Tiểu luận Tìm hiểu vể nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước CHXHCN Việt Nam nguyên tắc tập trung dân chủ & nguyên tắc pháp chế
Bạn đang xem tài liệu "Tiểu luận Tìm hiểu vể nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước CHXHCN Việt Nam nguyên tắc tập trung dân chủ & nguyên tắc pháp chế", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
tieu_luan_tim_hieu_ve_nguyen_tac_to_chuc_va_hoat_dong_cua_nh.docx
Nội dung text: Tiểu luận Tìm hiểu vể nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước CHXHCN Việt Nam nguyên tắc tập trung dân chủ & nguyên tắc pháp chế
- Trường đại học sư phạm kỹ thuật Khoa Sư phạm kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh Bộ môn Tâm lý – Gíao dục TIỂU LUẬN TÌM HIỂU VỂ NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ & NGUYÊN TẮC PHÁP CHẾ Đỗ Vũ Bình Phương 10901018 Lớp 109010A
- MỤC LỤC A – Nguyên tắc tập trung dân chủ 1. Khái niệm . 2. Nguyên tắc tập trung dân chủ thể hiện trong bộ máy Nhà nước. 3. Ý nghĩa. B – Nguyên tắc pháp chế 1. Khái niệm. 2. Những nguyên tắc của pháp chế xã hội chủ nghĩa. 3. Những yêu cầu để đảm bảo thực hiện nguyên tắc pháp chế trong tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. 4. Ý nghĩa. 5. Các biện pháp chủ yếu nhằm tăng cường pháp chế XHCN C – Tài liệu tham khảo Nguyên tắc tập trung dân chủ & nguyên tắc pháp chế trong tổ chức và hoạt động của nhà nước XHCN Việt Nam Page 2
- A – Nguyên tắc tập trung dân chủ : 1. Khái niệm : Tập trung dân chủ là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nguyên tắc này đã được ghi nhận tại Điều 4 Hiến pháp 1959, Điều 6 Hiến pháp 1980 và Điều 6 Hiến pháp 1992 “ Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”. Không những ở nước ta, các nước xã hội chủ nghĩa cũng ghi nhận nguyên tắc này trong Hiến pháp và cũng xác định là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước1. Vì thế, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ tất yếu phải là một hoạt động thường xuyên trong quá trình tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung và của các cơ quan nhà nước nói riêng. Và có một vấn đề đặt ra tưởng rằng như đơn giản nhưng hiện nay còn nhiều ý kiến chưa thống nhất là: hiểu nội dung của nguyên tắc này như thế nào cho đúng? Theo tìm hiểu và nghiên cứu, hiện nay có khá nhiều ý kiến định nghĩa về khái niệm tập trung dân chủ. Trong đó có ba luồng chính: Luồng ý kiến thứ nhất, cho rằng nội dung của nguyên tắc này là sự kết hợp hai mặt tập trung và dân chủ trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước: “Tập trung dân chủ là hai mặt của một thể thống nhất, không bao giờ được phép cường điệu hoặc coi nhẹ bất cứ mặt nào. Vì như vậy sẽ dẫn đến những hậu quả như: chuyên quyền, độc đoán, mất dân chủ, hạn chế tự do, sáng tạo, coi thường pháp luật v.v ” (Giáo trình Luật Nhà nước Việt Nam, Trường Đại học Pháp lý Hà Nội, Hà Nội, 1991, tr. 148 - 149.) “Nghệ thuật của sự vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ là tìm tỷ lệ kết hợp tối ưu của hai mặt tập trung và dân chủ trong tổ chức và hoạt động của từng lĩnh vực, ngành cụ thể, trong từng giai đoạn, từng hoàn cảnh, thậm chí là từng vấn đề cụ thể” (Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Trường ĐHTH HN, Hà Nội, 1993, tr. 174.) “Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là sự kết hợp biện chứng giữa hai mặt: tập trung (thống nhất) và dân chủ” ( Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, ĐHQG Hà Nội, Trường Đại học KHXH&NV - Khoa Luật, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999, trang 221.) “Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ thể hiện sự thống nhất biện chứng giữa chế độ tập trung và chế độ dân chủ.” ( Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, Đại học Huế, Trung tâm Đào tạo từ xa, Huế, 1997.) Nguyên tắc tập trung dân chủ & nguyên tắc pháp chế trong tổ chức và hoạt động của nhà nước XHCN Việt Nam Page 3
