Thế giới thư viện số

pdf 12 trang phuongnguyen 1850
Bạn đang xem tài liệu "Thế giới thư viện số", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfthe_gioi_thu_vien_so.pdf

Nội dung text: Thế giới thư viện số

  1. BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 4/2004 THẾ GIỚI THƯ VIỆN SỐ ThS. NGUYỄN MINH HIỆP GĐ Thư viện ĐH Khoa học Tự nhiên ĐHQG TP. Hồ Chí Minh Thư viện và thư viện số viện số ngày càng hoàn thiện việc tổ Thư viện số là gì? Xây dựng thư chức để người sử dụng tự hình thành tri viện số là xây dựng một cơ sở thư viện thức với phương châm "Thư viện số là hay đơn giản chỉ hình thành một bộ phận nơi sử dụng công nghệ để chuyển câu công nghệ trong một cơ sở? Đây là điều hỏi thành câu trả lời". chúng ta cần quán triệt trước khi bắt tay vào xây dựng thư viện số. Thư viện số không thực sự là một "thư viện được số hoá". Xây dựng thư Ngày nay vẫn còn nhiều người cho viện số là xây dựng phương thức mới, rằng thư viện là một nơi yên tĩnh trong công nghệ mới trong việc xử lý thông tin đó sách được cất giữ và người ta đánh - tri thức. Đó là bảo quản, sưu tầm, tổ giá thư viện theo tiêu chí số lượng sách chức, quảng bá, và truy cập thông tin hay được cất giữ nhiều hay ít. Đối với những nói chính xác hơn là tri thức, tức là thông người quản thủ thư viện có chuyên môn tin có ý nghĩa và hữu ích. Do đó, một thư thì thư viện là một cơ sở có tổ chức để viện số được xem như là nơi trình bày bảo quản tài liệu, sưu tập và để truy cập những bộ sưu tập thông tin có tổ chức. đến những thư viện khác; không những Bộ sưu tập tập trung vào đối tượng số chỉ sách mà còn có phim ảnh, băng đĩa hóa, bao gồm văn bản, hình ảnh và âm âm thanh, mẫu vật thực vật, sản phẩm thanh cùng với phương thức truy cập, văn hoá, vv Đối với nhà nghiên cứu, truy hồi, chọn lọc, tổ chức, bảo trì sưu thư viện là một mạng lưới cung cấp việc tập đó. Sưu tập do chuyên gia thư viện truy cập đến tri thức nhân loại được lưu tạo nên. Phần mềm thư viện số, chẳng giữ khắp mọi nơi. Nhiều sinh viên khoa hạn như “Hòn đá xanh – Greenstone” hỗ học và công nghệ ngày nay trên thế giới trợ người sử dụng tìm kiếm sưu tập, cũng thì cho rằng thư viện chính là World như hỗ trợ cho chuyên gia thư viện xây Wide Web. Đây là một quan niệm không dựng và bảo trì sưu tập có hiệu quả. đúng mặc dầu ngày nay Web là công nghệ quan trọng của thư viện. Sự khác Đối với một thư viện truyền nhau giữa thư viện số với World Wide thống, điều quan trọng là việc bổ sung Web thể hiện ở chổ Web thiếu hẵn nguồn tài nguyên ngày càng nhiều trên những đặc điểm quan trọng của việc sưu giá kệ trong kho thư viện; nhưng ngày tầm và tổ chức thông tin; trong khi thư nay thông tin về những nguồn tài nguyên 2
  2. BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 4/2004 đó chứa trong mục lục thư viện là quan Thư viện cổ đại chỉ hữu ích đối với trọng hơn. Chúng ta gọi những thông tin một thiểu số những người biết chữ và bị đó là metadata hay siêu dữ liệu – dữ liệu giới hạn trong một tầng lớp, giai cấp theo về dữ liệu – và đây là khái niệm nổi bật điều kiện xã hội. Hoạt động Thư viện nhất trong thư viện số. công cộng được bắt đầu phát triển trong thế kỷ 19. Nhưng vẫn là những thư viện Sự thay đổi bộ mặt thư viện đóng: sách được xếp theo kích cỡ trong Thư viện là kho tri thức của xã hội; những kho kín trong thư viện, độc giả chỉ có người còn cho rằng thư viện là đền tiếp cận với thủ thư ở quầy để yêu cầu đài của văn hoá và sự uyên thâm. Được mượn sách. Hầu hết những thư viện hình thành trong thời kỳ nông nghiệp trong lục địa châu Âu đã