Thúc đẩy sự thay đổi: cơ sở cho lồng ghép giới

pdf 53 trang phuongnguyen 1820
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Thúc đẩy sự thay đổi: cơ sở cho lồng ghép giới", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfthuc_day_su_thay_doi_co_so_cho_long_ghep_gioi.pdf

Nội dung text: Thúc đẩy sự thay đổi: cơ sở cho lồng ghép giới

  1. THÚC ĐẨY SỰ THAY ĐỔI: CƠ SỞ CHO LỒNG GHÉP GIỚI
  2. Uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam Thúc đẩy sự thay đổi: cơ sở cho lồng ghép giới Chương trình bình đẳng giới khu vực Ðông Nam á (SEAGEP) Hà Nội, tháng 11 năm 2001
  3. Lời giới thiệu Chương trình Bình đẳng Giới khu vực Ðông Nam á (SEAGEP), một Chương trình khu vực thuộc Tổ chức Phát triển Quốc tế Ca-na-đa (CIDA) hân hạnh được hỗ trợ việc xuất bản cuốn "Thúc đẩy sự thay đổi: cơ sở cho lồng ghép giới" bằng tiếng Việt. SEAGEP xin chân thành cảm ơn Uỷ ban quốc gia Vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đã giúp chúng tôi trong việc dịch thuật và phân phát tài liệu này. Nguyên bản tiếng Anh của tài liệu này là kỷ yếu của "Hội thảo chuyên ngành về lồng ghép giới dành cho các Bộ máy quốc gia về phụ nữ ", được tổ chức tại Sa-nu, In- đô-nê-xi-a từ ngày 20-25/ 2/ 2000 do CIDA (chi nhánh châu á) tài trợ. Tham dự hội thảo này có đại diện của Bộ máy quốc gia về phụ nữ của In-đô-nê-xia, Phi-líp-pin và Băng-la-đét. Hy vọng rằng, một Hội thảo khu vực Ðông Nam á tương tự như vậy sẽ được tổ chức tại Việt Nam. Lồng ghép giới ngày càng được thừa nhận là một chiến lược cần thiết để nâng cao tác động của các chính sách nhằm thúc đẩy bình đẳng giới. Tài liệu này muốn cung cấp tới bạn đọc một số thông tin cơ bản về khái niệm lồng ghép giới; một số đề xuất để các bộ máy quốc gia về phụ nữ có thể tư vấn cho Chính phủ; một số ví dụ về sự liên kết ở các cấp độ trong quá trình lồng ghép giới; và một số công cụ thực tế để lồng ghép giới. Tôi hy vọng rằng cuốn cẩm nang "Thúc đẩy sự thay đổi: cơ sở cho lồng ghép giới" là một công cụ hữu hiệu cho việc lồng ghép giới ở Việt Nam. Xin chân thành cảm ơn Janet Burn Giám đốc, SEAGEP 2
  4. mục lục (Trang) Chương 1 Lồng ghép giới: Các khái niệm và định nghĩa chính Chia sẻ kinh nghiệm và rút ra các bài học: Hội thảo quốc tế chuyên ngành về lồng ghép giới Các quan điểm giới trong phát triển: bối cảnh lịch sử Lồng ghép giới Nâng cao năng lực lồng ghép giới Các nhân tố hỗ trợ lồng ghép giới Các yếu tố chính trong lồng ghép giới Mong đợi gì ở sự thành công Chương 2 Cơ cấu, vai trò và nhiệm vụ của bộ máy quốc gia về phụ nữ Định nghĩa về các bộ máy quốc gia về phụ nữ Chia sẻ kinh nghiệm Những thách thức chiến lược Bổ sung giá trị cho hoạt động của Chính phủ: xem xét những đóng góp của BMQG Những chỉ số về uy tín tăng lên và những tiến bộ đạt được trong bình đẳng giới Chương 3 Hợp tác với Chính phủ để tạo ra sự thay đổi Tầm quan trọng của việc xây dựng các mối quan hệ Hợp tác với ai Vai trò của cán bộ đầu mối Các yếu tố cơ bản để phối hợp thành công Phối hợp với chính quyền các cấp: một số ví dụ thực tế Những nhân tố cản trở sự hợp tác hữu hiệu Ðóng góp cho Chính phủ thông qua phối hợp lồng ghép giới Chương 4 Các công cụ lồng ghép giới Các công cụ khác nhau cho các công việc khác nhau Các công cụ hỗ trợ Các công cụ kỹ thuật Các công cụ lồng ghép giới: Những nhân tố tạo nên sự thành công Phổ biến các công cụ và tập huấn lồng ghép giới Chương 5. Các Bộ máy quốc gia về phụ nữ trong lồng ghép giới Không chỉ tiến hành trong phạm vi chính phủ Khu vực tư nhân Khu vực tôn giáo Thành phần trí thức Các nhóm tuyên truyền và hoạt động sự nghiệp Làm việc với Chính phủ là chưa đủ 3
  5. Chương 6 Tăng cường năng lực lồng ghép giới Các cá nhân Các tổ chức Các hệ thống Tóm tắt các nhận xét Phụ lục 1 Thanh phân tích giới 4
  6. Chương 1 Lồng ghép giới: Các khái niệm và định nghĩa chính Xác định các chủ đề chung Tầm quan trọng của việc lồng ghép giới đã được thảo luận một cách rộng rãi kể từ khi Chính phủ các nước cam kết thực hiện Cương lĩnh Hành động Bắc Kinh năm 1995. Trong những năm gần đây, người ta đã thừa nhận rằng để có sự phát triển nguồn nhân lực bền vững thì phải có bình đẳng giới, chứ bình đẳng không phải là kết quả của phát triển nguồn nhân lực bền vững. Lồng ghép giới là một chiến lược quan trọng để đạt được bình đẳng giới và là một chiến lược quan trọng đối với sự phát triển xã hội bền vững. Kể từ Hội nghị thế giới lần thứ tư về Phụ nữ của Liên Hợp Quốc tại Bắc Kinh, các bộ máy quốc gia về phụ nữ (BMQG) trên thế giới có nhiệm vụ đưa những khái niệm này vào thực tế. Ðể thực hiện các chiến lược lồng ghép giới, các bộ máy quốc gia thường phải xác định lại bộ máy, vai trò, cơ cấu tổ chức và tôn chỉ mục đích của tổ chức mình trong cộng đồng và chính phủ. Dĩ nhiên, sự thay đổi nào cũng là một thách thức. Do vậy, những người theo đuổi mục đích chung về bình đẳng giới ở các nước mong muốn có những biện pháp trao đổi thông tin tốt hơn giữa các nước nhằm rút ra các bài học thành công cũng như thất bại và chia sẻ các điển hình thực tế một cách rộng rãi giữa các quốc gia. Chia sẻ kinh nghiệm và rút ra các bài học: Hội thảo quốc tế chuyên ngành về lồng ghép giới Cái gì đã làm được, cái gì chưa làm được, chúng ta cần phải làm gì? Tổ chức Pháp triển Quốc tế Canada (CIDA), chi nhánh Châu á, hiện đang phối hợp với các đối tác để giúp nâng cao năng lực lồng ghép giới cho các bộ máy quốc gia về phụ nữ ở Băng-la-đét, Phi-líp-pin và In-đô-nê-xi-a. Mục đích chung của bộ máy quốc gia ở 3 nước này là thay đổi cơ chế lập kế hoạch để lồng ghép giới vào các chương trình và chính sách của chính phủ. Tuy cùng chung mục đích như vậy nhưng bối cảnh tình hình và những thách thức của 3 nước lại rất khác nhau. Hội thảo chuyên ngành về lồng ghép giới do CIDA tài trợ được tổ chức tại Sa-nu, In-đô-nê-xi-a (từ ngày 20-25/ 02/ 2000) đã tạo cơ hội chia sẻ hiểu biết giữa các nước có sự khác nhau về văn hóa, kinh tế, xã hội và chính trị là Băng-la-đét, Phi-líp-pin và In-đô- nê-xi-a. Các đại biểu Ca-na-đa cũng tham gia và chia sẻ một số bài học mà họ đã thu được. Chủ đề của Hội thảo là: cái gì đã làm được, cái gì chưa làm được và chúng ta cần phải làm gì. Hội thảo đã tập trung vào vấn đề tăng cường năng lực. Các đại biểu cũng có cơ hội trình bày và học hỏi lẫn nhau Hội thảo được tiến hành dưới hình thức phiên toàn thể, thảo luận và làm việc theo nhóm. Mục đích là trong vòng một tuần các đại biểu có điều kiện đối thoại, trao đổi về những thành công và thất bại trong việc lồng ghép giới với tinh thần xây dựng và hiệu quả, tập trung vào những sách lược để thực hiện thành công chứ không trao đổi về mặt lý thuyết và quan điểm. Mục tiêu của hội thảo Trao đổi quan điểm, chia sẻ các bài học kinh nghiệm 5
  7. Mục tiêu ban đầu đặt ra cho Hội thảo là: • Trao đổi về các chiến lược, xem xét các hoạt động và khai thác các kinh nghiệm • Xác định các thách thức và cơ hội hiện tại liên quan đến cơ cấu tổ chức, các liên kết chiến lược và các công cụ cần thiết cho việc lồng ghép giới. • Ghi nhận những thành tích đã đạt được, rút ra các bài học kinh nghiệm và cách làm hay nhất để phổ biến rộng rãi sau hội thảo. Ðây là một tài liệu được đúc rút từ hội thảo nhằm thu thập các bài học và phản ánh kinh nghiệm sâu rộng về lồng ghép giới của các đại biểu qua một tuần hội thảo ở In-đô-nê-xi-a. Ðây sẽ là nguồn tài liệu thiết thực cho những ai tham gia vào việc lồng ghép bình đẳng giới trong các bối cảnh khác nhau. Tài liệu này không những là một khuôn mẫu để hành động mà nó còn chứa đựng một bộ công cụ gồm các khái niệm, nội dung các khuôn khổ và chiến lược được đúc rút qua trao đổi tại Hội thảo. Tất cả những vấn đề này cần được điều chỉnh cho phù hợp với từng bối cảnh văn hoá-xã hội, kinh tế- chính trị. Một trong những điều hết sức quan trọng rút ra từ Hội thảo là không có một cách làm duy nhất để có thể áp dụng cho mọi xã hội. Tuy nhiên, việc chia sẻ những thành cụng hay th?t b?i d?u cú ớch cho vi?c tang cu?ng nang l?c c?a nh?ng ai dang theo đuổi mục tiêu lồng ghép giới. Cái khái niệm chính về lồng ghép giới Cách hiểu chung Giới tính, giới, công bằng giới, bình đẳng, hội nhập giới, phụ nữ trong phát triển (WID), giới và phát triển (GAD) và nâng cao năng lực là những thuật ngữ đã trở nên quen thuộc trong các bài thuyết trình quốc tế về lồng ghép giới. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn còn rất nhiều sự nhầm lẫn và tranh cãi về ý nghĩa của các thuật ngữ này. Trong những bối cảnh khác nhau hay trong từng thời điểm, mỗi thuật ngữ có thể phản ánh những quan điểm hệ tư tưởng khác nhau và có thể được sử dụng để xác định sự khác biệt của thực tiễn. Do vậy, điều cần thiết là phải có cách hiểu chung về các khái niệm về lồng ghép giới ngay đầu tài liệu này để chúng ta có thể có những thảo luận cụ thể và thiết thực. Những khái niệm dưới đây bắt nguồn từ các thoả ước và tài liệu quốc tế (ví dụ: Liên hợp quốc, Khối thịnh vượng chung và CIDA) và đơn giản được đưa ra để xác định và hỗ trợ trong quá trình sử dụng tài liệu này nhằm giúp mọi người không bị sa vào mớ lý thuyết viển vông và đôi khi làm lạc hướng các cuộc tranh luận. Giới tính là sự khác biệt về mặt sinh học giữa phụ nữ và nam giới và không thể thay đổi được. Chỉ có một số khác biệt nhỏ về vai trò của nam giới và phụ nữ về mặt sinh học và sinh lý trên cơ sở giới tính. Ví dụ như việc mang thai, sinh nở và sự khác biệt về sinh lý có thể là do các đặc điểm giới tính. Giới là sự khác biệt về mặt xã hội giữa phụ nữ và nam giới ví dụ như vai trò, thái độ, hành vi ứng xử và các giá trị. Vai trò giới được biết đến thông qua quá trình học tập và khác nhau theo từng nền văn hoá và thời gian. Do vậy giới có thể thay đổi được. Giới là một thuật ngữ có liên quan đến cả phụ nữ và nam giới. Bình đẳng giới tập trung vào những thay đổi cho cả phụ nữ và nam giới. Công bằng giới là sự đối xử công bằng với cả nam giới và phụ nữ. Ðể bảo đảm có sự công bằng, luôn phải có nhiều biện pháp để điều chỉnh những khuyết thiếu của lịch sử và xã hội mà đã cản trở phụ nữ và nam giới tham gia vào các hoạt động xã hội dưới hình thức này hoặc hình thức khác. Công bằng có thể hiểu theo đúng nghĩa của nó, rằng đó là kết quả của sự bình đẳng. Công bằng sẽ dẫn tới sự bình đẳng. 6
  8. Bình đẳng giới nghĩa là phụ nữ và nam giới có vị trí như nhau trong xã hội. Bình đẳng giới không có nghĩa là nam giới và phụ nữ phải như nhau, mà là những sự giống nhau và khác nhau giữa phụ nữ và nam giới phải được công nhận và đánh giá một cách bình đẳng. Bình đẳng giới có nghĩa là phụ nữ và nam giới có điều kiện như nhau để thực hiện đầy đủ các quyền của mình và có cơ hội để đóng góp và thụ hưởng sự phát triển chính trị, kinh tế - xã hội và văn hoá của đất nước. Phân tích giới là quá trình đánh giá tác động khác nhau của các chính sách, chương trình, dự án và luật pháp hiện hành hay đang được đề xuất đối với nam giới và phụ nữ. Việc phân tích giới ghi nhận rằng thực tế đời sống của nam giới và phụ nữ hoàn toàn khác nhau, và rằng cơ hội bình đẳng không nhất thiết là sẽ mang lại các kết quả bình đẳng. Sự phân biệt có hệ thống diễn ra bởi tác động có tính hệ thống của các chính sách và đã dẫn đến tình trạng loại trừ phụ nữ và những người thiểu số. Mặc dù có thể không loại trừ tất cả các thành viên của một nhóm, nhưng nó sẽ tác động nghiêm trọng hơn tới nhóm này so với nhóm khác. Ðể loại bỏ sự phân biệt này cần phải có các biện pháp cụ thể nhằm thay đổi các hệ thống đó. Phụ nữ trong Phát triển (WID) là một phương pháp tiếp cận xuất hiện từ những năm 1970 với mục đích đưa phụ nữ tham gia đầy đủ hơn vào quá trình phát triển. Phương pháp này bao gồm các biện pháp xây dựng các dự án dành riêng cho phụ nữ, các dự án tín dụng và đào tạo cho phụ nữ. Phương pháp tiếp cận Giới và Phát triển (GAD) được xây dựng trong những năm 1980 để thay thế cho phương pháp tiếp cận Phụ nữ và Phát triển. Thay vì chỉ tập trung vào phụ nữ, phương pháp tiếp cận này quan tâm đến mối quan hệ giữa phụ nữ và nam giới. Phương pháp này là một thách thức đối với quá trình ra quyết định và các mối quan hệ quyền lực thiếu bình đẳng không chỉ giữa nam giới và phụ nữ, mà còn giữa người giàu và người nghèo. Ðáp ứng giới là sự thể hiện mối quan tâm đồng bộ và có hệ thống tới những khác biệt giữa phụ nữ và nam giới trong xã hội nhằm khắc phục những hạn chế về cơ cấu đối với bình đẳng giới. Phương pháp tiếp cận mang đặc thù phụ nữ là những sáng kiến chỉ tập trung vào đối tượng phụ nữ hay trẻ em gái. Những sáng kiến này có mục tiêu hết sức cụ thể nhằm đáp ứng các nhu cầu thực tế hoặc nhu cầu chiến lược của phụ nữ, những nhu cầu không phải bao giờ cũng được giải quyết qua phương pháp lồng ghép. Chúng thường là các hoạt động đầu tư phát triển có giá trị lớn, nhất là những hoạt động mang tính xúc tác, sáng tạo hoặc chiến lược, hoặc giải quyết một vấn đề bức xúc cụ thể về bất bình đẳng giới. Mục tiêu là để khắc phục tình trạng mù giới mà trước đây đã cản trở phụ nữ được hưởng lợi từ quá trình phát triển. Các quan điểm giới trong phát triển: bối cảnh lịch sử Từ WID tới GAD và tới lồng ghép giới Ðã có sự tiến bộ đáng kể về quan điểm, nhận thức và phương pháp tiếp cận nhằm đạt bình đẳng cho phụ nữ kể từ Hội nghị Liên Hợp Quốc về Phụ nữ được tổ chức tại Nai-rô-bi năm 1975. Những năm đầu, hầu hết các mối quan tâm chỉ là "các vấn đề" 7