- Luồng ý kiến thứ hai, cho rằng nguyên tắc tập trung dân chủ chính là “sự” tập trung “một cách” dân chủ. Nguyên tắc này thể hiện sự tập trung trên cơ sở dân chủ chân chính, kết hợp sáng tạo với sự thực hiện, chấp hành nghiêm chỉnh và tinh thần trách nhiệm, ý thức kỷ luật cao. Tập trung được hiểu ở nghĩa dân chủ thực sự. Còn có luồng ý kiến thứ ba, cho rằng tập trung dân chủ là việc người đứng đầu có toàn quyền quyết định các vấn đề của tập thể trên cơ sở đóng góp ý kiến củacác cá nhân. Hay nói một cách khác, việc đóng góp ý kiến của cán bộ, công nhân viên, các thành viên trong cơ quan, đơn vị chỉ có ý nghĩa tham khảo và việc quyết định thuộc thẩm quyền của thủ trưởng. Nhưng cốt lõi, ta thấy rằng các luồng ý kiến đều thống nhất tập trung và dân chủ có sự kết hợp lẫn nhau, tồn tại trong mối quan hệ với nhau. Theo: “Nội san trao đổi, trường Cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh, số 1/2004, trang 40.” Có chỉ rõ sự phân tích, xem xét về mặt ngữ nghĩa và ngữ pháp của thuật ngữ này: “ Chúng tôi đồng ý với ý kiến cho rằng thuật ngữ “tập trung dân chủ” thì “tập trung” là danh từ, “dân chủ” là tính từ; tính từ bổ nghĩa cho danh từ. Như vậy, “tập trung dân chủ” không phải là tập hợp của hai danh từ ([NV: cũng cần nhắc lại rằng Điều 6 Hiến pháp 1992 qui định “ Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của nhà nước đều tổ chức va hoạt động theo “nguyên tắc tập trung dân chủ” chứ không phải là nguyên tắc tập trung, (phẩy) dân chủ hoặc cũng không phải là tập trung - (gạch ngang) dân chủ]). Do đó, dễ dàng có thể nhận thấy rằng nội dung của nguyên tắc này không phải là hai vế, hai mặt của một vấn đề. Tập trung dân chủ là “tập trung” trên cơ sở “dân chủ” (tập trung một cách dân chủ).” Vì vậy, nguyên tắc tập trung dân chủ bao hàm sự kết hợp giữa hai yếu tố tập trung và dân chủ, vừa đảm bảo sự lãnh đạo tập trung trên cơ sở dân chủ, vừa đảm bảo mở rộng dân chủ dưới sự lãnh đạo tập trung. Sự kết hợp giữa các mặt này là không giống nhau, điều đó phụ thuộc vào tính chất của các cơ quan, phụ thuộc vào trình độ quản lý, vào điều kiện cụ thể về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước. 2. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong bộ máy nhà nước pháp quyền XHCN: Bộ máy nhà nước pháp quyền XHCN theo qui định cảu hiến pháp bao gồm 3 cơ quan thực hiện 3 chức năng khác nhau: Quốc hội thức hiện quyền lập pháp; Chính phủ thực hiện quyền hành pháp và tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp. Hoạt động của các cơ quan này theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nhưng ở mỗi cơ quan nguyên tắc này được thể hiện khác nhau. ( GT QLHCNN và QL ngành GD – ĐT, SPKT 2007) Nguyên tắc tập trung dân chủ & nguyên tắc pháp chế trong tổ chức và hoạt động của nhà nước XHCN Việt Nam Page 4
- Đối với Quốc hội ( Hội đồng nhân dân các cấp) : do nhân dân bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân. Các đại biểu dân cử có thể bị nhân dân bãi nhiệm nếu không còn sự tín nhiệm của nhân dân. Các văn bản của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp có giá trị bắt buộc đối với các cơ quan cùng cấp và cấp dưới. Tất cả các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp đều được thảo luận một cách dân chủ, công khai trong các kỳ họp và quyết định theo đa số (trừ một số vấn đề đặc biệt được quyết định khi có ít nhất 2/3 tổng số đại biểu biểu quyết tán thành). Nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt của Quốc hội là thiểu số phục tùng đa số trong mọi trường hợp. Đối với Chính phủ: Chính phủ vừa là thiết chế làm việc với chế độ tập thể quyết định theo đa số về những vấn đề quan trong, vừa đề cao vai trò cá nhân của Thủ tướng Chính phủ – người quyết định những vấn đề trong điều hành công việc thường xuyên của Chính phủ. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động của chính phủ vừa bảo đảm lãnh đạo tập thể, vừa bảo đảm sự quản lý của người đứng đầu Chính phủ. ( GT QLHCNN và QL ngành GD – ĐT, SPKT 2007) Đối với cơ quan Tư pháp: Trong tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, nguyên tắc tập trung dân chủ được thể hiện rất đa dạng như Chánh án Tòa án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước; trả lời chất vấn của các đại biểu Quốc hội. Chánh án Tòa án nhân dân địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp; trả lời chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân. Chế độ bổ nhiệm Thẩm phán được thực hiện đối với Tòa án các cấp. Chế độ bầu Hội thẩm nhân dân được thực hiện đối với Tòa án nhân dân địa phương. Chế độ cử Hội thẩm quân nhân được thực hiện đối với Tòa án quân sự cấp quân khu, khu vực. Việc xét xử ở Tòa án có Hội thẩm tham gia theo qui định của pháp luật tố tụng. Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán. Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Tòa án xét xử công khai (trừ một số trường hợp đặc biệt). Đối với Viện kiểm sát nhân dân (VKSND), nguyên tắc tập trung dân chủ được thể hiện mang tính chất đặc thù. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC) do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm, chịu sự giám sát của Quốc hội, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Viện trưởng VKSND địa phương do Viện trưởng VKSNDTC bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp; chịu trách nhiệm và báo Nguyên tắc tập trung dân chủ & nguyên tắc pháp chế trong tổ chức và hoạt động của nhà nước XHCN Việt Nam Page 5
- cáo công tác trước Hội đồng nhân dân. Viện kiểm sát do Viện trưởng lãnh đạo, Viện trưởng VKSND cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng VKSND cấp trên; Viện trưởng VKSND các địa phương, Viện trưởng Viện kiểm sát Quân sự các cấp chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng VKSNDTC Trong các hoạt động xét xử, nguyên tắc tập trung dân chủ đòi hỏi thực hành đúng quan hệ làm việc giữa Thẩm phán, Hội thẩm và các thành viên khác trong hoạt động tố tụng, xác lập quan hệ giữa các cấp xét xử, quan hệ giữa các cơ quan điều tra ( GT QLHCNN và QL ngành GD – ĐT, SPKT 2007) 3. Ý nghĩa: Bất kỳ xã hội và bất kỳ kiểu nhà nước nào, việc quản lý xã hội và thực hiện quyền lực nhà nước (quản lý nhà nước) đều phải có sự tập trung quyền lực. Đây là yếu tố bắt buộc và mang tính tất yếu nhằm điều khiển (quản lý) được toàn bộ các hoạt động xã hội, thiết lập và duy trì một trật tự xã hội phù hợp với ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị xã hội. Tuy nhiên, nội dung (tính chất) của sự tập trung trong các chế độ xã hội và chế độ nhà nước hoàn toàn không giống nhau. Điều đó trước hết phụ thuộc vào bản chất của chế độ xã hội, chế độ nhà nước, phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội. Trong xã hội phong kiến, quyền lực nhà nước tập trung trong tay giai cấp thống trị phong kiến mà đại diện là nhà vua; đặc biệt ở các nhà nước theo chính thể quân chủ chuyên chế, chế độ cai trị thể hiện sự độc đoán, chuyên quyền, phản dân chủ (hoặc có dân chủ nhưng rất hạn chế). Đến chế độ tư bản chủ nghĩa, tập trung, quan liêu là đặc trưng điển hình của việc tổ chức bộ máy nhà nước tư sản. Các cơ quan cai trị với những quan lại cai trị được bổ nhiệm từ trên xuống luôn kiêu căng, lấn át, xa rời thực tế; chỉ chịu trách nhiệm trước cấp trên mà không chịu trách nhiệm trước nhân dân và không chịu sự giám sát của nhân dân. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã kịch liệt phê phán cơ chế tập trung quan liêu đó. Đối với bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa thì một nguyên tắc mới hoàn thiện và tốt hơn đã được vận dụng, đó là nguyên tắc tập trung dân chủ. Nội dung của nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước có biểu hiện rất phong phú và đa dạng, nhưng thể hiện một cách khái quát ở việc phân công công việc, mối quan hệ qua lại giữa các cơ quan nhà nước (ở trung ương cũng như ở các cấp địa phương), sự phân cấp về thẩm quyền (nhiệm vụ, quyền hạn), mối quan hệ giữa trung ương với địa phương, giữa các cấp địa phương với nhau. Trong từng cơ quan nhà nước, những vấn đề nào do tập thể quyết định; những vấn đề nào do người đứng đầu quyết định; qui định cách thức quyết định những vấn đề đó. Quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ là yếu tố đảm bảo hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước, trên cơ sở phát huy tính chủ động sáng tạo của các cơ quan Trung ương cũng như ở địa phương. Nguyên tắc tập trung dân chủ & nguyên tắc pháp chế trong tổ chức và hoạt động của nhà nước XHCN Việt Nam Page 6
