Thực trạng công tác giáo dục hướng nghiệp tại trường trung cấp nghề Thới Lai – TP.cần Thơ
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng công tác giáo dục hướng nghiệp tại trường trung cấp nghề Thới Lai – TP.cần Thơ", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
thuc_trang_cong_tac_giao_duc_huong_nghiep_tai_truong_trung_c.pdf
Nội dung text: Thực trạng công tác giáo dục hướng nghiệp tại trường trung cấp nghề Thới Lai – TP.cần Thơ
- THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC HƢỚNG NGHIỆP TẠI TRƢỜNG TRUNG CẤP NGHỀ THỚI LAI – TP.CẦN THƠ PHAN THÀNH AN Trường Trung cấp nghề Thới Lai – TP Cần Thơ TÓM TẮT Giáo dục hướng nghiệp là một quá trình lâu dài với nhiều tác động tổng hợp để đem lại hiệu quả cao cho quá trình thích nghi, gắn bó và phát triển nghề nghiệp. Tiếp tục giáo dục hướng nghiệp (GDHN) sau khi học sinh (HS) đã chọn nghề đóng vai trò quan trọng, giúp HS có thái độ học tập nghề nghiệp đúng đắn, tự điều chỉnh nhân cách cá nhân để thích ứng với các yêu cầu của nghề, phát triển nghề, đáp ứng thị trường lao động. Nghiên cứu này tập trung đi sâu phân tích đánh giá thực trạng công tác GDHN cho HS tại trường Trung cấp nghề (TCN) Thới Lai – Tp.Cần Thơ. Từ khoá: Giáo dục hướng nghiệp; phù hợp nghề. ABSTRACT Vocational education is a long process with many combined effects to bring efficiency to the process of adaptation, commitment and professional development. Continuing vocational education after the student has chosen profession plays an important role, helping students with professional attitudes proper learning, self- adjusting individual personality to adapt to the requirements of the trade, development career development, to meet the labor market. This study aimed to clarify the content, form and the way vocational education for students in vocational schools, help the participants in the process of vocational guidance for vocational students see the importance of this cooperation in vocational education process for students. At the same time as the basis for analysis and assessment of the situation of vocational education for students at vocational Thoi Lai - Can Tho City. Keywords: Career mentoring; Suitable career. 1. Đặit vấn đề Việc lựa chọn một nghề nghiệp phù hợp với bản thân không phải là vấn đề đơn giản, bởi vì lựa chọn nghề còn liên quan cả đến lý tưởng, cách sống mai sau. C. Mac đã viết trong bài luận Những suy nghĩ của một thanh niên khi chọn nghề như sau: “Cân nhắc cẩn thận vấn đề này, đó là trách nhiệm đầu tiên của một thanh niên bước vào đời mà không muốn coi việc quan trọng nhất của mình là ngẫu nhiên”. Vì vậy giáo dục hướng nghiệp tốt sẽ làm giảm đi yếu tố ngẫu nhiên này và làm tăng lên tính chủ động và ý thức nghề mai sau. Việc lựa chọn nghề của HS phụ thuộc vào các yếu tố như: trạng thái sức khoẻ, trình độ hiểu biết, năng lực, sở trường, các phẩm chất tâm lý đạo đức, hứng thú và -1-
