Thương mại quốc tế của Việt Nam (Phần 1)

pdf 55 trang phuongnguyen 4810
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Thương mại quốc tế của Việt Nam (Phần 1)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfthuong_mai_quoc_te_cua_viet_nam.pdf

Nội dung text: Thương mại quốc tế của Việt Nam (Phần 1)

  1. 2 THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
  2. 3 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận án Việt Nam đặt mục tiêu về cơ bản trở thành nước công nghiệp hoá vào năm 2020. Quá trình công nghiệp hoá của Việt Nam có bối cảnh khác với các nước Đông Á, cụ thể là Việt Nam phải tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và tham gia vào mạng lưới sản xuất khu vực và thế giới. Bên cạnh đó, các nước trong khu vực như Trung Quốc và ASEAN-41 đã đạt được những kết quả rất đáng ngưỡng mộ trong phát triển kinh tế. Trong bối cảnh đó, chính sách thương mại quốc tế có một vị trí quan trọng trong việc hỗ trợ thực hiện chính sách công nghiệp và các chính sách khác. Chính sách thương mại quốc tế là thuật ngữ đang được vận dụng trên thực tiễn song không được sử dụng một cách hệ thống cũng như ở khía cạnh này hay khía cạnh khác còn có những nội dung và tên gọi khác nhau như chính sách xuất nhập khẩu, chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia, chương trình nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp xuất khẩu, biểu thuế nhập khẩu ưu đãi theo CEPT, Việt Nam đang ở giai đoạn cuối của quá trình đàm phán gia nhập WTO, đã là thành viên của ASEAN, APEC, ký kết các hiệp định khung với Liên minh châu Âu, hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ. Thực hiện công nghiệp hoá trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những vấn đề về tính minh bạch, chủ động của chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam, đặc biệt là sự phối hợp giữa Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế, Bộ Thương mại, Bộ Tài chính, Bộ Công nghiệp với các bộ ngành, hiệp hội, doanh nghiệp và đối tác nước ngoài. 1 Các nước ASEAN-4 nêu ra ở đây bao gồm Malaysia, Thái Lan, Indonesia và Philippines
  3. 4 Chính phủ Việt Nam đã thực hiện nhiều cải cách về thương mại trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, nhiều vấn đề còn cần được tiếp tục xem xét như việc liên kết doanh nghiệp và Chính phủ trong việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế; cơ sở khoa học và thực tiễn khi đàm phán ASEAN mở rộng, ký kết hiệp định song phương; phát huy vai trò của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong việc thực hiện chính sách; và cách thức vận dụng các công cụ của chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Chính sách thương mại quốc tế phải được hoàn thiện để vừa phù hợp với các chuẩn mực thương mại quốc tế hiện hành của thế giới, vừa phát huy được lợi thế so sánh của Việt Nam. Với những lý do nêu trên, việc xem xét chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế là việc làm vừa có ý nghĩa về mặt lý luận, vừa có ý nghĩa về mặt thực tiễn, góp phần đưa Việt Nam hội nhập thành công và đạt được mục tiêu về cơ bản trở thành quốc gia công nghiệp hoá vào năm 2020. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Chính sách thương mại quốc tế là một thuật ngữ không còn mới trên thế giới. Tổ chức thương mại thế giới (WTO) cung cấp thông tin cập nhật về các nội dung của chính sách thương mại quốc tế trên trang web của tổ chức này. Đây là một nguồn tài liệu phong phú giúp ích cho việc nghiên cứu chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế bởi vì những nguyên tắc, quy định của WTO đang và sẽ tác động tới không chỉ các hoạt động thương mại quốc tế mà cả các hoạt động kinh tế quốc tế và chính sách thương mại quốc tế của các quốc gia. Tuy nhiên, hiện tại Việt Nam vừa mới trở thành thành viên của WTO. Các rà soàt về chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam cũng chưa được đưa vào chương trình làm việc chính thức của Nhóm rà soát chính sách thương mại quốc tế của WTO.
  4. 5 Tại Việt Nam, Dự án Hỗ trợ Thương mại Đa biên (MUTRAP) thuộc Bộ Thương mại, do Cộng đồng Châu Âu tài trợ giúp Việt Nam tiến hành các nghiên cứu nhằm hỗ trợ Việt Nam trong tiến trình gia nhập WTO và đáp ứng các yêu cầu đặt ra trong việc thực hiện các cam kết quốc tế về thương mại. Hiện tại, dự án này đã bước vào giai đoạn II. Kết quả nghiên cứu ở giai đoạn I bao gồm những vấn đề về cắt giảm thuế trong ASEAN và WTO, phát triển công nghiệp của Việt Nam trong điều kiện hội nhập, các nguyên tắc trong khuôn khổ hiệp định về dịch vụ của WTO, hỏi đáp về APEC, ASEAN. Các nghiên cứu của dự án hiện đang tập trung vào nâng cao năng lực cho cán bộ Việt Nam, thiết lập các điểm hỏi đáp về các rào cản kỹ thuật đối với thương mại (TBT) và các biện pháp kiểm dịch (SPS). Tuy nhiên, MUTRAP không ưu tiên giải quyết các vấn đề về phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Trung tâm Kinh tế quốc tế của Úc (CIE) thực hiện nghiên cứu về các công cụ của chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam cũng như các quy định về thương mại , chính sách xuất khẩu. Nghiên cứu này [114] hoàn thành năm 1998. Ngoài ra, tại Việt Nam đã có nhiều công trình, sách tham khảo về hội nhập kinh tế quốc tế. Một số công trình tiêu biểu như sách tham khảo “Toàn cầu hoá và Hội nhập kinh tế của Việt Nam” do Vụ Tổng hợp Kinh tế, Bộ Ngoại giao chủ biên năm 1999, tài liệu bồi dưỡng “Kiến thức cơ bản về hội nhập kinh tế quốc tế” do Bộ Thương mại thực hiện năm 2004, công trình “Hội nhập kinh tế: Áp lực cạnh tranh trên thị trường và đối sách của một số nước” do Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương và Cơ quan Phát triển Quốc tế Thuỵ Điển phối hợp thực hiện vào năm 2003, tài liệu tham khảo “Những vấn đề cơ bản về thể chế hội nhập kinh tế quốc tế” do PGS.TS. Nguyễn Như Bình chủ biên năm 2004. Các công trình này giới thiệu những vấn đề cốt lõi
  5. 6 của hội nhập kinh tế quốc tế song không tập trung xem xét việc điều chỉnh chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam. Việc tính toán lợi thế so sánh hiện hữu (RCA) của Việt Nam được thực hiện ở một số công trình như công trình của Mutrap [139], công trình của Nguyễn Tiến Trung [152], công trình của Fukase và Martin [109]. Các công trình này đều được hoàn thành vào năm 2002. Tuy nhiên, các công trình này chưa diễn giải, ứng dụng lợi thế so sánh hiện hữu vào việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam. Đối với các nước đang phát triển thực hiện công nghiệp hoá, phát triển ngành công nghiệp chế tạo là một trong những hoạt động trọng tâm như nghiên cứu của Krugman và Obstfeld [50], nghiên cứu của Ohno [58]. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được xem xét dưới nhiều khía cạnh trong đó có vai trò của nó đối với hoạt động thương mại quốc tế của các quốc gia như các nghiên cứu của Banga [107], Goldberd và Klein vào năm 1997 [120], Lipsey vào năm 1999 [131], Zhang vào năm 2001 [166], Weiss và Jalilian vào năm 2003 [160], Lemi vào năm 2004 [130], Kishor vào năm 2000 [126], Mortimore vào năm 2003 [137], Krugman và Obstfeld vào năm 1996 [50], Yilmaz vào năm 2004 [159]. Tuy nhiên, những nghiên cứu này chưa xem xét việc thúc đẩy xuất khẩu thông qua khu vực FDI ở Việt Nam. Tại Việt Nam, một số nghiên cứu về xuất khẩu của khu vực FDI đã được thực hiện như nghiên cứu của Nguyễn Như Bình và Haughton vào năm 2002 [111]; nghiên cứu của Mutrap vào năm 2004 [138]; nghiên cứu của Martin và cộng sự vào năm 2003 [51]. Ba công trình này đã xem xét sự hiện diện của FDI theo ngành và tỷ trọng xuất khẩu của FDI trong các ngành này. Tuy nhiên, việc xem xét tăng cường xuất khẩu của khu vực FDI như một nội dung của chính sách thương mại quốc tế chưa được thực hiện. Một số luận án tiến sỹ cũng đã thực hiện các nghiên cứu về thúc đẩy xuất khẩu hay chính sách ngoại thương như luận án tiến sỹ “Những giải pháp chủ yếu để thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang các nước khu vực
  6. 7 mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) trong giai đoạn đến 2010 của Nguyễn Thanh Hà thực hiện năm 2003 [47]; luận án tiến sỹ “Tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam theo con đường thúc đẩy xuất khẩu: Những điều kiện cần thiết và những giải pháp” của Trần Văn Hoè thực hiện năm 2002 [48]; luận án tiến sỹ “Hoàn thiện chính sách ngoại thương Việt Nam trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập với khu vực và thế giới” của Từ Thanh Thuỷ thực hiện năm 2003 [89]. Đặc điểm của các luận án này là hoặc chỉ tập trung vào một khu vực, hoặc chỉ xem xét vấn đề thúc đẩy xuất khẩu, hoặc xem xét dưới góc độ chính sách ngoại thương chứ chưa hệ thống hoá các nội dung liên quan của chính sách thương mại quốc tế Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Tóm lại, hiện vẫn chưa có một công trình nghiên cứu một cách hệ thống chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy, đề tài được lựa chọn nghiên cứu của luận án là mới và cần thiết cả về phương pháp luận và nội dung nghiên cứu. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án Mục đích của luận án là nghiên cứu một cách hệ thống chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và đề xuất một số quan điểm và giải pháp hoàn thiện chính sách này ở Việt Nam. Để đạt được mục đích này, luận án thực hiện hệ thống hoá các vấn đề lý luận trong đó chú trọng việc xây dựng một khung phân tích thống nhất; nghiên cứu thực trạng hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam; xem xét kinh nghiệm hoàn thiện chính sách này ở một số quốc gia trước khi đề xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án “Hội nhập quốc tế” có phạm vi rộng lớn hơn “hội nhập kinh tế quốc tế” song đối tượng nghiên cứu của luận án là chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Luận án xem xét chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam trong khoảng thời gian từ năm 1988 đến nay, ưu tiên xem xét giai đoạn từ năm 2001 đến nay. Đây là giai đoạn mà
  7. 8 Việt Nam tăng tốc hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và hội nhập về thương mại nói riêng. Luận án chỉ tập trung xem xét các vấn đề liên quan đến thương mại hàng hoá chứ không xem xét các vấn đề về thương mại dịch vụ và các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ. Luận án cũng không tập trung nghiên cứu các vấn đề thường được nghiên cứu cùng với chính sách thương mại quốc tế như tỷ giá hối đoái và thị trường ngoại hối. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu trong khoa học xã hội bao gồm phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích và tổng hợp. Luận án sử dụng các số liệu thống kê phù hợp trong quá trình phân tích và tổng hợp thực tiễn vận dụng và hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam; phân tích và tổng hợp kinh nghiệm quốc tế (Hoa Kỳ, Thái Lan, Malaysia, Trung Quốc) trong việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế. Luận án tổng hợp lý luận về chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế của các quốc gia công nghiệp hoá theo một khung phân tích. Luận án so sánh bối cảnh hoàn thiện của Việt Nam với các quốc gia kể trên. Các công cụ của chính sách thương mại quốc tế được so sánh, đối chiếu theo từng giai đoạn lịch sử. Luận án ứng dụng phương pháp toán để tính toán lợi thế so sánh hiện hữu của Việt Nam trong ASEAN, từ đó xem xét lợi thế của Việt Nam với thế giới và với ASEAN. Trên cơ sở đó, luận án diễn giải cách thức vận dụng chỉ số này để hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Luận án sử dụng Dự án phân tích thương mại toàn cầu (GTAP) để đánh giá tác động của Chương trình thu hoạch sớm (EHP), trong khuôn khổ Hiệp định Thương mại tự do ASEAN – Trung Quốc, tới nền kinh tế Việt Nam. 6. Những đóng góp mới của luận án
  8. 9 Luận án có những đóng góp mới sau đây: Một là, luận án phân tích và đề xuất hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế theo một khung phân tích thống nhất. Mục tiêu công nghiệp hoá và sức ép của hội nhập kinh tế quốc tế đồng thời tác động tới việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế qua nhận thức về mối quan hệ giữa tự do hoá thương mại và bảo hộ mậu dịch, hoàn thiện các công cụ của chính sách thương mại quốc tế và phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế. Hai là, luận án đưa ra cách diễn giải mới về lợi thế so sánh hiện hữu (RCA) bao gồm định hướng về mở rộng liên kết khu vực, ký kết các hiệp định song phương, lộ trình hội nhập. Ứng dụng dự án phân tích thương mại toàn cầu (GTAP) để xem xét tác động của Chương trình thu hoạch sớm (EHP) tới nền kinh tế Việt Nam cho thấy Việt Nam là quốc gia thu được nhiều lợi ích nhất từ EHP như góp phần tăng GDP; giá trị gia tăng; cải thiện hệ số thương mại. Luận án xem xét việc hoàn thiện chính sách theo hai nội dung (i) lộ trình tự do hoá thương mại ngành; (ii) hoàn thiện công cụ thuế quan. Ba là, luận án xem xét cách thức hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế ở bốn quốc gia đã là thành viên của WTO bao gồm: Thái Lan, Malaysia, Trung Quốc và Hoa Kỳ. Các bài học rút ra cho Việt Nam bao gồm thực hiện đẩy mạnh tự do hoá thương mại và chú trọng tới nâng cao năng lực cạnh tranh; chủ động phòng ngừa các tranh chấp thương mại; cải cách doanh nghiệp nhà nước và tư nhân hoá; tạm thời không tham gia Hiệp định về mua sắm của Chính phủ trong khuôn khổ WTO; tập trung việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế vào một cơ quan trực thuộc Chính phủ và thực hiện minh bạch hoá chính sách; cộng đồng doanh nghiệp thường xuyên cung cấp thông tin phản hồi về việc thực hiện chính sách thương mại quốc tế qua các kênh trao đổi như các diễn đàn, các cuộc họp. Bốn là, thông qua việc phân tích thực tiễn vận dụng chính sách thương
  9. 10 mại quốc tế của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, luận án chỉ ra rằng chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam chưa được sử dụng một cách hệ thống và thiếu sự kết hợp đồng bộ giữa các ngành liên quan. Việc thống kê, theo dõi các công cụ phi thuế quan trong chính sách thương mại quốc tế chưa được thực hiện. Việc phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế còn yếu. Năm là, trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn về chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam, luận án đề xuất các quan điểm và một số giải pháp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam trong thời gian tới như: tăng cường sử dụng hạn ngạch thuế quan (công cụ phù hợp với các nguyên tắc của WTO); hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường theo ngành hàng và theo công cụ áp dụng ở các thị trường xuất khẩu. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam phải đảm bảo tuân thủ các cam kết nhưng không nên bó buộc trong một lịch trình nhất định. Việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế cần tăng cường sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp và giới nghiên cứu. Chính phủ Việt Nam cần thể hiện rõ định hướng đẩy mạnh xuất khẩu và nâng cao năng lực cạnh tranh. Uỷ ban Quốc gia về Hợp tác Kinh tế Quốc tế nên là cơ quan đầu mối thực hiện điều phối hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam. 7. Kết cấu của luận án Ngoài các phần mở đầu, kết luận, lời cam đoan, trang bìa và phụ bìa, danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt, danh mục bảng hình, tài liệu tham khảo và phục lục, các công trình đã công bố của tác giả, luận án được kết cấu như sau: Chương 1 – Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Chương này làm rõ cơ sở lý luận và đề xuất khung phân tích cho toàn bộ luận án. Chương này thực hiện rà soát khái niệm về chính sách thương mại quốc tế, bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế về thương mại. Những nguyên tắc, quy định của WTO được xem xét để làm rõ hơn định hướng hoàn thiện các công cụ của chính sách thương mại quốc tế.