- B – Nguyên tắc pháp chế 1.Khái niệm: Pháp chế là một chế độ đặc biệt của đời sống chính trị – XH, trong đó yêu cầu cáccơ quan nhà nước, công chức nhà nước, các tổ chức và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Hay: “Pháp chế là sự hiện diện của một hệ thống pháp luật cần và đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội làm cơ sở cho một trật tự pháp luật và kỷ luật, là sự tuân thủ và thực hiện đầy đủ pháp luật trong tổ chức và hoạt động của nhà nước, của các cơ quan, đơn vị, tổ chức và đối với công dân.” ( GT QLHCNN và QL ngành GD – ĐT, SPKT 2007) 2.Những nguyên tắc của pháp chế xã hội chủ nghĩa. - Bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của việc xây dựng, ban hành và thực hiện pháp luật. +Hiến phápvà luật có tính tối cao để bảo đảm tính thống nhất. + Pháp luật phải đồng bộ. + Mọi tổ chức, cá nhân phải nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật, không có ngoại lệ, không có phân biệt đối xử. + Mọi vi phạm pháp luật đều bị xử lý - Bảo đảm và bảo vệ quyền, tự do, lợi ích hợp pháp của công dân. Công dân khi thực hiện quyền, tự do, lợi ích của mình không được gây thiệt hại cho lợi ích của XH, của nhà nước, của người khác. - Ngăn chặn kịp thời,xử lý nhanh chóng, đúng pháp luật mọi vi phạm pháp luật. - Không tách rời pháp chế với văn hóa và văn hóa pháp lý. 3.Những yêu cầu để đảm bảo thực hiện nguyên tắc pháp chế trong tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa: Để đảm bảo thực hiện nguyên tắc pháp chế trong tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi: -Thứ nhất, nhà nước phải ban hành các văn bản pháp luật một cách kịp thời và có hệ thống. Nhà nước và pháp luật là hai mặt thống nhất giữa chủ thể và phương tiện. Để nah2 nước hoạt động đảm bảo nguyên tắc pháp chế, các văn bản luật (văn bản dưới luật) phải được bna hành kịp thời và đồng bộ. Nguyên tắc tập trung dân chủ & nguyên tắc pháp chế trong tổ chức và hoạt động của nhà nước XHCN Việt Nam Page 7
- - Thứ hai, các cơ quan nhà nước được lập ra và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật qui định về địa lý pháp lý, quy mô và thẩm quyền. Nguyên tắc này không chấp nhận hai khả năng thường xảy ra ở những nơi mà tình trạng pháp chế bị vi phạm: khả năng thứ nhất là các hoạt động quản lý vượt thẩm quyền được giao, khả năng thứ hai là buông lỏng, bỏ trống một số lĩnh vực thuộc thẩm quyền được giao. - Thứ ba, sự tôn trọng hiến pháp, pháp luật của cơ quan nhà nước. Nhà nước thay mặt nhân dân ban hành luật pháp, nhưng nhà nước cũng bị pháp luật điều chỉnh. Nghĩa là: nếu nhà nước trong hoạt động phạm sai lầm, vi phạm pháp luật thì phải chịu trách nhiệm về những sai lầm đó trước pháp luật.Nhà nước vì vậy vừ là chủ thể của luật pháp nhưng cũng vừa là đối tượng để pháp luật điều chỉnh. ( GT QLHCNN và QL ngành GD – ĐT, SPKT 2007) 4.Ý nghĩa: Pháp chế là điều kiện cơ bản để phát huy dân chủ. Thực hiện tốt các nguyên tắc trên nhằm đảm bảo cho nhà nước ta là “ Nhà nước pháp quyền XHCN, của dân, do dân và vì dân” trong tổ chức và hoạt động 5. Các biện pháp chủ yếu nhằm tăng cường pháp chế XHCN - Tăng cường công tác xây dựng pháp luật. - Tăng cường công tác tổ chức thực hiện pháp luật. - Phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh đối với các hành vi vi phạm pháp luật. - Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. C – Tài liệu tham khảo: - GT QLHCNN và QL ngành GD – ĐT, SPKT 2007. - Nội san trao đổi, trường Cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh, số 1/2004, trang 40 - Điều 6 Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 1992 - Giáo trình Luật Nhà nước Việt Nam, Trường Đại học Pháp lý Hà Nội, Hà Nội, 1991, tr. 148 – 149. - Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Trường ĐHTH HN, Hà Nội, 1993, tr. 174.) - Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, ĐHQG Hà Nội, Trường Đại học KHXH&NV - Khoa Luật, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999, trang 221. Nguyên tắc tập trung dân chủ & nguyên tắc pháp chế trong tổ chức và hoạt động của nhà nước XHCN Việt Nam Page 8