- điều kiện môi trường xung quanh, dư luận xã hội, truyền thống gia đình, hoàn cảnh kinh tế, thị hiếu, nhu cầu xã hội khi HS xem xét hết được các yếu tố này thì khi đó mới có thể có những lựa chọn đúng đắn được. Với những đặc điểm như vậy, hướng nghiệp trong trường phổ thông giữ một vai trò quan trọng, giúp các em có những định hướng chính xác hơn trong cuộc đời. Tuy nhiên, một HS có thể chọn một nghề chưa hoàn toàn phù hợp với mình thì việc hướng nghiệp tiếp theo ở giai đoạn sau là rất cần thiết và nó có thể có những màu sắc đặc trưng riêng. Trong các TDN, định hướng nghề “giai đoạn 2” là không thể thiếu và cần làm một cách rất nghiêm túc. Động cơ chọn nghề còn cần được tiếp tục giáo dục và điều chỉnh trong quá trình học nghề cũng như hành nghề để mỗi cá nhân có thể cống hiến hết khả năng của mình cho công việc 2. Giải quyết vấn đề 2.1. Đối tƣợng nghiện cứu: hoạt động GDHN cho HS tại trường TCN Thới Lai, thành phố Cần Thơ. 2.2 Khách thể nghiên cứu: nghiên cứu được tiến hành trên 164 HS và 56 GV, CBQL (cán bộ quản lý) trường TCN Thới Lai – Tp.Cần Thơ. Kết quả nghiên cứu có được từ phương pháp điều tra thực tiễn giáo dục thông qua phiếu khảo sát bằng bảng hỏi đến HS, GV, CBQL tại trường TCN Thới Lai - Tp.Cần Thơ. Kết hợp đàm thoại thăm dò, trao đổi ý kiến với HS, GV, CBQL để ghi nhận thái độ, nhận thức của HS, GV, CBQL về hoạt động GDHN; quan sát giờ dạy trên lớp, các hình thức tổ chức GDHN ngoài giờ lên lớp tại trường TCN Thới Lai, Tp.Cần Thơ. Trong đó phương pháp điều tra thực tiễn giáo dục thông qua phiếu khảo sát bằng bảng hỏi đến HS, GV, CBQL trong nhà trường là chủ đạo. Nội dung bảng hỏi tập trung vào tìm hiểu Mức độ hiểu biết nghề nghiệp của học sinh; Mức độ phù hợp nghề của học sinh; Khả năng thích ứng thị trường lao động của học sinh và Mức độ tổ chức các hoạt động GDHN trong nhà trường qua ý kiến của GV, CBQL và HS. 3. Kết quả nghiên cứu thực trạng công tác GDHN tại trƣờng TCN Thới Lai – Tp.Cần Thơ. 3.1 Mức độ hiểu biết nghề nghiệp của học sinh. Bảng 1. Mức độ hiểu biết nghề nghiệp của HS qua nhận xét xủa HS và GV Mức độ hiểu biết nghề nghiệp của HS S Không Biết Bết Biết T Nội dung biết gì Ít rõ rất rõ T HS GV HS GV HS GV HS GV (%) (%) (%) (%) (%) (%) (%) (%) Hiểu đặc điểm chung của 1 5,5 8,9 26,2 30,4 64,6 51,8 3,7 8,9 nghề đang học. -2-
- Mức độ hiểu biết nghề nghiệp của HS S Không Biết Bết Biết T Nội dung biết gì Ít rõ rất rõ T HS GV HS GV HS GV HS GV (%) (%) (%) (%) (%) (%) (%) (%) Hiểu đặc điểm việc làm của 2 4,3 7,1 20,7 25,0 64,6 58,9 10,4 8,9 nghề đang học. Hiểu biết yêu cầu về kiến 3 thức, kỹ năng của nghề đang 0,0 0,0 25,6 33,9 63,4 58,9 11,0 7,1 học. Hiểu các đặc điểm kinh tế của 4 nghề đang học trong tương 3,7 5,4 31,1 37,5 57,9 51,8 7,3 5,4 lai. Hiểu biết về triển vọng phát 5 triển của nghề đang học trong 5,5 7,1 59,1 71,4 30,5 21,4 4,9 0,0 tương lai. Hiểu biết các đặc điểm tâm lý 6 cần có của HS để học và làm 8,5 10,7 62,2 78,6 26,8 10,7 2,4 0,0 tốt nghề. Hiểu biết những đặc điểm 7 sinh học cần có của HS để 9,8 8,9 61,6 76,8 25,6 14,3 3,0 0,0 học và làm tốt nghề. Hiểu biết các chống chỉ định 8 18,3 14,3 44,5 71,4 17,7 14,3 19,5 0,0 y học của nghề đang học. Kết quả khảo sát Bảng 1 cho thấy: Phần lớn (từ 60%) HS nhận xét biết rõ, biết rất rõ về đặc điểm chung của nghề; đặc điểm việc làm của nghề; kiến thức, kỹ năng của nghề yêu cầu đối với HS; đặc điểm kinh tế của nghề trong tương