẻ trứng. Quả trưng nở ra thành năm mảnh và xuất hiện một người con gái rất đẹp còn vỏ trứng sau trở thành Ngũ Uẩn ! Đó là truyền thuyết, là huyền thoại. Còn có nhà khảo cổ sẽ tạo ra lý lẽ. Trở lại với Ngũ Hành Sơn, cha ông ta không ít người đã quan tâm đến Ngũ Hành Sơn. Ngũ Hành Sơn còn có các tên gọi khác như : Non Nước, Ngũ Uẩn Sơn (Núi năm chòm), Bạch Hoa Ngũ Chỉ (Năm ngón tay), núi Cẩm Thạch.
  8. CÁC TÊN GỌI THEO THỜI GIAN Bằng vài một di tích được chạm khắc trên những hòn đá, viên gạch rải rác đó đây trên đỉnh núi mà thỉnh thoảng ta thấy được, tự nó cũng đã nói lên phần nào cung cách sinh hoạt người Chiêm Thành dùng nơi sùng bái các vị thần mà họ tôn thờ, song về mặt tâm linh, hầu như không ai cảm nhận sự linh ứng toát ra từ một vài cổ vật bằng tượng do người Chăm chạm khắc. Những cổ vật Chiêm Thành nơi đây bị tàn phá nặng nề bởi đây là vùng biij ảnh hưởng liên tục của các cuộc chiến tranh Nam tiến từ đời Trần đến thời Lê Thánh Tông, khiến dân Chiêm Thành khổ sở, vất vả vì tính hiếu thắng của vua quan. Họ phải rời bỏ Ngũ Hành Sơn di tản về phía nam Ngũ Hành Sơn từ đó được nhân dân ta lần hồi tôn tạo nên thắng tích vừa là nơi tôn nghiêm, tín ngưỡng của thiện nam tín nữ, không chỉ dành riêng cho mọi người trên cả nước, nhất là những nguời mộ đạo Phật.
  9. CÁC TÊN GỌI THEO THỜI GIAN Sự tôn tạo Ngũ Hành Sơn trãi qua bao thế kỷ mà thoạt đầu, trước khi hồi kinh sau thành công Nam tiến 1471, vua Lê Thánh Tông để lại người anh cùng cha khác mẹ là Trần Tấn Triều trấn nhậm Ngũ Hành Sơn. Ông rất mộ đạo Phật nên thời gian nhậm trị ở đây, ông có công lớn với địa phương này, nhất là với Ngũ Hành Sơn. Lúc ông qua đời, con ông là Lê Công Triệu kế tục sự nghiệp cha và cũng tạo được nhiều công đức. Do vậy, ngày nay du khách viếng Ngũ Hành Sơn, được chiêm ngưỡng “ thần Câu kê Lê Công Triệu” bằng hình tượng, an vị tại chùa Tam Thai – nơi đây các vị trụ trì kế tục bảo quản nhiều sắc, bằng do các vua triều Nguyễn ban về những thành tích công quả do chùa đạt được”.
  10. CÁC TÊN GỌI THEO THỜI GIAN Điều đặc biệt là cả ông Lê Tấn Triều và Lê Công Triệu từng mời được các bặc chân tu, các cao tăng đến trụ trì Ngũ Hành Sơn, lấy nơi đây làm nơi hoằng dương đạo pháp, phổ đôh chốn sinh. Tương truyền, chúa Nguyễn có lần thất trận tại Ngũ Hành Sơn, được các nhà sư hạ sơn cứu ngài thoát nạn cùng một số quân binh đáng kể. Vì thế, khi ngày lên ngôi vua, ngài liền ban sắc phong cho Ngũ Hành Sơn, nhất là Hòn Thủy Sơn hưởng được ân huệ đặc biệt trong việc hoằng dương đạo pháp. Vaò thời Minh Mệnh, cảnh chùa ở Ngũ Hành Sơn đã có ảnh hưởng lớn lao cho việc quy y của công chúa, em Minh Mệnh. Điều này rất có ý nghĩa về uy tín của chùa đới với triều điều, đối với nhân dân. Tâm nguyện của công chúa đã khiến nhà vua cũng bằng lòng, không gây khó khăn nào cho việc tu hành của công chúa.