  10. 11 Nội dung của việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế bao gồm những vấn đề như: (i) nhận thức về mối quan hệ giữa tự do hoá thương mại và bảo hộ mậu dịch trong quá trình hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam; (ii) hoàn thiện các công cụ của chính sách thương mại quốc tế; (iii) phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế. Chương này xem xét kinh nghiệm hoàn thiện của một số quốc gia trên thế giới nhằm tìm ra những bài học hữu ích cho Việt Nam trong việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế. Với mục tiêu nghiên cứu chính sách thương mại quốc tế của các quốc gia trong bối cảnh đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, chương này xem xét kinh nghiệm hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của bốn quốc gia đã là thành viên của WTO, bao gồm: Thái Lan, Malaysia, Trung Quốc và Hoa Kỳ. Kinh nghiệm của Thái Lan và Malaysia được xem xét trong bối cảnh hai nước này gia tăng hội nhập kinh tế quốc tế. Kinh nghiệm của Trung Quốc được xem xét trong bối cảnh Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Kinh nghiệm của Hoa Kỳ được xem xét để làm rõ cơ chế hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế ở một quốc gia phát triển kêu gọi tự do hoá thương mại mạnh mẽ nhất trên thế giới. Chương 2 – Thực trạng hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Sử dụng khung phân tích ở chương đầu tiên, Chương 2 xem xét nhận thức về mối quan hệ giữa tự do hoá thương mại và bảo hộ mậu dịch trong quá trình hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam theo ba giai đoạn, đồng thời phân tích thực tiễn hoàn thiện công cụ thuế quan, các công cụ phi thuế quan, thực tiễn phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Chương này cũng ứng hai công cụ là chỉ số lợi thế so sánh hiện hữu (RCA) và Dự án phân tích thương mại toàn cầu (GTAP) để xem xét việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam. Chương 3 – Quan điểm và giải pháp tiếp tục hoàn thiện
  11. 12 chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Trên cơ sở những lý luận và thực tiễn được phân tích, chương này xem xét bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong thời gian tới; đề xuất một số quan điểm và các giải pháp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam. Các giải pháp được luận giải cả về nội dung, địa chỉ áp dụng và điều kiện áp dụng. 2 Hoa Kỳ được lựa chọn để nghiên cứu vì thực tiễn vận dụng chính sách thương mại quốc tế của Hoa Kỳ tác động tới việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của các quốc gia trên thế giới (thông qua việc Hoa Kỳ cố gắng quốc tế hoá các thực tiễn của Hoa Kỳ cho hệ thống thương mại thế giới).
  12. 13 CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Chương này làm rõ cơ sở lý luận về chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và đề xuất khung phân tích cho toàn bộ luận án. Với mục tiêu kể trên, phần 1.1 làm rõ khái niệm về thương mại quốc tế, chính sách thương mại quốc tế, và các công cụ của chính sách thương mại quốc tế. Phần 1.2 làm rõ những vấn đề của việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và ưu tiên xem xét trong khuôn khổ của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Phần này cũng xem xét việc ứng dụng chỉ số lợi thế so sánh hiện hữu (RCA) và Dự án phân tích thương mại toàn cầu (GTAP) vào việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của các quốc gia. Phần 1.3 trình bày về kinh nghiệm hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của một số quốc gia trên thế giới. Việc đúc kết kinh nghiệm được phân tích ở cả những quốc gia đang phát triển (Malaysia, Thái Lan. Trung Quốc) và quốc gia phát triển (Hoa Kỳ) để tìm ra những bài học hữu ích cho việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam. Nội dung được ưu tiên xem xét là những kinh nghiệm mà Việt Nam quan tâm như vấn đề chống bán phá giá, vấn đề phát triển ngành, vấn đề phối hợp hoàn thiện chính sách. 1.1. Những vấn đề chung về chính sách thương mại quốc tế 1.1.1. Khái niệm về thương mại quốc tế và chính sách thương mại quốc tế Thương mại quốc tế thường được hiểu là sự trao đổi hàng hoá và dịch vụ qua biên giới giữa các quốc gia3. Theo nghĩa rộng hơn, thương mại quốc tế bao gồm sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ và các yếu tố sản xuất4 qua biên giới giữa các quốc gia [132, tr.4]. Tổ chức thương mại thế giới (WTO) xem xét thương mại quốc tế bao gồm thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ và thương mại quyền sở hữu trí tuệ [164]. Các biện pháp đầu tư liên quan đến
  13. 14 thương mại là một nội dung trong các hiệp định đa biên về thương mại hàng hoá. Trong các tài liệu tiếng Anh, khái niệm về chính sách thương mại quốc tế được viết ngắn gọn là chính sách thương mại (trade policy). Mạng lưới điện toán của nước Anh định nghĩa chính sách thương mại quốc tế là “chính sách của chính phủ nhằm kiểm soát hoạt động ngoại thương5”. Chính sách thương mại quốc tế là “những chính sách mà các chính phủ thông qua về thương mại quốc tế” [50, tr.315]. Theo Trung tâm Kinh tế quốc tế của Úc (CIE), hệ thống các chính sách thương mại quốc tế có thể được phân chia bao gồm các quy định về thương mại, chính sách xuất khẩu, hệ thống thuế và các chính sách hỗ trợ khác [114]. Các quy định về thương mại bao gồm hệ thống các quy định liên quan đến thương mại (hệ thống pháp quy); hệ thống giấy phép, chính sách đối với doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (kiểm soát doanh nghiệp); việc kiểm soát hàng hoá theo các quy định cấm xuất, cấm nhập; kiểm soát khối lượng; kiểm soát xuất nhập khẩu theo chuyên ngành (kiểm soát hàng hoá). Chính sách xuất nhập khẩu của một nước có thể là khuyến khích xuất khẩu hay nhập khẩu và cũng có thể là hạn chế xuất khẩu hay nhập khẩu tuỳ theo các giai đoạn và mặt hàng. Để khuyến khích xuất 3 (Từ điển Wikipedia) 4 Các yếu tố sản xuất ở đây được hiểu là lao động và vốn. 5 Định nghĩa này có thể xem trực tiếp trên mạng tại www.cogsci.princeton.edu/cgi-bin/webwn
  14. 15 khẩu, các chính phủ áp dụng các biện pháp như miễn thuế, hoàn thuế, tín dụng xuất khẩu, trợ cấp xuất khẩu, xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất. Để hạn chế xuất khẩu, các chính phủ có thể áp dụng các lệnh cấm xuất, cấm nhập, hệ thống giấy phép, các quy định kiểm soát khối lượng hay quy định về cơ quan xuất khẩu và các quy định về thuế đối với xuất khẩu. Các chính sách hỗ trợ khác được áp dụng bao gồm khuyến khích khu vực kinh tế ó vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tư vào các ngành hướng vào xuất khẩu (miễn thuế và ưu đãi thuế) hay khuyến khích các nhà đầu tư trong nước bằng các khoản tín dụng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi, đảm bảo tín dụng xuất khẩu và cho phép khấu hao nhanh, hoạt động hỗ trợ từ các tổ chức xúc tiến thương mại. Trong luận án này, chính sách thương mại quốc tế được hiểu là những quy định của chính phủ nhằm điều chỉnh hoạt động thương mại quốc tế, được thiết lập thông qua việc vận dụng các công cụ (thuế quan và phi thuế quan) tác động tới các hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu. Hoạt động thương mại quốc tế được xem xét chủ yếu bao gồm thương mại hàng hoá (và cũng đề cập tới các nội dung liên quan đến đầu tư6). 1.1.2. Nội dung các công cụ của chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế Phần này sẽ trình bày khái quát hệ thống công cụ của chính sách thương mại quốc tế trên bình diện nội dung và mục đích sử dụng. Theo Krugman và Obstfeld, các công cụ của chính sách thương mại quốc tế có thể được phân chia thành các công cụ thuế quan và phi thuế quan [50]. 6 Vấn đề thương mại có liên quan đến đầu tư là một vấn đề trong khuôn khổ của WTO. Đối với các nước công nghiệp hoá muộn như Việt Nam, việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và tăng cường xuất khẩu của khu vực này được coi là một biện pháp quan trọng.
  15. 16 Hệ thống thuế được xem xét thường bao gồm thuế trực tiếp và thuế gián tiếp. Các vấn đề được xem xét thường bao gồm thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu theo dòng thuế, mức thuế, cơ cấu tính thuế, thuế theo các ngành, lịch trình cắt giảm thuế theo các chương trình hội nhập. Thuế quan trực tiếp là thuế đánh vào hàng hoá nhập khẩu hay xuất khẩu. Các loại thuế này bao gồm thuế theo số lượng, thuế giá trị và thuế hỗn hợp. Thuế gián tiếp tác động tới thương mại như thuế doanh thu, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt. Các hàng rào phi thuế quan bao gồm trợ cấp xuất khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, hạn chế xuất khẩu tự nguyện, các yêu cầu về nội địa hoá, trợ cấp tín dụng xuất khẩu, quy định về mua sắm của chính phủ, các hàng rào hành chính, khuyến khích doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài xuất khẩu, khu chế xuất, khu công nghiệp, các quy định về chống bán phá giá và trợ cấp7. Trợ cấp xuất khẩu là khoản tiền trả cho một công ty hay một cá nhân đưa hàng ra bán ở nước ngoài. Trợ cấp xuất khẩu có thể theo khối lượng hay theo giá trị. Hạn ngạch nhập khẩu là sự hạn chế trực tiếp số lượng hoặc giá trị một số hàng hoá có thể được nhập khẩu. Thông thường những hạn chế này được áp dụng bằng cách cấp giấy phép cho một số công ty hay cá nhân. Hạn ngạch có tác dụng hạn chế tiêu dùng trong nước giống như thuế song nó không mang lại nguồn thu cho chính phủ. Hạn ngạch xuất khẩu thường áp dụng ít hơn hạn ngạch nhập khẩu và thường chỉ áp dụng đối với một số mặt hàng. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện là một biến thể của hạn ngạch nhập khẩu. Nó là một hạn ngạch thương mại do phía nước xuất khẩu đặt ra thay vì nước 7 Trong khuôn khổ các hiệp định của WTO, các biện pháp phi thuế quan bao gồm các hạn chế định lượng; hàng rào kỹ thuật; các biện pháp bảo vệ thương mại tạm thời; các biện pháp quản lý về giá; các biện pháp
  16. 17 nhập khẩu. Các yêu cầu về tỷ lệ nội địa hoá là một quy định đòi hỏi một số bộ phận của hàng hoá cuối cùng phải được sản xuất trong nước. Bộ phận này được cụ thể hoá dưới dạng các đơn vị vật chất hoặc các điều kiện về giá trị. Trợ cấp tín dụng xuất khẩu cũng giống như trợ cấp xuất khẩu nhưng dưới hình thức một khoản vay có tính chất trợ cấp dành cho người mua. Quy định về mua sắm của chính phủ hay doanh nghiệp có thể hướng việc mua sắm trực tiếp vào các hàng hoá được sản xuất trong nước ngay cả khi những hàng hoá đó đắt hơn hàng nhập khẩu. Các hàng rào hành chính và kỹ thuật là việc các chính phủ sử dụng các điều kiện về tiêu chuẩn y tế, kỹ thuật, an toàn và các thủ tục hải quan để tạo nên những cản trở thương mại. Các quy định về chống bán phá giá và trợ cấp là các thủ tục, biện pháp áp dụng đối với các hàng hoá bị coi là bán phá giá hay trợ cấp. Các khu công nghiệp và khu chế xuất tạo điều kiện cho các nhà sản xuất vì nó có những ưu đãi như tiền thuê đất, hệ thống cơ sở hạ tầng (điện, nước, viễn thông) hiệu quả và đáng tin cậy, thủ tục hành chính thuận lợi. 1.2. Nội dung của việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình các nền kinh tế gia nhập, tham gia và trở thành một bộ phận trong một tổng thể [14, tr.34]. Trên bình diện quốc gia, biểu hiện của hội nhập kinh tế quốc tế là việc một quốc gia gia nhập và tham gia vào nền kinh tế thế giới thông qua việc tham gia vào các tổ chức khu vực, quốc tế và ký kết các hiệp định kinh tế song phương và đa phương. Quá trình liên quan đến đầu tư; các biện pháp quản lý hành chính; các biện pháp mới [14].