lai. Cũng giống với ý kiến của HS, về phía GV, số liệu Bảng 1 cho thấy phần đông GV cũng nhận xét HS biết rõ, rất rõ về các đặc điểm chung, đặc điểm việc làm, các yêu cầu về kiến thức, kỹ năng, các đặc điểm kinh tế của nghề. Như vậy, HS đã tự chủ động tìm hiểu về nghề đang học, cùng với các hoạt động tuyên truyền, giáo dục về nghề của nhà trường và GV, nên phần lớn HS đã có hiểu biết về một số nội dung nhất định của nghề. Tuy nhiên, Số liệu Bảng 1 cũng cho thấy, còn hơn 30,0% HS và GV nhận xét HS biết ít, thậm chí không biết gì về đặc điểm chung của nghề; đặc điểm việc làm của nghề; kiến thức, kỹ năng của nghề yêu cầu đối với HS; đặc điểm kinh tế của nghề trong tương lai. -3-
- Tỉ lệ HS hiểu biết về các nội dung như những đặc điểm sinh học cần có của học sinh để học và làm tốt nghề; các đặc điểm tâm lý cần có của người lao động để học và làm tốt nghề; các chống chỉ định y học của nghề bạn đang học đều rất thấp, phần lớn các em khi được hỏi đều nhận xét biết ít về các nội dung trên. Cụ thể, số liệu Bảng 1 cho thấy: Hiểu về các chống chỉ định y học của nghề đang học: chỉ có 37,2% HS cho rằng mình có hiểu biết (biết rõ, biết rất rõ) về nội dung này, 28,6% HS cho rằng mình có hiểu biết về những đặc điểm sinh học cần có của HS để học và làm tốt nghề đã chọn, 28,6% HS cho rằng mình có hiểu biết về các đặc điểm tâm lý cần có để học và làm tốt nghề, 35,4% HS hiểu biết về triển vọng phát triển của nghề đang học trong tương lai. Số liệu Bảng 1cũng cho thấy có ít GV cho rằng HS hiểu biết về các nội dung này. Như vậy, kết quả khảo sát trên cho thấy: việc học tập nghề nghiệp ở các em HS mới chỉ dừng lại ở việc chọn được một nghề để học, mà chưa hiểu hết các đặc điểm, yêu cầu của nghề, tiềm năng phát triển của nghề trong tương lai. Trong quá trình học tập nghề nghiệp tại trường, các yêu cầu của nghề được GV, các khoa nghề cung cấp đến HS nhưng chưa đầy đủ và thường xuyên. Nhà trường và các Khoa nghề chưa có kế hoạch củ thể để tổ chức các hình thức giáo dục nhằm giúp HS hiểu rõ hơn về các yêu cầu của nghề đang học. Ngoài việc đào tạo các kiến thức và kỹ năng nghề cho HS, phía GV giảng dạy và nhà trường đặc biệt là tại các khoa nghề cần có biện pháp để thông tin đến HS một cách chi tiết các mô tả của nghề dưới dạng Họa đồ nghề của nghề mà HS đang học giúp HS hiểu rõ hơn về nghề đã chọn 3.2 Mức độ phù hợp nghề của học sinh Bảng 2. Nhận xét mức độ phù hợp với nghề của HS qua nhận xét xủa GV và HS Mức độ phù hợp S Chƣa phù Rất Phù hợp T Nội dung hợp phù hợp T HS GV HS GV HS GV (%) (%) (%) (%) (%) (%) Đặc điểm tính cách cá nhân của 1 23,8 35,7 11,0 39,3 65,2 25,0 HS phù hợp với nghề. Sở thích, năng lực của HS phù 2 31,1 44,6 43,3 37,5 25,6 17,9 hợp với nghề. Sức khoẻ, giới tính của HS phù 3 0,0 0,0 37,8 17,9 62,2 82,1 hợp với nghề. -4-