  11. CÁC TÊN GỌI THEO THỜI GIAN Sinh thời, vua Minh Mệnh cũng thường vào hương khói, lễ phật tại Tam thai, cho tôn tạo khang trang chùa này và xây điện Hoa Nghiêm, khắc và sơn lại những gì đã hư hỏng, mọt nát. Ngài còn cho tu sửa lại các chùa cùng các, đúc chuông, đúc tượng, xây cất hahf cung tại đây gọi là “Động Thiên Phước Địa”. Đồng thời, ngài còn cho tu sữa lại các chùa, bị hư hại dưới triều tây sơn, ân tứ rất nhiều cho các nhà chù cùng các vị sư sãi tu hành tại đấy. Từ hiều thế kỷ trước, các du khách xem Ngũ Hành Sơn là bức tranh hài hòa giữa cảnh trí thiên nhiên với cái hồn thoát tục để rồi lưu lại trên nhiều vách đá nhưng thi tứ trác tuyệt khen ngợi. Ngày nay, tuy có những bài thơ đã bị nhòe theo thời gian nhưng đó là những “chứng tích sống” gợi cho du khách cảm nhận được giá trị của một danh thắng đã khác nhiều dấu ấn vàng son trong tâm hồn du khách tham quan cảnh này.
  12. CÁC TÊN GỌI THEO THỜI GIAN Nơi đây chỉ có lúc chiến tranh mới thưa khách hành hương, mà ta có thể biết được qua sử sách trong thời nhân dân Quãng Nam – Đà Nẵng, nhân dân cả nước ;ao vào cuộc chiến bảo vệ Tổ quốc. Chính nơi đây cũng là nơi thuận lợi cho các chí sĩ cách mạng xua và cận đại của QN – ĐN chống đế quốc, thực dân Pháp, Mỹ trong thế kỷ XX. Trước kia có các cụ hoạt động cho phong trào Nghĩa hội, phong trào duy tân, đông du dưới sự lãnh đạo cảu các chí sĩ Nguyễn Duy Hiệu , Phan Châu Trinh, Trần Cao Vân được báo chí ca ngợi chiến tích vì nước quên mình. .
  13. CÁC TÊN GỌI THEO THỜI GIAN Ngày nay, Ngũ hành Sơn là di sản văn hóa quốc gia được nhà nước quan tâm bảo vệ, phát huy tiềm năng to lớn về nghành du lịch tại đây để giới thiệu ra các nước trên thế giới và thắng tích mang đậm bản sắc dân tộc – Ngũ Hành Sơn – vừa do thiên nhiên, vừa do bàn tay bồi trúc của nhân dân QN-ĐN, của chính quyền các cấp giữ nguyên cảnh đáng giữ, tu bổ cái đáng tu bổ và tôn tạo cái đáng tôn tạo khiến cho cảnh trí nơi đây một danh thắng vô giá của nước Việt Nam, ngày càng hoành tráng, thu hút khách thập phương, trong và ngoài nước đổ về đây chiêm ngưỡng ngày càng đông.
  14. GIỚI THIỆU VỀ 5 NGỌN NÚI CỦA NGŨ HÀNH SƠN Ngũ Hành Sơn là tên gọi chung của năm ngọn núi thuộc Đà Nẵng. Đây là nhóm núi đá (trong đó có cả đá cẩm thạch) nằm kề với biển, liền sông được vua Minh Mạng đặt tên mỗi ngọn núi tượng trưng cho các yếu tố cấu thành vũ trụ (được chia làm 2 loại: Âm Hỏa sơn và Dương Hỏa sơn) va Thổ sơn: + Thủy Sơn + Hỏa Sơn + Kim Sơn + Thổ Sơn + Mộc Sơn
  15. GIỚI THIỆU VỀ 5 NGỌN NÚI CỦA NGŨ HÀNH SƠN Sở dĩ có những động, những hang được cư dân địa phương ưu ái đặt tên hang, động ông Lê, Phủ Lê là do những nơi này, trước kia cụ Lê Bá Trinh đỗ cưr nhân xong, không chịu nhận lệnh bổ dụng của triều đình di Tri phủ, cùng với các cụ Phan Châu Trinh, Trần Bá Cáp, Huỳnh Thúc Kháng tổ chức phong trào Duy Tân. Chính thời điểm ấy, cụ Lê Bá Trinh đã rời gia đình ở Hải Châu – Đà Nẵng, vào đây ẩn mình hoạt động cho phong trào. Việc làm đại nghĩa của cụ khiến nhân dân quanh vùng kính trọng, đặt tên cho các hang động để lưu lại sự tích cho đời, và đẻ tỏ lòng biết ơn cụ.