áp dụng thống trị trong tư duy của nhân loại, thư phương thức này trong một thời gian dài. viện đã trãi nghiệm qua một cuộc hồi Đến thế kỷ 20 một số quản thủ thư viện sinh với việc phát minh ngành in trong nhận thức được tiện ích của việc cho độc thời kỳ Phục hưng, và thực sự bắt đầu giả tiếp cận với kho sách đã đề xuất khởi sắc khi cuộc cách mạng công phương thức phục vụ kho mở với tài liệu nghiệp bùng phát với hàng loạt những được xếp theo môn loại. Phương thức phát minh cơ giới hoá quy trình in ấn. này được bắt đầu áp dụng và nhanh chóng phát triển trong những quốc gia Lịch sử thư viện đã trãi qua hơn 25 nói tiếng Anh hồi đó. thế kỷ. Hình ảnh thư viện của thời xa xưa được hình dung như là một cơ sở vững Ngày nay chúng ta đang đứng trước chắc trong đó chứa hàng ngàn phiến đá ngưỡng cửa của thư viện số. Cuộc cách khổng lồ được khắc chữ - thường được mạng thông tin không những cung cấp gọi là "rừng bia". Qua nhiều năm cùng năng lực công nghệ hướng đến thư viện với sự tiến hoá của nhân loại, con người số, mà còn đáp ứng một nhu cầu chưa càng tiến bộ trong nhận thức và thư viện từng có về lưu trữ, tổ chức, và truy cập ngày càng được phát triển. Giai đoạn thông tin. Nếu thông tin là tiền tệ trong Quản lý tư liệu đã trãi qua một thời gian nền kinh tế tri thức, thư viện số sẽ là dài theo sự phát triển đó. Cho đến một ngân hàng, nơi được đầu tư. Quả vậy, lúc, cũng xuất phát từ ý định ban đầu là Goethe – Đại thi hào Đức đã từng nói làm tốt công việc lưu trữ và bảo quản, “đến thư viện giống như đi vào một nơi thư viện đã chú trọng đến việc xem phô hiện sự giàu sang tột đỉnh, ở đó lãi người sử dụng là trung tâm, với sự nhấn suất hậu hĩnh đang được thanh toán một mạnh đến việc trao đổi thông tin. Điều cách thầm lặng”. này cũng đồng thời để đáp ứng yêu cầu thông tin ngày càng gia tăng. Giai đoạn Như chúng ta đã thấy, xây dựng thư Quản lý thông tin được xem như bắt đầu. viện số không phải là xây dựng một cơ Và chúng ta sẽ nhận thức được rằng để sở thư viện mà là xây dựng một nền tảng xây dựng thư viện số là ta đã bắt đầu công nghệ để tiến đến giai đoạn quản lý bước qua một giai đoạn phát triển mới tri thức. Nền tảng công nghệ này được của thư viện: Giai đoạn Quản lý tri thức. xây dựng trên một cơ sở thư viện mà cơ 3
  3. BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 4/2004 sở thư viện này được xây dựng trên một Sưu tầm thông tin và tổ chức phục nền tảng thư viện truyền thống. Vì thế vụ rộng rãi trên Internet hoàn toàn khác muốn xây dựng thư viện số, trước hết hẳn với việc đơn thuần là trình bày thông phải củng cố nền tảng thư viện truyền tin trên Web. Sưu tập trở nên có thể được thống: tuân thủ những tiêu chuẩn nghiệp bảo hành, truy tìm, lướt tìm. Trước khi vụ căn bản và thay đổi một số giá trị cũ trình bày, mỗi sưu tập trải qua một quá cho phù hợp với việc ứng dụng công trình hình thành, một khi được xây dựng nghệ mới. xong, sưu tập hoàn toàn tự động. Quá trình này tạo nên tất cả những cấu trúc Hình thành Thư viện số được dùng trong thời gian truy cập sưu Hình thành thư viện số bằng cách tập. Việc truy tìm dựa trên những chỉ sử dụng công nghệ để tạo lập một cách mục khác nhau bao gồm trong toàn văn nhanh chóng những bộ sưu tập thông tin và siêu dữ liệu. Việc lướt tìm dựa trên có tổ chức và làm tăng năng lực truy tìm những siêu dữ liệu và thông tin được tóm và lướt tìm của người sử dụng. Phần tắt từ những toàn văn của tài liệu. Cấu mềm nguồn mở thư viện số “Hòn đá trúc hỗ trợ cho cả hai việc truy tìm và xanh – Greenstone” sẽ cung cấp phương lướt tìm được