- Số liệu khảo sát Bảng 2 cho thấy hầu hết HS và GV đều cho rằng sức khoẻ, giới tính phù hợp với nghề đang học. Điều này cho thấy HS đã đáp ứng được các yêu cầu về mặt y học của nghề. Tuy nhiên, điều đáng chú ý của kết quả khảo sát là có tỉ lệ khá cao HS và GV nhận xét tính cách cá nhân, sở thích, năng lực của HS chưa phù hợp với nghề. Cụ thể: có 23,8% HS và 35,7% GV nhận xét tính cách của HS chưa phù hợp với nghề; 31,3% HS và 44,6% GV nhận xét sở thích, năng lực của HS chưa phù hợp với nghề. Qua các số liệu khảo sát trên, đặc biệt là ý kiến từ GV cho thấy tỉ lệ HS chưa phù hợp với các yêu cầu của nghề như tính cách, sở thích hay năng lực cá nhân còn khá cao. Nguyên nhân chủ quan từ phía HS chưa chủ động tìm hiểu kỹ các yêu cầu của nghề. Nguyên nhân khách quan từ phía GV nhà trường chưa chú trọng đến các hoạt động giáo dục nhằm giúp HS điều chỉnh đặc điểm tính cách cá nhân để phù hợp với các yêu cầu của nghề. Chưa phù hợp với nghề là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng không nhỏ đến việc đáp ứng các yêu cầu của nghề trong quá trình học tập, phát triển nghề nghiệp, cạnh tranh nghề nghiệp trong tương lai. Vì vậy, song song với việc dạy nghề cho HS, việc giáo dục HS rèn luyện điều chỉnh tính cách cách nhân, hình thành lòng yêu nghề, năng lực nghề nghiệp để HS sớm phù hợp với nghề, thích nghi với nghề đang học thực sự rất quan trọng trong các hoạt động giáo dục của nhà trường. 3.3 Khả năng thích ứng thị trường lao động của học sinh Bảng 3 Ý kiến của HS và GV đánh giá về khả năng thích ứng TTLĐ của HS Nhận xét mức độ hiểu biết S Không Biết Biết Biết T Thông tin hiểu biết biết gì ít rõ rất rõ T HS GV HS GV HS GV HS GV (%) (%) (%) (%) (%) (%) (%) (%) Nhu cầu tuyển dụng của nghề đang học 1 trong địa phương, 7,9 5,4 59,8 71,4 31,7 23,2 0,6 0,0 trong khu vực, trên cả nước. Xu hướng phát triển 2 của nghề đang học 6,1 8,9 63,4 69,6 27,4 21,4 3,0 0,0 trong tương lai. Các yêu cầu của thị 3 trường lao động đối 11,0 7,1 65,2 73,2 23,8 19,6 0,0 0,0 với nghề đang học. -5-
- Vị thế của nghề đang học đối với xã 4 4,9 8,9 76,2 64,3 18,9 26,8 0,0 0,0 hội, đối với thị trường lao động. Số liệu khảo sát Bảng 3 cho thấy, mức độ hiểu biết các nội dung về TTLĐ của nghề đang học của HS rất hạn chế, phần lớn GV và HS đều nhận xét mức độ hiểu biết của HS về các nội dung về TTLĐ là biết ít hoặc không biết gì, cụ thể: Hiểu biết về nhu cầu tuyển dụng của nghề đang học trong địa phương, trong khu vực, trên cả nước: Chỉ có 31,7% HS cho rằng mình biết rõ nhu cầu tuyển dụng của nghề đang học trong địa phương, trong khu vực, trên cả nước, phần lớn HS được hỏi còn lại cho rằng biết ít (59,8%) và không biết gì (7,9%). Phía GV, phần lớn GV (71,4%) cũng cho rằng HS biết ít và 5,4% GV nhận xét HS không biết gì về nhu cầu tuyển dụng của nghề đang học trong địa phương, trong khu vực, trên cả nước. Điều này cho thấy mức độ hiểu biết của HS về nhu cầu tuyển dụng của nghề đang học trong địa phương, trong khu vực, trên cả nước rất hạn chế. Thiếu hiểu biết về nhu cầu tuyển dụng đối với nghề đang học sẽ khiến cho cơ hội có được việc làm của HS sau khi ra trường trở nên rất thấp, đặc biệt là có việc làm đúng với nghề đã học. Tương tự, chỉ có 27,4% HS biết rõ và 3,0% HS biết rất rõ về xu hướng phát triển của nghề đang học trong tương lai; 28,8% HS biết rõ về các yêu cầu của thị trường lao động đối với nghề, số HS còn lại cho rằng mình biết ít (65,2%) hoặc không biết gì (11,0%); chỉ có 18,9% HS biết rõ về vị thế của nghề đang học đối với xã hội, đối với thị trường