  16. GIỚI THIỆU VỀ 5 NGỌN NÚI CỦA NGŨ HÀNH SƠN Kim sơn (Metall - metal) là hòn núi khiêm tốn nhất trong 5 ngọn núi kéo dài từ đông sang tây, sông Trường nối dài ra sông Đà Nẵng, có đò Bến ngự ngày xưa Vua chúa thường cập bến nơi đây để ngọan cảnh, qua thời gian biển dâu biến thành ruộng đồng, sông Trường có tên „Lộ Cảnh Giang là sông Cổ Cò“, đã bị vùi lấp biến thành ruộng hoặc hồ nước còn dấu tích của những đoạn sông chưa bị lấp kín Mộc sơn (Holz - wood) phiá đông nam nằm song song với núi Thủy sơn dù mang tên là mộc, nhưng cây cối mọc rất ít núi cũng có hang động nhỏ, Mộc sơn có khối đá cẩm thạch trắng giống hình người
  17. GIỚI THIỆU VỀ 5 NGỌN NÚI CỦA NGŨ HÀNH SƠN Thuỷ sơn (Wasser - water) phiá đông bắc là núi đẹp nhất, du khách thường đến ngoạn cảnh gọi là Chùa Non Nước, phong cảnh hữu tình có thể nói núi Thủy sơn nằm dài từ đông sang tây rộng 15 ha, có nhiều Chùa được xây cất lâu đời, có động Thạch nhũ, có hai chùa đẹp chùa Tam Thai và chùa Linh Ứng, đường lên núi làm bằng từng cấp lót đá, trên đỉnh 3 ngọn núi mang tên là „Tam Thai“ bởi vì nó giống như „Sao Tam Thai“ tức là 3 ngôi sao làm thành cái đuôi của chùm sao Đại Hùng Tinh. Du khách từ vùng biển muốn lên thăm Linh Ứng phải bước lên khoảng 108 tầng cấp, nếu đến chùa Tam Thai nằm ở phiá nam phải đi xa hơn những tầng cấp dài 156 bậc. Ngày nay phần lớn du khách đến Thuỷ sơn bằng xe từ đường Huyền Trân, hai bên đường là làng chuyên về nghề điêu khắc tạc tượng, bằng đá cẩm thạch
  18. GIỚI THIỆU VỀ 5 NGỌN NÚI CỦA NGŨ HÀNH SƠN Hỏa sơn (Feuer - fire) ngọn núi hướng về phiá tây nam sườn núi hiểm dốc hang động hoàn toàn im lặng, đối diện với hòn Kim Sơn, bên trái đường Sư Vạn Hạnh, trên dãy núi Hỏa sơn còn lại những đống gạch vụn từng mảnh hay đôi khi nguyên vẹn, trong những hố đá gạch sụp lở đó là di tích đền tháp của người Chiêm Thành. Hoả sơn nơi người ta khai thác lấy đá cẩm thạch. Đá cẩm thạch non nước có nhiều vân, sắc đẹp hồng, xám, trắng, những loại đá khác nhau rất hữu ích cho công nghiệp, đá vụn để trãi đường, tô tường nhà. Hỏa Sơn gồm có một hòn Âm và một hòn Dương, nối liền với nhau bằng một đường đá thiên tạo nhô cao hẳn lên. Hòn Âm Hỏa Sơn nằm phía đông, gần đường Lê Văn Hiến, chóp núi tròn nhô lên cao hơn. Sườn núi có nhiều thớ đá nằm nghiêng và chạy nghiêng cắt ra từng đoạn, cây cối mọc ở các kẻ đá, ở mỏm núi phía đông có một cái hang thông từ sườn phía nam ra sườn phía bắc. Nhân dân địa phương thường đi theo đường này đến các hòn Kim Sơn và Thổ Sơn.
  19. GIỚI THIỆU VỀ 5 NGỌN NÚI CỦA NGŨ HÀNH SƠN Hòn Dương Hỏa Sơn nằm ở phía tây. Ngày xưa, khi còn giao lưu được giữa Hội An và Đà Nẵng bằng đường thủy, ở đây có một bến sông, ghe thuyền đi về buôn bán vô cùng tấp nập. Trên bờ sông, sát chân hòn Dương Hỏa Sơn có khu miếu Ông Chài, hiện đã bị đổ nát. Tên dân dã "núi Ông Chài" có thể bắt nguồn từ đó. Tại một điểm cao trên sườn núi cheo leo, vách đá thẳng đứng, phía bắc Dương Hỏa Sơn nhìn về phía Kim Sơn, có ba chữ Hán lớn, nhìn từ xa rất rõ "Dương Hoả Sơn" và một dòng chữ nhỏ phải đến gần mới thấy : "Sắc Minh mạng thập bát niên thất nguyệt nhật cát lợi".