  9. của phụ nữ, "sự tiếp cận và cơ hội" của phụ nữ. Phương pháp tiếp cận Phụ nữ trong Phát triển (WID) đã tập trung vào việc làm thế nào để phụ nữ có thể được tham gia tốt hơn vào các sáng kiến phát triển hiện có, chủ yếu thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ với tư cách là người thụ hưởng chứ chưa phải là tác nhân của công cuộc phát triển. Tuy nhiên, phương pháp WID chỉ tập trung vào phụ nữ, còn những vấn đề xã hội, kinh tế, chính trị và văn hóa lại được xem xét một cách độc lập hoặc tách biệt. Do đó, vô hình chung nó đã tách phụ nữ ra khỏi quá trình ra quyết định của chính quyền. Theo kết quả nghiên cứu và kinh nghiệm từ phương pháp WID, vào đầu những năm 1990, người ta ngày càng nhận thấy rằng rào cản đối với sự bình đẳng chủ yếu do các yếu tố xã hội tạo nên và tồn tại bởi một loạt những di chứng lịch sử, tư tưởng, văn hoá, kinh tế và tôn giáo. Những rào cản này thường ăn sâu và khó thay đổi. Song một số bằng chứng lại cho thấy những ảnh hưởng này không thể không thay đổi được. Sự bất bình đẳng của phụ nữ thường do nhiều yếu tố kết hợp lại (xã hội, kinh tế, chính trị và văn hoá), tác động tới đời sống của phụ nữ và nam giới một cách khác nhau. Do đó, cần phải hệ thống và lý giải mối quan hệ giữa phụ nữ và nam giới trong các bối cảnh xã hội khác nhau và xây dựng các chiến lược thay đổi có tính đến các mối quan hệ này. Phương pháp tiếp cận Giới và Phát triển (GAD) mới đây thừa nhận rằng: • Giới không phải là "vấn đề của phụ nữ" mà là vấn đề về mối quan hệ • Phụ nữ và nam giới có nhu cầu khác nhau và mang đặc thù của giới • Không thể cư xử với phụ nữ như nam giới • Phụ nữ thường yếu thế hơn so với nam giới • Bản chất của sự bất bình đẳng thường có tính hệ thống và cơ cấu • Những khác biệt về giới cũng có thể làm nam giới bị yếu thế* Có rất nhiều tranh luận về sự khác nhau giữa phương pháp WID và GAD, bao gồm cả những ý kiến ủng hộ và phản đối. Qua phân tích, hai phương pháp này có thể bổ sung cho nhau chứ không mâu thuẫn nhau. Các cá nhân và tổ chức cần tránh sự nhầm lẫn về 2 phương pháp này và cần xây dựng phương pháp tiếp cận kết hợp các chiến lược tối ưu nhằm thực hiện bình đẳng giới. Các vấn đề bình đẳng giới phải được tiếp cận từ nhiều góc độ, phản ánh sự đa dạng của cuộc sống con người và cho phép mọi đối tượng đóng góp vào sự thay đổi. Ðể có hiệu quả, phân tích giới phải đóng vai trò tích cực vào việc giải thích sự khác biệt trong đời sống của nam giới và phụ nữ, giúp đưa ra các chính sách và chương trình nhằm giảm sự bất bình đẳng. Lồng ghép giới Thách thức hiện trạng Lồng ghép giới là sử dụng quan điểm Giới và Phát triển (GAD) nhằm xem xét một cách toàn diện hơn mối quan hệ giữa nam giới và phụ nữ trong việc tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực, ra quyết định, thụ hưởng và khuyến khích trong một hệ thống cụ thể. Hệ thống đó có thể là một tổ chức, một chính phủ hay một xã hội. Lồng ghép là gì? Lồng ghép là tập hợp những ý tưởng, các giá trị, các cách làm, các thể chế và các tổ chức nổi trội có mối quan hệ tương tác lẫn nhau để quyết định "ai được cái gì" trong xã hội. Các ý tưởng và thực tế trong việc lồng ghép phản ánh và củng cố lẫn 8
  10. nhau, qua đó đưa ra luận chứng cho bất kì sự phân bổ các nguồn lực và cơ hội nào của xã hội (Schalkwyk, et al, 1996). Lồng ghép cũng có nghĩa là phụ nữ và nam giới được tiếp cận bình đẳng tới các nguồn lực, kể cả các cơ hội và sự đền đáp. Nó bao hàm sự tham gia bình đẳng vào quá trình tác động tới việc hình thành các giá trị lựa chọn trong xã hội. Lồng ghép cũng có nghĩa là chia sẻ một cách bình đẳng những lợi ích của quá trình phát triển. Lồng ghép cũng tạo cơ hội để tác động đến việc ai làm việc gì trong xã hội, ai làm chủ và có thể làm chủ cái gì, ai được tiếp cận tới việc làm và thu nhập, ai kiểm soát các nguồn lực của xã hội và các tổ chức, ai ra quyết định và ai đặt ra các ưu tiên. ở cấp cao nhất Thay đổi thái độ Lồng ghép giới đòi hỏi chính sách công cộng có đáp ứng giới. Khi xem xét bình đẳng giới được lồng vào trong quá trình hoạch định chính sách, các mối quan tâm và nhu cầu của phụ nữ và nam giới là các yếu tố không thể thiếu trong quá trình thiết kế, thực hiện, giám sát và đánh giá các chính sách và chương trình trong tất cả các lĩnh vực của xã hội. Lồng ghép có ý nghĩa lớn hơn phương pháp tiếp cận "lồng ghép phụ nữ" vào quá trình hoạch định chính sách. Nó không chỉ dừng lại ở việc phụ nữ và nam giới tham gia bình đẳng trong quá trình ra quyết định. Sự tham gia bình đẳng là điều quan trọng, nhưng nhận thức về sự thay đổi để phụ nữ thực sự trở thành những đối tác trong quá trình phát triển cũng không kém phần quan trọng. Lồng ghép giới thường liên quan đến việc thách thức hiện trạng, nghĩa là thay đổi các chính sách và thể chế nhằm thúc đẩy bình đẳng giới một cách tích cực hơn, điều chỉnh thái độ của các cá nhân, tổ chức và các hệ thống. Ðó là một quá trình chuyển đổi nhằm xác định lại các giá trị xã hội và các mục tiêu phát triển. Rút cục, sự công bằng, công minh và việc sử dụng một cách trí tuệ các nguồn lực trong quá trình lồng ghép giới sẽ thu hút cả cộng đồng, nếu cộng đồng đó nhận thức đầy đủ tiềm năng của lồng ghép giới. Do vậy, phải hiểu lồng ghép giới là một quá trình đồng bộ, dưới nhiều góc độ và lâu dài, tập trung vào nhu cầu của cả phụ nữ và nam giới nhằm đạt được sự phát triển tối ưu của xã hội. Lồng ghép giới • Lồng ghép giới là một quá trình hay chiến lược hướng tới mục đích bình đẳng giới. Ðây là một quá trình diễn ra liên tục. • Nó là một phương pháp để quản trị nhằm làm cho các mối quan tâm và kinh nghiệm của phụ nữ và nam giới trở thành một bộ phận không thể thiếu trong quá trình thiết kế, thực hiện kiểm tra và đánh giá các chính sách và chương trình trong tất cả các lĩnh vực của xã hội. • Lồng ghép giới liên quan đến việc thay đổi các chính sách và thể chế nhằm thúc đẩy bình đẳng giới một cách tích cực hơn. • Ðó là một quá trình chuyển đổi lâu dài nhằm xem xét lại các giá trị văn hoá- xã hội và các mục tiêu phát triển. Quản trị hữu hiệu Tại sao lồng ghép giới lại quan trọng? Lồng ghép giới là một khía cạnh quan trọng trong quản trị hữu hiệu. Nó đảm bảo rằng các thể chế, chính sách và chương trình đều đáp ứng các nhu cầu và mối quan 9
  11. tâm của phụ nữ cũng như nam giới và phân bổ các lợi ích một cách công bằng giữa phụ nữ và nam giới. Lồng ghép giới sẽ góp phần vào sự tiến bộ xã hội, kinh tế, văn hoá, mang lại sự công bằng hơn cho phụ nữ và nam giới, qua đó nâng cao trách nhiệm của chính quyền nhằm mang lại thành tựu cho mọi công dân. Nam giới và phụ nữ là những đối tác thực sự Kết cục đối với các chương trình dành riêng cho phụ nữ? Sự chuyển biến trong lồng ghép giới không có nghĩa là né tránh các chương trình dành cho phụ nữ. Các biện pháp đặc biệt hay các hoạt động dành cho phụ nữ có thể vẫn cần để giải quyết bất bình đẳng giới. Ví dụ, các dự án tạo cơ hội cho các doanh nghiệp nữ như giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao sự tiếp cận của họ tới thu nhập và các nguồn vẫn cần thiết đối với phụ nữ trong các xã hội mà những cơ hội này chưa sẵn có. Các chính phủ cần tiếp tục có những dự án phát triển cụ thể dành cho phụ nữ. Ðiều đó phù hợp với mục đích chung của bộ máy quốc gia đảm bảo rằng nam giới và phụ nữ hiểu cái gì cần phải thay đổi để đảm bảo cả phụ nữ và nam giới được tham gia và thụ hưởng và cùng nhau tiến hành những thay đổi đó. Nâng cao năng lực lồng ghép giới Như thế nào và của ai? Là trọng tâm của Hội thảo và của những nỗ lực lồng ghép giới nhưng với bình diện rộng hơn, đó là khái niệm nâng cao năng lực. Nhưng năng lực là gì? Nâng cao năng lực là gì? Và năng lực của ai cần được nâng cao để quá trình lồng ghép giới đạt hiệu quả hơn? Năng lực đơn giản là khả năng để hoạt động. Nâng cao năng lực nhìn chung là nâng cao khả năng hoạt động. Mỗi cá nhân và mỗi tổ chức đều có năng lực. Các hệ thống và xã hội đều có năng lực. Năng lực của một tổ chức hay một hệ thống thường được đánh giá qua khả năng ra quyết định, lãnh đạo, cung cấp dịch vụ, tinh thần trách nhiệm, sự minh bạch, quản lý tài chính, khả năng học tập và thích nghi, niềm tự hào và động cơ, phẩm chất trung thực của tổ chức Nâng cao năng lực cho các cá nhân có thể tăng cường năng lực của hệ thống và ngược lại, nâng cao năng lực của hệ thống có thể giúp nâng cao năng lực của các cá nhân. Nâng cao năng lực lồng ghép giới bao gồm việc nâng cao các kỹ năng chuyên môn và kéo theo sự thay đổi nhận thức. Nâng cao năng lực là một quá trình thay đổi lâu dài Nâng cao năng lực được tiến hành ở nhiều cấp: * Cá nhân * Tổ chức * Hệ thống Nâng cao năng lực liên quan đến các cá nhân với các chức năng khác nhau: Các nhà lãnh đạo Các nhà hoạch định Những người thực hiện chính sách Các nhà nghiên cứu Các nhà phân tích Các giảng viên Những học giả Các nhà thương thuyết Công dân 10
  12. Các nhân tố hỗ trợ lồng ghép giới Hỗ trợ quy trình Một số đại biểu nhấn mạnh rằng lồng ghép giới không thể thực hiện được nếu thiếu những điều kiện "tiên quyết". Một số đại biểu khác lại cho rằng nếu BMQG quá ỷ lại vào các điều kiện tiên quyết đó thì các chiến lược lồng ghép giới sẽ không bao giờ thực hiện được. Dựa vào những kinh nghiệm của mình, các đại biểu đã thống nhất về một số nhân tố hỗ trợ cần thiết cho việc lồng ghép giới. ý chí chính trị và Sự lãnh đạo Việc các nhà chức trách thông hiểu và cam kết là điều hết sức cần thiết nhằm tạo ra môi trường thuận lợi cho việc lồng ghép giới. Sự ghi nhận chính thức của các nhà lãnh đạo chính trị rằng bình đẳng giới là một yếu tố cần thiết đối với sự phát triển bền vững chính là điểm khởi đầu. Khung chính sách Nếu không có chính sách chính thức ví dụ như chính sách bình đẳng giới, kế hoạch hay tuyên bố cụ thể thì sẽ không thể có thành công. Chính sách này cần phải nêu rõ cam kết của Chính phủ về bình đẳng giới và xác định các cơ chế vĩ mô để theo đuổi mục đích này. Một khung chính sách cũng có thể bao gồm các cam kết quốc tế như việc phê chuẩn Công ước xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) hay thực hiện Cương lĩnh Hành động Bắc Kinh. Các cơ cấu, cơ chế và quy trình của Chính phủ Hoạt động của chính phủ nên nhất quán với các mục tiêu lồng ghép giới và góp phần đưa các quan điểm giới vào các quy trình lập kế hoạch, đặt ưu tiên, phân bổ các nguồn lực, thực hiện, kiểm tra và đánh giá. Các chính phủ nên thừa nhận bộ máy quốc gia về phụ nữ là các tổ chức tư vấn và khuyến khích các tổ chức này giữ vai trò lãnh đạo trong lồng ghép, phân tích giới, phối hợp và kiểm tra. Ðủ các nguồn lực Nếu không phân bổ đủ các nguồn lực thì bất cứ cam kết chính thức nào về lồng ghép giới cũng chỉ là lời hứa suông. Phải phân bổ các nguồn lực nhằm hỗ trợ các cơ cấu và hoạt động cần thiết cho lồng ghép. Các cơ quan tài chính quốc gia phải phân bổ đủ các nguồn lực cho bộ máy quốc gia về phụ nữ và các tổ chức khác tiến hành phân tích giới, lập kế hoạch dưới góc độ giới và thực hiện chúng. Số liệu tách biệt theo giới tính và các hệ thống thông tin Phải thu thập các bằng chứng chứng tỏ sự khác biệt về hoàn cảnh và cơ hội giữa phụ nữ và nam giới nhằm làm cơ sở cho việc xây dựng chính sách, chương trình và đánh giá chúng. Các công cụ và kiến thức phân tích giới Các nhà hoạch định chính sách và lập kế hoạch phải tiếp cận với các công cụ phân tích giới để xây dựng các chiến lược lồng ghép giới hiệu quả. Họ cũng phải có kỹ năng sử dụng các công cụ này một cách hiệu quả. 11
  13. Ðộng cơ thúc đẩy phù hợp Lồng ghép đòi hỏi các cá nhân làm việc trong các cơ quan của chính phủ không những được tạo cơ hội phát triển các kỹ năng mới, có thêm trách nhiệm mới mà còn phải có động cơ thúc đẩy. Cần phải khuyến khích và động viên các công chức (cả nam giới và phụ nữ) tham gia vào quá trình này. Yêu cầu của xã hội dân sự Mặc dù các cơ quan chính phủ như bộ máy quốc gia về phụ nữ có thể đóng vai trò tiên phong trong các hoạt động lồng ghép giới nhưng các chiến lược này sẽ không hiệu quả hay bền vững nếu các cá nhân và các nhóm trong xã hội không hiểu tầm quan trọng của việc thay đổi. Xã hội dân sự có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy chính phủ thực hiện cam kết lồng ghép giới. Các nhân tố hỗ trợ này thường cơ động và có quan hệ tương hỗ. Ðể có đủ nguồn lực tiến hành phân tích trên cơ sở giới và thu thập các số liệu tách biệt theo giới tính, có thể cần phải thay đổi luật pháp và chính sách, phân bổ lại các nguồn lực của chính phủ. Ðồng thời, cũng cần tìm hiểu nhu cầu của xã hội dân sự trước khi tiến hành thay đổi. Thiện chí và cam kết chính trị sẽ thay đổi theo thời gian. Nếu chính phủ thay đổi thì các ưu tiên của xã hội sẽ thay đổi, dẫn đến những cơ hội và thách thức khác nhau cho các bộ máy quốc gia về phụ nữ và những nỗ lực lồng ghép giới cũng khác nhau tại từng thời điểm. Khả năng thích ứng sẽ rất cần thiết. Ðiều quan trọng là các chiến lược lồng ghép giới cần tập trung vào mục đích thể chế hoá bình đẳng giới, nhưng những người thực hiện cũng cần có quyết tâm và khả năng để thích ứng với sự thay đổi của hoàn cảnh. Các yếu tố chính trong lồng ghép giới Thiết lập một nền tảng Như đã nêu ở trên, không có một khuôn mẫu nhất định hay "con đường đúng" để lồng ghép giới. Tuy nhiên, một số yếu tố chủ chốt đã được xác định là cần thiết để thực hiện thành công chiến lược lồng ghép giới. Những yếu tố đó là: • Các số liệu thống kê có tách biệt theo giới tính • Các kỹ năng và cơ hội tiến hành phân tích giới • Các hệ thống kiểm tra, đánh giá có hiệu quả và các công cụ • Các cơ cấu ở cấp trung ương/ địa phương với vai trò lãnh đạo được xác định rõ ràng nhằm hỗ trợ quá trình lồng ghép giới. • Hệ thống trao đổi thông tin, các mạng lưới làm việc và các mối liên hệ hữu hiệu • Nguồn nhân lực có kỹ năng • Sự tham gia của xã hội dân sự Mong đợi gì ở sự thành công Ðánh giá tiến độ công việc Khó có thể xác định và theo dõi kết quả của việc lồng ghép giới ngay cả khi nó hỗ trợ cho việc cải cách xã hội. Nếu mục tiêu lồng ghép giới là bình đẳng giới, thì dấu 12
  14. hiệu nào cho thấy tiến độ của mục tiêu này? Những thay đổi lâu dài đánh dấu lại sự tiến bộ trong bình đẳng có thể được xác định qua các thành quả của sự phát triển và đó là: • Phụ nữ ngày càng được tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực phát triển và các cơ hội của xã hội • Việc xoá đói giảm nghèo cho phụ nữ và nam giới được đánh giá thông qua các chỉ số trong một số lĩnh vực còn tồn tại cách biệt giới (vấn đề sức khoẻ, thu nhập của các hộ gia đình) • Sự tham gia công bằng hơn vào quá trình ra quyết định về phân bổ các nguồn lực phát triển để có thể mang lại kết quả như nâng cao các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, hay tiếp cận được với nguồn nước sạch ở khu ổ chuột trong đô thị. • Cải tiến các hình ảnh trên truyền thông về vai trò của phụ nữ trong các mối quan hệ và xã hội, khuyến khích phụ nữ thực hiện đầy đủ các quyền con người và ngăn chặn sự xúc phạm và bạo lực đối với phụ nữ. Lồng ghép giới là một quá trình nhằm hướng tới mục tiêu bình đẳng giới. Quá trình này liên quan đến việc thúc đẩy các nhân tố hỗ trợ đã được xác định ở trên. Ðiều quan trọng là phải thể hiện những thành công trong việc tạo ra một môi trường hỗ trợ cho lồng ghép giới theo những phương thức cụ thể và bền vững. Mục đích là đánh giá được những tiến bộ đã đạt được và những vấn đề còn tồn tại. Các kết quả có thể được xác định bao gồm: • Có các nhà lãnh đạo, các nhà hoạch định và những người thực hiện chính sách nhạy cảm về giới (cả nam giới và phụ nữ) thường xuyên áp dụng phân tích giới vào công việc của mình. • Thông qua các cơ chế tổ chức để thúc đẩy lồng ghép giới, ví dụ thông qua khung chính sách của Chính phủ để tuyên truyền về bình đẳng giới. • Xác định các cán bộ đầu mối về giới - những người có chức vụ uy tín trong các bộ. • Cung cấp các nguồn đầy đủ cho việc thu thập và phân tích các số liệu tách biệt theo giới tính, đặc biệt để theo dõi tác động của các chính sách và chương trình. • Thiết lập các cơ chế để hỗ trợ việc tư vấn và thông qua các quyết sách với các nhóm xã hội dân sự và các tổ chức nhằm thúc đẩy bình đẳng giới. Trong từng trường hợp cụ thể, cần xác định các kết quả của tiến độ thực hiện. Việc phụ thuộc vào các kết quả quá chung chung hay là những kết quả đạt được qua nhiều thế hệ có thể không hữu ích. Bằng chứng của kết quả thực hiện sẽ giúp duy trì tiến độ nhằm hướng tới các mục tiêu. Bằng chứng của sự phát triển sẽ củng cố thêm niềm tin ban đầu rằng việc lồng ghép giới giúp tối ưu hoá công cuộc phát triển kinh tế - xã hội. Trong cả hai trường hợp, sẽ ngày càng có thêm nhiều bằng chứng. Các chương tiếp theo sẽ xem xét quy trình lồng ghép giới cũng như các các cơ chế tổ chức, các mối liên kết và công cụ cần được áp dụng thành công như một chiến lược để đạt được bình đẳng giới. 13
  15. Chương 2 Cơ cấu, vai trò và nhiệm vụ của bộ máy quốc gia về phụ nữ Trong lịch sử, các bộ máy quốc gia về phụ nữ (BMQG) hay các bộ phụ nữ vẫn được hiểu là những tổ chức chính đưa ra các chương trình dành cho phụ nữ. Các bộ máy quốc gia về phụ nữ chịu trách nhiệm xác định và giải quyết vấn đề bất bình đẳng giữa nam và nữ thông qua việc cung cấp cho phụ nữ các chương trình và nguồn lực đặc biệt. Ban đầu, những chương trình này chủ yếu tập trung vào vấn đề phúc lợi, sau đó của chúng thay đổi theo hướng đáp ứng vấn đề giới. Do đó, cơ cấu, vai trò và nhiệm vụ của BMQG cũng thay đổi. Bước thay đổi này thực sự là một thách thức đối với nhiều BMQG, nhưng đó là một thách thức cần phải đương đầu. BMQG cần sắp xếp lại cơ cấu tổ chức của mình để có đủ năng lực tư vấn về lồng ghép giới và bình đẳng. BMQG ở mỗi nước có những cơ cấu và quy mô hoạt động khác nhau. Ðó có thể là tổ chức liên ngành hay chỉ gồm một tổ chức. BMQG có những quyền hạn và cách tiếp cận khác nhau tới các nguồn lực. Không có mô hình hoàn hảo nhất, nhưng có một số yếu tố cơ bản cần thiết để thành lập một bộ máy quốc gia về phụ nữ có hiệu quả. Ðó là những yếu tố sẽ được trình bày trong phần này. Ðịnh nghĩa về các Bộ máy quốc gia về phụ nữ Tư vấn và tác động về chính sách Theo định nghĩa thông dụng, bộ máy quốc gia về phụ nữ được thành lập theo quyết định của chính phủ như là một bộ hay tổ chức ngang bộ hoạt động vì mục tiêu thúc đẩy bình đẳng giới. Theo Cương lĩnh Hành động Bắc Kinh năm 1995: đó là một đơn vị điều phối chính sách trong chính phủ chịu trách nhiệm hỗ trợ chính phủ lồng ghép quan điểm bình đẳng giới một cách rộng rãi vào tất cả các lĩnh vực chính sách. Bộ máy quốc gia về phụ nữ có chức năng tư vấn và tác động chính về chính sách lồng ghép giới tại các bộ, ngành trung ương. Bộ máy quốc gia về phụ nữ: • Là một cơ quan hay một hệ thống các cơ quan hoạt động vì mục tiêu thúc đẩy bình đẳng giới. • Là đơn vị điều phối chính sách trong chính phủ, chịu trách nhiệm hỗ trợ chính phủ lồng ghép quan điểm bình đẳng giới một cách rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực chính sách. • Là cơ quan tư vấn và tác động chính về chính sách lồng ghép giới tại các bộ, ngành trung ương. Chia sẻ kinh nghiệm BMQG ở Băng-la-đét, In-đô-nê-xi-a và Phi-lip-pin Xét ở từng mức độ và bối cảnh khác nhau của 3 nước này trong mấy thập kỷ qua, Hội thảo đã xác định được khung chính sách, cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và vai trò của BMQG ở 3 nước. Tuy nhiên, Hội thảo cũng đã rút ra được những nhân tố và điều kiện chung chủ yếu. Chắc chắn những nhân tố và điều kiện này sẽ là cẩm nang cho các bộ máy quốc gia về phụ nữ ở các nước khác, vì các bộ máy này đang trong quá 14
  16. trình hoàn chỉnh chức năng và nhiệm vụ cho phù hợp với bối cảnh văn hoá - xã hội, chính trị và lịch sử của nước mình. Khung chính sách Bốn Hội nghị của Liên Hợp Quốc về phụ nữ đã thúc đẩy các Chính phủ thành lập và tăng cường các bộ máy quốc gia nhằm thúc đẩy bình đẳng giới và quản trị đất nước hữu hiệu hơn. Chính phủ Băng-la-đét, In-đô-nê-xi-a và Phi-lip-pin đã hưởng ứng Cương lĩnh Hành động Bắc Kinh. Họ đã cam kết lồng ghép giới và tiến hành những bước cơ bản nhằm đưa các mục tiêu bình đẳng giới vào chính sách của quốc gia, đồng thời thực hiện kế hoạch hành động quốc gia về lồng ghép giới. Các chính sách, nghị định và văn bản hướng dẫn của Nhà nước đã cung cấp khung thể chế để các bộ máy quốc gia về phụ nữ hoạt động hợp pháp và có thể phối hợp với các bộ ngành của Chính phủ. Quá trình tư vấn rất quan trọng để dành được sự ủng hộ của các bộ ngành. Ví dụ Kế hoạch hành động quốc gia của phụ nữ Phi-líp-pin đã được xây dựng trên cơ sở tư vấn giữa các bộ ngành chức năng. Thông qua việc khuyến khích sự tham gia rộng rãi của các bộ ngành, bản Kế hoạch hành động này đã được nhiều người đồng tình ủng hộ. Trong khi trước đây, Uỷ ban quốc gia về vai trò của phụ nữ Phi-líp-pin (NCRFW) bị cho rằng họ đã áp đặt các bộ ngành tham gia thực hiện Kế hoạch hành động với sự hỗ trợ kỹ thuật của NCRFW. Dưới đây là một số ví dụ về việc xây dựng các chính sách và văn bản hướng dẫn ở từng nước. Băng-la-đét: Chính sách quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ (8/3/1997) Mục tiêu chính của Chính sách quốc gia là: • Thiết lập sự bình đẳng giữa nam giới và phụ nữ trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. • Bảo đảm an ninh cho phụ nữ trong tất cả các lĩnh vực của nhà nước, xã hội và gia đình. • Bảo đảm nâng cao quyền lực cho phụ nữ trong lĩnh vực chính trị, quản lý và kinh tế. • Thiết lập quyền con người cho phụ nữ. • Ðào tạo phụ nữ thành nguồn nhân lực có năng lực và tri thức. • Giải phóng phụ nữ khỏi vòng đói nghèo. • Xoá bỏ sự phân biệt đối xử với cả nam giới và phụ nữ. • Ghi nhận sự đóng góp của phụ nữ trong các lĩnh vực xã hội và kinh tế. • Xoá bỏ mọi hình thức áp bức đối với phụ nữ và trẻ em gái. • Tiến hành các biện pháp phù hợp nhằm bảo đảm sức khoẻ và dinh dưỡng cho phụ nữ. • Bảo đảm ưu tiên phụ nữ trong vấn đề sắp xếp nhà ở. • Phản ánh quan điểm giới trong thông tin đại chúng bằng cách đưa ra những hình ảnh tích cực về phụ nữ. • Cung cấp những dịch vụ hỗ trợ cho sự tiến bộ của phụ nữ. Phi-lip-pin: Ðạo luật số 7192 về Phụ nữ trong Phát triển và Ðạo luật Kiến thiết đất nước (12/2/1992) Ðạo luật này nhằm thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ với tư cách là những đối tác thực sự và bình đẳng với nam giới trong quá trình phát triển và kiến thiết đất nước và vì những mục tiêu khác. Nội dung chính của Ðạo luật có thể được tóm tắt như sau: • Nhà nước thừa nhận vai trò của phụ nữ trong quá trình kiến thiết đất nước và sẽ đảm bảo quyền bình đẳng cơ bản của phụ nữ và nam giới trước pháp luật. Nhà nước sẽ bảo đảm các quyền và cơ hội bình đẳng cho phụ nữ và nam giới. 15
  17. • Những cơ quan có liên quan sẽ cung cấp nguồn hỗ trợ chính thức để thực hiện các chương trình và hoạt động dành cho phụ nữ. • Tất cả các ban, ngành của Chính phủ đảm bảo phụ nữ được thụ hưởng một cách bình đẳng và tham gia trực tiếp vào các chương trình, dự án phát triển của ngành mình. • Tất cả các ban, ngành của Chính phủ sẽ xem xét và sửa đổi lại những quy định, thông tư, thủ tục nhằm loại bỏ mọi hình thức thiên kiến giới; • Tổ chức Kinh tế và Phát triển quốc gia (NEDA) của Phi-líp-pin sẽ đảm bảo phụ nữ là một trong những đối tượng được thụ hưởng các nguồn tài trợ và vốn vay của nước ngoài; • Phụ nữ sẽ có năng lực để tham gia hợp đồng một cách bình đẳng với nam giới trong cùng những điều kiện; và • Phụ nữ sẽ tham gia bình đẳng trong các câu lạc bộ và có cơ hội bình đẳng như nam giới để đăng ký vào các trường quân sự. In-đô-nê-xi-a: Những văn bản hướng dẫn thực hiện chính sách của Nhà nước (GBHN) và Nghị định của Tổng thống. Tháng 10/1999, lần đầu tiên, Hội đồng Tư vấn Nhân dân (MPR) đã xác định bình đẳng giới và công bằng giới là mục tiêu phát triển quốc gia trong các văn bản hướng dẫn thực hiện chính sách quốc gia của Nhà nước (GBHN) giai đoạn 1999-2004. Ðầu năm 2000, Bộ Nâng cao quyền lực cho phụ nữ đã soạn thảo một Nghị định của Tổng thống* về bình đẳng và lồng ghép giới. Nghị định được mở đầu bằng việc xác định một số khái niệm quan trọng về bình đẳng giới (giới, bình đẳng giới, công bằng giới, lồng ghép giới, phân tích dựa trên cơ sở giới và nâng cao quyền lực cho phụ nữ), và sau đó tuyên bố: • Tất cả các cơ quan của Chính phủ ở trung ương và địa phương cần tiến hành lồng ghép giới trong hoạch định chính sách, lập kế hoạch, thực hiện, kiểm tra và đánh giá. • Ban kế hoạch của mỗi tổ chức phải xây dựng và thực hiện chức năng, nhiệm vụ lồng ghép giới và phải có nhân sự phù hợp để thực hiện nhiệm vụ này. • Các số liệu phải được thu thập và phân tích theo giới tính để hỗ trợ việc lồng ghép giới của các bộ, ngành • Cần phải phân tích tất cả các chính sách, chương trình, dự án phát triển, đạo luật, quy định và ngân sách trên cơ sở giới. Nếu có thiên kiến giới thì phải can thiệp kịp thời. • Những điều khoản nào chưa được nêu trong Nghị định của Tổng thống thì sẽ được bổ sung trong bản hướng dẫn về lồng ghép giới do Bộ Nâng cao quyền lực cho phụ nữ ban hành. Cơ cấu tổ chức Cơ quan làm việc với các đầu mối Cơ cấu của BMQG ở 3 quốc gia rất khác nhau. Tuy nhiên, có một số điểm chung cần thiết cho hoạt động của các bộ máy này. ở mỗi nước đều có một cơ quan hay một bộ máy quốc gia về phụ nữ chịu trách nhiệm về lồng ghép giới và các chiến lược bình đẳng giới. ở Phi-líp-pin là Uỷ ban quốc gia về vai trò của phụ nữ (NCRFW) ; ở In-đô-nê-xi-a là Bộ Nâng cao quyền lực cho phụ nữ (MWE); và ở Băng-la-đét là Bộ các vấn đề về phụ nữ và Trẻ em (MWCA). Trong các cơ quan của chính phủ đều có các đầu mối chịu trách nhiệm điều phối và thúc đẩy quan 16