lao động. Về phía GV, cũng giống với nhận xét của HS, số liệu Bảng 3 cho thấy phần đông GV đều cho rằng mức độ hiểu biết các nội dung về TTLĐ của HS là biết ít, hoặc không biết gì. Cụ thể chỉ có 23,4% GV nhận xét HS biết rõ về nhu cầu tuyển dụng của nghề đang học trong địa phương, trong khu vực, trên cả nước; 21,6% GV nhận xét HS biết rõ về xu hướng phát triển của nghề đang học trong tương lai; 19,3 GV nhận xét HS biết rõ về các yêu cầu của TTLĐ đối với nghề đang học và 25,1% GV nhật xét HS biết rõ về vị thế của nghề đang học đối với xã hội. Không có GV nhận xét HS biết rất rõ về các thông thông TTLĐ đối với nghề đang học. GV tại các khoa nghề cho biết thêm: hầu hết các GV đều cho rằng rất ít khi cung cấp các thông tin liên quan đến TTLĐ và đây đó là nhiệm vụ của Nhà trường, của phòng Đào tạo, phòng tuyển sinh và quan hệ doanh nghiệp Như vậy, qua tìm hiểu cho thấy thực trạng mức độ hiểu biết về TTLĐ đối với nghề đang học của HS là rất thấp. Thực trạng này có thể là nguyên nhân dẫn đến khả năng thích ứng và cạnh tranh TTLĐ của HS sau khi ra trường. Nguyên nhân chủ quan -6-
- do HS chưa chủ động tìm hiểu các thông tin, nội dung về TTLĐ đối với nghề đang học. Nguyên nhân khách quan từ phía nhà trường và GV chưa chủ động lồng ghép các nội dung có liên quan đến TTLĐ của nghề vào nội dung giảng dạy các môn học, mô đun nghề để giáo dục cho HS, các nội dung tuyên truyền, giáo dục định hướng TTLĐ cho HS chưa phong phú. Do đó, công tác GDHN trong Nhà trường cần thiết phải được đẩy mạnh cả về nội dung lẫn hình thức thực hiện nhằm cung cấp cho HS các kiến thức về TTLĐ đối với nghề đang học. 3.4 Mức độ tổ chức các hoạt động GDHN trong nhà trường Bảng 4. Nhận xét mức độ tổ chức các hoạt động GDHN trong Nhà trường theo ý kiến của GV và HS Mức độ tổ chức S Chƣa Có tổ Thƣờng T Hoạt động bao giờ chức xuyên T tổ chức nhƣng ít tổ chức HS GV HS GV HS GV (%) (%) (%) (%) (%) (%) Tổ chức các lớp bồi dưỡng kiến 1 thức hội nhập kinh tế quốc tế cho 17,1 19,6 82,9 80,4 0,0 0,0 học sinh. Tổ chức học sinh tham quan nhà 2 máy, xí nghiệp, làng nghề, cơ sở 5,5 10,7 94,5 89,3 0,0 0,0 sản xuất Tổ chức giao lưu, nói chuyện tìm 3 16,5 7,1 83,5 92,9 0,0 0,0 hiểu về nghề nghiệp. Tổ chức học sinh tham gia Ngày 4 hội việc làm do các cơ quan, 17,7 0,0 82,3 94,6 0,0 5,4 doanh nghiệp, báo chí tổ chức. Tổ chức cho học sinh thực hiện 5 các bài kiểm tra để tự xác định 90,9 89,3 9,1 10,7 0,0 0,0 đặc điểm tính cách cá nhân. Khảo sát, đánh giá về đặc điểm thể chất, trí tuệ, tâm lý của học 6 sinh, giúp học sinh đối chiếu khả 71,3 33,9 28,7 58,9 0,0 7,1 năng thích ứng với các yêu cầu của nghề đang học. 7 Thông tin về nhu cầu tuyển 11,0 60,7 82,9 39,3 6,1 0,0 -7-