tạo ra trong suốt quá trình cách xây dựng những bộ sưu tập và tổ xây dựng sưu tập. Một khi tài liệu mới chức thông tin để phục vụ trên Internet. xuất hiện, nó có thể được kết nạp vào sưu tập bằng cách tái xây dựng. Một sưu tập – collection thông tin bao gồm nhiều tài liệu dưới nhiều hình Sở hữu trí tuệ và bản quyền Trong một thư viện truyền thống, thức. Một tài liệu – document là thông quyền sở hữu tài liệu là quan trọng; điệp mang thông tin dưới hình thức điện nhưng trong lĩnh vực lưu hành tài tử. Tài liệu là đơn vị cơ sở từ đó sưu tập nguyên điện tử, quyền sở hữu trí tuệ, cụ thông tin được xây dựng, mặc dù chúng thể là quyền tác giả hay bản quyền là có thể có những cơ sở hạ tầng và những quan trọng hơn. tập tin kết hợp riêng. Nói chung tài liệu bao gồm văn bản, mặc dù chúng có thể là Sưu tầm thông tin và làm cho thông tập tin hình ảnh, âm thanh hay video. tin đó trở nên phổ biến hơn đối những Một sưu tập có thể chứa nhiều loại tài người khác là một điều liên quan đến vấn liệu khác nhau. Mỗi sưu tập cung cấp đề xã hội, và những người xây dựng thư một giao diện đồng nhất qua đó tất cả tài viện số phải am hiểu quyền sở hữu trí tuệ liệu có thể được truy cập – mặc dù cách để hành động một cách có trách nhiệm mà tài liệu đó hiển thị sẽ tuỳ thuộc vào và đúng luật xung quanh những ứng phương tiện và hình thức của tài liệu đó. dụng cụ thể của họ. Một thư viện nói chung bao gồm nhiều sưu tập khác nhau, mỗi sưu tập tổ chức Thư viện số có thể làm cho việc mỗi khác – mặc dù có sự giống nhau nổi truy cập trở nên rộng rãi hơn thư viện bật trong phương cách sưu tập hiển thị. truyền thống. Và chính điều này đã nảy sinh ra nhiều vấn đề: truy cập thông tin 4
  4. BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 4/2004 trong thư viện số, nói chung ít bị kiểm cho bản điện tử, dù được số hoá từ bản in soát hơn truy cập sưu tập in ấn trong thư hay được tạo nên dưới dạng điện tử từ viện thường. Đưa thông tin vào thư viện đầu. Khi mua một cuốn sách, ta có thể số là có khả năng làm cho thông tin đó bán lại, nhưng chắc chắn không mua trở nên phổ biến ngay đối với một số quyền tái phân phối. Quyền đó tùy thuộc lượng độc giả hầu như vô hạn. vào bản quyền. Đối với người sử dụng, thông tin Ai làm chủ một tác phẩm cụ thể? trên thế giới có thể truy cập bất cứ nơi Bản quyền đầu tiên là của người sáng tác đâu. Đối với tác giả, một độc giả có trình trừ phi tác phẩm được thuê sáng tác. độ hơn có thể tiếp cận được nhiều thông Trong trường hợp này bản quyền thuộc tin hơn trước. Và đối với nhà xuất bản, về cơ quan hay tổ chức thuê theo hợp nhiều thị trường mới mở ra vượt quá mọi đồng; bản quyền có thể được sang giới hạn địa lý. Nhưng có một nghịch lý. nhượng hay chuyển cho một đơn vị khác Tác giả và nhà xuất bản hỏi có bao nhiêu thông qua một hợp đồng cụ thể, được cuốn sách sẽ được bán nếu những thư thực hiện bằng văn bản do người chủ ký viện số nối mạng khiến cho bản điện tử tên. của cuốn sách đó được truy cập rộng rãi trên thế giới? Cơn ác mộng cho họ khi Luật bản quyền là phức tạp. Tình câu trả lời là một. Có bao nhiêu sách sẽ trạng luật pháp đối với tập tin máy tính được xuất bản trực tuyến nếu toàn bộ thị và tài liệu cụ thể được xuất bản trên trường có thể bị phá hủy bởi việc bán World Wide Web lại mù mờ. Muốn xây một bản điện tử cho một thư viện công dựng thư viện số thì phải cần số hoá tài cộng? liệu. Chúng ta phải làm như thế nào để tránh vi phạm bản quyền? Trước hết Nhà xuất bản sẽ phản ứng như thế chúng ta phải xem xét: nào trước tình huống này? Lời cảnh báo – Nếu tác phẩm