  17. 18 hội nhập kinh tế quốc tế tác động tới hoạt động thương mại quốc tế theo hướng giảm hay loại bỏ các rào cản thương mại. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, khi hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế, các quốc gia phải tuân thủ những nguyên tắc và quy định của các thể chế quốc tế và khu vực, của các hiệp định song phương và đa phương đã và sẽ ký kết. Các quốc gia khó có thể đưa ra một chính sách “chỉ vì lợi ích của mình” mà không tính đến phản ứng của các quốc gia bạn hàng. Tuỳ thuộc vào thể chế và cam kết hội nhập, hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những yêu cầu khác nhau khi hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế như những yêu cầu về lộ trình và nội dung mở cửa nền kinh tế trong nước và thâm nhập thị trường thế giới (việc cắt giảm và điều chỉnh các ưu đãi cho phù hợp với cam kết; thay đổi và ban hành mới các luật và bộ luật; hỗ trợ xuất khẩu, nâng cao tính cạnh tranh của các doanh nghiệp; phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế). Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra ngày càng mạnh mẽ, các nước đang phát triển (như Việt Nam) đang thực hiện và hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế trong bối cảnh thực hiện công nghiệp hoá và phải gia nhập có hiệu quả vào mạng lưới sản xuất khu vực và quốc tế. Trong điều kiện này, các nước đang phát triển phải giải quyết các vấn đề từ nhận thức về việc giải quyết mối quan hệ giữa tự do hoá thương mại và bảo hộ mậu dịch, cách thức sử dụng các công cụ của chính sách đến phối hợp hoàn thiện chính sách Khung phân tích chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện hội nhập được diễn tả như ở Hình 1.1. Trước hết, các quốc gia cần làm rõ nhận thức về việc giải quyết vấn đề tự do hoá thương mại và bảo hộ mậu dịch. Tiếp theo, việc phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế được phân tích. Cuối cùng, hệ thống các công cụ được xem xét theo thời gian để làm rõ ba vấn đề: (i) tính phù hợp với hội nhập khu vực và quốc tế và mục tiêu công nghiệp hoá; (ii) việc phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế; (iii)
  18. 19 tác động tới hoạt động thương mại quốc tế (xuất khẩu và nhập khẩu). Mặc dù có xem xét tác động của chính sách thương mại quốc tế tới hoạt động thương mại quốc tế và nền kinh tế (như phần ứng dụng GTAP để tính toán về tác động của Chương trình thu hoạch sớm) song luận án này không tập trung vào nội dung này. 1.2.1. Hoàn thiện nhận thức về giải quyết mối quan hệ giữa tự do hoá thương mại và bảo hộ mậu dịch Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, chính phủ các nước có lý do khác nhau khi lựa chọn tự do hoá thương mại hay bảo hộ thị trường trong nước. Câu hỏi về việc nên hay không thực hiện tự do hoá không còn phù hợp nữa. Thay vào đó, các quốc gia phải thực hiện tự do hoá theo một lộ trình nhất định dựa trên cơ sở những phân tích lợi ích – chi phí và kết hợp với những phân tích khác. Tại sao thực hiện tự do hoá ngành này theo lộ trình này và thực hiện tự do hoá ngành khác theo lộ trình khác là câu hỏi cần được giải quyết. Các nhà kinh tế học thường đưa ra khuyến nghị dựa trên phân tích về lợi ích – chi phí thông thường song Chính phủ không hoàn toàn đưa ra chính sách dựa trên những phân tích như vậy [50, tr.370]. Các chính phủ có thể đưa ra các lý do sau khi thực hiện tự do hoá thương mại ở một ngành: Một là, theo những phân tích về lợi ích – chi phí thông thường, một môi trường thương mại tự do không bị bóp méo sẽ không tạo ra tổn thất ròng của xã hội do những lệch lạc trong sản xuất và tiêu dùng mang lại. Hai là, những tính toán nằm bên ngoài phân tích lợi ích – chi phí thông thường bao gồm lợi ích đạt được nhờ lợi thế kinh tế theo quy mô thông qua sự gia nhập ngành của nhiều doanh nghiệp ở những thị trường được bảo hộ và lợi ích đạt được nhờ việc các chủ doanh nghiệp học hỏi thông qua cạnh tranh. Ba là, lý do chính trị. Nếu chính phủ áp dụng các biện pháp bảo hộ thì chính phủ sẽ phải giải quyết vấn đề lợi ích chính trị của các nhóm lợi ích (vấn đề phân phối lại thu nhập cho các khu vực bị ảnh hưởng).
  19. 20 Hình 1.1. Khung phân tích chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế Nguồn: Tác giả (2006). Bên cạnh đó, các chính phủ cũng có thể đưa ra các lý do sau để lý giải tại sao lại thực hiện bảo hộ một ngành:
  20. 21 Một là, đối với các nước lớn (có khả năng thay đổi giá thế giới) thì việc áp dụng thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu có lợi hơn cho nước đó. Các nước nhỏ không làm được như vậy do không có khả năng tác động thay đổi giá cả thế giới. Hai là, sự thất bại của thị trường trong nước như thất nghiệp hoặc bán thất nghiệp, những khiếm khuyết trên thị trường vốn, công nghệ. Khi đo lường thặng dư của người sản xuất sẽ rất khó đo được các khoản lợi ích và chi phí. Ba là, thuyết về điều tốt nhất hạng nhì (the second best) cho rằng khi thị trường bị khiếm khuyết thì việc sử dụng các chính sách can thiệp mang lại điều tốt chẳng hạn tạo ra nhiều việc làm cho khu vực công nghiệp. Tuy nhiên, chính sách thương mại quốc tế, khi được làm theo cách này, phải được so sánh với chính sách trong nước nhằm khắc phục cùng một vấn đề. Với lập luận về bảo hộ ngành công nghiệp non trẻ, nhiều nước đang phát triển lựa chọn chính sách công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu. Các chính sách này thành công trong thúc đẩy công nghiệp chế tạo song lại không thành công trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống. Các nền kinh tế công nghiệp hoá mới (NIEs8) thực hiện công nghiệp hoá thông qua phát triển xuất khẩu hàng chế tạo và các nền kinh tế này đạt được sự tăng trưởng nhanh về sản lượng và mức sống. Vấn đề đặt ra là các nước đang phát triển liệu có đạt được những thành tích tương tự không nếu từ bỏ chính sách công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu. Câu hỏi có thể được đặt ra là tại sao không khuyến khích cả thay thế nhập khẩu và định hướng xuất khẩu? Lý do bởi vì một chế độ thuế quan làm giảm nhập khẩu cũng làm giảm xuất khẩu [50, tr.424-425]. Việc bảo hộ các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu dẫn đến chuyển các nguồn tài nguyên ra khỏi khu vực xuất khẩu thực tế hoặc tiềm tàng. Do đó, một nước lựa chọn phương án thay thế nhập khẩu cũng đồng thời lựa chọn cách làm giảm sự tăng trưởng xuất khẩu. 8 Các nền kinh tế này ở Đông Á bao gồm Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Công và Singapore
  21. 22 So sánh quá trình công nghiệp hoá hướng ngoại dựa trên xuất khẩu của các nền kinh tế Đông và Đông Nam Á và công nghiệp hoá hướng nội dựa trên thay thế nhập khẩu của các nước Mỹ Latinh9 trong 3 thập kỷ từ những năm 1960 đến những năm 1980 của thế kỷ XX ta thấy các nước Đông và Đông Nam Á không phải lúc nào cũng thực hiện hướng ngoại. Các nước Indonesia, Thái Lan và Malaysia chỉ thực sự thể hiện tự do hoá nhập khẩu vào những năm 1980. Hiện tại, Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc vẫn thực hiện chính sách thay thế nhập khẩu có lựa chọn [160]. 1.2.2. Hoàn thiện các công cụ của chính sách thương mại quốc tế Trong cơ chế rà soát chính sách thương mại quốc tế của WTO, các công cụ của chính sách thương mại quốc tế được xem xét theo hai nhóm là: các công cụ tác động tới nhập khẩu và các công cụ tác động tới xuất khẩu. Các công cụ tác động trực tiếp tới nhập khẩu bao gồm các công cụ thuế, hạn ngạch nhập khẩu, hạn chế xuất khẩu tự nguyện, yêu cầu về tỷ lệ nội địa hoá, các quy định về mua sắm của chính phủ, các hàng rào hành chính, các quy định về chống bán phá giá và trợ cấp, hạn ngạch thuế quan, nhập khẩu không tự động, các hàng rào bảo hộ mới và các hàng rào kỹ thuật (TBT) như bảo vệ môi trường, sức khoẻ con người và động vật Các công cụ tác động trực tiếp tới xuất khẩu bao gồm trợ cấp xuất khẩu, các chương trình xúc tiến thương mại, hỗ trợ thông tin, phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất. Nghiên cứu của Rodrik thực hiện năm 2004 cho thấy trong bối cảnh toàn cầu hoá, các nước đang phát triển phải chú ý xem xét việc phối hợp chính 9 Các nền kinh tế Đông và Đông Nam Á được nghiên cứu gồm Hồng Kông, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan và Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan. Các nước Mỹ Latinh gồm Argentina, Bolivia, Brazil, Chile, Colombia, Costa Rica, Cộng hoà Dominic, El Salvador, Jamaica, Mexico, Paraguay, Peru, Uruguay, Venezuela
  22. 23 sách thương mại quốc tế và các chính sách ngành, đặc biệt là sự phối hợp với chính sách công nghiệp, trong đó các Chính phủ cần có cơ chế thu nhận thông tin từ khu vực doanh nghiệp để đưa ra các chính sách. Việc phối hợp hoàn thiện chính sách phải dựa trên thông tin đưa ra từ doanh nghiệp. Các yêu cầu khác cần phải có là sự cam kết và tham gia trực tiếp của lãnh đạo cao cấp; sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong Chính phủ; việc đảm bảo quá trình phối hợp thiết kế và thực hiện chính sách được rõ ràng và có cơ sở. Các hỗ trợ của Chính phủ là hỗ trợ hoạt động chứ không phải hỗ trợ ngành [145]. Phần dưới đây sẽ xem xét sự thay đổi của hệ thống thương mại quốc tế phát triển qua các giai đoạn. Từ đó chỉ ra những yêu cầu về vận dụng các công cụ của chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế: Giai đoạn 1 (1947-1980): Đây là giai đoạn thực hiện tự do hoá thương mại giữa các nước công nghiệp. Trong giai đoạn này, vai trò của GATT được phát huy. Tuy nhiên, do nhiều lý do như sự mất cân bằng về thường mại giữa các nước hay bảo hộ trở nên khôn khéo hơn dẫn đến GATT rơi vào khủng hoảng ở cuối những năm 1970 Giai đoạn 2 (1980-1994): Giai đoạn này chứng kiến nhiều hạn chế về thương mại nằm ngoài phạm vi của GATT. Giai đoạn 1990 chứng kiến sự phát triển của các khu vực tự do thương mại như Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), Khu vực mậu dịch tự do ASEAN. Giai đoạn 3 (1994 – nay): Vòng đàm phán Uruguay (1986- 1994) trong khuôn khổ GATT kết thúc. Nó chấm dứt sự tồn tại 47 năm của GATT và đánh dấu sự ra đời của Tổ chức thương mại thế giới. WTO được chính thức thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 1995, có trụ sở chính tại Geneva, Thuỵ Sỹ [164].