  20. GIỚI THIỆU VỀ 5 NGỌN NÚI CỦA NGŨ HÀNH SƠN Thổ sơn (Erde - earth) là núi thấp nằm chính giữa có dạng vuông, cạnh không đều nhau, Thổ sơn không có phong cảnh đẹp chỉ có đất sét đỏ và đá cát lẫn lộn. Theo truyền thuyết Thổ sơn là nơi linh địa ngày xưa người Chiêm Thành đồn trú nơi đây, còn tìm thấy những nét về văn minh người Chiêm Thành điêu khắc vào đá như một cứ điạ từ đó xuất phát đi cướp phá các vùng biển có tàu buôn đi từ Trung hoa xuống đến vùng biển Mã lai. Thổ sơn thấp bao quanh những ngọn núi cao hơn.
  21. MỐI LIÊN HỆ VỚI LÀNG ĐÁ MỸ NGHỆ NON NƯỚC Có lẽ không ai đến Ngũ Hành Sơn mà không ghé thăm làng mỹ nghệ Non Nước. Đó là một nơi sản xuất đồ mỹ nghệ bằng đá cẩm thạch nổi tiếng khắp cả nước và cả nước ngoài. Làng đá mỹ nghệ Non Nước nằm ở phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng là một trong số rất ít làng nghề truyền thống còn lại trên địa bàn thành phố và cũng là làng nghề có quy mô hoạt động lớn nhất và có tiềm năng phát triển nhất hiện nay. Mỗi lần chế tác tượng, những người thợ đá Non Nước lại nhớ đến công ơn của người đầu tiên khai sáng làng nghề
  22. MỐI LIÊN HỆ VỚI LÀNG ĐÁ MỸ NGHỆ NON NƯỚC Qua các nguồn tư liệu và theo nhân dân địa phương cho biết thì nhiều làng cũ của phường Hoà Hải, quận Ngũ Hành Sơn hiện nay, được thành lập vào khoảng cuối thế kỷ XVII, một số ít làng có thể xuất hiện vào cuối thế kỷ 16, khi Đoan quận công Nguyễn Hoàng vào trấn thủ xứ Thuận - Quảng, bắt đầu xây dựng cơ sở cát cứ và thực hiện chính sách khai hoang lập làng. Gần đây qua tài liệu văn bia mới phát hiện cho biết danh xưng Quán Khái xã (làng Quán Khái), ra đời muộn nhất cũng vào nửa cuối thế kỷ XVII, như văn bia chùa Phổ Khánh ở xã Đại Hoà, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Văn bia được dựng vào năm Mậu Ngọ, Vĩnh Trị thứ 3 (tức thời vua Lê Huy Tông - 1678)
  23. MỐI LIÊN HỆ VỚI LÀNG ĐÁ MỸ NGHỆ NON NƯỚC Nội dung bia nói về nhân dân làng Ái Nghĩa cúng ruộng đất cho chùa, còn người thợ đá khắc bài văn trên bia, quê quán ở tại Quán Khái xã. Như vậy, lúc bấy giờ đã có thợ điêu khắc đá của làng Quán Khái đi vào Ái Nghĩa (nay thuộc huyện Đại Lộc) để khắc bia cho làng này, điều đó cũng cho thấy, ít ra thì làng Quán Khái đã thành lập trước đó một khoảng thời gian khá lâu rồi. Đến thế kỷ XVIII, làng Quán Khái được chia làm hai làng, đó là làng Quán Khái Tây giáp và Quán Khái Đông giáp như sách Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn còn ghi lại.
  24. MỐI LIÊN HỆ VỚI LÀNG ĐÁ MỸ NGHỆ NON NƯỚC Trong hai làng này thì chỉ có làng Quán Khái Đông (hay Khái Đông), nhân dân ngoài làm ruộng, vẫn tiếp tục làm nghề điêu khắc đá, còn nhân dân ở làng Quán Khái Tây thì chỉ thuần nghề nông. Sau cách mạng tháng Tám (1945), làng Khái Đông thuộc xã An Trung, huyện Hoà Vang. Năm 1975 đến năm 1996 làng Khái Đông thuộc xã Hoà Hải, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Từ năm 1997 đến nay thì gọi là Khối 5 Khái Đông, thuộc phường Hoà Hải, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng. Làng nằm cách chân núi Ngũ Hành Sơn về phía Nam khoảng 2km.
  25. MỐI LIÊN HỆ VỚI LÀNG ĐÁ MỸ NGHỆ NON NƯỚC Làng Khái Đông ngày xưa rất rộng, diện tích ước chừng hơn ngàn mẫu, có thể nói diện tích phường Hoà Hải hiện nay phần lớn là đất của làng Khái Đông xưa. Làng được chia làm 4 xóm: xóm Trung, xóm Tây, xóm Nam và xóm Phước Hải. Về địa giới, phía Bắc làng Khái Đông giáp với núi Ngũ Hành Sơn, lúc bấy giờ thuộc làng Khuê Bắc (nay thuộc phường Hoà Hải), phía Tây giáp với làng Quán Khái Tây (nay là phường Hoà Quý), phía Đông giáp với làng Tân Lưu và biển Đông. Còn phía Nam giáp với làng Tứ Câu, Cẩm Sa (nay thuộc xã Điện Ngọc, Điện Nam, huyện Điện Bàn).