- Mức độ tổ chức S Chƣa Có tổ Thƣờng T Hoạt động bao giờ chức xuyên T tổ chức nhƣng ít tổ chức HS GV HS GV HS GV (%) (%) (%) (%) (%) (%) dụng, cơ hội việc làm đối với nghề đang học đến học sinh. Giới thiệu gương lao động dũng 8 cảm, vượt khó, sáng tạo trong 16,5 0,0 83,5 91,1 0,0 8,9 sản xuất và đời sống. Tổ chức tập huấn kỹ năng trả lời phỏng vấn, viết đơn xin việc, 9 9,8 0,0 90,2 91,1 0,0 8,9 khởi sự doanh nghiệp, tự tạo việc làm cho học sinh. Từ số liệu Bảng 4 cho thấy phần đông GV và HS đều nhận xét mức độ tổ các hình thức GDHN trong nhà trường là có tổ chức nhưng ít, cụ thể: Tổ chức các lớp bồi dưỡng kiến thức hội nhập kinh tế quốc tế cho học sinh. Đây là một trong những hoạt động ngoại khoá rất quan trọng trong quá trình giáo dục định hướng nghề nghiệp cho HS trước khi ra trường. Bồi dưỡng kiến thức hội nhập kinh tế quốc tế nhằm trang bị cho HS những kiến thức cơ bản về hội nhập kinh tế quốc tế, thực trạng và định hướng phát triển nghề nghiệp đáp ứng với xu thế hội nhập của Việt Nam. Từ đó, nâng cao nhận thức của HS về nghĩa vụ, trách nhiệm bản thân góp phần thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước, thúc đẩy động cơ học tập nghề nghiệp, gắn bó và phát triển nghề trong tương lai. Tuy nhiên, kết quả khảo sát từ Bảng 4 cho thấy: có 82,9% GV và 80,4% HS nhận xét nhà trường ít khi tổ chức các lớp bồi dưỡng kiến thức hội nhập kinh tế quốc tế cho học sinh, số GV và HS còn lại nhận xét nhà trường chưa bao giờ tổ chức hoạt động này. Tổ chức đưa HS tham quan nhà máy, xí nghiệp, làng nghề, cơ sở sản xuất: Phần lớn (94,7%) HS nhận xét nhà trường có tổ chức nhưng ít; 5,3% HS nhận xét nhà trường chưa bao giờ tổ chức. GV cũng có cùng nhận xét giống với HS, có 89,3% GV cho rằng nhà trường ít khi tổ chức hoạt động này. Tổ chức HS tham quan nhà máy, xí nghiệp, làng nghề, cơ sở sản xuất trong quá trình học nghề giúp HS có thêm kiến thức thực tế về vị trí việc làm, cũng như định hướng được cho bản thân theo đuổi những môi trường làm việc phù hợp sau khi ra trường. Mỗi nhà máy, xí nghiệp, làng nghề, cơ sở sản xuất đều có những đặc trưng -8-
- riêng và yếu tố môi trường làm việc riêng. Nếu HS chỉ chăm lo học về kiến thức, thiếu sự trau dồi các kỹ năng mềm cần thiết thì các em sẽ gặp khó khăn để hoà nhập với công việc. Tuy nhiên, qua khảo sát cho thấy, thời gian qua HS của trường ít, thậm chí chưa có điều kiện tham quan các nhà máy, xí nghiệp nguyên nhân do nhà trường chưa chủ động trong việc xây dựng kế hoạch phối hợp các doanh nghiệp để tạo điều kiện cho HS tham quan trải nghiệm nghề nghiệp trước khi tham gia vào TTLĐ. Tổ chức các buổi giao lưu, nói chuyện tìm hiểu nghề nghiệp đối với nghề đang học: 83,5% HS và 92,9% GV cho rằng nhà trường có tổ chức nhưng ít. Như vậy, phần đông HS và GV đều nhận xét nhà trường ít tổ chức các buổi giao lưu, nói chuyện tìm hiểu nghề nghiệp để HS hiểu rõ hơn về nghề đang học, nâng cao nhận thức nghề nghiệp. Tổ chức cho HS tham gia các Ngày hội việc làm do các cơ quan, doanh nghiệp, báo chí tổ chức: có 82,3% HS cho rằng nhà trường ít khi tổ chức; 94,6% GV cũng cho rằng nhà trường có tổ chức nhưng ít. Hoạt động Tổ chức cho HS thực hiện các bài kiểm tra (test) để tự xác định đặc điểm tính cách: có đến 90,9% HS cho rằng nhà trường chưa bao giờ tổ chức. Tương tự, hầu hết (89,3%) GV cũng nhận xét rằng Nhà trường chưa bao giờ tổ chức cho HS thực hiện các bài kiểm tra để tự xác định đặc điểm tính cách của mình nhằm giúp HS có hướng rèn luyện, điều chỉnh tính cách cá nhân để phù hợp với yêu cầu của nghề. Điều này cho thấy HS ít có điều kiện để kiểm tra sự phù hợp với nghề của bản thân, qua đó tự điều