  23. 24 Tính đến ngày 11 tháng 1 năm 2007, WTO có 150 thành viên. WTO được thành lập nhằm tạo ra một tổ chức chung thiết lập các quy tắc và giải quyết các vấn đề trong quan hệ kinh tế quốc tế. WTO có 6 chức năng chính sau: - Thiết lập các hiệp định thương mại trong khuôn khổ của nó; - Tạo ra một diễn đàn cho các đàm phán về thương mại; - Giải quyết các tranh chấp thương mại; - Kiểm soát các chính sách thương mại quốc gia; - Cung cấp sự trợ giúp về mặt kỹ thuật và đào tạo cho các nước đang phát triển; - Hợp tác với các tổ chức quốc tế khác. Trong quá trình đàm phán gia nhập và khi đã trở thành thành viên của WTO, các quốc gia phải chấp nhận luật chơi của WTO. Nói cách khác, các quốc gia phải thực hiện hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của mình. Trước hết, trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, các quốc gia thường sử dụng đàm phán song phương. Cụ thể là, các quốc gia phải đưa ra phạm vi cam kết mở cửa thị trường, các mức cam kết cụ thể (thường là bằng hoặc thấp hơn mức hiện hành). Thứ hai, khi đã trở thành thành viên của WTO, các quốc gia thường lựa chọn đàm phán đa phương. Khi thực hiện đàm phán đa phương, các nước đàm phán cắt giảm thuế quan theo ngành hoặc theo công thức cắt giảm thuế [42]. Việc ban hành hay tăng mới một loại thuế quan phải được cân bằng lại bằng việc giảm các loại thuế khác để bù đắp cho các nước xuất khẩu bị ảnh hưởng. Thứ ba, các quốc gia phải chỉnh sửa luật thương mại, luật hải quan và các
  24. 25 bộ luật liên quan để đảm bảo thực hiện đúng các nguyên tắc của WTO. Các biện pháp phi thuế quan cũng phải tuân theo các quy định của WTO. Dưới đây là một số vấn đề mà các quốc gia đang phát triển phải lưu ý khi thực hiện hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế: - Hạn ngạch thuế quan: Hạn ngạch thuế quan thuộc nhóm các biện pháp hạn chế định lượng (cấm nhập khẩu; hạn ngạch nhập khẩu; hạn ngạch thuế quan; và cấp phép nhập khẩu không tự động). Hạn ngạch thuế quan là biện pháp được cho phép sử dụng trong khuôn khổ của WTO. Theo quy định về hạn ngạch thuế quan, hàng nhập khẩu nằm trong hạn ngạch được hưởng mức thuế suất thấp. - Bãi bỏ việc cấp phép nhập khẩu không tự động: Các quốc gia thành viên của WTO phải thực hiện cấp phép nhập khẩu tự động (không tạo ra các thủ tục hành chính không liên quan tới mục đích hải quan hay cơ quan hành chính thích hợp). - Thực hiện Hiệp định về trị giá hải quan: Hầu hết các thành viên của WTO đều tham gia Hiệp định về trị giá hải quan. Theo hiệp định này, các quốc gia phải tính giá thực trả hoặc phải trả khi hàng hoá được bán ra từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu. Các quốc gia không được áp dụng cách tính giá tối thiểu. - Giảm thiểu sự tham gia của doanh nghiệp nhà nước: WTO yêu cầu các quốc gia thành viên thực hiện nguyên tắc không phân biệt đối xử. Các quốc gia không được duy trì đặc quyền tham gia vào thương mại quốc tế đối với các doanh nghiệp nhà nước (đầu mối nhập khẩu chẳng hạn). - Hàng rào bảo hộ mới đang được sử dụng: WTO cho phép áp dụng các biện pháp bảo vệ môi trường, sức khoẻ con người và động vật nếu cần thiết. Điều này dẫn đến việc các nước phát triển thường áp dụng các hàng rào kỹ
  25. 26 thuật (TBT) để cản trở hàng hoá của các nước khác đưa vào nước mình. Tuy nhiên, để xác định xem một hành động có bị coi là TBT hay không thì phải thẩm tra mức trở ngại mà nó tạo ra trong thương mại quốc tế. Quá trình này không có lợi cho các nước đang phát triển. - Các biện pháp liên quan đến đầu tư (TRIMs): Các thành viên của WTO phải tuân theo nguyên tắc đãi ngộ quốc gia trong đầu tư. Theo đó, các quốc gia không được áp dụng các biện pháp về tỷ lệ nội địa hoá, tỷ lệ xuất khẩu, tỷ lệ chuyển lợi nhuận, - Các biện pháp quản lý về hành chính: Các thành viên của WTO không được áp dụng các biện pháp quản lý về hành chính gây trở ngại cho thương mại quốc tế như quy định về quảng cáo hay đặt cọc, địa điểm thông quan, WTO đề ra các nguyên tắc hoạt động đảm bảo không phân biệt đối xử trong thương mại theo đó bất kỳ nước thành viên nào đều được tạo điều kiện tốt nhất khi tham gia vào thị trường các nước thành viên khác. Mặc dù WTO được coi là ngôi nhà chung của thế giới thương mại, là một Liên hợp quốc về mặt kinh tế song vẫn còn nhiều vấn đề liên quan đến thương mại trong WTO chưa có cơ chế giải quyết như các nhóm kinh tế khu vực; môi trường và thương mại; đầu tư và thương mại; chính sách cạnh tranh; tính rõ ràng trong việc mua sắm của chính phủ; thương mại điện tử; quyền của người lao động và thương mại, đặc biệt là vấn đề nông nghiệp. 1.2.3. Phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế Thông thường, các lĩnh vực thương mại - đầu tư - công nghiệp – nông, lâm, ngư nghiệp do các bộ khác nhau chịu trách nhiệm do đó khi thiết kế và hoàn thiện chính sách thường gặp phải những khó khăn về phối hợp thông tin, phối hợp thiết kế và phối hợp triển khai.
  26. 27 Trước hết, việc phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế đòi hỏi phải giải quyết vấn đề về thể chế và cơ chế phối hợp. Cụ thể là cơ chế hoạt động và quyền lực của cơ quan chịu trách nhiệm chính về công tác điều phối việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế. Những câu hỏi cần được trả lời bao gồm: • Việc hoạch định chính sách thương mại quốc tế do cơ quan nào chủ trì? • Chính sách thương mại quốc tế được hiểu như thế nào? • Các văn bản được coi là chiến lược và quy hoạch về phát triển thương mại quốc tế của quốc gia là những văn bản nào? Nội dung nào liên quan trực tiếp và gián tiếp tới chính sách thương mại quốc tế? • Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thực hiện hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế là gì? Cơ chế phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế đang được thực hiện ra sao? Quốc gia có một cơ quan đầu mối phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế hay không? Quy chế hoạt động của cơ quan này như thế nào? • Lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế được gắn kết thế nào với việc nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước? Thứ hai, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, để gia nhập có hiệu quả vào nền kinh tế thế giới và khu vực, các nước đang phát triển thực hiện công nghiệp hoá phải giải quyết tốt hai vấn đề là (i) thực hiện tự do hoá các ngành công nghiệp chế tạo; (ii) tăng cường xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu của khu vực FDI. Việc phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế nhằm đạt các mục tiêu về nâng cao sức cạnh tranh của hàng công nghiệp chế tạo và tăng cường xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu của khu vực FDI, do đó, là một nội dung cần xem xét trong quá trình phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế. Theo Krugman và Obstfeld [50], các nước đang phát triển quan tâm đến
  27. 28 phát triển công nghiệp chế tạo. Một lý do đưa ra là khu vực công nghiệp chế tạo được coi là một dấu hiệu phát triển của một quốc gia. Tuy nhiên, lập luận quan trọng nhất ủng hộ bảo hộ ở các nước đang phát triển là lập luận về các ngành công nghiệp non trẻ. Chính phủ các nước đang phát triển cần giúp đỡ các ngành này bởi vì chúng còn non trẻ so với các ngành được hình thành từ lâu tại các nước phát triển. Thực tế là các nước Hoa Kỳ, Đức và Nhật đều bắt đầu quá trình công nghiệp hoá bằng việc bảo hộ các ngành công nghiệp chế tạo. Bảo hộ ngành công nghiệp chế tạo phải đi cùng với việc giúp cho ngành đó có khả năng cạnh tranh quốc tế. Việc bảo hộ nhầm gây tổn thất cho xã hội. Ấn Độ và Pakistan bảo hộ các ngành công nghiệp chế tạo trong hàng thập kỷ và đến thập kỷ 1990 hai quốc gia này bắt đầu xuất khẩu hàng chế tạo song hàng chế tạo xuất khẩu là hàng công nghiệp nhẹ như dệt chứ không phải là hàng công nghiệp nặng được bảo hộ. Tầm quan trọng của xuất khẩu hàng công nghiệp chế tạo đối với các nước đang phát triển thực hiện công nghiệp hoá được chỉ ra trong nhiều nghiên cứu. Chẳng hạn, nghiên cứu năm 2004 của Yilmaz [159] chỉ ra rằng tăng trưởng xuất khẩu của các nước đang phát triển có nguồn gốc từ hàng chế tạo (chiếm 70% xuất khẩu của các nước đang phát triển). Nghiên cứu của Weiss và Jalilian [160] chỉ ra rằng tỷ trọng hàng xuất khẩu chế tạo của các nước Đông và Đông Nam Á trong tổng số hàng xuất khẩu chế tạo của thế giới cao hơn nhiều so với tỷ trọng hàng chế tạo được sản xuất của họ trong trong tổng số hàng chế tạo được sản xuất của thế giới. Trên giác độ phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế, vấn đề phát triển hàng công nghiệp chế tạo yêu cầu các quốc gia phải trả lời các câu hỏi sau đây trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế: • Tập trung bảo hộ những ngành chế tạo nào? Lộ trình bảo hộ như thế
  28. 29 nào trong điều kiện gia tăng tự do hoá thương mại? • Các công cụ nào của chính sách thương mại quốc tế khuyến khích sự phát triển của các ngành theo hướng nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế và giá trị gia tăng của ngành? • Việc áp dụng lộ trình tự do hoá hay bảo hộ một ngành và các công cụ đi kèm nên hướng vào các đối tác nào? Đối tác đầu tư nào hay các doanh nghiệp nào đang góp phần gia tăng xuất khẩu ngành công nghiệp chế tạo nào? Những khuyến khích nào nên được áp dụng trong tương lai và thông qua các công cụ nào của chính sách thương mại quốc tế? Phát huy khu vực FDI để tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế và thâm nhập thị trường thế giới được xem là một biện pháp lý tưởng đối với các quốc gia đang phát triển thực hiện công nghiệp hoá trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế [142]. Các nghiên cứu trước đây cho thấy vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo động lực để khuyến khích xuất khẩu, thay thế nhập khẩu hay tăng cường thương mại các hàng hoá trung gian, đặc biệt giữa công ty mẹ và chi nhánh ở nước tiếp nhận đầu tư. Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản tại Đông Nam Á làm tăng xuất khẩu từ các nước này tới Hoa Kỳ và Nhật Bản. Đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ tại Đông Nam Á làm tăng xuất khẩu từ các nước này tới Nhật Bản nhưng không làm tăng xuất khẩu sang Hoa Kỳ như trong nghiên cứu của Goldberg và Klein [114], nghiên cứu thực hiện năm 2004 của Lemi [130]. Câu hỏi cơ bản đặt ra đối với việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế nhằm thúc đẩy xuất khẩu của khu vực FDI là các công cụ của chính sách thương mại quốc tế cần được thực hiện như thế nào để đạt được mục tiêu khuyến khích doanh nghiệp FDI tăng cường thương mại các hàng hoá trung gian giữa các chi nhánh, khuyến khích các doanh nghiệp trong nước liên kết với các doanh nghiệp FDI, tận dụng kỹ năng marketing của các doanh nghiệp FDI để xuất khẩu vào các thị trường, cũng như thu hút và khuyến khích các doanh nghiệp FDI Hoa Kỳ và Nhật Bản tăng
  29. 30 cường xuất khẩu tới các thị trường. Việc phối hợp về lộ trình thay đổi; nội dung thực hiện các công cụ thuế quan và phi thuế quan của chính sách thương mại quốc tế giữa các bộ, ngành, và các bên liên quan ảnh hưởng tới việc giải quyết các vấn đề này. 1.2.4. Ứng dụng chỉ số lợi thế so sánh hiện hữu (RCA) và Dự án phân tích thương mại toàn cầu (GTAP) để hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế 1.2.4.1. Ứng dụng chỉ số lợi thế so sánh hiện hữu (RCA) để hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế Lợi thế so sánh hiện hữu RCA (Revealed Comparative Advantage) là một chỉ số đã và đang được sử dụng khi phân tích chính sách thương mại quốc tế của các quốc gia. Lợi thế so sánh xem xét từ các số liệu thương mại quan sát được chính là lợi thế so sánh hiện hữu. Chỉ số RCA giúp các quốc gia có thêm một công cụ để đánh giá mức độ cạnh tranh của nền kinh tế, đặc biệt trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, giúp các quốc gia hoạch định tốt hơn chính sách thương mại quốc tế, làm cơ sở để hoàn thiện các chính sách, công cụ khác trong chính sách thương mại quốc tế. Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo giả định sự khác nhau vềcông nghệ. Lý thuyết Heckscher-Ohlin giả định công nghệ như nhau và lợithế so sánh có được từ sự khác biệt về giá tương đối (chi phí cơ hội) do sựkhác biệt về mức độ dồi dào tương đối các yếu tố sản xuất giữa các quốc gia. Đi tiên phong trong việc kiểm chứng lý thuyết lợi thế so sánh là Bela Balassa với việc đưa ra chỉ số Balassa vào năm 1965.