  26. MỐI LIÊN HỆ VỚI LÀNG ĐÁ MỸ NGHỆ NON NƯỚC Nằm chắn ngang phía bắc làng Khái Đông là núi Ngũ Hành Sơn, thường gọi là núi Non Nước. Đây là cụm núi đá vôi với năm ngọn gồm Thuỷ Sơn (núi Chùa), Mộc Sơ (núi Mồng Gà), Kim Sơ (núi Đá Chồng), Thổ Sơn (núi Ông Biền) và Hoả Sơn (núi Ông Chài). Trong đó ngọn Thuỷ Sơn là cao nhất, khoảng 300m so với mặt nước biển. Trong núi có nhiều hang động tự nhiên rất đẹp. Với chất liệu đá cẩm thạch nhiều màu sắc và có độ dẻo, nên núi Ngũ Hành Sơn chính là nguồn nguyên liệu mà nhân dân làng Quán Khái Đông trong buổi đầu lập nghiệp đã khai thác và chế tác thành những công cụ, vật dụng phục vụ cho đời sống, sinh hoạt và sản xuất của mình, dần dần hình thành nên làng nghề điêu khắc đá nổi tiếng của xứ Quảng.
  27. MỐI LIÊN HỆ VỚI LÀNG ĐÁ MỸ NGHỆ NON NƯỚC Nhân dân Khái Đông từ nhiều thế kỷ trước, sau khi khai phá đất đai lập làng, đã xây dựng đình làng để thờ thần Thành Hoàng làng và các vị có công khai phá đất đai lập làng. Đình Quán Khái Đông dài hơn 31m và rộng khoảng 20m. Cùng với việc xây dựng đình, nhân dân còn xây dựng chùa Thái Bình, nhà thờ tổ nghề điêu khắc đá, nhà thờ họ, đền miếu và chợ làng. Theo các cụ cao niên trong làng kể lại, chợ Quán Khái Đông ngày trước còn có tên là chợ đình (vì xây dựng gần đình) là chợ làng rất sầm uất, nằm bên bờ sông Cổ Cò, nên thường ngày trên bến, dưới thuyền kẻ buôn, người bán tấp nập. Chợ còn là đầu mối giao lưu buôn bán giữa Đà Nẵng và Hội An cũng như nhiều vùng phụ cận khác. Trong kháng chiến chống Pháp, đình làng Quán Khái Đông, chùa Thái Bình và chợ Quán Khái Đông bị giặc đốt phá triệt hạ. Hiện nay đình Quán Khái chỉ còn lại nền móng, còn chùa Thái Bình, nhà thờ Tổ nghề đá, thì được xây dựng lại vào năm 1957 và chợ Quán Khái Đông di dời ra gần khu vực cầu Biện, cách chợ cũ hơn 1km.
  28. MỐI LIÊN HỆ VỚI LÀNG ĐÁ MỸ NGHỆ NON NƯỚC Ngày trước dân làng Quán Khái Đông chủ yếu sống bằng nông nghiệp, còn nghề điêu khắc đá là nghề phụ trong những lúc nông nhàn. Trong những năm chiến tranh, nhất là vào những năm cuối thập niên 50 của thế kỷ XX, dân số làng Quán Khái Đông có sự biến động. Một bộ phận nhân dân di tản ra định cư dưới chân núi Ngũ Hành Sơn, thuộc ấp Đông Hải của làng Khuê Bắc, tiếp tục sinh sống bằng nghề điêu khắc đá cổ truyền và dần hình thành nên làng đá mỹ nghệ Non Nước ngày nay. Khi tìm hiểu về sự ra đời của làng nghề điêu khắc đá truyền thống Quán Khái Đông, người ta đã khảo sát và nghiên cứu về nguồn tài liệu văn bia viết bằng chữ Hán - Nôm, bởi đây chính là nguồn tư liệu quan trọng, vừa mang tính thời gian (niên đại), vừa phản ánh tính nghề nghiệp, liên quan trực tiếp đến lịch sử hình thành làng nghề điêu khắc đá.