chỉnh tính cách để phù hợp ngược lại với yêu của nghề. Tổ chức khảo sát, đánh giá về đặc điểm thể chất, trí tuệ, tâm lý của HS, giúp HS đối chiếu khả năng thích ứng với các yêu cầu của nghề đang học. Hoạt động này, phần lớn (71,3%) HS cho rằng nhà trường chưa bao giờ tổ chức. Trong khi đó 33,9% GV cho rằng nhà trường chưa bao giờ tổ chức; 58,1% GV cho rằng nhà trường ít khi tổ chức. Nghề nào cũng có những yêu cầu đối với người học. Ngoài những yêu cầu chung nhất là lòng yêu nghề, ý thức trách nhiệm, lương tâm nghề nghiệp Tuỳ vào đặc điểm của nghề mà còn có những yêu cầu khác nhau ở người học như phẩm chất tâm lý, sinh lý. Việc chọn nghề trước đây của HS có thể chưa thoả mãn hết các yêu cầu này của nghề. Kết quả khảo sát từ Bảng 4 cho thấy có rất ít sự tác động từ các hoạt động giáo dục trong nhà trường hướng đến sự phù hợp giữa nhân cách HS với yêu cầu của nghề. Sự phù hợp giữa nhân cách cá nhân và các yêu cầu của nghề có ý nghĩa quan trọng giúp HS hứng thú, tự tin hơn trong học tập, sớm thích nghi với nghề, tăng khả năng phát triển nghề trong tương lai. Do đó, trong thời gian sắp tới nhà trường cần chú trọng tổ chức các hoạt động giúp HS tự đánh giá về đặc điểm thể chất, trí tuệ, tâm lý, đặc -9-
- điểm tính cách nhằm giúp HS tự rèn luyện để phù hợp với các yêu cầu của nghề đang học. Thông tin về nhu cầu tuyển dụng, cơ hội việc làm đối với nghề đang học đến học sinh: qua khảo sát cho thấy 82,9% HS cho rằng nhà trường ít khi tổ chức hoạt động này. Khác với ý kiến của HS, có đến 60,7% GV cũng cho rằng nhà trường chưa bao giờ tổ chức hoạt động này; số GV được hỏi còn lại cho rằng nhà trường ít khi tổ chức các hoạt động để thông tin về nhu cầu tuyển dụng, cơ hội việc làm đến HS. Như vậy, phần lớn HS của trường biết rất ít về nhu cầu tuyển dụng, cơ hội việc làm đối với nghề đang học. Một phần nguyên nhân do từ phía nhà trường chưa chú trọng đến nội dung và hình thức các thông tin về nhu cầu tuyển dụng đối với các nghề đang đào tạo tại trường. Song song với việc đào tạo, rèn luyện đạo đức nghề nghiệp cho HS nhà trường cần chú trọng đến việc cung cấp cho HS các kiến thức về TTLĐ của nghề đang học như nhu cầu tuyển dụng, vị trí việc làm, các yêu cầu về sự phát triển của nghề để đáp ứng theo sự phát triển chung của xã hội nhằm giúp HS có tâm thế vững chắc, hòa nhập tốt khi ra trường. Giới thiệu gương lao động dũng cảm, vượt khó, sáng tạo trong lao động sản xuất: khảo sát cho thấy 83,5% HS và 91,1% GV cho rằng nhà trường ít khi tổ chức hoạt động này. Việc lồng ghép vào nội dung giảng dạy hay thông qua các hoạt động ngoại khóa nhằm giới thiệu gương lao động dũng cảm, vượt khó, sáng tạo trong lao động sản xuất có liên quan đến nghề HS đang học có tác động tích cực giúp HS thêm yêu nghề, gắn bó với nghề, có nhiều hứng thú hơn trong học tập. Tuy nhiên, qua khảo sát cho thấy các GV giảng dạy nói chung và kế hoạch hoạt động của nhà trường nói riêng thời gian qua chưa chú trọng đến hoạt động này. Tổ chức tập huấn kỹ năng trả lời phỏng vấn, viết đơn xin việc, khởi sự doanh nghiệp, tự tạo việc làm cho HS là rất quan trọng, giúp HS tự tin khi ra trường, tự tin tham gia vào TTLĐ. Tuy nhiên, phần