  18. điểm giới. Bản chất của hệ thống đầu mối này và vai trò của họ trong việc thúc đẩy lồng ghép giới trong các cơ quan của Chính phủ sẽ được thảo luận kỹ ở Chương 3. Nhiệm vụ Vì thế giới vẫn đang tiếp tục đối mặt với vấn đề bình đẳng giới nên chức năng, nhiệm vụ của các bộ máy quốc gia cũng đang được tranh luận sôi nổi ở cả cấp quốc gia cũng như quốc tế. Việc lồng ghép giới được xem như là một chiến lược cơ bản để thực hiện mục tiêu bình đẳng giới, do vậy, các câu hỏi liên quan đến sự thích hợp của BMQG được đặt ra. Nếu các bộ giải quyết bất bình đẳng giới như một phần công việc thường nhật của họ thì vai trò của BMQG là gì? Nếu chuyển từ các chương trình dành riêng cho phụ nữ sang việc hoạch định và thực thi các chính sách đáp ứng được vấn đề giới có nghĩa rằng sẽ không cần đến BMQG nữa? Các bộ ngành đã bổ sung thêm những giá trị gì cho cách làm của Chính phủ để điều chỉnh về những vấn đề còn tồn tại? Những vấn đề này nảy sinh là do chưa nhận thức đúng về vai trò của bộ máy quốc gia về phụ nữ, cho rằng đó chỉ là cơ quan cung cấp các dịch vụ cụ thể cho phụ nữ và chỉ là cơ quan thực hiện các chương trình về phụ nữ chứ không phải là cơ quan tư vấn về chính sách. Việc sửa đổi chức năng nhiệm vụ của Bộ các vấn đề phụ nữ và trẻ em ở Băng-la-đét (MWCA) đã cho thấy một bộ máy quốc gia về phụ nữ có thể đóng cả vai trò người cung cấp các chương trình dành cho phụ nữ và tư vấn chính sách lồng ghép giới như thế nào. Sự thay đổi về chức năng nhiệm vụ ở Băng-la-đét (được gọi là Phân công Công việc) đã vạch ra sự thay đổi hướng tới khái niệm lồng ghép giới và xác định vai trò của BMQG là một tác nhân. Trong trường hợp này, BMQG đã nâng cao giá trị hoạt động đối với hoạt động của Chính phủ thông qua việc cung cấp những trợ về kỹ thuật, điều phối, giám sát và đánh giá - như những cơ quan xây dựng và thực hiện chính sách đáp ứng hơn về vấn đề giới. Sửa đổi chức năng, nhiệm vụ: kinh nghiệm của Băng-la-đét Sau Hội nghị Bắc Kinh và sự thay đổi của quốc tế hướng tới chiến lược lồng ghép giới, Bộ các vấn đề về phụ nữ và trẻ em Băng-la-đét đã xem xét lại Phân công công việc (AOB) của mình và đã nhận thấy rằng Bộ đã không cung cấp một khuôn khổ phù hợp để lồng ghép giới vì những lý do sau: • Theo AOB, tất cả các vấn đề về phụ nữ phải được một bộ giải quyết. Ðiều này cản trở phương pháp lồng ghép. • Sự thành công của Kế hoạch hành động quốc gia (NAP) phụ thuộc vào sự hợp tác giữa các bộ, nhưng không có điều khoản nào trong chức năng, nhiệm vụ hiện nay của MWCA quy định về vai trò điều phối vô cùng quan trọng giữa các bộ. Do đó, với sự tài trợ của CIDA, MWCA đã quyết định phối hợp với Bộ phận Lãnh đạo chính sách và Tuyên truyền về bình đẳng giới dự thảo bản sửa đổi về Phân công công việc (AOB). MWCA tin tưởng rằng AOB mới sửa đổi này phản ánh được tinh thần lồng ghép giới và sẽ cung cấp một khuôn khổ nhiệm vụ rõ ràng về tư vấn, tác động và điều phối lồng ghép giới trong Chính phủ Băng-la-đét. Những thuận lợi chính của AOB sửa đổi nhằm thúc đẩy bình đẳng giới là: • Nhất quán hơn với những cam kết của chính phủ được thể hiện trong Kế hoạch hành động • Phản ánh đầy đủ vai trò và trách nhiệm của MWCA • Chuyển từ phương pháp tiếp cận phúc lợi sang phương pháp tiếp cận tiến bộ hơn "vì sự tiến bộ của phụ nữ". • Thúc đẩy được sự hợp tác với xã hội dân sự 17
  19. • Tăng cường quyền hạn của MWCA trong việc điều phối và giám sát liên bộ • Xác định mối liên quan với các bộ ngành khác về vấn đề phụ nữ • Phản ánh bản chất xuyên suốt của các vấn đề về phụ nữ cũng như vai trò điều phối chính sách của bộ. Bảng so sánh dưới đây thể hiện sự thay đổi về tư tưởng và hành động cần thiết trong việc xây dựng chức năng nhiệm vụ để tạo điều kiện cho bộ máy quốc gia về phụ nữ thực hiện chiến lược lồng ghép giới một cách có hiệu quả: AOB hiện tại AOB đã sửa đổi Tác dụng của việc sửa đổi Chính sách quốc gia Thúc đẩy, điều phối và kiểm Thay thế phương pháp tiếp liên quan đến vấn tra việc thực hiện (trong tất cận phúc lợi trong những đề phúc lợi của phụ cả các bộ, ngành) Chính sách năm 1970 bằng phương pháp nữ quốc gia vì sự tiến bộ của tiếp cận sự phát triển. phụ nữ và Kế hoạch hành Tăng cường việc lồng ghép và động quốc gia tiếp cận liên ngành Chương trình vì Cung cấp các kinh nghiệm về Xác định rõ MWCA là tổ chức phúc lợi và phát giới và tư vấn chính sách về hỗ trợ và giám sát hàng đầu triển của phụ nữ xếp thứ tự ưu tiên trong các trong lồng ghép các vấn đề lĩnh vực của Chính phủ, trong giới trong hoạch định chính phát triển, thực hiện và đánh sách theo hệ thống rộng. giá các chính sách và chương trình liên quan đến bình đẳng giới Các vấn đề liên Tuyên truyền và vận động Thiết lập vai trò tuyên truyền quan đến quyền hợp về sự ưu tiên, mối quan tâm vận động của MWCA. pháp và quyền xã và các vấn đề của phụ nữ hội của phụ nữ trong các cơ quan hoạch định chính sách của chính phủ Giải quyết các vấn Nâng cao sự hiểu biết và Cho thấy sự thay đổi từ một đề và công việc liên nhận thức về các quyền của tổ chức cung cấp các dịch vụ quan đến phụ nữ phụ nữ và vấn đề bình đẳng thành cung cấp các thông tin. giới; phổ biến thông tin đến Nâng cao quyền hạn của Bộ mọi thành phần trong chính với tư cách là chuyên gia kỹ phủ và xã hội dân sự. thuật và cơ quan điều phối. Mặc dù khi chúng tôi biên soạn cuốn sách này, AOB sửa đổi đã được chính thức thông qua, nhưng kinh nghiệm này vẫn chứng minh rằng một bộ máy quốc gia về phụ nữ có thể tự xác định lại mình, xây dựng vai trò thiết thực hơn nhằm đáp ứng những nhu cầu của phụ nữ và tự khẳng định mình là một tổ chức của Chính phủ hoạt động vì các chương trình và chính sách đáp ứng giới. Phương pháp lồng ghép không phải để đề cao tầm quan trọng của bộ máy quốc gia về phụ nữ, mà để nâng cao sự hợp thức hoá và mở rộng phạm vi hoạt động. Vai trò của BMQG Các đại biểu dự Hội thảo đã xác định được một loạt những vai trò quan trọng một BMQG cần phải đảm nhận để hoạt động có hiệu quả. Mặc dù những vai trò dưới đây thể hiện ý tưởng nhiều hơn là thực tế, nhưng đã đề ra được các mục tiêu cần phải 18
  20. hoàn thành thực hiện để bình đẳng giới có thể trở thành hiện thực. Các bộ máy quốc gia về phụ nữ nên: • Khuyến khích hiểu biết một cách rộng rãi và thông qua một chiến lược lồng ghép giới. • Ðồng bộ hoá và điều phối các nỗ lực lồng ghép giới ở tất cả các cấp trong xã hội. • Xác định và thúc đẩy các vấn đề bình đẳng giới cả trong và ngoài Chính phủ. • Khuyến khích sự tham gia ngày càng đông đảo của phụ nữ với cả tư cách là người tác động tích cực và người thụ hưởng quá trình phát triển. • Tiến hành phân tích dựa trên cơ sở giới nhằm tác động vào quá trình xếp các thứ tự ưu tiên và hoạch định chính sách. • Chủ động trong quá trình ra quyết định của Chính phủ. • Thiết lập những liên minh chiến lược với các nhà lập pháp, các bộ, các nhà nghiên cứu và người dân. • Nâng cao năng lực lồng ghép giới, phân tích dựa trên cơ sở giới (GBA), tập huấn có nhạy cảm giới cả trong và ngoài BMQG. • Tập huấn và hỗ trợ kỹ thuật cho các cơ quan của Chính phủ nhằm lồng ghép quan điểm giới vào các chính sách và chương trình của họ. • Làm việc với các cơ quan thống kê để xây dựng các chỉ số về bình đẳng giới một cách hiệu quả. • Nêu cao tinh thần trách nhiệm của các cơ quan Chính phủ thông qua kiểm tra và đánh giá các nỗ lực lồng ghép giới đã được thực hiện. • Là một tác nhân hiệu quả, cần nâng cao năng lực chuyên môn để có thể thích ứng với sự vận động trong từng xã hội. Những thách thức chiến lược Xác định những trở ngại Mặc dù một số bộ máy quốc gia về phụ nữ đã nhận được sự hỗ trợ vững chắc của Chính phủ, nhưng không phủ nhận được một thực tế là đôi khi tất cả các BMQG vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức. Nhiều thách thức đã được xác định và thảo luận tại Hội thảo, bao gồm: Chức năng không rõ ràng: là tổ chức cung cấp dịch vụ? là tổ chức vận động tuyên truyền về chính sách và là tác nhân thay đổi thái độ và hành vi? hay cả hai? Trước hết, các BMQG thường gặp khó khăn về nhiệm vụ đáp ứng vấn đề giới, sau đó phải cân bằng với bất cứ vai trò nào mà bộ máy này phải làm để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về các chương trình dành riêng cho phụ nữ. Một bộ máy sẽ hoạt động có hiệu quả khi nó xác định được các vai trò và đưa ra được những quyết định. Ðôi khi, BMQG buộc phải nói "không" khi các nhà tài trợ hay các cơ quan của Chính phủ yêu cầu họ thực hiện những công việc không tập trung đến vấn đề chính sách, ngay cả khi những công việc đó có lợi. Khuyến khích những nỗ lực lồng ghép giới trong các cơ quan của Chính phủ: Nếu một bộ máy quốc gia về phụ nữ làm việc có hiệu quả, các cơ quan của Chính phủ sẽ phải tôn trọng chức năng nhiệm vụ của họ. Nhiều BMQG vẫn tiếp tục đấu tranh để tìm cách thúc đẩy sự cải cách trong các cơ quan của Chính phủ. Sự tư vấn, tham gia và khuyến khích lồng ghép giới trong cộng đồng là vô cùng cần thiết. Nhưng phương pháp tiếp cận này sẽ phát huy tác dụng hơn khi những nhà lãnh đạo hiểu được tầm quan trọng của việc lồng ghép giới đối với sự phồn vinh của đất nước. Và sau đó họ có thể hỗ trợ rất nhiều trong việc thông qua và thực hiện. 19
  21. Tạo dựng uy tín như một cơ quan cố vấn nghiệp vụ: Nhiều BMQG tiếp tục bị đẩy ra khỏi chính phủ. Họ thiếu cơ sở pháp lý, sự hỗ trợ và tôn trọng cần thiết để vận động tuyên truyền có hiệu quả. Có trình độ chuyên môn cao, trau dồi các kỹ năng chuyên môn, xây dựng những liên minh chiến lược và thúc đẩy các cơ chế để lồng ghép giới là một số phương thức để đối phó với những thách thức này. Công tác tư vấn thường vô hình: Tư vấn về lồng ghép giới không phải là hoạt động chính trị như mọi người vẫn tưởng. Hầu hết những nỗ lực tư vấn đều thầm lặng. Hỗ trợ cho các tổ chức khác thực hiện thay đổi không chỉ là một nhiệm vụ phức tạp và gian khổ, mà còn thường xuyên bị họ đối xử một cách thờ ơ, lạnh nhạt. Ðây là một quá trình không dễ thực hiện, ít được hoan nghênh và thậm chí không được chấp nhận. Những người tham gia lồng ghép giới phải cố gắng thông tin thường xuyên cho nhau, vừa để tư vấn có chiến lược vừa tăng cường sự cam kết. áp dụng lý thuyết vào thực tế: Các bộ máy quốc gia về phụ nữ phải kiên quyết đấu tranh để đưa lý thuyết lồng ghép giới vào trong thực tế. Thảo luận về tư vấn chính sách, điều phối, kiểm tra và đánh giá trong chính phủ và trong xã hội nói chung là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, để đưa khái niệm này vào thực tế là một quá trình lâu dài và phức tạp, nhất là khi các khái niệm này không giống với các quan niệm truyền thống. Các BMQG phải xây dựng các chiến lược thực tế phù hợp với điều kiện chính trị, văn hoá, xã hội ở từng nước, sau đó kiên trì tiến hành mọi hoạt động có thể trong phạm vi quyền hạn của mình. Nâng cao năng lực cho các Bộ máy quốc gia về phụ nữ và các cơ quan khác: BMQG được coi là cơ quan chỉ đạo, hỗ trợ kỹ thuật và đào tạo để giải quyết những vấn đề liên quan đến giới và bình đẳng. Nhưng lồng ghép giới là một chiến lược tương đối mới và có rất ít các mô hình, phương pháp và công cụ sẵn có để hỗ trợ cho công tác này. BMQG thường phải dành rất nhiều thời gian để xây dựng hoặc điều chỉnh các công cụ này, ngay cả khi họ đang nâng cao năng lực để sử dụng chúng. Ðồng thời, họ cũng phải nâng cao năng lực của các tổ chức khác trong việc thực hiện các chính sách lồng ghép giới. Theo nhiều đại biểu tham dự hội thảo, cách tốt nhất để tránh sự lẫn lộn là duy trì một cam kết vững chắc đối với các vấn đề đã được xếp thứ tự ưu tiên. Các bộ máy quốc gia cần thận trọng đánh giá khả năng và các nguồn lực của mình, sau đó mới quyết định xem mình nên dành công sức vào đâu và khi nào một cách tốt nhất. Ngoài những thách thức mang tính chiến lược nêu trên, hầu hết các BMQG còn phải đối mặt với những trở ngại cơ bản như: thiếu nhân lực, tài chính, đào tạo, thiếu các bằng chứng về số liệu cần thiết để thúc giục Chính phủ hành động. Bổ sung giá trị cho hoạt động của Chính phủ: xem xét những đóng góp của BMQG Thúc đẩy việc quản trị đất nước hiệu quả Các bộ máy quốc gia khó có thể giải quyết được tất cả những thách thức nêu trên nếu không chứng minh vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế và xã hội của đất nước. BMQG sẽ được coi là một cơ quan có thẩm quyền, có uy tín và được các cơ quan trong và ngoài Chính phủ đánh giá cao nếu họ thành công trong việc lồng ghép giới với các cơ quan khác. Các đại biểu đã xác định được một số lĩnh vực trọng điểm mà BMQG có thể đóng góp cho hoạt động của Chính phủ, bao gồm: 20