  29. MỐI LIÊN HỆ VỚI LÀNG ĐÁ MỸ NGHỆ NON NƯỚC Hiện nay, trên đất Khái Đông nói riêng, phường Hoà Hải nói chung còn lưu lại nhiều bia ký, bia mộ được làm bằng đá cẩm thạch và sa thạch. Trên núi Thuỷ Sơn có bia “Phổ Đà Sơn Linh Trung Phật” và bia “Ngũ Uẩn Sơn Cổ Tích Phật Diệt Lạc”. Bia “Phổ Đà Sơn Linh Trung Phật” được người thợ đá Quán Khái tạc trực tiếp vào vách động Hoa Nghiêm, bia nói về nhân dân các làng xã ở chung quanh núi Ngũ Hành Sơn và Hội An, trong đó có tên các thương nhân người Nhật Bản và Trung Hoa đóng góp tiền của xây dựng chùa Phổ Đà, bia được lập vào năm Canh Thìn (1640). Còn bia “Ngũ Uẩn Sơn Cổ Tích Phật Diệt Lạc” được tạc vào vách động Vân Thông, nội dung nói về sự tích đức phật, bia được lạp vào năm Tân Tỵ (1641). Cả hai bia đều được chạm trổ và trang trí đẹp, bài văn khắc giữa lòng bia là chữ Hán theo lối chân tự.
  30. MỐI LIÊN HỆ VỚI LÀNG ĐÁ MỸ NGHỆ NON NƯỚC Cũng như nhiều làng xã Việt Nam cổ truyền khác, thuở mới lập làng, dân Quán Khái chú tâm vào nghề nông, quanh năm suốt tháng bám ruộng đồng, gian khổ với cuộc mưu sinh. Rồi những ngày mưa gió hay khi việc đồng áng rảnh rỗi, với nguồn nguyên liệu đá sẵn có từ núi Ngũ Hành Sơn, họ lại mang vác đồ nghề ra đục đẽo, tạo ra các đồ dùng thiết yếu cho gia đình và chỉ vẽ cho con cháu cái nghề của tổ tiên, cha ông để lại, nhắc nhở gốc gác quê hương và dòng họ của mình. Buổi đầu nghề này chỉ được xem là nghề phụ, phổ biến trong phạm vi gia đình, với tính chất cha truyền con nối. Cả làng lúc bấy giờ chỉ có khoảng 5-6 gia đình làm nghề. Do kinh tế tự cung, tự cấp, việc giao lưu buôn bán chưa phát triển, nên người dân Quán Khái quanh năm chỉ làm ra những vật dụng như bia mộ, bia ký, cối giã, chì lưới và các dụng cụ phục vụ cho trồng trọt trong nông nghiệp Sang thế kỷ XVIII, khi có sự chia tách làng, thì chỉ người dân làng Quán Khái Đông còn giữ nghiệp cổ truyền, tiếp tục làm nghề điêu khắc đá. Họ sang phía Hoả Sơn che lều trại để khai thác đá núi và đẽo gọt thành các sản phẩm phục vụ cho nhu cầu của nhân dân địa phương.
  31. MỐI LIÊN HỆ VỚI LÀNG ĐÁ MỸ NGHỆ NON NƯỚC Đầu thế kỷ XIX, khi nghề đá làng Quán Khái Đông có phát triển khá hơn, cả làng lúc này có khoảng 10 đến 15 gia đình làm nghề, tập trung chủ yếu ở xóm Trung, sau đó là xóm Tây và xóm Phước Hải, nhưng loại hình sản phẩm vẫn chưa có sự đột biến gì lớn, chủ yếu vẫn là các sản phẩm dân dụng. Thế rồi trong những thập niên tiếp theo, triều đình nhà Nguyễn tổ chức tuyển lính thợ để phục vụ cho việc xây dựng lăng tẩm, cung điện ở kinh đô Phú Xuân, trong số đó có người thợ đá Quán Khái Đông, tên là Huỳnh Bá Triêm (còn gọi là ông Cửu Đàn). Trong thời gian làm việc tại kinh đô, ông để ý thấy những người thợ đá khắc chạm nhiều bộ ấm trà rất đẹp. Với tư chất thông minh, ham học hỏi, ông đã xem xét cặn kẽ cách chế tác. Khi mãn hạn lính, ông trở về làng và nghiên cứu chế tác thành công bộ ấm chén, khay trà bằng đá vân đỏ, mở đường cho việc làm đồ đá mỹ nghệ, với kỹ thuật chế tác nhẹ nhàng, ít tốn nguyên liệu mà sản phẩm lại đẹp, đa dạng về loại hình. Từ đây, người thợ đá Quán Khái Đông đã toả ra, đi làm nghề tại nhiều địa phương khác. Vì vậy ngày nay dân làng vẫn còn truyền tụng câu ca: Lấy chồng thợ đá ăn chi Mang ba mũi xó, xách đi, xách về Em ơi, đừng nói mà quê Lấy chồng thợ đá có nghề trong tay Ra đi chân dép, chân giày Làng nào, xã nấy, vòng tay thưa thầy.
