Thực trạng đồ chơi trong các lớp mẫu giáo tại các trường mầm non trên địa bàn thị xã Đồng Xoài tỉnh Bình Phước

pdf 6 trang phuongnguyen 190
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng đồ chơi trong các lớp mẫu giáo tại các trường mầm non trên địa bàn thị xã Đồng Xoài tỉnh Bình Phước", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfthuc_trang_do_choi_trong_cac_lop_mau_giao_tai_cac_truong_mam.pdf

Nội dung text: Thực trạng đồ chơi trong các lớp mẫu giáo tại các trường mầm non trên địa bàn thị xã Đồng Xoài tỉnh Bình Phước

  1. THỰC TRẠNG ĐỒ CHƠI TRONG CÁC LỚP MẪU GIÁO TẠI CÁC TRƢỜNG MẦM NON TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ ĐỒNG XOÀI TỈNH BÌNH PHƢỚC Phạm Thị Minh Thu Trường Cao đẳng Sư phạm Tỉnh Bình Phước TÓM TẮT Bài viết mô tả thực trạng thiếu đồ chơi tại các lớp mẫu giáo và ảnh hưởng của chúng đến hoạt động học và chơi của trẻ. Mẫu khảo sát được tiến hành tại 5/10 trường mầm non gồm 100 giáo viên giảng dạy 50 lớp mẫu giáo và quan sát các giờ học và chơi của trẻ trên địa bàn thị xã Đồng Xoài tỉnh Bình Phước trong năm học 2015 – 2016. Qua số liệu thống kê, số lượng đồ chơi trong các lớp mẫu giáo luôn thiếu làm hạn chế khả năng trải nghiệm, sáng tạo và khám phá của trẻ mầm non tuổi mẫu giáo. ABSTRACT The paper describes the current situation in the missing toys in kindergarten and their impact on learning and play activities of children. Sample survey was conducted at 100 5/10 preschool teachers and 50 kindergarten classes and observe the young players in the province of Dong Xoai Town, Binh Phuoc province in the academic year 2015-2016 . through statistics , the number of toys in the kindergarten always lack that limit the ability to experience , creativity and discovery of pre-school children preschool age . 1.ĐẶT VẤN ĐỀ Ở bậc học mầm non, đồ chơi chính là kho tàng tri thức cho trẻ. Những đồ chơi tưởng chừng như đơn giản nhưng nó có sức mạnh lôi cuốn sự chú ý của trẻ. Nó có thể kích thích óc sáng tạo, khơi dậy trí tò mò, mong muốn được khám phá từ đó trẻ có nhu cầu tìm hiểu và nhận thức về thế giới. Vì đồ chơi có thể tạo được môi trường cho trẻ trải nghiệm nên đồ chơi không chỉ giúp trẻ phát triển nhận thức mà còn giúp trẻ phát triển thể chất, thẩm mĩ, đạo đức và hình thành các tình cảm cũng như quan hệ xã hội. Trên địa bàn thị xã Đồng Xoài, đồ chơi trong lớp (bao gồm đồ chơi được cấp phát và đồ chơi do giáo viên tự làm bổ sung) của hầu hết các lớp mẫu giáo là chưa đủ đáp ứng so với nhu cầu thực tế. Điều này làm ảnh hưởng đến chất lượng học và chơi của trẻ. Vấn đề chưa đủ đồ chơi để đáp ứng nhu cầu cho các lớp mầm non do nhiều lý do khách quan và chủ quan. 2. THỰC TRẠNG ĐỒ CHƠI CÁC LỚP MẪU GIÁO TẠI CÁC TRƢỜNG MẦM NON TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ ĐỒNG XOÀI TỈNH BÌNH PHƢỚC 2.1. Mục tiêu khảo sát Nắm bắt một cách cụ thể và chính xác về: - Số lượng, chất lượng đồ chơi trong lớp của các lớp mầm non;
  2. - Mức độ sử dụng đồ chơi cho các hoạt động học và chơi của trẻ mầm non. - Những nguyên nhân, những trăn trở, khó khăn tồn đọng xung quanh vấn đề đồ chơi trong lớp mầm non trên địa bàn khảo sát. 2.2. Phƣơng pháp - Điều tra trên các báo cáo cuối năm. - Điều tra bằng phiếu khảo sát đối với 100 giáo viên mầm non. - Quan sát trực tiếp đồ chơi trong lớp học các lớp mẫu giáo trên địa bàn thị xã Đồng Xoài tỉnh Bình Phước để tìm hiểu chất lượng của đồ chơi tự làm. - Quan sát trực tiếp các giờ học, giờ chơi của trẻ - Thống kê dữ liệu; - Phân tích, đánh giá kết quả thống kê. 2.3. Kết quả khảo sát - Thực trạng về trang bị đồ chơi trong lớp Theo báo cáo cuối năm số 152 của Phòng Giáo dục và Đào tạo thị xã Đồng Xoài ngày 15 tháng 6 năm 2015[1], Đồ chơi được cấp theo danh mục tối thiểu là chưa đủ theo tình hình thực tế vì số lượng học sinh luôn vượt chuẩn cho phép và đồ chơi không được cấp bổ sung hàng năm và cũng không có kinh phí cho sửa chữa, gia cố. - Thực trạng số lượng đồ chơi trong lớp sau khi đã làm bổ sung Số lƣợng đồ chơi trong lớp 60% 52% 50% 36% 40% 30% 20% 12% 10% 0% Thiếu (đáp Tạm đủ (đáp Đủ (đáp ứng ứng dưới ứng từ 50 - từ 70 - 100%) 50%) 70 %) Hình 1.Biểu đồ Số lượng đồ chơi trong lớp sau khi đã làm bổ sung Như vậy, ngoài đồ chơi được cấp phát, giáo viên đã làm bổ sung thêm đồ chơi cho lớp nhưng vẫn có 36% các lớp chưa đủ đồ chơi, 52% tạm đủ và chỉ có 12% đủ. (xem hình 3) - Mức độ sử dụng đồ chơi cho hoạt động học và chơi của trẻ Mức độ sử dụng đủ đồ chơi trong hoạt động học có chủ đích 100% 68% 50% 32% 0% 0% Hình 2. Biểu đồ mức độ sử dụng ĐC cho hoạt động học
  3. Mức độ sử dụng đồ chơi trong hoạt động chơi tự do 60% 53% 50% 40% 35% 30% 20% 10% 2% 0% Không thường Thường xuyên Rất thường xuyên xuyên Hình 3. Biểu đồ mức độ sử dụng ĐC cho hoạt động chơi Như vậy, đồ chơi luôn được sử dụng trong các hoạt động học. Tuy nhiên, mức độ sử dụng rất thường xuyên là chưa cao (chiếm 32%) mức độ sử dụng thường xuyên là 68% ( xem hình 2). Trong các hoạt động chơi tự do, trẻ được chơi thường xuyên với đồ chơi chỉ chiếm 2%, mức độ thường xuyên chiếm 35% và không thường xuyên chiếm 53%. Số liệu này cho thấy: khi chơi tự do, trẻ ít được chơi với đồ chơi (xem hình 3). Ngoài hình thức sử dụng phiếu khảo sát, người nghiên cứu tiến hành quan sát trực tiếp đồ chơi có trong lớp và quan sát các giờ học và chơi của trẻ. Kết quả ghi lại bằng hình ảnh cho thấy: Tại các lớp mầm non, đồ chơi rất ít. Trong các giờ chơi tự do, trẻ thường phải chơi với nhau không có đồ chơi hoặc thường phải ngồi im nói chuyện nhỏ hoặc được xem các video thiếu nhi đến hết giờ chơi. Trong các giờ học, phương tiện học tập (đồ chơi) là những phương tiện được cấp phát với số lượng thiếu thốn và quen thuộc. Giáo viên có tự làm thêm đồ chơi nhưng rất ít về số lượng và ít về chủng loại và chưa đạt yêu cầu Trong các tiết học thường ngày, trẻ thường được quan sát đồ vật thông qua đoạn phim hoặc hình ảnh. Trẻ cảm nhận thế giới thông qua bài thơ cô đọc, được tiếp xúc với vở tô, màu sáp hoặc sáp nặn nhiều hơn các đồ chơi phỏng về thế giới vật chất. Những đồ chơi trẻ thường được sử dụng là đồ chơi được cấp phát theo danh mục đồ chơi tối thiểu của bộ giáo dục được sản xuất bằng máy móc. Nhưng những đồ chơi này thường rất ít không đủ so với nhu cầu thực tế của lớp học. Trẻ sẽ được tiếp xúc nhiều với đồ chơi tự làm trong các giờ thao giảng, vì đây là tiêu chí đánh giá tiết dạy của giáo viên. Vì đồ chơi tự làm chưa đảm bảo yêu cầu đặc biệt là yêu cầu bền chắc nên giáo viên hạn chế trưng bày vì sợ trẻ làm hư. Điều này cho thấy chất lượng đồ chơi chưa đạt yêu cầu cũng như chính sách cho hoạt động làm đồ chơi chưa thoả đáng nên chỉ những tiết thao giảng giáo viên mới sử dụng đồ chơi trong bài dạy của mình. Tại ba trường mầm non chưa đạt chuẩn số lượng đồ chơi thiếu rất nhiều. Vào các giờ thao giảng các lớp phải mượn lẫn nhau. Đôi khi các giờ dạy này giáo viên lại lúng túng không quản lý lớp học được. Vì vậy, giáo viên phải rèn cho trẻ thuộc lòng bài giảng rồi mới thao giảng.