  22. • Nghiên cứu chính sách góp phần hoạch định chính sách nhạy cảm hơn và hiệu quả hơn ở cấp vĩ mô và trong từng bộ, ngành. Nghiên cứu này chứng minh được có những khoảng cách giới rất lớn, qua đó giúp Chính phủ đưa ra các sáng kiến nhằm khắc phục các khoảng cách đó. • Thúc đẩy đối thoại về chính sách ở cấp quốc gia, khu vực và quốc tế. Bằng cách hợp tác với các tổ chức và các cơ quan hoạt động vì bình đẳng giới trên thế giới, BMQG sẽ xây dựng được mối quan hệ và cơ hội để trao đổi các bài học kinh nghiệm và nhân rộng những thực tế điển hình. Ðiều này cũng giúp Chính phủ có thêm bằng chứng về tầm quan trọng của việc lồng ghép giới, đồng thời BMQG cũng được nâng cao năng lực để hỗ trợ cho Chính phủ. • Xây dựng những công cụ mới và sáng tạo nhằm giải quyết các khoảng cách giới. BMQG phát triển các công cụ phân tích giới không những để hỗ trợ cho công việc của mình mà còn giúp các tổ chức khác tham gia hiệu quả hơn vào công việc của BMQG. Thanh phân tích Giới (GAP) ở In-đô-nê-xi-a; Khung đánh giá lồng ghép giới (GMEF), Hướng dẫn hoạch định ngân sách cho giới và phát triển (GDA) ở Phi-líp-pin; và Ðánh giá tác động giới (GIA) ở Băng-la-đét đang được các cơ quan của Chính phủ sử dụng để lồng ghép quan điểm giới trong các hoạt động của mình. • Một bộ máy quốc gia về phụ nữ muốn thành công trong việc phối hợp với các cơ quan của Chính phủ theo những cách trên cần thúc đẩy việc hoạch định chính sách một cách đồng bộ và toàn diện hơn. • Kiểm tra và đánh giá những nỗ lực của Chính phủ trong việc giải quyết các vấn đề về bất bình đẳng giới. BMQG làm việc với các bộ ngành theo cơ chế phối hợp để đánh giá các kết quả và những tiến bộ đã đạt được trong việc xoá bỏ các khoảng cách giới. Vai trò này làm cho các chính sách và chương trình của Chính phủ đáp ứng vấn đề giới hơn và các cơ quan có trách nhiệm hơn. • Phối hợp với các tổ chức xã hội dân sự và thiết lập cơ chế để xã hội dân sự có thể đóng góp vào quá trình ra các quyết sách. Như vậy, Chính phủ sẽ phải minh bạch và có trách nhiệm hơn đối với nhân dân. • Thông qua việc tư vấn về chính sách, nghiên cứu, hỗ trợ kỹ thuật và phối hợp, BMQG có thể đóng góp một cách bền vững vào sự dân chủ và quản trị hiệu quả của Chính phủ và xã hội. Kinh nghiệm hợp tác giữa Uỷ ban quốc gia về vai trò phụ nữ của Phi-líp-pin (NCRFW) và Uỷ ban dịch vụ dân sự (CSC) là một điển hình về cách bộ máy quốc gia về phụ nữ giúp Chính phủ làm việc hiệu quả và công bằng hơn. Uy tín tăng lên ở Phi-lip-pin NCRFW làm việc với Uỷ ban dịch vụ dân sự vì sự bình đẳng và hiệu quả Với sự tư vấn của NCRFW, Uỷ ban dịch vụ dân sự (CSC) đã soạn thảo và thông qua một Chính sách về sự tham gia bình đẳng của phụ nữ và nam giới ở những vị trí cấp ba trong Chính phủ. Chính sách này nhằm thúc đẩy bình đẳng giới ở mọi cấp trong xã hội dân sự và đảm bảo việc làm bình đẳng và cơ hội phát triển cho các nguồn nhân lực của Chính phủ. Mặc dù chính sách cho thấy CSC đã cam kết rõ ràng đối với bình đẳng giới, nhưng các công cụ vẫn tiếp tục được phát triển để thực hiện 21
  23. chính sách. CSC sẽ tiến hành tuyển phụ nữ vào các vị trí làm việc như thế nào? Ban thi tuyển phải là đơn vị đầu tiên tiến hành tuyển chọn. Các cuộc thi ở Ban này là cơ sở đầu tiên để đề bạt lên các vị trí điều hành trong các dịch vụ dân sự. Do đó, tiếp tục phối hợp với NCRFW, CSC bắt đầu rà soát lại các cuộc thi để phát hiện những câu hỏi có thiên kiến giới, điều chỉnh các cuộc thi để không phân biệt đối với phụ nữ trong hệ thống chấm điểm và đưa vào các câu hỏi liên quan đến giới. Hoạt động này của NCRFW bổ sung hai tác dụng: 1. Các cuộc thi không mang tính thiên kiến giới sẽ đem lại cho phụ nữ nhiều cơ hội tốt hơn để vươn lên trong xã hội dân sự. 2. Khi tạo điều kiện cho nhiều phụ nữ có vị trí cao trong bộ máy chính quyền, bộ máy đó sẽ trở nên đa dạng, năng động và hoàn hảo hơn, được trang bị tốt hơn để giải quyết các nhu cầu của cả nam giới và phụ nữ trong xây dựng chính sách và hoạch định chương trình. Trong quá trình làm việc, NCRFW đã giúp CSC xây dựng những chính sách công bằng hơn; hỗ trợ phát triển các công cụ để thực hiện những chính sách đó; và khái quát hơn, đã giúp bộ máy hành chính nhà nước công bằng và hiệu quả hơn. Những chỉ số về uy tín tăng lên và những tiến bộ đạt được trong bình đẳng giới Làm thế nào để biết được những đóng góp của BMQG cho Chính phủ? Bản chất nhiều mặt của những nỗ lực về lồng ghép giới rất phức tạp vì nó liên quan đến sự thay đổi về hành vi, thái độ và văn hoá. Xây dựng các chỉ số đánh giá hiệu quả về những tiến bộ đạt được, nhất là những chỉ số ngắn hạn, tiếp tục là một trong những thách thức chính của NMWs và các tổ chức hoạt động vì bình đẳng giới. Tuy nhiên, các đại biểu tham dự Hội thảo đã xác định được một số biện pháp chính (bao gồm cả định tính và định lượng, dài hạn và ngắn hạn) để đánh giá những tiến bộ đã đạt được, bao gồm: • Thu thập và phân tích các số liệu tách biệt theo giới tính ở tất cả các bộ ngành • Xây dựng các chính sách và quy tắc đáp ứng giới theo từng bộ ngành. • Thể chế hoá các quy trình lồng ghép giới và cơ cấu của các bộ, ngành. • Tạo cơ sở pháp lý và các quy định chặt chẽ nhằm thực hiện các yêu cầu về lồng ghép giới của các cơ quan trong và ngoài Chính phủ. • Ðáp ứng các nhu cầu ngày càng tăng về hỗ trợ kỹ thuật để lồng ghép giới của các cơ quan Chính phủ. • Có thêm nhiều chính sách cấp vĩ mô đáp ứng được vấn đề giới và xoá bỏ được khoảng cách giới; giảm sự phân biệt đối xử và ngăn chặn bạo lực • Mở rộng, chọn lọc và tích cực sử dụng các chỉ số về giới trong các cơ quan Chính phủ • Phê chuẩn và thực hiện các công ước quốc tế • Tăng số viên chức, nhà lập pháp và chuyên gia nhạy cảm giới • Tăng số lượng phụ nữ trong các vị trí ra quyết định • Thúc đẩy công chúng chấp nhận và ủng hộ bình đẳng giới và lồng ghép giới • Tăng cường sự tham gia của các tổ chức phi chính phủ/ xã hội dân sự trong các sáng kiến lồng ghép giới 22
  24. Chương 3 Hợp tác với Chính phủ để tạo ra sự thay đổi Tầm quan trọng của việc xây dựng các mối quan hệ Trở thành một chất xúc tác Việc xây dựng các mối quan hệ vô cùng quan trọng đối với việc mở rộng phạm vi hoạt động của BMQG. Các mối quan hệ này sẽ bảo đảm thể chế hoá vấn đề lồng ghép giới. Không một khái niệm nào, dù là có giá trị, có thể được mở rộng nếu không có khả năng xây dựng mối quan hệ hợp tác với những nhà ra quyết định chủ chốt trong Chính phủ và xã hội dân sự và yêu cầu sự giúp đỡ của họ. Trong chương này, chúng ta sẽ xem xét mối quan hệ trong Chính phủ và chương 5 sẽ khai thác những cách thức mà BMQG có thể hợp tác với xã hội dân sự. Ðể thành công, lồng ghép giới phải được lồng ghép. Phải kêu gọi những người ra quyết định ở tất cả các cấp, trong Chính phủ, trong kinh doanh, trong gia đình và trên đường phố. Chính phủ là nơi đầu tiên. Ðể đạt được hiệu quả và bền vững, lồng ghép giới phải trở thành một quy trình đồng bộ trong tất cả các cơ quan thuộc Chính phủ. Nó phải trở thành một bộ phận không thể tách rời trong quá trình lập kế hoạch, xây dựng chương trình, dự trù ngân sách, thực hiện, kiểm tra và đánh giá của Chính phủ. Nó đòi hỏi một sự hợp tác chiến lược với các cơ quan Chính phủ để tạo đòn bẩy cho các sáng kiến đáp ứng giới và phát huy tối đa nguồn lực hạn chế của BMQG. Không thể thực hiện lồng ghép giới nếu như không hợp tác và tác động đến các cán bộ trong bộ máy Chính phủ và xã hội nói chung. Hợp tác với ai? Bởi vì nguồn lực của phần lớn BMQG còn rất hạn chế và lồng ghép giới là một công việc hết sức phức tạp, trong giai đoạn đầu tiên, điều quan trọng là phải xác định được cơ quan nào là cơ quan chiến lược nhất cần hợp tác. Những cơ quan này ở mỗi quốc gia có thể không hoàn toàn giống nhau, nhưng một số gợi ý dưới đây có thể có ích: Các cơ quan giám sát và lập kế hoạch/ hoạch định chính sách Hợp tác với những cá nhân và cơ quan có ảnh hưởng lớn bởi vì họ có vai trò trong việc lập kế hoạch, hoạch định chính sách, phân bổ nguồn lực và điều phối. Ðó thường là những Bộ lập kế hoạch tổng thể (như BAPPENAS ở In-đô-nê-xi-a, Bộ Kinh tế và Phát triển quốc gia-NEDA- ở Phi-lip-pin và Bộ Kế hoạch ở Băng-la-đét), Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp. Làm việc một cách có chiến lược Các ngành dọc hay các bộ chuyên môn Việc xác định những bộ bảo trợ sẽ có khả năng thành công nhanh hơn. Ðó thường là những bộ có khả năng trở thành những mô hình tốt nhất về lồng ghép giới. Nhưng đôi khi, chỉ đơn giản vì người lãnh đạo của bộ đó thể hiện sự nhiệt tình đối với mục tiêu bình đẳng giới. Thái độ ủng hộ tích cực của họ hiển nhiên sẽ mang lại triển vọng thành công và giảm nguy cơ thất bại. ở In-đô-nê-xi-a là Bộ Nhân lực, Bộ Giáo dục, Bộ Tư pháp và Bộ Nông nghiệp; ở Phi-lip-pin là Bộ Môi trường và tài nguyên thiên nhiên, Bộ Lao động và Việc làm, Bộ Thương mại và Công nghiệp và Bộ Nông nghiệp. 23
  25. Băng-la-đét đã thiết lập được các mối quan hệ trong tất cả các bộ ngành dọc, nhưng vẫn tập trung nhiều vào Bộ Y tế, Giáo dục, Thông tin và các cấp chính quyền cơ sở. Các cơ quan thống kê trung ương Ðể có thể thu thập, phân tích và công bố các số liệu tách biệt theo giới tính nhằm lập kế hoạch đáp ứng giới và biến kế hoạch đó thành những chương trình hiệu quả, BMQG cần xây dựng chế độ báo cáo với cơ quan thống kê của Chính phủ. Các cơ quan địa phương Lựa chọn các cơ quan phù hợp nhất để làm thí điểm hoặc xây dựng mô hình về các chiến lược lồng ghép giới ở các cấp địa phương. Cách chọn là xem những tổ chức này có năng lực không, có sẵn sàng thay đổi và có tác dụng chiến lược không hay vì một số mặt thuận lợi khác. Do đó, bộ máy quốc gia về phụ nữ nên lựa chọn một đơn vị địa phương cụ thể để phát triển chiến lược lồng ghép giới nhằm giải quyết bất bình đẳng giới ở địa phương. Nếu những mô hình thí điểm này thành công thì có thể điều chỉnh và áp dụng ở địa phương khác. Các viện và cơ quan đào tạo Phối hợp với các viện giáo dục để tranh thủ sự hỗ trợ và các nguồn lực nhằm xây dựng và cung cấp các tài liệu giảng dạy về giới và công trình nghiên cứu về giới. Vấn đề này sẽ ngày càng trở nên quan trọng vì nhiều cơ quan Chính phủ cam kết thực hiện lồng ghép giới và cần có các kỹ năng đó để triển khai. Cần ưu tiên phối hợp với: • Các cơ quan giám sát • Các ngành chiến lược hay các bộ • Các cơ quan thống kê trung ương • Các cơ quan phụ trách vùng. • Các viện và các cơ quan đào tạo Vai trò của cán bộ đầu mối Xây dựng mạng lưới Như đã nêu tóm tắt ở Chương 2, để tiến hành lồng ghép giới có hiệu quả, điều quan trọng là phải có các đầu mối trong các cơ quan này. Ðầu mối là những cá nhân được phân công nhiệm vụ tiến hành lồng ghép giới. Sẽ là lý tưởng nếu có cán bộ đầu mối về lồng ghép giới trong tất cả các cơ quan Chính phủ (nên là các chuyên gia về "Phụ nữ trong phát triển" hay "Giới và phát triển"). Tuy nhiên, các đại biểu In-đô-nê-xi-a và Phi-lip-pin lại cho rằng do hạn chế về nguồn lực, thực tế hơn là nên tập trung vào một số bộ chiến lược và các tổ chức giám sát quan trọng. Những cán bộ đầu mối được lựa chọn phải có đủ năng lực (kỹ năng phân tích giới, thời gian và nguồn lực) thì mới thúc đẩy được lồng ghép giới. Họ phải có đủ thẩm quyền và uy tín trong cơ quan để thúc đẩy được sự thay đổi. Nhưng nếu cán bộ đầu mối đó là người đứng đầu cơ quan thì đôi khi lại phản tác dụng, bởi vì họ dễ bị phân tán bởi những nhiệm vụ khác. Nhưng sẽ tệ hơn nếu người đầu mối là một người không có quyền hành gì. Vai trò của cán bộ đầu mối ở các quốc gia không hoàn toàn giống nhau, nhưng một số phân công trách nhiệm sau đây có thể là những tham khảo tốt: • Thường xuyên tiến hành xem xét chức năng nhiệm vụ, mục tiêu, chính sách, chương trình, dự án và ngân sách của cơ quan để xác định sự cách biệt về giới 24
  26. • Hỗ trợ cơ quan xem xét lại các chương trình, chính sách, dự án và ngân sách để đáp ứng được vấn đề giới nhiều hơn • Xây dựng các chương trình nâng cao năng lực cụ thể cho các cán bộ tham gia vào quá trình lồng ghép giới • Tổ chức các khoá tập huấn về giới cho các chuyên viên cao cấp trong cơ quan. • Thường xuyên tổ chức các cuộc họp, báo cáo, thảo luận với các chuyên viên cao cấp về các hoạt động lồng ghép giới • Xây dựng kế hoạch kiểm tra (gồm các chỉ số) nhằm đánh giá những tiến bộ của cơ quan trong việc thực hiện mục tiêu lồng ghép giới • Ðưa các số liệu tách biệt theo giới tính và thông tin về giới vào tất cả các báo cáo của cơ quan. • Khuyến khích sự phối hợp chặt chẽ, liên lạc, điều phối và phối hợp với bộ máy quốc gia về phụ nữ và các cơ quan khác Các yếu tố cơ bản để phối hợp thành công Các liên minh Các đại biểu tham dự Hội thảo đã xác định một số yếu tố cơ bản để xây dựng và duy trì sự phối hợp hiệu quả với các cơ quan Chính phủ. Ðó là: • Tìm đầu mối để tiếp cận một cách tốt nhất trong cơ quan: Ðó có thể là phụ nữ hoặc nam giới, là người "có tâm huyết" trong một lĩnh vực cụ thể nào đó về vấn đề bình đẳng giới trong cơ quan; có thể là trong bối cảnh xây dựng chính sách mà việc đáp ứng giới là cần thiết cho cả cơ quan và bộ máy quốc gia về phụ nữ, hay một môi trường chính trị-xã hội có thể tạo cơ hội cho việc lồng ghép giới thành công. • Hướng vào bộ máy lãnh đạo chính trị có năng lực trong cơ quan: Khi các nhà chính trị hoặc các quan chức có uy tín sẵn sàng sắp xếp thời gian và phân bổ nguồn lực cho việc lồng ghép giới, những cam kết của họ có giá trị như vàng. • Tìm kiếm các liên minh, nhưng hợp tác một cách có tổ chức: Nhu cầu liên minh với các bộ, ngành chủ chốt rất quan trọng, do đó hoạt động một cách quá độc lập sẽ là một sai lầm. Phụ thuộc quá nhiều vào các cá nhân để đạt được mục đích lồng ghép giới là một việc làm dễ gặp rủi ro. Nhiều đại biểu đã nhấn mạnh đến nhu cầu thể chế hoá các cơ chế phối hợp chứ không nên phụ thuộc vào các cá nhân Tuy nhiên, nhiều ví dụ cho thấy một đối tác chiến lược (một phụ nữ nổi tiếng hay bất kỳ một nhà lãnh đạo mạnh mẽ, có tâm huyết với vấn đề bình đẳng giới) hợp tác chặt chẽ với bộ máy quốc gia phụ nữ sẽ là tác nhân xây dựng các hoạt động lồng ghép giới trong cơ quan của người đó. • Xây dựng và duy trì các cán bộ đầu mối có chuyên môn và có vị trí phù hợp trong các cơ quan phối hợp: Cán bộ đầu mối về giới trong các cơ quan đối tác cần được cung cấp những kỹ năng cần thiết để tiến hành lồng ghép giới hiệu quả. Họ cần ở một vị trí có thẩm quyền nhất định, nhưng không nên ở vị trí quá cao vì như vậy họ sẽ không có thời gian dành cho hoạt động này. Nên có cả nam giới và phụ nữ làm cán bộ đầu mối. • Thể chế hoá các cơ chế phối hợp: Các cán bộ đầu mối cần có những kênh hợp pháp và thích hợp để liên lạc với bộ máy quốc gia về phụ nữ và cán bộ đầu mối ở các cơ quan khác. Ðiều này rất cần thiết để duy trì sự hỗ trợ về kỹ thuật và chính 25