  32. MỐI LIÊN HỆ VỚI LÀNG ĐÁ MỸ NGHỆ NON NƯỚC Thợ đá làng Quán Khái Đông bắt đầu nhận lãnh toàn bộ việc làm đá, như xây lăng mộ, làm các trụ biểu, bình phong, làm đá hoa lát nền, làm mặt bàn, ghế, đồ thợ tự cho đình, chùa, miếu mạo và kể cả cho các gia đình khá giả cần trang trí vườn tược, nhà cửa. Chính nhu cầu ngày càng đòi hỏi nhân công nên nghề đá Quán Khái Đông ngày một phát triển phát triển thêm lên. Đến cuối thế kỷ XIX, cụ Hương Sum tên thật là Huỳnh Đàn, đã tạc thành công tượng sư tử, sau khi cụ vào Sài Gòn xem xét, tìm hiểu và về bắt chước làm theo. Sang đầu thế kỷ XX, do thị hiếu của du khách và nhất là Bảo tàng Chăm được người Pháp xây dựng, trong đó trưng bày rất nhiều tác phẩm nghệ thuật điêu khắc Chăm, nên các nghệ nhân nghĩ đến việc phục chế lại và tạc tượng để bán cho người Pháp. Để có nguồn nguyên liệu đá sa thạch cùng chất với tượng Chăm, họ phải lăn lội vào vùng Đại Lộc, Duy Xuyên để tìm nguồn đá. Người có công xây dựng các tác phẩm theo theo mô típ tượng nghệ thuật Chăm lúc bấy giờ là cụ Nguyễn Chất, người đã mở đường cho việc khắc chạm tượng người, tượng thú vật và làm đồ mỹ nghệ để bán
  33. MỐI LIÊN HỆ VỚI LÀNG ĐÁ MỸ NGHỆ NON NƯỚC Với mục đích tạo ra nhiều sản phẩm với các chủng loại khác nhau, các thợ điêu khắc đã sáng tạo ra cách nhuộm đá, tạo thêm những chiếc vòng đeo tay xinh xắn từ màu trắng bạch nhuộm phơn phớt xanh, trông như những vòng ngọc bích, hồng ngọc hay mã não Trong những năm kháng chiến chống Pháp, do nhu cầu về in ấn tài liệu, sách vở nên nghề in thạch bản xuất hiện. người thợ đá Quán Khái Đông ngày đêm lo sản xuất những phiến đá vừa trắng, vừa rộng, vừa đủ điều kiện cho kỹ thuật in. Lúc bấy giờ nghề in thạch bản đã giải quyết nhu cầu sách vở, tài liệu cho các trường học, công văn, giấy tờ các loại cho các ngành quân, dân, chính của Liên khu 5.
  34. MỐI LIÊN HỆ VỚI LÀNG ĐÁ MỸ NGHỆ NON NƯỚC Bước vào thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, do hoàn cảnh của cuộc chiến tranh, nhiều hộ làm đá ở Ấp Trung, Ấp Tây phải chuyển gia đình đến sinh sống dưới chân núi Ngũ Hành Sơn thuộc làng Khuê Bắc và mặc dầu gánh chịu hậu quả nặng nề của cuộc kháng chiến nhưng những người thợ đá Quán Khái Đông vẫn kiên nhẫn duy trì nghề điêu khắc truyền thống để vừa có thu nhập đảm bảo cho cuộc sống gia đình, vừa đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến. Để liên kết giúp đỡ nhau, họ lập hiệp hội kỹ nghệ nghề đá, một tổ chức tự nguyện nhằm mục đích bảo vệ, duy trì và phát triển nghề đá. Với việc lập hiệp hội kỹ nghệ nghề đá, làng nghề đã có những bước phát triển mới, đã sản xuất nhiều loại hình sản phẩm với trình độ kỹ thuật chế tác cao hơn trước. Người dân làm nghề đá Quán Khái Đông với bộ phận ra định cư tại làng Khuê Bắc đã lấy nghề đá làm nghề sống chính, dần dần hình thành tại đây làng đá mỹ nghệ, gọi là làng đá mỹ nghệ Non Nước.