  30. 31 Balassa đã chỉ ra 3 cách khác nhau để tính toán lợi thế so sánh của quốc gia [128]: Cách 1: Tính toán mức thặng dư hoặc thâm hụt của xuất khẩu so với nhập khẩu. Nếu xuất khẩu lớn hơn nhập khẩu trong hàng hoá nào thì quốc gia đó được coi là có lợi thế so sánh trong hàng hoá đó. Tuy nhiên, cách tính toán này gặp phải một số hạn chế như (i) không tính đến thị hiếu khác nhau của các quốc gia; (ii) không tính đến kết quả của việc bảo hộ thương mại. Cách 2: Thực hiện điều tra chi phí sản xuất hàng hoá cạnh tranh ở các quốc gia và sử dụng những phương pháp giống nhau để đánh giá mức độ cạnh tranh các hàng hoá này ở các quốc gia khác nhau. Trên thực tế, phương pháp này khó được thực hiện vì các cuộc điều tra thường được thực hiện ở các thời điểm khác nhau với các phương pháp khác nhau dẫn đến khó có thể so sánh số liệu điều tra giữa các nước. Cách 3: Xem xét ‘tính hiện hữu’ của lợi thế so sánh (được đề cập ngay dưới đây). Balassa đề xuất xem xét lợi thế so sánh từ các số liệu thương mại sẵn có. Do đó, lợi thế so sánh hiện hữu RCA còn được gọi là chỉ số Balassa10. Balassa đề xuất xem xét lợi thế so sánh từ các số liệu thương mại sẵn có. Lợi thế so sánh hiện hữu RCA (Revealed Comparative Advantage) được tính bằng cách chia thị phần xuất khẩu của một hàng hoá (hoặc nhóm hàng hoá) của một quốc gia trong tổng xuất khẩu hàng hoá đó (hoặc nhóm hàng hoá đó) trên thế giới (hoặc một tập hợp các quốc gia) cho thị phần xuất khẩu của tất cả hàng hoá của quốc gia trong tổng số xuất khẩu của thế giới (hay tổng số xuất 10 Bela Balassa (1928-1991) là nhà kinh tế hoc Hungary. Ông sang Hoa Kỳ năm 1957, theo học tại Yale, là giáo sư giảng dạy tại Học viện kinh tế chính trị Johns Hopkins. Công trình của ông liên quan đến việc kiểm chứng lý thuyết về lợi thế so sánh. Ông đưa ra chỉ số Balassa (1965), đưa ra lý thuyết về hội nhập kinh tế quốc tế (1961), nghiên cứu về triển vọng thương mại của các nước đang phát triển, về tự do hoá thương mại ở các nước công nghiệp. Chi tiết về Balassa xin xem thêm bài viết ‘My life philosophy’ đăng trên American Economist năm 1989.
  31. 32 khẩu của thị trường tập hợp các quốc gia đó). RCAij = (xij/xwj)/(Σxij/Σxwj) (*) Nếu chỉ số lớn hơn 1, quốc gia đó được coi là có lợi thế so sánh ở hàng hoá đó (hoặc ngành đó). Nếu chỉ số RCA nhỏ hơn 1, quốc gia đó được coi là bất lợi ở hàng hoá đó. Để xem xét lợi thế so sánh hiện hữu của một quốc gia trong khu vực, 7 công thức sau được sử dụng. RCAij = (xij/xnj)/(xit/xnt) = (xij/ xit)/(xnj/xnt) (1) RCAij = (xij – mij)/(xij + mij) (2) RCAij = (xij/xit)/ (mij/mit) = (xij/mij)/(xit/mit) (3) RCAij = [ln (xij/xit)/ (mij/mit) ]* 100 = [ln (xij/mij)/(xit/mit)]* 100 (4) RTA = RXA – RMA = (xij/xit)/(xnj/xnt) - (mij/mit)/(mnj/mnt) (5) Ln RXA = ln (xij/xit)/(xnj/xnt) (6) RC = ln RXA – ln RMA = ln (xij/xit)/(xnj/xnt) - ln (mij/mit)/(mnj/mnt) (7) trong đó xij - xuất khẩu hàng hoá j của nước i mij - nhập khẩu hàng hoá j của nước i xwj - xuất khẩu hàng hoá j của thế giới (hay một tập hợp các quốc gia) Σxij - tổng xuất khẩu của nước i Σxwj - tổng xuất khẩu của thế giới (hay một tập hợp các quốc gia) xit - tổng xuất khẩu nhóm hàng t của nước i xnj - tổng xuất khẩu nhóm hàng j của tập hợp n quốc gia mit – tổng nhóm hàng hoá nhập khẩu t của nước i xnt - tổng xuất khẩu nhóm hàng t của tập hợp n quốc gia (chẳng hạn ASEAN)
  32. 33 RTA (the relative trade advantage) - lợi thế thương mại tương đối Ln RXA (the logarithm of relative export advantage) - hàm loga của lợi thế xuất khẩu tương đối RC (the revealed competitiveness) – khả năng cạnh tranh hiện hữu RCA trong công thức (2) nhận giá trị [-1; 1]. Quốc gia được coi là có lợi thế so sánh hiện hữu nếu RCA nhận giá trị bằng 1 hoặc gần với 1. Quốc gia được coi là bất lợi thế so sánh hiện hữu nếu RCA bằng -1 hoặc gần với -1. Tuy nhiên, những giá trị RCA gần với 0 lại tạo ra những cách hiểu khác nhau. Công thức (2) cho phép tính RCA dựa trên kết quả thực hiện thương mại của bản thân một nước đối với một hàng hoá đặc thù nào đó. Công thức (2), (3) và (4) tính đến cả xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia. Ba công thức này được nhắc đến trong nghiên cứu của Utkulu và Seymen [155]. Công thức (5), (6) và (7) được đề xuất lần đầu tiên vào năm 1991 do Vollrath đưa ra [158]. Kết quả tính toán là số dương cho biết quốc gia đó có lợi thế so sánh và số âm thể hiện quốc gia đó không có lợi thế so sánh. Phương pháp do Balassa đề xuất (RCA) khác cơ bản với phương pháp do Vollrath phát triển (RXA) ở việc sử dụng số liệu và số lượng hàng hoá, quốc gia được tính toán. Cụ thể là số liệu trong phương pháp của Balassa chấp nhận sự trùng lặp (xuất khẩu của thế giới bao gồm xuất khẩu của quốc gia được tính toán) còn phương pháp của Vollrath loại trừ sự trùng lặp này. Bên cạnh đó, phương pháp do Vollrath đề xuất tính đến tất cả các hàng hoá và tất cả các quốc gia tham gia vào thương mại còn phương pháp của Balassa thì tính một nhóm hàng hoá và một nhóm quốc gia. Ứng dụng của RCA: Tuỳ thuộc vào số liệu sử dụng, RCA có thể được sử dụng để diễn tả lợi
  33. 34 thế so sánh theo các cách khác nhau. RCA có thể được sử dụng để xem xét lợi thế so sánh của một quốc gia so với thế giới hoặc của quốc gia đó so với một nhóm các quốc gia khác ở trong một, một nhóm hoặc nhiều nhóm hàng trên thế giới hoặc xem xét lợi thế so sánh của một quốc gia so với các quốc gia khác trong một khu vực nào đó. RCA tính theo công thức (2), (3) và (4) có thể được sử dụng để tính toán lợi thế so sánh hiện hữu trên phạm vi thế giới, khu vực (ví dụ ASEAN) và song phương. Về bản chất, công thức (1), (5), (6) và (7) được sử dụng để tính toán lợi thế so sánh hiện hữu của quốc gia trên phạm vi thế giới. Kết quả tính toán góp phần đưa ra câu trả lời như một quốc gia nên phát huy lợi thế so sánh ở những ngành nào và nên làm gì để phát huy lợi thế so sánh hay làm thế nào để biến những ngành hiện tại chưa có lợi thế so sánh hiện hữu thành những ngành có lợi thế trong tương lai, ngành nào là ngành mà quốc gia được nghiên cứu đang phải cạnh tranh với khu vực, định hướng nào nên được thực hiện khi mở rộng liên kết khu vực, lộ trình hội nhập khu vực và quốc tế cho từng ngành nên được thiết kế và hoàn thiện như thế nào. Tất cả những câu trả lời này cần được cụ thể hoá bằng việc hoàn thiện các công cụ của chính sách thương mại quốc tế. 1.2.4.2. Ứng dụng Dự án phân tích thương mại toàn cầu (GTAP) để hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế Joseph F. Francois và Kenneth A.Reinert giới thiệu khá đầy đủ các phương pháp đánh giá chính sách thương mại quốc tế trong cuốn Sổ tay các phương pháp ứng dụng phân tích chính sách thương mại (tiếng Anh) [118]. Cuốn sách này giới thiệu các khung phân tích cơ bản và các ứng dụng để lượng hoá việc đánh giá chính sách thương mại quốc tế. Các vấn đề được đề cập bao gồm lượng hoá sự thay đổi về lợi ích của các bên; mô hình cân bằng cục bộ; mô hình cân bằng tổng quát đơn giản; mô hình cân bằng tổng quát trong phân tích ngành; mô hình cân bằng
  34. 35 cục bộ đa vùng, đa thị trường; mô hình cân bằng tổng quát đa vùng; tính năng động của tự do hoá thương mại. Mô hình cân bằng cục bộ được áp dụng để phân tích cân bằng cung cầu trên một thị trường hay một ngành nào đó. Mô hình cân bằng cục bộ được ứng dụng phổ biến trong kinh tế học vi mô. Mô hình cân bằng tổng quát được áp dụng để phân tích cân bằng mở của nền kinh tế trong điều kiện thực hiện thương mại quốc tế với sự tham gia của nhiều ngành và nhiều nền kinh tế trên thế giới. Mô hình cân bằng tổng quát được ứng dụng phổ biến trong kinh tế học quốc tế. Mô hình cân bằng tổng quát có thể được ứng dụng để xem xét tác động của các yếu tố bên ngoài (giá dầu, giá cả các mặt hàng khác trên thế giới) tới hoạt động thương mại quốc tế của quốc gia. Mô hình cân bằng tổng quát có thể được áp dụng để đánh giá các công cụ của chính sách thương mại quốc tế. Dự án phân tích thương mại toàn cầu (GTAP) ứng dụng mô hình cân bằng tổng quát CGE (mô hình cân bằng tổng thể tính toán được) để thực hiện phân tích hoạt động thương mại quốc tế. GTAP phân chia nền kinh tế thế giới thành 66 vùng, 57 ngành với 5 yếu tố sản xuất trong điều kiện cạnh tranh hoàn hảo và lợi thế không đổi theo quy mô. Giới thiệu chi tiết về GTAP xin xem trên trang web: Ngoài ra, phần demo của GTAP có thể tải xuống từ địa chỉ sau: Hệ thống cơ sở dữ liệu của GTAP cho phép người sử dụng tự định dạng
  35. 36 cơ sở dữ liệu bao gồm nhóm ngành, nhóm vùng và nhóm các yếu tố sản xuất theo yêu cầu đặt ra. Như vậy, các kịch bản khác nhau có thể được phân tích. Tuỳ theo yêu cầu đặt ra của việc phân tích, kết quả từ các kịch bản khác nhau có thể được diễn giải để xem xét thương mại nội bộ ngành, chỉ số giá tiêu dùng, cán cân thương mại, giá trị gia tăng, thu nhập của hộ gia đình, hệ số thương mại, .v.v. Những kết quả tính toán này sẽ tạo điều kiện cho việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế thông qua trả lời các câu hỏi như: (i) việc gia tăng hội nhập kinh tế quốc tế có tốt hơn cho một quốc gia không? (ii) lộ trình cắt giảm các hàng rào thuế quan và phi thuế quan nên như thế nào? (iii) mặt hàng nào nên thực hiện tự do hoá hơn nữa. 1.3. Kinh nghiệm hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế 1.3.1. Kinh nghiệm của Thái Lan Thái Lan là quốc gia đang phát triển. Dân số của Thái Lan vào khoảng 64,2 triệu vào năm 2004 với lực lượng lao động khoảng 36% dân số. Thu nhập bình quân đầu người của Thái Lan hiện gấp Việt Nam khoảng gần 5 lần. Tổng xuất nhập khẩu của Việt Nam bằng gần 1/3 của Thái Lan11. Chính phủ Thái Lan đang thực hiện chính sách thương mại quốc tế “nhị nguyên”. Một mặt, Chính phủ Thái Lan đẩy mạnh tự do hoá thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu, mở cửa mạnh mẽ thị trường trong nước. Mặt khác, Chính phủ Thái Lan nỗ lực trợ giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trên đất Thái. Chính phủ Thái Lan xác định việc nâng cao năng lực cạnh tranh của khu vực doanh nghiệp tư nhân là chìa khoá để thực hiện chiến lược hội nhập. 11 Tác giả tính toán từ dữ liệu công bố của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tính đến tháng 1 năm 2007.