  27. trị cần thiết cho các hoạt động lồng ghép. Nên thường xuyên tổ chức các buổi trao đổi và hội thảo với sự tham gia của bộ máy quốc gia về phụ nữ và một số cơ quan để trao đổi về những khó khăn gặp phải, các thực tế điển hình và cung cấp các khoá tập huấn. Kiểu tiếp cận nhóm này mở rộng cơ sở cho việc lồng ghép, hạn chế sự cô lập của các đầu mối và tạo cơ hội trao đổi thông tin và hình thành mạng lưới hiệu quả. • Khuyến khích học hỏi các kỹ năng phân tích/ lồng ghép giới: Bất cứ sự thay đổi nào cũng cần phải có sự tâm huyết chứ không phải chỉ thừa nhận sự thay đổi đó là một ý tưởng hay. Sự khuyến khích phải được cụ thể hoá (ví dụ như tập huấn về giới là một trong những điều kiện để thăng tiến), hoặc là ngầm định (lồng ghép/ phân tích giới phải được hiểu là điều cần thiết và sẽ nâng cao giá trị chuyên môn của cán bộ). • Bảo đảm đủ các nguồn lực cần thiết: Ðể các bộ ngành đạt được những tiến bộ đáng kể về lồng ghép giới, cần phải có các nguồn lực cần thiết. Ðể lập kế hoạch, thực hiện và đánh giá đáp ứng được vấn đề giới đòi hỏi phải có thêm nguồn lực ngoài ngân sách hoạt động thường xuyên của một tổ chức. Nếu không có thêm các nguồn bổ trợ, các tổ chức sẽ không muốn hoặc không có khả năng theo đuổi các sáng kiến lồng ghép. Giải quyết vấn đề này thật không đơn giản. • BMQG phải được thừa nhận là các chuyên gia hợp pháp về lồng ghép giới: Các cơ quan mà BMQG muốn phối hợp phải nhận thức được rằng bộ máy quốc gia về phụ nữ là chuyên gia kỹ thuật và là đối tác hữu ích giúp cơ quan đó đáp ứng được mục đích. Nếu BMQG bị coi là cảnh sát giới thì có thể dẫn đến tình trạng bị cô lập, các cơ quan khác sẽ hợp tác một cách cưỡng chế và không hiệu quả. Phối hợp với chính quyền các cấp: một số ví dụ thực tế Hợp tác với các nhà lập kế hoạch ở Phi-lip-pin Các đại biểu dự hội thảo đã xem xét một số cách phối hợp giữa BMQG với các bộ ngành ở các giai đoạn của quá trình lồng ghép. Qua đó đã đưa ra những quy trình phối hợp bổ ích ở cả ba cấp: vĩ mô, với các bộ ngành và ở địa phương. Phối hợp ở cấp hoạch định vĩ mô Kinh nghiệm của NCRFW Ðể thúc đẩy lồng ghép giới trong các quy trình lập kế hoạch ở cấp vĩ mô, NCRFW đã sử dụng các chiến lược sau: Chiến lược thứ nhất: Tư vấn và nâng cao năng lực NCRFW đã tiến hành các hoạt động tư vấn và nâng cao năng lực cho các tổ chức về kế hoạch và tài chính ở cấp trung ương, bao gồm NEDA, Văn phòng khu vực NEDA (NROs), Bộ Ngân sách và Quản lý (DBM), Bộ Nội vụ và Chính quyền địa phương (DILG) và Phòng kế hoạch và phát triển của chính quyền địa phương (LGUs). NCRFW đã phối hợp với các nhà hoạch định chủ chốt trong các cơ quan này và thành viên của các Uỷ ban đặc trách đa phương để giám sát việc lập kế hoạch ở cấp quốc gia, bảo đảm sự cân bằng và thống nhất giữa kế hoạch, chính sách và chương trình của các bộ ngành. Ví dụ: 26
  28. • NEDA và NCRFW đã phối hợp để lồng ghép các mối quan tâm về giới vào bản hướng dẫn soạn thảo các kế hoạch quốc gia. • DBN và NCRFW cùng phối hợp để đưa kế hoạch và phân bổ ngân sách đáp ứng vấn đề giới vào trong quá trình phân bổ ngân sách hàng năm. • NCRFW phối hợp với các đầu mối về Giới và Phát triển và Vụ kế hoạch của các bộ, ngành để soạn thảo kế hoạch. • ở cấp khu vực, NCRFW phối hợp với NROs để đảm bảo các kế hoạch của khu vực có lồng ghép những vấn đề giới. NROs hợp tác chặt chẽ với các Uỷ ban thường trực của Hội đồng phát triển khu vực để lồng ghép các mối quan tâm về giới vào các kế hoạch của khu vực. • NCRFW phối hợp với DILG đảm bảo lồng ghép giới vào các văn bản hướng dẫn lập kế hoạch của địa phương. NCRFW tập hợp các tuyên truyền viên và chuyên gia về lồng ghép giới, thuê họ xem xét và đóng góp ý kiến cho các kế hoạch. Chiến lược thứ hai: Tham gia vào các Uỷ ban chiến lược NCRFW cũng có những ảnh hưởng đến quá trình lập kế hoạch thông qua hệ thống thành viên hoặc qua việc tham gia vào các Uỷ ban đặc trách. (Ví dụ, NCRFW đã phối hợp chặt chẽ với các Uỷ ban về phụ nữ, Dân số, Tư pháp và Phân bổ ngân sách để tham gia vào việc đưa ra những chính sách có liên quan đến lồng ghép giới). Các cuộc họp tư vấn với sự tham dự của đại diện các Uỷ ban nêu trên được tổ chức ở tất cả các cấp nhằm đảm bảo rằng vấn đề giới được đề cập đến trong tất cả các phần của bản kế hoạch. Ðại diện của NCRFW đã tích cực tham gia với tư cách là những cán bộ nguồn và hướng dẫn lồng ghép giới trong quá trình tư vấn cho bản kế hoạch. Chiến lược thứ ba: "Liên minh" NCRFW hoạt động nhằm thiết lập và thúc đẩy các mối quan hệ trong quá trình hoạch định ở cấp vĩ mô thông qua việc xác định và hợp tác chặt chẽ với các liên minh chủ chốt. Các liên minh này cần được bố trí ở những vị trí phù hợp trong các bộ ngành, quan tâm và cam kết vì mục đích bình đẳng giới, mong muốn đạt được mục đích. Mặc dù chiến lược này có nhiều rủi ro do phải phụ thuộc vào một số cán bộ chủ chốt, nó đã rất thành công trong việc thể chế hoá các cơ chế phối hợp và các nỗ lực lồng ghép. Thành quả của sự phối hợp này ở cấp lập kế hoạch: • Kế hoạch phát triển trung hạn của Phi-líp-pin (MTPDP, 1987-1992) là thành quả đầu tiên của sáng kiến lồng ghép giới. Bản Kế hoạch vừa đưa được mối quan tâm của phụ nữ vào chương Phát triển xã hội, vừa mở đường cho việc lồng ghép mối quan tâm về bình đẳng giới vào các lĩnh vực khác trong các kế hoạch tiếp theo. • Kế hoạch phát triển cho phụ nữ của Phi-líp-pin (PDPW, 1989-1992) nhằm cụ thể hoá bản Kế hoạch phát triển trung hạn của Phi-líp-pin giai đoạn 1987- 1992, là kế hoạch về bình đẳng giới đầu tiên được xây dựng ở Phi-líp-pin. Mục đích của bản kế hoạch này là đưa ra các chính sách, chiến lược, chương trình/dự án và các cơ chế thích hợp nhằm đảm bảo cho phụ nữ được tham gia một cách bình đẳng như nam giới, vừa là tác nhân của sự thay đổi, vừa là những người thụ hưởng các chương trình và dịch vụ. • Các kế hoạch phát triển trung hạn sau này của Phi- líp-pin giai đoạn 1993-1998 và 1999-2000 đã thúc đẩy việc nâng cao quyền lực giới và công bằng giới nhằm hướng tới mục tiêu bình đẳng giới và trở thành mối quan tâm xuyên suốt trong tất cả các lĩnh vực. 27
  29. • Kế hoạch phát triển đáp ứng vấn đề giới của Phi-lip-pin giai đoạn 1995-2025 là thành quả gần đây nhất, với sự tham gia và tư vấn của các tổ chức Chính phủ và phi Chính phủ ở cả TW và địa phương nhằm tăng cường lồng ghép giới vào quá trình phát triển. Phối hợp với một Bộ NCRFW phối hợp với Bộ Môi trường và Tài nguyên (DENR). Với sự khởi xướng của NCRFW, hai chính sách quan trọng về bình đẳng giới đã bắt đầu cho quá trình lồng ghép giới trong DENR. Ðó là Ðạo luật số 7192 hướng dẫn các cơ quan Chính phủ thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ và Sắc lệnh số 348 về việc thông qua và phê duyệt Kế hoạch phát triển cho phụ nữ, kêu gọi các cơ quan Chính phủ cử cán bộ làm đầu mối về giới. Hưởng ứng các chính sách này, DENR đã thành lập Uỷ ban chuyên trách về phụ nữ (TWCW), gồm đại diện của tất cả các Vụ trong Bộ và các sở nhằm đảm bảo các chính sách, chương trình và dự án của các Vụ sẽ đáp ứng nhu cầu của đối tượng nữ và cán bộ nữ. DENR đã vượt qua sự dè dặt ban đầu trong quá trình hoạt động và với sự hỗ trợ của NCRFW trong lồng ghép giới, DENR đã tạo ra một môi trường hoạch định chính sách đáp ứng được vấn đề giới; các cán bộ cam kết thực hiện bình đẳng giới; một mạng lưới hoạt động hiệu quả giữa các đầu mối về giới được thành lập; và thực hiện thành công các chương trình và dự án đáp ứng vấn đề giới trong Bộ. Ðể có được sự phối hợp thành công này, NCRFW đã sử dụng 4 nhân tố sau để lồng ghép giới: 1. Khung chính sách Năm 1995, Quy định của Bộ số 95-7 đã đưa ra khung chính sách về lồng ghép giới trong Bộ thông qua các sáng kiến sau: • Phụ nữ tham gia bình đẳng trong việc hoạch định chính sách, chương trình, dự án và các hoạt động của DENR • Xem xét và sửa đổi các luật lệ, quy định và thủ tục nhằm loại bỏ thiên kiến giới • Phân bổ quỹ hỗ trợ và ngân sách thường xuyên cho các chương trình, dự án và hoạt động lồng ghép giới một cách phù hợp 2. Các cơ chế hỗ trợ Bộ đã tạo ra nhiều cơ chế hỗ trợ để thúc đẩy lồng ghép giới: • Lồng ghép giới đã trở thành một phần việc quan trọng của thư ký Bộ trưởng. Người thư ký đó sẽ đề nghị các cán bộ quản lý cấp Vụ lồng ghép giới vào các chương trình và dự án của các Vụ. Từ đó, các báo cáo của DENR bắt đầu có các số liệu tách biêt theo giới tính và vấn đề giới sẽ được xác định một cách cụ thể trong quá trình xây dựng dự án. • Luật Phân bổ ngân sách chung quy định dành cho các cơ quan Chính phủ 5% ngân sách cho hoạt động Giới và Phát triển. Số tiền này đã được dùng để thúc đẩy và tiến hành các sáng kiến lồng ghép giới. Nhiều khó khăn đã nẩy sinh trong việc quyết định sử dụng 5% ngân sách như thế nào (cho các dự án dành cho phụ nữ hay cho các nỗ lực lồng ghép). Văn phòng Bộ đã phối hợp chặt chẽ với NCRFW để xây dựng văn bản hướng dẫn lồng ghép giới trong quá trình lập kế hoạch và phân bổ ngân sách. • Các đơn vị ở trung ương và địa phương đều có cán bộ đầu mối về Giới và Phát triển. Họ đã xác định những vấn đề giới của đơn vị mình và phối hợp với các cán bộ đầu mối khác và đơn vị trung ương để xây dựng các chiến lược nhằm giải quyết những vấn đề đó. Ví dụ như việc đưa ra các hướng dẫn để ngăn chặn nạn quấy rối tình dục, hay việc thành lập các cơ sở trông trẻ tại đơn vị trung ương để giúp cha mẹ chúng yên tâm làm việc. 28
  30. • Soạn thảo các chương trình đào tạo về giới, tạo cơ hội và khuyến khích các nhân viên tham gia các khoá đào tạo. 3. Các chương trình và dự án DENR đã xây dựng và thực hiện nhiều chương trình cụ thể (cả các chương trình dành riêng cho phụ nữ và chương trình lồng ghép giới). Trong mỗi đề xuất dự án, vấn đề giới phải được lồng ghép vào trong tất cả các quy trình. Trong quá trình đánh giá dự án cần phải tiến hành những bước cụ thể nhằm đánh giá các tác động của dự án đối với phụ nữ và nam giới. Tiến hành khảo sát nhằm xác định vai trò giới và cung cấp số liệu phân tích theo giới tính đối với các dự án cụ thể. Ðã xuất bản nhiều tài liệu tập huấn về giới để giúp các cán bộ dự án giải quyết được vấn đề phụ nữ trong lĩnh vực Mỏ và Lâm nghiệp. Mặc dù khó có thể đánh giá được các kết quả mang tính bền vững của các hoạt động này nhưng thực sự họ đã xây dựng được một nền văn hoá nhạy cảm giới trong Bộ. 4. Nhân sự Mặc dù các khung chính sách, các cơ chế hỗ trợ dự án, và chương trình lồng ghép giới là những yếu tố quan trọng đối với việc phối hợp thành công và những nỗ lực về lồng ghép giới, nhưng nếu như không có cán bộ tâm huyết thì mọi yếu tố trên trở thành vô nghĩa. Sự phối hợp thành công giữa NCRFW và DENR phụ thuộc nhiều vào các cán bộ chủ chốt. Các thành viên của NCRFW đã biết xác định và phối hợp chặt chẽ với các cán bộ của DENR, cung cấp cho họ những thông tin về tầm quan trọng của lồng ghép giới và vai trò của lồng ghép giới trong Bộ. Các liên minh chiến lược này vô cùng quan trọng đối với việc phối hợp hiệu quả và nâng cao quan điểm giới trong DENR. Phối hợp ở cấp địa phương Những thí điểm về Nhóm phụ nữ trong Quản lý Phát triển ở In-đô-nê-xi-a Nhóm Quản lý phụ nữ trong phát triển (WIDMT) được thành lập tại 27/27 tỉnh ở In- đô-nê-xi-a. Ðây là nhóm làm việc liên bộ, gồm đại diện của các tổ chức phi Chính phủ địa phương và các Trung tâm Nghiên cứu về Phụ nữ của các trường đại học. Khi mới thành lập, mục đích của Nhóm là điều phối Chính sách Phụ nữ trong phát triển của Chính phủ theo hướng hỗ trợ xã hội tại cấp tỉnh trong 14 lĩnh vực. Hiện nay, chức năng nhiệm vụ của Nhóm đang được xem xét, đánh giá để khẳng định khả năng trở thành cơ chế để lồng ghép giới ở cấp địa phương. WIDMT của chính quyền vùng Nam Su-la-oe-si hiện đang tham gia thí điểm vào Dự án hỗ trợ phụ nữ giai đoạn II (WSP II). Trong quá trình này, WIDMT của khu Nam Su-la-oe-si (WIDMT-SS) đã tăng cường năng lực để hiểu và sử dụng khái niệm giới thông qua các hoạt động nâng cao trình độ chuyên môn. Năm 1998, WIDMT-SS đã xây dựng một chương trình tập huấn dựa vào Thanh phân tích giới (GAP) giới thiệu các khái niệm cơ bản về công cụ phân tích và lồng ghép giới cho các thành viên (Chương 4 sẽ trình bày về công cụ này). Mặc dù thí điểm này vẫn đang gặp nhiều thách thức, song nó chứng tỏ rằng còn có nhiều yếu tố quan trọng cần xem xét trong quá trình phối hợp ở địa phương. • Mối quan hệ chặt chẽ giữa một bộ (ví dụ như MWE ở In-đô-nê-xi-a) và một cơ quan ở địa phương (như WIDMT) đã mang lại kết quả tốt trong việc mở rộng cơ sở để lồng ghép giới xuống tận địa phương. Sự phối hợp hiệu quả trong lồng ghép ở địa phương sẽ ngày càng trở nên quan trọng khi Chính phủ tiến hành phân cấp, phân quyền. Quá trình này đòi hỏi cán bộ các bộ cam kết mạnh mẽ dành thời gian và 29