lớn (90,2%) HS cũng nhận xét mức độ tổ chức hoạt động này trong nhà trường là rất ít. Cũng giống với ý kiến của HS, có đến 91,1% GV cũng cho rằng nhà trường ít khi tổ chức các buổi tập huấn kỹ năng trả lời phỏng vấn, viết đơn xin việc, khởi sự doanh nghiệp, tự tạo việc làm cho HS. Tóm lại, thực trạng trên cho thấy nội dung và hình thức tổ chức GDHN trong nhà trường còn rất hạn chế, chưa đa dạng. Mức độ tổ chức các hoạt động GDHN chưa cao. Vì vậy, việc xây dựng nội dung GDHN cũng như tăng cường các hình thức GDHN trong nhà trường là rất cần thiết nhằm giáo dục định hướng nghề nghiệp cho HS trong quá trình học tập, giúp HS sớm thích nghi với nghề, yêu nghề, gắn bó với nghề và phát triển nghề trong tương lai. 4. Kết luận -10-
- Hướng nghiệp giai đoạn 2 cho HS ở các TDN thực sự rất cần thiết. Hiện nay, khi nhà trường phổ thông và xã hội còn chưa làm tốt chức năng hướng nghiệp thì việc điều chỉnh động cơ chọn nghề, hình thành lòng yêu nghề để yên tâm với nghề và rèn nghề trong những năm học nghề tại trường là một trọng trách nặng nề đối với các cơ sở đào tạo. Khi các TDN làm tốt nhiệm vụ hướng nghiệp “giai đoạn 2” sẽ đào tạo ra được những người công nhân yêu nghề, có năng lực nghề nghiệp và thích ứng tốt với sự phát triển không ngừng của xã hội. Kết quả nghiên cứu cho thấy công tác GDHN tại trường TCN Thới Lai, Tp.Cần Thơ còn tồn tại rất nhiều hạn chế về nội dung, hình thức và mức độ tổ chức. Phần lớn HS nhà trường chưa hiểu rõ các yêu cầu về kiến thức, kỹ năng; đặc điểm kinh tế, đặc điểm TTLĐ của nghề đang học; xu hướng phát triển của nghề đang học trong tương lai; hay các chống chỉ định y học, những đặc điểm sinh học, tâm lý cần có của HS để học và làm tốt nghề đã chọn. Nhà trường chưa chú trọng đúng mức đến việc xây dựng nội và hình thức GDHN cho HS. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đặng Danh Ánh (2008), Mô tả nghề nghiệp ở Việt Nam. Bài giảng lớp ThS Tâm lý học và thực hành hướng nghiệp, Khoa Sư phạm – Đại học Quốc gia HN. 2. Đặng Danh Ánh (2002), Giáo dục hướng nghiệp,Tập bài giảng. 3. Bùi Văn Hưng (2014), Quản lý g iáo dục hướng nghiệp ở các trường dạy nghề trong bối cảnh mới, Nxb Đaị hoc̣ Quốc gia Hà Nôị . 4. Bộ Lao động – Thương Binh và Xã hội (2007), Quy chế công tác học sinh, sinh viên trong các cơ sở dạy nghề hệ chính quy. 5. Nguyễn Sinh Huy, Nguyễn Văn Lê (1999), Giáo dục học đại cương, Nxb Giáo dục. XÁC NHẬN CỦA GIÁO VIÊN HƢỚNG DẪN PGS.TS Lê Thị Hoa -11-
- BÀI BÁO KHOA HỌC THỰC HIỆN CÔNG BỐ THEO QUY CHẾ ĐÀO TẠO THẠC SỸ Bài báo khoa học của học viên có xác nhận và đề xuất cho đăng của Giảng viên hướng dẫn Bản tiếng Việt ©, TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH và TÁC GIẢ Bản quyền tác phẩm đã được bảo hộ bởi Luật xuất bản và Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam. Nghiêm cấm mọi hình thức xuất bản, sao chụp, phát tán nội dung khi chưa có sự đồng ý của tác giả và Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh. ĐỂ CÓ BÀI BÁO KHOA HỌC TỐT, CẦN CHUNG TAY BẢO VỆ TÁC QUYỀN! Thực hiện theo MTCL & KHTHMTCL Năm học 2016-2017 của Thư viện Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Tp. Hồ Chí Minh.