  35. MỐI LIÊN HỆ VỚI LÀNG ĐÁ MỸ NGHỆ NON NƯỚC Sau năm 1975, khi đất nước hoà bình, thống nhất, hợp tác xã đá mỹ nghệ Non Nước được thành lập và hoạt động với 130 hộ xã viên, trong đó thợ điêu khắc có 150 người, còn lại hầu hết là lao động phổ thông. Sản phẩm lúc bấy giờ chủ yếu là vật liệu xây dựng, nguyên liệu khai thác tại chỗ, sản xuất theo kinh nghiệm truyền thống. Các sản phẩm mỹ nghệ lúc đó có kích thước nhỏ gọn, số lượng chưa nhiều, chủ yếu là hàng lưu niệm cho du khách trong nước và quốc tế khi đến tham quan khu di tích danh thắng Ngũ Hành Sơn. Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế theo cơ chế thị trường, Hợp tác xã đá mỹ nghệ Non Nước do không chuyển đổi kịp với cơ chế mới nên thua lỗ và giải thể. Một số hộ kinh doanh cá thể do nhạy bén và thích nghi với cơ chế mới nên phát triển mạnh cả về quy mô sản xuất lẫn cơ cấu mặt hàng. Các sản phẩm làm ra có thị trường tiêu thụ, không những trong nước mà còn ở nước ngoài như Đài Loan, Hồng Kông, Pháp, Úc
  36. MỐI LIÊN HỆ VỚI LÀNG ĐÁ MỸ NGHỆ NON NƯỚC Như vậy, làng đá mỹ nghệ tại Non Nước - Ngũ Hành Sơn là một trong những làng nghề truyền thống có giá trị văn hóa, nghệ thuật cao, tồn tại và phát triển khoảng 400 năm, góp phần làm nên diện mạo văn hóa đặc trưng tại Ngũ Hành Sơn và từ lâu là sản phẩm du lịch độc đáo đối với khách hành hương, du lịch. Làng đá mỹ nghệ Non Nước ngày nay đã bước tiếp nối của làng nghề điêu khắc đá truyền thống Quán Khái Đông xưa, hiện phân bố dọc theo các tuyến đường chính của phường Hoà Hải như đường Lê Văn Hiến, đường Huyền Trân công chúa, đường 538, trên diện tích gần 3km, với 314 cơ sở sản xuất và buôn bán đồ đá mỹ nghệ, trong đó đường Huyền Trân công chúa - tuyến đường chính cho du khách tham quan du lịch - có tới 150 hộ, chiếm gần 50% hộ sản xuất kinh doanh của làng nghề.
  37. MỐI LIÊN HỆ VỚI LÀNG ĐÁ MỸ NGHỆ NON NƯỚC Với bề dày truyền thống trên dưới 400 năm, kể từ ngày một bộ phận dân cư vùng Thanh - Nghệ theo bước đường “Nam tiến” mở nước của nhà Lê đến vùng núi Ngũ Hành Sơn lập làng, lập nghiệp, các thế hệ nghệ nhân làng đá mỹ nghệ Non Nước đã sáng tạo ra nhiều loại hình sản phẩm mỹ nghệ độc đáo, không những chỉ phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt vật chất mà còn đáp ứng nhu cầu thưởng thức các giá trị tinh thần. Từ các sản phẩm thô sơ, giản dị với quy trình chế tác đơn giản chủ yếu làm bằng tay. Ngày nay các sản phẩm của làng nghề được chế tác với quy trình phức tạp, nhiều công đoạn được thay thế bằng máy móc tinh vi, hiện đại, đã góp phần làm ra nhiều sản phẩm có giá trị không những về mặt kinh tế, mà còn mang cả những giá trị đặc sắc, tiêu biểu về mỹ thuật. Thông qua bàn tay tài hoa và khối óc thông minh, đức tính lao động cần cù, bền bỉ sáng tạo của các nghệ nhân, hiện nay các sản phẩm truyền thống của làng nghề đá mỹ nghệ Non Nước đã được du khách ở nhiều nước trên thế giới biết đến, qua đó góp phần vào việc tuyên truyền, quảng bá những giá trị đặc trưng của nền văn hoá dân tộc Việt Nam. “ Nghề điêu khắc đá mỹ nghệ Non Nước đã vươn tới đỉnh cao nghệ thuật, không chỉ điêu khắc văn bia mà còn tạo tác các tượng đài, tạo tác khá phong phú các hình tượng, cảnh vật của tứ thời Xuân, Hạ, Thu, Đông, hay mai, lan, cúc, trúc ”
  38. Kết luận Như vậy, vẻ đẹp của Ngũ Hành Sơn đã được khẳng định theo thời gian. Và sự ra đời của làng nghề đá Non Nước gắn liền với tên gọi của địa danh này.
  39. Hình ảnh về Ngũ Hành Sơn Cổng vào động Huyền Không
  40. Hình ảnh về Ngũ Hành Sơn
  41. Vẻ đẹp của núi Ngũ Hành Sơn
  42. Vẻ đẹp của núi Ngũ Hành Sơn
  43. Làng nghề đá Non Nước Làng nghề dưới chân núi Thủy Sơn
  44. Làng nghề đá Non Nước Tác phẩm nghệ thuật được làm bằng đá