  31. nguồn lực cần thiết để hợp tác có hiệu quả với các tổ chức ở địa phương. Do đó, cần phải thiết lập hệ thống trao đổi thông tin, cơ chế phản hồi và phân định trách nhiệm rõ ràng để thực hiện tốt quá trình này. • Các mạng lưới của bộ máy phụ nữ phải phối hợp chặt chẽ với các cơ quan của chính quyền địa phương và các tổ chức phi chính phủ để giải quyết các nhu cầu giới cụ thể ở địa phương mình. Cần thành lập các uỷ ban hỗn hợp và các nhóm làm việc bao gồm đại diện ở cấp trung ương, các đầu mối cấp tỉnh tại địa phương, các đại diện của tổ chức phi chính phủ và các chuyên gia kỹ thuật để xây dựng các kế hoạch chiến lược về giới tại địa phương, đồng thời có thể giải quyết các vấn đề của địa phương theo kế hoạch và mục tiêu quốc gia. Làm việc theo nhóm là vô cùng quan trọng. • Gắn kết các tổ chức ở địa phương với nhau và với bộ máy quốc gia sẽ tạo ra những cơ hội tốt nhất để chia sẻ kinh nghiệm, xây dựng cách làm tốt nhất, nâng cao các kỹ năng và các hoạt động. • Bộ máy ở địa phương có thể là những nhân tố hữu hiệu cho việc thiết lập các mối quan hệ của xã hội dân sự. WIDMT-SS đã hợp tác với những trung tâm nghiên cứu về phụ nữ của các trường đại học tổng hợp để tham gia vào các lớp tập huấn, lập kế hoạch và thực hiện nhiều sáng kiến. WIDMT cũng đã bắt đầu hợp tác với các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức phụ nữ để giải quyết vấn đề giới của địa phương đó. Những nhân tố cản trở sự hợp tác hữu hiệu Nhiều nhân tố có thể cản trở sự hợp tác hữu hiệu trong lồng ghép giới đã được xác định. Những nhân tố này thường hết sức đa dạng và đôi khi có liên quan đến nhau. Chúng sẽ làm giảm và ảnh hưởng tới quá trình lồng ghép, do đó BMQG cần phải xác định được nhân tố này và có biện pháp xử lý. Rõ ràng là có các nhân tố gây trở ngại nhưng khó hạn chế được vì những nguyên nhân sau: Các cán bộ nhà nước coi hoạt động lồng ghép giới là thêm một gánh nặng: ở những nơi cán bộ thường đã quá bận bịu và thiếu thời gian, kinh phí hay công cụ để hoàn thành công việc hàng ngày thì việc phối hợp với BMQG và tiến hành các hoạt động lồng ghép có thể là một nhiệm vụ nặng nề. Do đó, để thiết lập sự phối hợp tốt, ngay từ đầu BMQG cần phải chỉ ra lợi ích và giá trị của lồng ghép giới đối với công việc của họ. Thiếu phương pháp cùng tham gia để phối hợp với các cơ quan khác: Kinh nghiệm về Hệ thống Sao ở Phi-lip-pin là một ví dụ sinh động cho thấy điều gì có thể xảy ra nếu BMQG không sử dụng phương pháp cùng tham gia khi phối hợp làm việc với các cơ quan khác. (Xem ví dụ dưới đây). Thiếu nguồn lực Thiếu nhân lực, tài lực và kỹ thuật đã hạn chế sự phối hợp và lồng ghép: BMQG không phải là cơ quan cung cấp các nguồn lực hay tổ chức tập huấn cho các cơ quan tham gia lồng ghép giới. Họ phải dựa vào cơ quan phân bổ ngân sách tầm vĩ mô. Bằng chứng về việc lồng ghép giới sẽ mang lại giá trị xã hội và chính trị cho các chương trình sẽ là cơ sở để khai thác nguồn từ ngân sách quốc gia và các bộ cấp nguồn lực cho hoạt động lồng ghép giới. 30
  32. Thiếu sự khuyến khích/ ghi nhận và khen thưởng sẽ hạn chế việc lồng ghép giới: Xem xét các chính sách và chương trình một cách nghiêm túc và thay đổi chúng không phải là một việc dễ trong quá trình hợp tác với các đơn vị. Phản đối việc thay đổi luôn là một thách thức lớn đối với các cán bộ đầu mối của các cơ quan. Sự ủng hộ của người lãnh đạo và cơ chế động viên, khuyến khích có thể tác động thêm. Các đầu mối kém hiệu quả Nhân sự không phù hợp giữ vị trí chủ chốt: Như đã nêu ở trên, cán bộ đầu mối về giới là một nhân tố quan trọng để phối hợp thành công. Người này phải nhạy cảm trước những vấn đề về bình đẳng giới và có khả năng vận động người khác xem xét vấn đề một cách nghiêm túc. Những cán bộ được lãnh đạo chọn và chỉ định ở vị trí này có thể không tán thành mục đích và làm ảnh hưởng đến quy trình. Hoặc họ được chỉ định vì không có năng lực gì và vì vị trí đó chưa được lãnh đạo coi trọng. BMQG phải đánh giá tình hình này và xác định xem có cần phải thay người hay nguồn lực có được sử dụng đúng mục đích không. Thiếu hiểu biết về mục đích bình đẳng giới và cơ sở luận chứng. Sự thiếu thông tin về mục đích và cơ sở luận chứng cho lồng ghép giới có thể cản trở sự hợp tác hữu hiệu. Nếu không có cơ sở luận chứng vững chắc thì việc thay đổi rất khó thực hiện được. Các cơ quan cần hiểu rõ vai trò của bình đẳng giới và cách BMQG có thể hỗ trợ để tạo ra một xã hội bình đẳng và thịnh vượng hơn. Thiếu quyền lực chính trị Thiếu chuyên môn hay các kỹ năng chính trị trong bộ máy quốc gia phụ nữ. Xây dựng mối quan hệ với các cơ quan trong bộ máy hành chính của Chính phủ đòi hỏi phải có một sự liên kết chính trị vững chắc và kỹ năng thương thuyết. Cán bộ của BMQG có thể không có ảnh hưởng chính trị hay kinh nghiệm cần thiết để đối thoại một cách hữu hiệu với các công chức nhà nước. Do vậy, xây dựng niềm tin và kỹ năng chính trị cho các cán bộ BMQG là cơ sở quan trọng để xây dựng và duy trì mối quan hệ cần thiết cho sự thay đổi. Những bài học rút ra từ sự phối hợp kém hiệu quả Tránh chỉ trích "Hệ thống Sao" của Phi-líp-pin Trong thời gian đầu của các nỗ lực lồng ghép giới, NCRFW đã xây dựng hệ thống kiểm tra và đánh giá để đánh giá tiến độ thực hiện Ðạo luật quốc gia của các bộ. Hệ thống Sao nhằm khuyến khích các bộ ngành tích cực phối hợp với NCRFW và triển khai xây dựng công cụ lồng ghép cho cơ quan mình. Một chuyên gia sử dụng hệ thống đánh giá độc lập để đánh giá các bộ. Họ sẽ được thưởng 3 sao nếu thực hiện tốt việc lồng ghép giới, được 2 sao nếu thực hiện ở mức trung bình và 1 sao nếu thực hiện chưa tốt hoặc chưa thực hiện theo các quy định của Ðạo luật quốc gia về lồng ghép giới. Kết quả đánh giá được trình lên Tổng thống, thông tin tới các thành viên Nội các và được đăng trên tờ thời báo quốc gia. Việc công bố này dễ gây ra sự chỉ trích trong xã hội dân sự, và Tổng thống trong các cuộc họp thường kỳ của Nội các đã khiển trách các đơn vị không thực hiện lồng ghép giới. Sự phê bình này đã làm tăng sự phản đối của các bộ được ít sao và tạo ra mối bất hoà sâu 31
  33. sắc giữa các bộ và NCRFW. Do đó, hệ thống sao đã không những không thúc đẩy được sự phối hợp, hợp tác và thông tin với NCRFW và thúc đẩy cam kết lồng ghép giới, mà khiến cho các bộ chống đối và xa lánh NCRFW trong Nội các. Có nhiều lý do làm cho Chiến lược "Hệ thống sao" thất bại và và nhiều bài học kinh nghiệm được rút ra từ đây: Các tiêu chí đánh giá được xây dựng thiếu sự đóng góp của các bộ ngành liên quan. Một chuyên gia độc lập đã xây dựng hệ thống chấm điểm mà không thảo luận về cách thức để hệ thống này có thể đánh giá được công việc lồng ghép giới của các bộ ngành. Quy trình tư vấn sẽ giúp xây dựng mối quan hệ hợp tác tích cực giữa các bộ ngành với BMQG. Chính bản chất quá độc lập của "Hệ thống sao" đã tạo ra sự khó chịu và chống đối này. Thực hiện đánh giá và xếp hạng quá vội vã trong quá trình phối hợp. Nhiều bộ ngành chưa nhận thức được mục đích lồng ghép giới ở cấp vĩ mô hoặc chưa nắm được cụ thể Ðạo luật quốc gia. Do vậy, họ cảm thấy việc đánh giá là vội vã vì họ chưa thể thực hiện các bước theo đúng yêu cầu. Và cuộc đánh giá đã diễn ra khi các bộ chưa được NCRFW trợ giúp kỹ thuật. Khi mới xây dựng mối quan hệ với các bộ ngành, BMQG nên tập trung xây dựng năng lực chứ không nên đánh giá năng lực lồng ghép giới của các bộ ngành. Hệ thống sao kém hiệu quả và quá công khai. Những đánh giá ban đầu nên giữ kín và coi đó như một công cụ để thúc đẩy việc học hỏi và cam kết của các bộ chứ không nên công khai hóa những điểm yếu này. Qua sự sai lầm và những bài học rút ra từ kinh nghiệm này, NCRFW đã xây dựng phương pháp cùng tham gia cho chiến lược phối hợp, bao gồm: • Quy trình tư vấn để xây dựng các tiêu chí đánh giá; • Thử nghiệm thí điểm các tiêu chí đánh giá; và • Tiến hành đánh giá nội bộ và tự đánh giá để các cơ quan có thể xác định được họ đang ở đâu và cần gì để thúc đẩy hoạt động lồng ghép giới thành công ở cơ quan họ. Ðóng góp cho Chính phủ thông qua phối hợp lồng ghép giới Trách nhiệm và hiệu quả Qua phối hợp giữa các cơ quan và hỗ trợ lồng ghép giới, quá trình lồng ghép giới có thể nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm của chính phủ, đồng thời nâng cao tính hiệu quả và hiệu lực của công tác hoạch định chính sách và cung cấp các dịch vụ của chính phủ. BMQG không phải là cơ quan duy nhất thực hiện phương pháp tiếp cận này để đạt các mục tiêu của Chính phủ. Những nỗ lực phát triển bền vững của cơ quan môi trường là một bằng chứng cho thấy sự phối kết hợp giữa các ngành là cần thiết để đạt được thành công. Nếu không có sự phối hợp thì BMQG khó có thể hỗ trợ phân tích giới, tập huấn, cung cấp thông tin, chỉ đạo và liên hệ với xã hội dân sự để giúp các cơ quan hoạt động hiệu quả hơn. Phối hợp bền vững là một trong những thách thức lớn nhất đối với BMQG trên toàn thế giới. Những thay đổi về hành chính, kinh phí không ổn định và thay đổi nhân 32
  34. sự đã được đào tạo là những nhân tố luôn ảnh hưởng đến những kết quả đã đạt được. Khi đã thiết lập được mối quan hệ, cần phải hết sức giữ gìn và bảo vệ. Thay đổi nhân sự là điều khó tránh, song nếu BMQG ý thức được khả năng thay đổi thì có thể giúp hoặc được nhân sự sẵp chuyển đi hỗ trợ để đảm bảo tính liên tục, hoặc nêu với cơ quan đó về sự nguy hại nếu cử ngưòi không phù hợp. Cần nỗ lực rất nhiều để thiết lập sự hỗ trợ của quần chúng đối với hoạt động lồng ghép giới nhằm hạn chế sự buông lỏng trong quá trình thực hiện hoạt động này. 33
  35. Chương 4 Các công cụ lồng ghép giới Lựa chọn phương pháp tiếp cận Các chương trước đã nêu rõ chức năng nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức và vai trò của bộ máy quốc gia về phụ nữ và sự phối hợp mà các bộ máy quốc gia về phụ nữ cần phải quan tâm để tiến hành các hoạt động lồng ghép giới một cách có hiệu quả. Khi đã thiết lập được những mối liên kết này, thách thức chính đối với các bộ máy quốc gia về phụ nữ là thúc đẩy các hoạt động của Chính phủ theo hướng đáp ứng vấn đề giới. Ðể làm được điều đó, họ cần biết một số công cụ để sử dụng ở những cấp độ khác nhau theo từng thời điểm. Các công cụ khác nhau cho các công việc khác nhau Phần viết dưới đây sẽ trình bày một số công cụ hiện đang được các bộ máy quốc gia về phụ nữ (BMQG) ở Băng-la-đét, In-đô-nê-xia và Phi-líp-pin sử dụng. Những công cụ này được phân thành 2 loại: Thứ nhất là các công cụ hỗ trợ, thứ hai là các công cụ kỹ thuật để lồng ghép giới. Các công cụ hỗ trợ Hội thảo đã xác định các công cụ hỗ trợ là những công cụ "mở đường" cho quá trình lồng ghép giới trong Chính phủ và toàn xã hội. Một số công cụ hỗ trợ đã được đề cập trong Chương 2, đó là các khung chính sách để thiết lập chức năng nhiệm vụ của các bộ máy quốc gia về phụ nữ. Những công cụ hỗ trợ này tạo ra khuôn khổ hỗ trợ cho quá trình hoạch định, lập kế hoạch và thực hiện chính sách. Chúng ta hãy xem xét một số ví dụ ở Phi-líp-pin, Băng-la-đét và In-đô-nê-xia. ở Phi-líp-pin, Ðạo luật số 7192 về phụ nữ trong phát triển và Ðạo luật về xây dựng quốc gia là các văn kiện ở cấp vĩ mô nhằm thể chế hoá vấn đề lồng ghép giới trong những nỗ lực phát triển của Chính phủ. NCRFW đã xây dựng các Nguyên tắc và Quy định nhằm thực hiện các Ðạo luật này và bảo đảm rằng các bộ ngành đều hiểu rõ mục đích, cơ sở luận chứng và cách thực hiện. NCRFW cũng đã xây dựng một số kế hoạch 5 năm về lồng ghép giới và kế hoạch 30 năm nhằm tạo điều kiện cho việc lập kế hoạch dài hạn, vĩ mô về lồng ghép giới (kế hoạch này sẽ được trình bày dưới đây để minh họa). Cuối cùng, Luật Phân bổ ngân sách chung (GAA) được ban hành vào năm 1995 đã qui định rằng tất cả các bộ, sở, ban ngành được cấp ít nhất 5% trong tổng ngân sách cho các dự án giải quyết vấn đề giới theo qui định của Ðạo luật số 7192. Mặc dù còn nhiều vấn đề xung quanh việc sử dụng, kiểm tra và thực hiện kinh phí về "Giới và Phát triển (GAD)", song các đại biểu nhận thấy rằng phải có công cụ ngân sách để bảo đảm có đủ nguồn lực cần thiết cho các hoạt động lồng ghép giới của các cơ quan. Từ năm 1990, Chính phủ Băng-la-đét đã xây dựng nhiều phương pháp lồng ghép giới nhằm hướng dẫn các bộ ngành cũng như MWCA hoạt động vì bình đẳng giới, qua đó nâng cao đời sống của phụ nữ, gia đình và cộng đồng. Ðặc biệt, dần dần đã có sự thể chế hoá các khuyến nghị làm thay đổi vai trò và trách nhiệm. Các mối quan tâm về giới đã được đưa vào các chương vi mô và vĩ mô của Kế hoạch 5 năm lần thứ tư (1990- 1995). Việc xây dựng Chính sách quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ năm 1997 đã nêu rõ những mục tiêu, chiến lược và cơ chế để "đưa phụ nữ tham gia vào các lĩnh vực". Kế hoạch hành động quốc gia năm 1997 đã xác định các hành động cần tiến hành trong 16 bộ/ngành chức năng nhằm thực hiện Cương lĩnh Hành động Bắc Kinh (PFA), trong đó 34