  36. 37 Chính sách thương mại quốc tế của Thái Lan là một bộ phận gắn kết trong “các chính sách kinh tế và thương mại quốc tế”12. Trước năm 2002, việc hoạch định chính sách tương đối độc lập giữa các Bộ thương mại (Vụ Kinh tế Kinh doanh) và Uỷ ban Chính sách Kinh tế Quốc tế. Một Phó Thủ tướng và Bộ trưởng thương mại chịu trách nhiệm về chính sách thương mại quốc tế. Kể từ khi ông Thaksin làm Thủ tướng từ năm 2002, việc điều phối chính sách kinh tế của Thái Lan tập trung vào Uỷ ban Chính sách Kinh tế Quốc gia (the National Economic Policy Committee). Thủ tướng là người trực tiếp theo dõi việc hoạch định và hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế. Đất nước Thái Lan hiện đang được quản lý như một doanh nghiệp. Điều này thể hiện ở việc áp dụng tư duy kinh doanh trong quản lý đất nước. Cụ thể là, Chính phủ Thái Lan công bố một tầm nhìn, các mục tiêu và các chương trình hành động. Tầm quan trọng của các chương trình cũng như tính liên kết, phối hợp giữa các chương trình được coi là một khâu quan trọng của việc thực thi chính sách. Các cơ quan hành chính tham gia vào quá trình xây dựng, thực hiện và hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của Thái Lan không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động. Mục tiêu hoạt động của các cơ quan này là hỗ trợ và thúc đẩy xuất khẩu. Các biện pháp thực hiện bao gồm cung cấp thông tin, hỗ trợ marketing, hỗ trợ giải quyết các khó khăn ở thị trường nước ngoài. Để khuyến khích xuất khẩu, Chính phủ Thái Lan cũng ưu tiên việc cải cách hành chính ở khâu thủ tục hải quan. Thái Lan tăng cường ứng dụng hệ thống trao đổi dữ liệu điện tử (EDI – Electronic Data Interchange) từ năm 1999 đối với việc khai báo hải quan. Thời gian thực hiện thủ tục hải quan trung bình hiện chỉ còn khoảng 1 giờ (so với 3 đến 4 giờ trước đó). Thái Lan đã áp dụng hệ thống Internet vào khai báo 12 Nguyên văn tiếng Anh là “Commercial and International Economics Policies” [149].
  37. 38 hải quan cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hệ thống này cũng được áp dụng đối với việc thông quan nguyên vật liệu cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thái Lan trở thành thành viên chính thức của WTO từ ngày 1 tháng 1 năm 1995. Thái Lan cũng là một trong những quốc gia hăng hái nhất trong việc đẩy mạnh tự do hoá thương mại ở khu vực Đông Nam Á. Gần đây, Thái Lan tăng cường đàm phán song phương để mở rộng thị trường hơn nữa cho hàng hoá Thái Lan13. Mặc dù nông nghiệp chỉ còn chiếm chưa đến 10% trong GDP song cũng giống như Việt Nam, Thái Lan rất quan tâm đến việc tự do hoá lĩnh vực nông nghiệp. Một trong những ưu tiên của Thái Lan là việc giảm trợ cấp trong lĩnh vực nông nghiệp. Thái Lan là một thành viên tích cực trong nhóm các quốc gia yêu cầu giảm trợ cấp nông nghiệp (Cairns Group). Bên cạnh đó, tính đến thời điểm WTO rà soát chính sách thương mại của Thái Lan vào năm 2003, Thái Lan vẫn duy trì hạn ngạch thuế quan cho 23 nhóm hàng nông nghiệp (chiếm khoảng 1% trong tổng số dòng thuế của Thái Lan). Tuy nhiên, hạn ngạch thuế quan không áp dụng trong khuôn khổ AFTA. Để hỗ trợ các nhà sản xuất trong nước khi đẩy mạnh tự do hoá thương mại, Chính phủ Thái Lan thực hiện một loạt các biện pháp. Trước hết, Chính phủ Thái Lan lựa chọn không trở thành thành viên hay quan sát viên của Hiệp định về mua sắm của Chính phủ trong WTO (Agreement on government procurement). Mặc dù các quy định về mua sắm của Chính phủ Thái Lan ghi rõ nhằm đảm bảo quá trình sử dụng kinh tế và hiệu quả song trên thực tế, các 13 Thái Lan và Singapore đều thực hiện chính sách thương mại hướng vào xuất khẩu. Singapore đẩy mạnh thương mại trong khu vực và ưu tiên ký kết hiệp định thương mại song phương với các quốc gia trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Thái Lan cũng thực hiện ký kết hiệp định song phương với các quốc gia trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương song mở rộng sang các quốc gia khác như Cộng hoà Séc và Croatia ở Trung Âu, Chilê ở Nam Mỹ.
  38. 39 công ty trúng thầu là các công ty trong nước. Hai là, Chính phủ Thái Lan lựa chọn một số ngành để tập trung các hỗ trợ (thông tin, marketing, đào tạo) nâng cao sức cạnh tranh như công nghiệp nông thôn, ô tô, dệt, điện tử và các dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Những quy định về tỷ lệ nội địa hoá hay yêu cầu về hàm lượng xuất khẩu không áp dụng như là các biện pháp để nâng cao sức cạnh tranh của các ngành này. Ba là, Chính phủ Thái Lan tập trung vào việc kiểm soát tiêu chuẩn chất lượng (ban hành tiêu chuẩn của Thái Lan theo tiêu chuẩn quốc tế). Bốn là, Chính phủ đẩy mạnh việc thực thi các quy định về bảo hộ sở hữu trí tuệ. Năm là, một số quyền hạn đặc biệt được áp dụng cho các cơ quan như Bộ Tài chính có quyền áp mức thuế không vượt quá 50% mức ở biểu thuế cho một mặt hàng mà không cần sự đồng ý của Quốc hội hoặc là Bộ Thương mại có quyền cấm việc nhập khẩu một mặt hàng nếu mặt hàng này bị Hội đồng đầu tư (BOI-Board of Investment) cho là cạnh tranh gay gắt với hàng hoá trong nước. Kinh nghiệm phát triển ngành ô tô Thái Lan dưới đây sẽ phản ánh rõ hơn cách tiếp cận và hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của Thái Lan trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Trong khu vực Đông Nam Á, Thái Lan và Malaysia là hai quốc gia thể hiện rõ ràng tham vọng xây dựng ngành công nghiệp ô tô. Malaysia mong muốn trở thành “nhà thiết kế xe của ASEAN” (designer of ASEAN cars) với cả một kế hoạch xây dựng nhãn hiệu ô tô quốc gia. Thái Lan mong muốn trở thành “Detroit of Asia”. Khẩu hiệu định vị này của Thái Lan thể hiện mơ ước quốc gia hơn là ý nghĩa thực sự của mục tiêu này vì châu Á còn có Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. Năm 2001, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc lần lượt đứng thứ 2, thứ 5 và thứ 8 trên thế giới về sản lượng xe sản xuất [147]. Khối lượng sản xuất của các quốc gia này gấp 19 lần, 6 lần và 5 lần sản lượng xe sản xuất tại Thái Lan. Tuy nhiên, Thái Lan đã thành công hơn Malaysia
  39. 40 khi sớm đạt được mục tiêu sản xuất 1 triệu xe vào năm 2005 (sớm hơn một năm so với kế hoạch). 1990 2005 Xe Xe 1000000 1000000 900000 900000 800000 800000 259550 700000 700000 600000 600000 48012 500000 500000 369092 400000 400000 368911 300000 300000 70585 61018 167613 170059 299439 100000 100000 209042 0 65864 73766 0 Tiêu thụ nội địa Sản xuất Tiêu thụ nội địa Sản xuất Xe khách Xe bán tải 1 tấn Xe tải khác Xe khách Xe bán tải 1 tấn Xe tải khác Hình 1.2 Sản xuất và tiêu thụ nội địa ô tô tại Thái Lan Nguồn: Tác giả tính toán theo số liệu trên trang web của Viện ô tô xe máy Thái Lan (2005) lấy từ Hiệp hội công nghiệp ô tô Thái Lan. Thái Lan bắt đầu phát triển ngành công nghiệp ô tô từ những năm đầu của thập kỷ 70. Hiện nay, Thái Lan là địa điểm sản xuất và lắp ráp ô tô lớn nhất trong khu vực Đông Nam Á. Số liệu về ngành công nghiệp ô tô ở Thái Lan cho thấy Thái Lan đứng thứ 17 trên thế giới về sản lượng ô tô được sản xuất và có khoảng 2000 nhà cung cấp linh phụ kiện trên thị trường. Thái Lan đứng thứ hai sau Hoa Kỳ về sản xuất xe bán tải trong đó khối lượng sản xuất xe bán tải 1 tấn chiếm tới gần 60% xe thương mại của Thái Lan vào năm 200414. Năm 2006, Thái Lan sản xuất gấp 3 lần 1990 với hơn 1 triệu xe ô tô trong đó lượng xe tiêu thụ nội địa tăng lên gấp đôi so với năm 1990. Xuất khẩu của Thái Lan tăng đáng kể trong giai đoạn 1996-2006 bao gồm xuất khẩu xe 14 Theo số liệu của Văn phòng kinh tế công nghiệp Thái Lan [60], sức sản xuất xe ô tô trên thế giới vào năm 2005 là 70 triệu chiếc trong đó Hoa Kỳ sản xuất 24 triệu chiếc, châu Á sản xuất 24 triệu chiếc và châu Âu sản
  40. 41 nguyên chiếc (chủ yếu) và linh phụ kiện. Quan sát chuỗi giá trị ngành công nghiệp ô tô Thái Lan cho thấy hiện tại Thái Lan đang rất mạnh ở công đoạn sản xuất bộ phận, linh kiện (công đoạn C) và công đoạn lắp ráp (công đoạn D). Với tiêu chí tạo ra giá trị gia tăng cao và tìm kiếm thị trường ngách, một số doanh nghiệp tại Thái Lan đã bắt đầu thực hiện nghiên cứu triển khai (công đoạn A), thiết kế (công đoạn B) và khai thác thị trường tiếp thị (công đoạn E) 15. Triệu Baht 82859.96 300000 250000 52847.1 200000 150000 23215.46 196,585.54 100000 149,232.80 50000 2042.19 4,253.36 83,894.70 0 1996 2001 2004 2005 Xe nguyên chiếc Linh phụ kiện Hình 1.3. Xuất khẩu của ngành công nghiệp ô tô Thái Lan Nguồn: Tác giả tính toán theo số liệu trên trang web của Viện ô tô xe máy Thái Lan (2005) lấy từ Hiệp hội công nghiệp ô tô Thái Lan. Chính phủ Thái Lan đã trợ giúp ngành ô tô xe máy từ thập kỷ 70 thông qua nhiều hoạt động bao gồm cả việc quy định về tỷ lệ nội địa hoá. Từ cuối những năm 1990, định hướng của Chính phủ về những trợ giúp cho ngành thay đổi. Điểm nổi bật nhất là không quy định về tỷ lệ nội địa hoá và chấp nhận cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Chính phủ Thái Lan tạo ra những kênh thông tin để lắng nghe ý kiến của xuất 22 triệu chiếc. 15 GS. Trần Văn Thọ đơn giản hoá chuỗi giá trị của Porter để định vị công nghiệp Việt Nam trong Đông Á.