  4. - Nguyên nhân dẫn đến thực trạng thiếu đồ chơi tại lớp học mầm non trên địa bàn thị xã Đồng Xoài tỉnh Bình Phước Để tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong quá trình tự làm đồ chơi của giáo viên, người nghiên cứu đưa ra 8 nguyên nhân để khảo sát. Kết quả khảo sát được thể hiện trong bảng 4. STT Nguyên nhân dẫn đến thiếu đồ chơi trong các lớp mẫu giáo tại Ý kiến của GV địa bàn thị xã Đồng Xoài tỉnh Bình Phƣớc Số lượng Tỉ lệ (%) 1 NSNN chi cho trang bị đồ chơi còn chưa đủ so với nhu cầu thực tế 100 100 của các lớp. 2 Giáo viên phải dạy trên lớp cả ngày nên thiếu thời gian cho tự làm 100 100 đồ chơi. 3 Chưa có cơ chế chính sách để hỗ trợ mua nguyên vật liệu. 100 100 4 Chế độ khen thưởng theo quy định hiện hành chưa cụ thể, chưa xứng đáng với việc đầu tư trí tuệ và công sức của giáo viên nên 100 100 chưa thực sự khuyến khích giáo viên trong công tác tự làm đồ chơi. 5 Gặp khó khăn về kĩ thuật 77 77 6 Gặp khó khăn về mẫu mã 71 71 7 Gặp khó khăn về sự khéo léo của bản thân 48 48 8 Ý kiến khác 0 0 Bảng 1. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong quá trình tự làm ĐC của GV Kết quả khảo sát cho thấy: Những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong quá trình tự làm đồ chơi của GV là: NSNN chi cho trang bị đồ chơi còn chưa đủ so với nhu cầu thực tế của các lớp (chiếm 100%), Giáo viên phải dạy trên lớp cả ngày nên thiếu thời gian cho tự làm đồ chơi (chiếm 100%);Chưa có cơ chế chính sách để hỗ trợ mua nguyên vật liệu (chiếm 100%); Chế độ khen thưởng theo quy định hiện hành chưa cụ thể, chưa xứng đáng với việc đầu tư trí tuệ và công sức của giáo viên nên chưa thực sự khuyến khích giáo viên trong công tác tự làm đồ chơi (chiếm100%); Gặp khó khăn về kĩ thuật (chiếm77%); Gặp khó khăn về mẫu mã (chiếm 71%); Gặp khó khăn về sự khéo léo của bản thân (chiếm 48%) (xem bảng 2.4). 3. KẾTLUẬN Đồ chơi được cấp theo danh mục thiết bị dạy học là chưa đủ so với lượng học sinh thực tế tại các lớp mẫu giáo trên địa bàn thị xã Đồng Xoài tỉnh Bình Phước. Giáo viên đã làm bổ sung thêm nhiều đồ chơi nhưng do một số nguyên nhân khách quan và chủ quan nên lượng đồ chơi sau khi đã làm bổ sung vẫn không đủ so với nhu cầu dẫn đến môi trường học tập chưa thật sự sinh động thiếu đồ chơi nên trẻ ít được trải nghiệm làm hạn chế khả năng sáng tạo, khám phá và năng lực giải quyết vấn đề của trẻ mầm non tuổi mẫu giáo.
  5. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Báo cáo cuối năm số 152/BC-PGD ngày 15 tháng 6 năm 2015 Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ năm học 2014 – 2015 của Phòng Giáo dục và Đào tạo thị xã Đồng Xoài. Thông tin liên hệ tác giả chính (ngƣời chịu trách nhiệm bài viết) Họ và tên: Phạm Thị Minh Thu Đơn vị: Trường Cao đẳng Sư phạm Bình Phước Điện thoại: 01285 311 299 Email: minhthucdspbp@gmail.com XÁC NHẬN CỦA GVHD
  6. BÀI BÁO KHOA HỌC THỰC HIỆN CÔNG BỐ THEO QUY CHẾ ĐÀO TẠO THẠC SỸ Bài báo khoa học của học viên có xác nhận và đề xuất cho đăng của Giảng viên hướng dẫn Bản tiếng Việt ©, TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH và TÁC GIẢ Bản quyền tác phẩm đã được bảo hộ bởi Luật xuất bản và Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam. Nghiêm cấm mọi hình thức xuất bản, sao chụp, phát tán nội dung khi chưa có sự đồng ý của tác giả và Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh. ĐỂ CÓ BÀI BÁO KHOA HỌC TỐT, CẦN CHUNG TAY BẢO VỆ TÁC QUYỀN! Thực hiện theo MTCL & KHTHMTCL Năm học 2017-2018 của Thư viện Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Tp. Hồ Chí Minh.