  36. nêu rõ trách nhiệm đặc biệt của MWCA trong việc "hỗ trợ, điều phối, triển khai và kiểm tra việc thực hiện" kế hoạch hành động quốc gia. Năm 1998, Bộ Vai trò phụ nữ của In-đô-nê-xia đã xác định 5 lĩnh vực ưu tiên nhằm tăng cường vai trò của phụ nữ trong phát triển đất nước và được lồng ghép vào quá trình xây dựng kế hoạch hàng năm. Ngoài ra, năm 1999, Hướng dẫn thực hiện chính sách Nhà nước đã được phê duyệt bao gồm các điều khoản xác định mục tiêu bình đẳng giới và đưa ra khung chính thức cho các bộ - ngành áp dụng. Như đã nêu ở trên, Chỉ thị của Tổng thống - sẽ được hoàn thiện vào tháng 6 năm 2000, sẽ xác định một cách rõ hơn các khái niệm về bình đẳng giới, đồng thời đề ra các hành động cụ thể cho các cơ quan của Chính phủ nhằm giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới. Yêu cầu tất cả các bộ, ban ngành và các cơ quan Chính phủ phải: • Tiến hành phân tích giới đối với tất cả các chính sách, chương trình, dự án, luật pháp và ngân sách. • Thu thập và phổ biến các số liệu tách biệt theo giới tính đối với từng lĩnh vực. • Thiết lập cơ chế hỗ trợ lồng ghép giới. • Hàng năm tiến hành đánh giá và báo cáo về tiến bộ đã đạt được trong lĩnh vực bình đẳng giới. ở Phi-líp-pin và Băng-la-đét, những công cụ hỗ trợ này đã đưa ra một khung chính sách vĩ mô, trên cơ sở đó MWE có thể hợp tác với các cơ quan để xây dựng các công cụ cụ thể hơn cho việc lồng ghép giới. Dưới đây là ví dụ về công cụ vĩ mô dựa trên cơ sở giới ở Phi-líp-pin: Công cụ hỗ trợ ở Phi-líp-pin Kế hoạch phát triển đáp ứng vấn đề giới của Phi-líp-pin (PPGD) 1995-2025 PPGD là một bản kế hoạch 30 năm theo đuổi mục tiêu bình đẳng giới. Kế hoạch này đã nêu bật các chính sách, chiến lược, chương trình và dự án mà Chính phủ phải phê duyệt nhằm tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia và hưởng thụ trong quá trình phát triển của đất nước, hướng dẫn các cơ quan giải quyết các vấn đề và mối quan tâm về bình đẳng giới trong quá trình dài hạn. PPGD đã được phê duyệt theo Sắc lệnh hành pháp (EO) số 273. Sắc lệnh này đã đưa ra các quy định chi tiết và yêu cầu tất cả các cơ quan Chính phủ, bộ ngành, các tổ chức từ trung ương đến địa phương tiến hành các bước nhằm bảo đảm việc thực hiện đầy đủ các chính sách, các chiến lược, chương trình và dự án đã đề ra trong bản Kế hoạch. Với thời hạn là 30 năm, đòi hỏi phải thể chế hoá các nỗ lực lồng ghép trong Chính phủ thông qua việc lồng ghép các mối quan tâm về bình đẳng giới vào quá trình lập kế hoạch, xây dựng chương trình và lên ngân sách của các ngành. Ðiều này có nghĩa là các chiến lược đáp ứng vấn đề giới sẽ được đưa ra trong quá trình: • Xây dựng, đánh giá và cập nhật các kế hoạch hàng năm của các cơ quan. • Xây dựng, đánh giá và cập nhật các kết quả cho các kế hoạch phát triển quốc gia trung và dài hạn. • Chuẩn bị đầu vào cho các báo cáo đánh giá việc thực hiện của các ngành, các kế hoạch đầu tư công và các văn kiện tương tự khác. • Tất cả các cam kết thực hiện của các tổ chức sẽ cho thấy kết quả cụ thể của việc thực hiện bình đẳng giới. 35
  37. • Trong các kế hoạch ngân sách và kế hoạch tài chính hàng năm. PPGD là cơ chế chủ chốt nhằm thực hiện Cương lĩnh Hành động ở Phi-líp-pin, bao gồm các lĩnh vực: 1) phát triển nguồn nhân lực (y tế, giáo dục, phát triển đô thị và nhà ở, phúc lợi xã hội và phát triển cộng đồng, truyền thông, nghệ thuật và văn hoá, tư pháp, hoà bình và trật tự, lao động và việc làm); 2) phát triển kinh tế và các ngành nghề (nông nghiệp và ngư nghiệp, cải cách ruộng đất, môi trường và tài nguyên thiên nhiên, công nghiệp, thương mại và du lịch); 3) hỗ trợ cơ sở hạ tầng và công nghệ (phát triển cơ sở hạ tầng, khoa học và công nghệ); và các mối quan tâm đặc biệt (phụ nữ và vấn đề di cư, mại dâm, bạo lực đối với phụ nữ, phụ nữ và gia đình, dân bản xứ, chính trị và quản trị đất nước). Việc xây dựng PPGD là kết quả của quy trình tư vấn giữa các tổ chức Chính phủ và các tổ chức phi chính phủ ở cả cấp trung ương và địa phương cũng như sự tham gia của các chuyên gia về giới và các nhà hoạt động của các tổ chức về phụ nữ và các nhà khoa học. NCRFW, với sự tư vấn của NEDA, đã trở thành cơ quan điều phối chính trong việc xây dựng kế hoạch phát triển đáp ứng vấn đề giới của Philíppin. Các công cụ kỹ thuật Các công cụ kỹ thuật để lồng ghép giới là những công cụ được sử dụng trong phân tích, thực hiện, xây dựng ngân sách và kiểm tra/ đánh giá các chính sách mang tính nhạy cảm giới. Những công cụ này được thiết kế nhằm đưa kế hoạch thành hành động. Dưới đây là một số ví dụ về cách sử dụng các công cụ trong từng bối cảnh. Các công cụ phân tích giới Phân tích giới Phân tích giới là một khâu quan trọng nhất trong bộ công cụ lồng ghép giới. Phân tích giới chứng minh được các chính sách hiện nay có tác động khác nhau như thế nào đối với phụ nữ và nam giới, và xây dựng được cơ chế để dự báo các tác động về bình đẳng giới đối với những chính sách đã được phê duyệt đối với từng giới, và những tiến bộ vươn tới bình đẳng giới. Các nhà hoạch định chính sách phải có khả năng nắm bắt được những tác động khác biệt tiềm ẩn đối với phụ nữ và nam giới và hiểu rõ những tác động đó có thể ảnh hưởng tới quá trình phát triển như thế nào. Dù Chính phủ có cho rằng các cơ hội được mở ra đối với mọi công dân là như nhau song thực tế cuộc sống của phụ nữ và nam giới lại rất khác nhau. Cơ hội bình đẳng chưa chắc đã dẫn đến kết quả bình đẳng. Thách thức đối với các nhà hoạch định chính sách là phải dự đoán được tác động của các chính sách và luật pháp và đảm bảo những tác động đó sẽ công bằng với cả nam giới và phụ nữ. Chính phủ Ca-na-đa đã vận dụng một khung phân tích gọi là Phân tích dựa trên cơ sở giới (GBA). Phân tích giới đã trở thành nền tảng cho việc phân tích chính sách và xây dựng các công cụ phát triển ở Băng-la-đet, Phi-líp-pin và In- đô-nê-xi-a. Phân tích giới là một quá trình mà các nhà hoạch định chính sách tiến hành đánh giá những tác động khác nhau của các chính sách, chương trình và luật pháp dự kiến xây dựng/hiện hành đối với phụ nữ và nam giới, và đánh giá tác động của vai trò cũng như trách nhiệm giới trong các nỗ lực phát triển. Thực tế cho thấy cuộc sống của phụ nữ và nam giới còn khác nhau và cơ hội bình đẳng không có nghĩa là kết quả bình đẳng. Phân tích giới hình thành cơ sở cho mọi công cụ để lồng ghép giới. Số liệu tách biệt theo giới tính 36
  38. Số liệu tách biệt theo giới tính là thông tin cơ bản cho phân tích giới. Ðó là cơ sở để lồng ghép giới. Ðó là nền tảng thiết yếu để xây dựng, kiểm tra và đánh giá tác động của chính sách. Không có các thông tin tách biệt về phụ nữ và nam giới thì không thể chứng minh được các chính sách và hoạt động có thể tác động khác nhau như thế nào đối với từng đối tượng và không có cơ sở để tuyên truyền vận động. Thiếu các số liệu tách biệt theo giới tính sẽ gây nhiều khó khăn cho việc đánh giá ảnh hưởng của các nỗ lực lồng ghép giới. Thường xuyên thu thập các số liệu cơ bản về phụ nữ là một phần không thể thiếu trong quá trình nghiên cứu trong tất cả các lĩnh vực và các cơ quan. Dưới đây là một số ví dụ về công cụ phân tích và lập kế hoạch giới đang được sử dụng ở Bang-la-đét, Phi-líp-pin và In-đô-nê-xi-a. Băng-la-đét Khung phân tích tác động giới (GIAF) GIAF là một phương pháp tiếp cận thiết thực, phù hợp với Banglađet nhằm đánh giá tác động của các chính sách, chương trình, dự án và các hoạt động của Chính phủ đối với phụ nữ và nam giới. GIAF được MWCA ở Banglađet xây dựng với sự hỗ trợ của dự án PLAGE do CIDA tài trợ. Vai trò của GIA là hỗ trợ các cán bộ hoạch định chính sách và lập kế hoạch của Chính phủ trong việc thực hiện các Chính sách quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ và Kế hoạch hành động quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ. Khung GIA bao gồm phân tích trên cơ sở giới các chính sách của Banglađet ở nhiều cấp độ khác nhau. Các vấn đề giới được đánh giá ở "giai đoạn xác định vấn đề" của quá trình hoạch định chính sách. Toàn bộ "tầm nhìn và các mục tiêu" của chương trình được xem xét để xác định phạm vi và nhu cầu lồng ghép giới. Các nhà lập kế hoạch chuyên ngành phải xác định xem nam giới và phụ nữ có được tham gia vào các hoạt động dự án với tư cách vừa là người quyết định vừa là người hưởng lợi hay không. Khung GIA yêu cầu phải phân tích việc phân bổ các nguồn lực đối với các chương trình và dự án nhằm đảm bảo đủ ngân sách cho các hoạt động thúc đẩy lồng ghép giới. In-đô-nê-xi-a Thanh phân tích giới (GAP) Công cụ phân tích giới đầu tiên được sử dụng ở Inđônêxia là GAP: GAP là một phương pháp tiếp cận tổng hợp đối với lồng ghép giới do Ban kế hoạch quốc gia (BAPPENAS) và MWE xây dựng vào năm 1998 với sự hỗ trợ của Viện Nghiên cứu khoa học quốc gia (LIPPI) và dự án WSI do CIDA tài trợ. Ðây là một công cụ vừa học vừa làm nhằm hướng dẫn các cán bộ lập kế hoạch cách phân tích chính sách trên cơ sở giới. Công cụ này có thể điều chỉnh và sử dụng ở các quốc gia khác. GAP buộc các nhà hoạch định chính sách phải giải đáp nhiều vấn đề liên quan tới quá trình lập và thực hiện chính sách đáp ứng nhạy cảm giới. GAP giúp các nhà hoạch định chính sách xác định được khoảng cách giới trong chính sách của họ và giúp xây dựng các chiến lược nhằm xoá bỏ các khoảng cách đó. GAP bao gồm nhiều bước giúp các nhà hoạch định chính sách tiến hành phân tích giới: 37
  39. Bước 1 Các mục tiêu tổng quát Chính sách quốc gia thường không mang tính nhạy cảm giới. Chính phủ đã cam kết gì để nâng cao địa vị cho người phụ nữ? Những cam kết này có được phản ánh trong các mục tiêu chính sách hiện hành không? Nếu không thì cần phải làm gì? Bước 2 Số liệu phản ánh thực tế Các số liệu định lượng và định tính được sử dụng để đánh giá những tác động khác nhau của các chính sách hiện hành đối với phụ nữ và nam giới, hoặc được sử dụng để xác định phạm vi giới trong những chính sách mới. Những số liệu này phải được phân tích theo giới tính, theo đó các nhà hoạch định chính sách sẽ hiểu những kinh nghiệm khác biệt của nam giới và phụ nữ. Bước 3 Các yếu tố khoảng cách Trong hầu hết các trường hợp, số liệu phản ánh khoảng cách tác động của các chính sách đối phụ nữ và nam giới. Ðó là khoảng cách gì? Tỷ lệ và mức độ phụ nữ và nam giới tham gia vào các chương trình quốc gia như thế nào? Phụ nữ và nam giới có được tiếp cận như nhau đối với các nguồn lực của Chính phủ (các chính sách, chương trình, dự án, luật pháp và ngân sách)? Ai là người kiểm soát các nguồn lực này? Nam giới và phụ nữ có được hưởng một cách công bằng các nguồn lực này không? Bước 4 Các vấn đề giới Những khoảng cách lớn nói lên điều gì? Các khoảng cách giới giữa phụ nữ và nam giới như thế nào? Tại sao những khoảng cách đó còn tồn tại? Các chính sách và chương trình của Chính phủ ảnh hưởng như thế nào đến sự mất cân bằng này? Nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng này? Cách giải quyết như thế nào? Bước 5 Các mục tiêu chính sách bình đẳng giới Chính phủ làm thế nào để giảm hoặc xoá bỏ khoảng cách giới? Chính phủ làm gì để đảm bảo phụ nữ được tham gia đầy đủ hơn và hưởng lợi một cách công bằng trong quá trình phát triển? Cần tiến hành những giải pháp nào nhằm giải quyết sự mất cân bằng truyền thống về địa vị giữa phụ nữ và nam giới? Cần có chính sách gì để thu hẹp khoảng cách này? Kiểm tra lại các mục tiêu: Những giải pháp đó có giúp giải quyết các yếu tố cách biệt không? Bước 6 Các chỉ số giới Cần xác định các chỉ số định lượng và định tính nào để đánh giá sự thành công trong việc thực hiện các mục tiêu của chính sách bình đẳng giới mới của Chính phủ? Những chỉ số nào cho biết những yếu tố cách biệt đã được giảm hoặc xoá bỏ? Những biện pháp đánh giá sự thành công trong bình đẳng giới của Chính phủ là gì? Hiện nay, GAP đã được thử nghiệm ở 4 bộ: Bộ Nhân sự, Bộ Giáo dục, Bộ Tư pháp và Bộ Nông nghiệp. GAP là một công cụ đơn giản, rõ ràng và dễ sử dụng. Vì GAP là công cụ dùng cho việc dạy cũng như phân tích giới nên việc hiểu các khái niệm về giới là cần thiết song chưa đủ. Do đó, GAP là một công cụ vừa mang tính sư phạm vừa mang tính kỹ thuật giúp cho các nhà lập kế hoạch và các tổ chức hiểu và tiến hành lồng ghép giới. Công cụ vừa làm vừa học để phân tích chính sách đáp ứng nhạy cảm giới là cầu nối giữa phân tích giới và công việc thường nhật của các nhà lập kế hoạch. Nó đòi hỏi các nhà lập kế hoạch phải áp dụng các kỹ năng cần thiết để đưa phân tích giới vào phân 38