  41. 42 doanh nghiệp, tìm hiểu nhu cầu, nguyện vọng và cách thức mong muốn được trợ giúp của các doanh nghiệp. Việc am hiểu nhu cầu được thể hiện qua việc xây dựng một dự án với quy hoạch rõ ràng và hiện thực. Các nhà quy hoạch đã vẽ được một bức tranh chân thực về ngành công nghiệp ô tô xe máy, làm nền tảng để xây dựng chiến lược, quy hoạch. Sự liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp ô tô Thái Lan một phần cũng do Chính phủ đã tạo nên những diễn đàn (chính thức và không chính thức) để doanh nghiệp được trao đổi quan điểm, bộc lộ nhu cầu. Viện ô tô xe máy Thái Lan đóng vai trò lớn trong quá trình này. Giá trị gia tăng A B C D E F Hình 1.4. Chuỗi giá trị trong một ngành công nghiệp Nguồn: [77, tr.36-37] A: Nghiên cứu triển khai B: Thiết kế C: Sản xuất linh phụ kiện D: Lắp ráp E: Khai thác thị trường, tiếp thị F: Chiến lược thương hiệu Chính phủ Thái Lan đang tập trung giải quyết hai vấn đề phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế với chính sách ngành. Một là phát triển nguồn nhân lực và công nghiệp phụ trợ. Hai là đẩy mạnh tự do hoá thương mại để mở rộng thị trường cho các nhà sản xuất, lắp ráp ô tô xe máy và cung cấp linh phụ kiện của Thái Lan. Như đã đề cập đến ở trên, Thái Lan xây dựng và thực hiện dự án phát
  42. 43 triển công nghiệp ô tô xe máy trong bối cảnh gia tăng tự do hoá thương mại. Về mặt đối ngoại, Thái Lan thúc đẩy tự do hoá thương mại. Về mặt đối nội, Thái Lan tập trung hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh. Việc gia nhập WTO của Trung Quốc đặt ra thách thức với ngành công nghiệp ô tô Thái Lan bởi vì Trung Quốc vừa là một thị trường rộng lớn, vừa là một cơ sở sản xuất lớn. Các nhà sản xuất ở Trung Quốc có thể khai thác thị trường nội địa rộng lớn nhưng các nhà sản xuất, lắp ráp ô tô ở Thái Lan thì không thể đầu tư vào Thái Lan chỉ với mong muốn là khai thác thị trường Thái Lan. Thái Lan nhận thấy các nhà sản xuất xe ô tô Nhật Bản là những nhà sản xuất quan tâm nhiều đến việc cắt giảm chi phí do đó Thái Lan muốn đáp ứng nhu cầu này của các nhà sản xuất ô tô Nhật Bản qua việc hỗ trợ cắt giảm chi phí sản xuất tại Thái Lan. Thái Lan thúc đẩy việc xây dựng ASEAN như một thị trường rộng lớn cho xe xuất khẩu từ Thái Lan [150]. Bên cạnh đó, Thái Lan cũng có lý do để yên tâm là đầu tư vào ngành công nghiệp ô tô sẽ tiếp tục tăng lên ở Thái Lan vì các nhà đầu tư sẽ theo đuổi chiến lược Trung Quốc + ASEAN và Thái Lan có lợi thế hơn các quốc gia ASEAN khác trong việc thu hút đầu tư vào ngành. Thái Lan đẩy mạnh đàm phán để trợ giúp xuất khẩu ô tô, xe máy và linh phụ kiện do các nhà sản xuất và lắp ráp có quốc tịch khác nhau ở Thái Lan sang các nước ASEAN và thế giới. Thái Lan mong muốn trở thành đầu mối sản xuất và xuất khẩu không những chỉ trong thị trường ASEAN mà cả các quốc gia khác trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Để thực hiện phát triển ngành công nghiệp ô tô xe máy, Chính phủ tập trung hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh bằng các chương trình như tăng chi phí đào tạo huấn luyện, xây dựng chương trình đào tạo kỹ sư, tăng học bổng học tập trong khối công nghiệp, đào tạo lại đội ngũ điều hành và kỹ sư, đội ngũ giáo viên, xây dựng trung tâm cơ sở dữ liệu công nghiệp, dữ liệu nhà sản xuất, dữ liệu thị trường, trung tâm hỗ trợ xuất khẩu linh phụ kiện, tư vấn hướng dẫn xuất khẩu, hỗ trợ
  43. 44 hợp tác liên kết nghiên cứu giữa các nhà sản xuất linh phụ kiện. Các công việc này đều phù hợp với các cam kết trong AFTA, AICO và WTO. Một điều cần nhấn mạnh là tất cả những mong muốn và cam kết xây dựng Thái Lan thành “Detroit of Asia” đều được truyền tải tới các nhà sản xuất, lắp ráp ô tô của Hoa Kỳ, Nhật Bản và các chi nhánh của các công ty này trong ASEAN, Trung Quốc và khu vực. Những kinh nghiệm của Thái Lan cho thấy: (i) việc nâng cao năng lực cạnh tranh phải tiến hành đồng thời với việc đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế; (ii) việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế được cấp cao nhất của đất nước trực tiếp theo dõi và sự tham gia tích cực của cộng đồng doanh nghiệp: (iii) việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế phải đảm bảo nguyên tắc không vi phạm các cam kết quốc tế; (iv) để thực hiện mục tiêu hỗ trợ khu vực trong nước, việc tạm thời không tham gia Hiệp định về mua sắm của Chính phủ là cần thiết; (v) tranh thủ sử dụng các biện pháp được WTO cho phép như hạn ngạch thuế quan, kiểm soát chất lượng, quyền hạn ban hành thuế của Bộ Tài chính, đẩy mạnh tự do hoá thương mại khu vực trong khuôn khổ ASEAN. 1.3.2. Kinh nghiệm của Malaysia Malaysia là một trong 20 nền kinh tế được đánh giá là toàn cầu hoá nhất trên thế giới. Khủng hoảng tài chính châu Á đã tạo điều kiện để Chính phủ Malaysia xem xét lại chính sách phát triển kinh tế. Malaysia lập ra Hội đồng hành động kinh tế quốc gia NEAC (National Economic Action Council) để khắc phục những nhược điểm của chính sách kinh tế. Kể từ năm 1997, hàng
  44. 45 loạt các biện pháp được Chính phủ áp dụng nhằm khắc phục những yếu kém trong cơ cấu kinh tế, đặc biệt nhấn mạnh vào việc tái cấu trúc cơ cấu tài chính và hỗ trợ doanh nghiệp phát triển. Chính phủ Malaysia tiếp tục thực hiện phát triển các ngành chế tạo, tăng tỷ lệ đóng góp của nông nghiệp trong GDP và phát triển khu vực dịch vụ. Giống như Thái Lan, Malaysia đẩy mạnh tự do hoá thương mại trong khu vực cũng như thực hiện các cam kết trong WTO. Về cách tiếp cận, Malaysia cũng thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu. Malaysia cũng lựa chọn không trở thành thành viên chính thức của Hiệp định Mua sắm Chính phủ (Agreement on Government Procurement). Malaysia trở thành viên chính thức của WTO từ ngày 1 tháng 1 năm 1995. Malaysia thực hiện hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế theo hướng đảm bảo các nguyên tắc và các quy định tại các hiệp định của WTO. Tuân theo các quy định của WTO, Malaysia tập trung thực hiện điều chỉnh hoạt động thương mại quốc tế bằng công cụ thuế quan. Malaysia thực hiện giảm đáng kể các khoản thuế đơn vị. Động thái này được đánh giá là tăng tính minh bạch của chính sách thương mại quốc tế của Malaysia. Tuy nhiên, số dòng thuế trong biểu thuế nhập khẩu của Malaysia nhiều và tương đối phức tạp. Để phát triển các ngành trong nước, Malaysia thực hiện những biện pháp khác với Thái Lan. Malaysia thực hiện tăng số dòng thuế và cả cấp giấy phép nhập khẩu ở một số mặt hàng ngay cả khi đã là thành viên của WTO. Cả Malaysia và Thái Lan đều lựa chọn ngành điện tử và ô tô để phát triển. Thái Lan chú trọng vai trò của khu vực đầu tư nước ngoài trong cả hai ngành. Malaysia chú trọng đầu tư nước ngoài ở ngành điện tử song thực hiện chiến lược ô tô nội địa với tham vọng trở thành “nhà thiết kế xe của ASEAN”. Ngành điện tử của Malaysia có tính cạnh tranh cao trên thế giới. Ngành ô tô của Malaysia được bảo hộ bằng mức thuế cao và hàng loạt các khuyến khích khác. Malaysia bãi bỏ các quy định bắt buộc về tỷ lệ
  45. 46 nội địa hoá vào năm 2000. Tuy nhiên, chính sách hiện tại về việc duy trì khuyến khích theo tỷ lệ nội địa hoá của Malaysia cũng bị cho là vi phạm các quy định của WTO. Khu vực kinh tế Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Malaysia. Khu vực này nắm giữ các ngành xăng dầu, điện lực, vận tải, bưu chính và viễn thông. Chính phủ Malaysia đang thực hiện tư nhân hoá bằng việc bán cổ phần cho khu vực tư nhân. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng thực hiện góp vốn của Nhà nước vào các doanh nghiệp tư nhân. Kinh nghiệm của Malaysia cho thấy: (i) thực hiện hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế theo hướng phù hợp với các cam kết quốc tế; (ii) tranh thủ sử dụng các biện pháp phù hợp với các quy định của WTO khi trở thành thành viên chính thức của tổ chức này như điều chỉnh công cụ thuế quan, giảm các khoản thuế đơn vị, tạm thời không tham gia Hiệp định về mua sắm của Chính phủ. 1.3.3. Kinh nghiệm của Trung Quốc Trung Quốc trở thành thành viên chính thức của WTO kể từ ngày 11 tháng 1 năm 2001. Trung Quốc cam kết loại bỏ chế độ cấp giấy phép kinh doanh xuất khẩu và chế độ hạn ngạch song chủ động đưa ra một lộ trình thực hiện là 5 năm. Ban đầu khi đàm phán gia nhập WTO, Trung Quốc đề xuất một khoảng thời gian chuyển tiếp là 10 năm song không thành công mà chỉ được chấp nhận thời gian là 5 năm. Trung Quốc cũng thực hiện bảo hộ mạnh mẽ với lộ trình tự do hoá trong một khoảng thời gian dài đối với các ngành thiết yếu và bị thách thức nhất như nông nghiệp, chế tạo máy, ô tô, điện tử, hàng dệt và dịch vụ (đặc biệt là ngân hàng và viễn thông). Trung Quốc là quốc gia bị kiện phá giá nhiều nhất song kể từ tháng 5 năm
  46. 47 1994, Trung Quốc đã có những quy định về việc chống bán phá giá tại thị trường Trung Quốc [53]. 60 56 53 51 52 49 50 43 43 40 40 33 32 30 28 20 20 10 0 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Hình 1.5. Số vụ kiện Trung Quốc bán phá giá 1995-2006 Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên số liệu từ trang web của WTO (2007) Ghi chú: Số liệu 2006 tính đến 30 tháng 6. Điều 30 của Luật ngoại thương Trung Quốc ghi rõ: Khi một sản phẩm được nhập khẩu ở mức thấp hơn giá trị thông thường của sản phẩm và tạo ra hoặc đe doạ tạo ra những thiệt hại về mặt vật chất đối với một ngành nội địa, hoặc làm chậm sự thiết lập một ngành, Nhà nước có thể có những biện pháp để làm dịu bớt hoặc chấm dứt những tổn thất và đe doạ tổn thất hay sự chậm trễ [53]. Quy định chống bán phá giá của Trung Quốc có 42 điều khoản thuộc 6 chương. Chương 1 đưa ra quy định chung. Chương 2 định nghĩa về phá giá và tổn thất phá giá. Chương 3 quy định thủ tục điều tra chống bán phá giá. Chương 4 làm rõ các biện pháp chống bán phá giá. Chương 5 đưa ra các quy định đặc biệt về chống trợ cấp và chương 6 bàn đến các vấn đề thực hiện
  47. 48 khác. Bốn cơ quan liên quan đến điều tra phá giá ở Trung Quốc bao gồm Bộ Thương mại (trước đây là Bộ Hợp tác kinh tế và Ngoại thương - MOFTEC), Uỷ ban Kinh tế và Thương mại Nhà nước (SETC), Uỷ ban thuế thuộc Hội đồng Nhà nước (TCSC), và Tổng cục Hải quan (CGA). Trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, Trung Quốc xếp vấn đề quy chế chống phá giá chặt chẽ hơn là ưu tiên thứ hai trong những thứ tự ưu tiên. Trung Quốc là quốc gia gánh chịu nhiều nhất các phán xét về chống bán phá giá của Phòng Thương mại Hoa Kỳ. Hàng hoá giá rẻ của Trung Quốc cũng bị áp đặt điều khoản về “nền kinh tế phi thị trường” nên khi đánh giá cơ cấu chi phí sản xuất, những hàng hoá này bị áp dụng những cách đánh giá so sánh chi phí tương tự như cách mà Hoa Kỳ áp dụng đối với cá tra và cá basa của Việt Nam. 60 56 53 52 51 49 50 43 40 32 30 30 27 22 24 20 14 10 6 3 0 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Số vụ bị kiện Số vụ đi kiện Hình 1.6. So sánh chống bán phá giá của Trung Quốc Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên số liệu từ trang web của WTO (2007) Ghi chú: Số liệu 2006 tính đến 30 tháng 6. Kể từ khi Trung Quốc trở thành thành viên chính thức của WTO vào năm 2001, số vụ kiện chống phá giá đã giảm (Hình 1.6).
  48. 49 Trung Quốc được đánh giá là quốc gia sử dụng nhiều và hiệu quả nhất cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO nhằm đưa lại một nền thương mại tự do và bình đẳng hơn trên toàn cầu. Trung Quốc rất linh hoạt và chủ động trong việc đàm phán với các quốc gia khác về việc sử dụng chính sách chống phá giá đối với hàng hoá xuất khẩu của Trung Quốc. Chính sách của Trung Quốc là phòng ngừa chứ không phải trả đũa đối với các quốc gia đã hoặc có thể sẽ kiện Trung Quốc phá giá. Trung Quốc đã thiết lập một cơ chế cảnh báo thông qua Bộ Thương mại. Theo đó, các tổ chức kinh doanh của Trung Quốc ở nước ngoài, những nhà nhập khẩu, văn phòng luật có thể nhanh chóng phản ứng với các hành vi bảo hộ và chống bán phá giá. Kể từ năm 2000 Trung Quốc bắt đầu đi kiện các thành viên khác về bán phá giá. Tuy nhiên, số vụ kiện của Trung Quốc còn ít hơn nhiều so với số vụ Trung Quốc bị kiện (Hình 1.6). Như vậy, kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy việc rút ngắn thời gian thực hiện bảo hộ với các ngành sau khi gia nhập WTO là một thực tế mà các nước đang phát triển phải đương đầu. Trung Quốc chủ động đưa ra lộ trình thực hiện tự do hoá thương mại. Trung Quốc đã vận dụng tốt cơ chế giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ WTO để giải quyết vấn đề chống bán phá giá (là vấn đề mà hàng hoá Trung Quốc gặp phải nhiều nhất khi thâm nhập thị trường thế giới). 1.3.4. Kinh nghiệm của Hoa Kỳ Hoa Kỳ là quốc gia đi tiên phong trong thực hiện tự do hoá thương mại. Chính phủ Hoa Kỳ luôn đề cao tính minh bạch và hiệu quả của các nguyên tắc thương mại quốc tế. Đối với Việt Nam, thị trường Hoa Kỳ là một thị trường xuất khẩu đầy triển vọng. Trên giác độ chính sách thương mại quốc tế, việc hiểu cách thức hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của Hoa Kỳ sẽ giúp
  49. 50 ích nhiều cho doanh nghiệp và các nhà hoạch định chính sách. Trước hết, chính sách thương mại quốc tế của Hoa Kỳ không tách rời và được sử dụng là một công cụ hiệu quả trong chính sách đối ngoại, chính sách kinh tế và chính sách cạnh tranh của Hoa Kỳ. Dẫn chứng là việc ký kết hiệp định thương mại tự do với Israel và Jordan ở Trung Đông. Nghị viện Hoa Kỳ có quyền quy định về quan hệ thương mại với các quốc gia bạn hàng. Tổng thống có trách nhiệm và quyền hạn đàm phán với các quốc gia bạn hàng. Cơ quan thay mặt Tổng thống để kết luận các vấn đề đàm phán là Đại diện Thương mại Hoa Kỳ - USTR (United States Trade Representative). Cơ quan này là một bộ phận của Văn phòng Tổng thống. Cơ quan này chịu trách nhiệm điều phối các hoạt động xây dựng và hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế. Các hoạt động điều phối của USTR thực hiện qua Nhóm rà soát Chính sách Thương mại – TPRG (Trade Policy Review Group) và Hội đồng nhân viên Chính sách Thương mại – TPSC (Trade Policy Staff Committee). Hai nhóm này bao gồm 17 cơ quan liên bang16. Một ưu điểm của Chính phủ Hoa Kỳ là làm rất tốt công tác tuyên truyền về mục tiêu, cách thức thực hiện của các chính sách thương mại quốc tế. Hoa Kỳ cũng công bố các đánh giá về hiệu quả của việc áp dụng các chính sách. Khu vực tư nhân có vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của Hoa Kỳ. Khu vực tư nhân tham gia vào quá trình hoàn thiện chính sách qua các uỷ ban về công nghiệp, uỷ ban về nông nghiệp và cả các uỷ ban về hải quan và sở hữu trí tuệ. Sau sự kiện ngày 11 tháng 9 năm 2001, Nghị viện Hoa Kỳ ban hành Đạo 16 Các cơ quan này bao gồm các cơ quan về rào cản và bóp méo thương mại; thương mại dịch vụ; đầu tư nước ngoài; sở sữu trí tuệ; tính minh bạch; chống tham nhũng; hoàn thiện WTO và các hiệp định thương mại đa phương; thực tiễn quy định; thương mại điện tử; thương mại nông nghiệp tương hỗ; lao động và môi trường; giải quyết tranh chấp; đàm phán mở rộng WTO; các luật về bồi thường thương mại; thuế; đàm phán
  50. 51 luật An ninh Tổ quốc (Homeland Security Act of 2002). Đạo luật này có hiệu lực từ tháng 3 năm 2003. Đạo luật này siết chặt hơn các thủ tục hải quan qua việc yêu cầu gửi thông tin về hàng hoá cho các cơ quan của Hoa Kỳ trước khi hàng hoá cập cảng. Ngành nông nghiệp, đặc biệt là thuỷ sản nhận được sự bảo hộ. Các nhà đầu tư nước ngoài không được tham gia vào một số hoạt động của ngành thuỷ sản. Các nhà đầu tư nước ngoài chỉ được nắm giữ một lượng nhỏ cổ phần trong các đội tàu trong ngành thuỷ sản. Hạn ngạch thuế quan được áp dụng cho các mặt hàng nông nghiệp và thuỷ sản. Số mặt hàng được điều chỉnh bằng hạn ngạch thuế quan chiếm khoảng 1,9% số dòng thuế của Hoa Kỳ [162]. Các hạn chế định lượng vẫn được Hoa Kỳ sử dụng trong một số ngành, chủ yếu là dệt và quần áo. Hoa Kỳ cũng thực hiện một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu. Chẳng hạn, Ngân hàng xuất nhập khẩu Hoa Kỳ là cơ quan chuyên hỗ trợ tín dụng xuất khẩu. Các khu ngoại thương tự do (Foreign trade zones) được áp dụng các ưu đãi về thủ tục hải quan và thuế. Hoa Kỳ là quốc gia sử dụng tốt cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. Các vấn đề thường gây tranh chấp nhiều nhất giữa Hoa Kỳ và các bạn hàng là các vấn đề về chống bán phá giá và các biện pháp tự vệ. Đây cũng chính là rào cản phổ biến với hàng hoá của các quốc gia bạn hàng. Quy định về chống bán bán phá giá của Hoa Kỳ ban đầu được quy định tại các mục (section) 800-801 của Đạo luật doanh thu (Revenue Act) 1916. Tại Hoa Kỳ, các quy định này được xem xét như là Đạo luật chống phá giá hàng dệt; lao động trẻ em.
  51. 52 1916 (Anti dumping Act of 1916). Luật này cho phép áp dụng các hành động dân sự và hình sự đối với những nhà nhập khẩu có hệ thống và phổ biến nhập và bán các sản phẩm nhập khẩu từ nước ngoài vào Hoa Kỳ tại mức giá thấp hơn đáng kể mức giá của các hàng hoá cùng loại tại thị trường nước ngoài, với điều kiện là hành động này được thực hiện với dự định phá hoại hay làm tổn thương một ngành của Hoa Kỳ, hay ngăn cản việc thiết lập một ngành nào đó tại Hoa Kỳ, hoặc lũng đoạn hoặc độc quyền thương mại tại Hoa Kỳ. Luật này thể hiện những nỗ lực của Hoa Kỳ trong việc chống bán phá giá. Cơ sở của luật này là việc bảo vệ các ngành công nghiệp mới được thiết lập của Hoa Kỳ trước sự cạnh tranh của hàng hoá châu Âu, đặc biệt là các doanh nghiệp đến từ Đức. Mặc dù, luật 1916 đã tồn tại trên giấy hơn 80 năm song nó ít khi được áp dụng (không có các vụ kiện hình sự nào liên quan đến phá giá). Trước năm 1975, chỉ có một vụ kiện dân sự. Sau 1975, cũng chỉ có một vụ kiện dân sự diễn ra. Lý do là việc đòi hỏi bên nguyên đưa ra những bằng chứng về việc bên bị cố tình thực hiện phá giá là rất khó thực hiện. Đạo luật thương mại 1974 (Trade Act of 1974), điều khoản IV quy định những vấn đề liên quan đến các quốc gia bị cho là nền kinh tế phi thị trường và điều khoản V quy định những vấn đề về “quốc gia cộng sản” 17. Đạo luật về các hiệp định thương mại (Trade Agreement Act of 1979) đã điều chỉnh những quy định của Hoa Kỳ về chống bán phá giá cho phù hợp hơn với những thoả thuận đạt được ở vòng đàm phán Tokyo [115]. Các thủ tục hành chính áp dụng cho việc chống phá giá được quy định trong Đạo luật chống phá giá 1916; Đạo luật chống phá giá 1921; Mục VII của Đạo luật thuế 1930. Thủ tục chủ đạo đó là: thay vì dựa trên hành động của 17 Tổng thống Hoa Kỳ không có quyền đưa ra các ưu đãi đối với một “quốc gia cộng sản” trừ khi (i) các sản phẩm từ quốc gia này được đối xử theo quy tắc tối huệ quốc; (ii) quốc gia này là thành viên của WTO và IMF; hoặc “quốc gia không bị kiểm soát hay điều khiển bởi các thế lực cộng sản quốc tế”.
  52. 53 chính phủ hay cá nhân trước toà án, luật chống phá giá cho phép thực hiện các thủ tục tố tụng (administrative adjudication). Cụ thể là, những người đại diện cho một ngành ở Hoa Kỳ có thể lấy các lá phiếu biểu quyết và trình cho Bộ thương mại Hoa Kỳ (DOC - US Department of Commerce) và Uỷ ban thương mại Hoa Kỳ (ITC - International Trade Commission). DOC sẽ quyết định có tồn tại việc phá giá hay không và ITC có trách nhiệm tìm kiếm bằng chứng và chứng minh sự tồn tại các tổn thất. Yêu cầu về việc có dự định hay không có dự định từ phía bên bị không quan trọng. Nếu ITC phát hiện ra tồn tại phá giá và tổn thất phá giá, thuế chống phá giá sẽ được áp dụng. Bên bị sẽ không phải chịu các trừng phạt dân sự hay hình sự nào. Gần đây, các vụ kiện về chống bán phá giá của Hoa Kỳ tăng lên nhiều, đặc biệt trong ngành thép. Luật chống bán phá của Hoa Kỳ có vẻ như đang được áp dụng để gây sức ép với các nhà xuất khẩu nước ngoài. Luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ là sự kết hợp của Luật thương mại và Luật chống độc quyền của Hoa Kỳ. Định nghĩa của Hoa Kỳ về phá giá tương tự như quy định về gây tổn thương tới các nhà cạnh tranh (injury to competitors) trong luật chống độc quyền của Hoa Kỳ. Vấn đề giá tiêu diệt (predatory price) được luật pháp Hoa Kỳ sử dụng rộng rãi. Toà thượng thẩm Hoa Kỳ đưa ra hai yếu tố để xác định xem mức giá đưa ra có phải là mức giá tiêu diệt hay không như sau: (1) giá đó thấp hơn giá thành của đối thủ cạnh tranh và (2) bên đưa ra mức giá tiêu diệt có triển vọng thu hồi lại khoản đã chi cho việc bán dưới giá thành. Việc diễn giải đạo luật 1916 không được thống nhất do sự pha trộn giữa đạo luật chống độc quyền và luật thương mại. Trong một số trường hợp, toà án áp dụng sự diễn giải và các tiêu chuẩn xem xét từ góc độ chống độc quyền
  53. 54 (hành vi phá hoại/tiêu diệt cạnh tranh). Trong một số trường hợp khác, toà án lại sử dụng sự diễn giải và các tiêu chuẩn xem xét từ góc độ thương mại (hành vi cố tình tiêu diệt với việc áp dụng việc kiểm tra sự tồn tại của giá tiêu diệt). Như vậy, mặc dù là quốc gia kêu gọi tự do hoá thương mại nhiều nhất trên thế giới song Hoa Kỳ vẫn đang phải tiếp tục hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của mình cho phù hợp với các cam kết quốc tế. Hoa Kỳ vẫn tiếp tục thực hiện bảo hộ các ngành nông nghiệp, thuỷ sản. Các biện pháp bảo hộ thị trường trong nước như hạn ngạch thuế quan, hạn chế định lượng được Hoa Kỳ sử dụng tại các ngành như dệt, quần áo. Các doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong quá trình hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế: từ việc tham gia vào các uỷ ban đến việc xây dựng cách thức và tiêu chí đánh giá hiệu quả của chính sách, thực hiện chính sách. Hoa Kỳ tập trung quyền lực hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế vào một cơ quan. Tóm lại, Chương 1 đã làm rõ khái niệm, nội dung và các công cụ của chính sách thương mại quốc tế. Trong luận án này, việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế sẽ được phân tích theo cách tiếp cận của WTO kết hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam (công nghiệp hoá muộn). Một khung phân tích chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế được đề xuất, bao gồm: (i) giải quyết vấn đề về mối quan hệ giữa tự do hoá thương mại và bảo hộ mậu dịch; (ii) xem xét việc vận dụng các công cụ của chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế; (iii) xem xét việc phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, một số nội dung ngày càng thu hẹp phạm vi áp dụng như các hàng rào phi thuế quan (trợ cấp tín dụng xuất khẩu, yêu cầu về tỷ lệ nội địa hoá). Hàng loạt các quy định đòi hỏi các quốc gia phải tuân thủ khi trở thành viên của các tổ chức quốc tế (WTO chẳng hạn) như các biện pháp quản lý về giá, các biện pháp liên quan đến doanh nghiệp, các hàng rào
  54. 55 kỹ thuật, các biện pháp liên quan đến đầu tư hay các biện pháp hành chính, Lợi thế so sánh hiện hữu (RCA) là công cụ hữu ích để đánh đánh giá khả năng cạnh tranh của hàng hoá một quốc gia với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Nhiều cách diễn giải có thể được sử dụng để xem xét lợi thế so sánh ở các giác độ khác nhau. Dự án phân tích thương mại toàn cầu (GTAP) đang được ứng dụng phổ biến để đánh giá chính sách thương mại quốc tế của các quốc gia. Vận dụng mô hình cân bằng tổng thể tính toán được (CGE) với hệ thống cơ sở dữ liệu thường xuyên được cập nhật và tính linh hoạt trong việc định dạng nhóm hàng và vùng lãnh thổ, GTAP cho phép đánh giá các công cụ của chính sách thương mại quốc tế; các hiệp định thương mại tự do; tác động của những yếu tố ngoại sinh tới hoạt động thương mại quốc tế của các quốc gia trên thế giới. Chương này cũng xem xét kinh nghiệm hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của 4 quốc gia thành viên của WTO. Khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, cách thức của 4 quốc gia này khác nhau tuỳ theo điều kiện của từng nước, cụ thể là: • Tất cả các quốc gia này đều thực hiện minh bạch hoá chính sách thương mại quốc tế. Việc xây dựng và hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế ở các quốc gia này được tập trung vào một cơ quan. Cơ quan này đóng vai trò phối hợp các hoạt động xây dựng, thực hiện và hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế. Bên cạnh đó, việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế nhận được sự quan tâm và tham gia của cộng đồng doanh nghiệp. Với tư cách là thành viên của WTO, bốn quốc gia này đều hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế theo hướng không vi phạm các quy tắc và hiệp định của WTO. • Tuy nhiên, cách thức hoàn thiện ở mỗi nước lại khác nhau với lộ trình khác nhau và ngành đẩy mạnh tự do hoá khác nhau, ngành tập trung
  55. 56 nâng cao sức cạnh tranh khác nhau. Trung Quốc lựa chọn cách thức chủ động phòng ngừa các tranh chấp thương mại. Thái Lan thực hiện thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài không hạn chế. Malaysia thực hiện cải cách doanh nghiệp nhà nước và tư nhân hoá. Cả Thái Lan và Malaysia đều lựa chọn chưa tham gia vào Hiệp định về Mua sắm của Chính phủ. Để phát triển một ngành, Thái Lan lựa chọn đẩy mạnh tự do hoá thương mại để tìm kiếm thị trường kết hợp với tăng cường năng lực các ngành phụ trợ trong nước.