được số hoá ở cho người sử dụng là nhà xuất bản sẽ trong miền (domain) công thông qua công nghệ và phương tiện luật cộng thì chúng ta không phải pháp để thực thi chính sách hạn chế việc xin phép ai hết. Dĩ nhiên kết truy cập đến những thông tin họ bán – quả số hoá của chúng ta cũng chẳng hạn như, bằng cách hạn chế việc không được bảo vệ bản quyền, truy cập của người mua, cho dùng thử trừ phi kết quả của ta nhiều trong một thời gian hạn định hoặc đánh hơn bản gốc; thuế khi sử dụng quá hạn. – Nếu tài liệu được tặng cho cơ sở của ta để số hoá và người Sở hữu một cuốn sách chắc chắn tặng có bản quyền, thì chúng không phải là xác lập được quyền sở hữu ta tiến hành số hoá, tuy nhiên đối với tài liệu đó theo nghĩa của bản cần phải yêu cầu người tặng quyền. Mặc dù có nhiều bản của một tài cung cấp cho mình quyền liệu nhưng chỉ có một bản quyền. Điều được số hoá – có thể bằng một này không chỉ áp dụng cho bản in mà cả mẫu giấy có ghi "quyền sử 5
  5. BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 4/2004 dụng tác phẩm với bất kỳ mục thông tin từ Web và tạo chỉ mục cho đích chung của cơ sở, dưới bất những thông tin đó. Hầu hết những thư kỳ phương tiện nào". viện số có mục tiêu cung cấp việc truy tìm và lướt tìm cao cấp hơn và hiệu quả Nếu ta muốn số hoá tài liệu mà hơn search engines. Trong thư viện số, không rơi vào hai trường hợp trên thì ta tài liệu là có khả năng tìm thấy ở trong phải cân nhắc thử việc số hoá của chúng thư viện nhiều hơn là sản phẩm được tạo ta có phải là một việc làm có lợi ích nên trên Web site. chung mà không xâm phạm quyền lợi của người khác. Đây là một điều khó về Nguồn tài liệu mặt pháp lý. Cuối cùng nếu chúng ta Nguồn tài liệu của mỗi thư viện mỗi không chắc chắn với điều cân nhắc trên khác tuỳ theo chính sách phát triển sưu thì ta phải tiến hành xin phép để được tập và loại hình thư viện – thư viện Quốc cấp phép thực hiện số hoá. gia, thư viện công cộng, thư viện đại học, thư viện chuyên ngành, và thư viện Tóm lại để tiến hành xây dựng thư trường học. Ngoài ra, khi bắt tay xây viện số, ta phải lưu ý đến vấn đề bản dựng thư viện số cần quan tâm đến sự quyền. Những người thực hiện phải cam khác nhau về tự động hóa – việc ứng kết hiểu biết đầy đủ về bản quyền và dụng công nghệ sẽ không đồng đều trong nhận thức sâu sắc rằng giấy phép là rất nhiều thư viện. Do đó vấn đề xác định cần thiết để chuyển đổi tài liệu không mục tiêu là phải được xem xét trước, qua thuộc trong miền công cộng. đó xác định nguyên tắc sưu tầm tài liệu. Có ba kịch bản xây dựng thư viện số liên Sưu tầm thông tin từ Web quan đến việc hình thành nguồn tài liệu: Tất cả những vấn đề về bản quyền 1. Xây dựng thư viện số trên cơ sở đều có một tác động thực tiển và tức thì chuyển đổi một thư viện hiện vào thư viện số. Vì rằng thư viện số là hữu – số hoá tài liệu thư viện. sưu tập thông tin có tổ chức. Web thì đầy 2. Xây dựng thư viện số bằng cách những thông tin không được tổ chức. Tải thiết lập một bộ sưu tập điện tử xuống từng phần để tổ chức thông tin bên cạnh sưu tập in ấn; đưa vào trong sưu tập có định hướng và 3. Xây dựng thư viện số bằng cách làm cho những tài liệu đó hữu ích hơn, cung cấp một cổng thông tin vào thông tin có ý nghĩa hơn đối với những một sưu tập tài liệu điện tử đang đối tượng cụ thể là một phạm vi áp dụng hiện hữu trên Web. chính yếu cho thư viện số. Những kịch bản này không phải là Bộ máy tìm kiếm - Search engines, độc nhất mà cũng không phải toàn diện, một trong những dịch vụ được dùng rộng trong thực tế chúng ta thường gặp phải rãi nhất trên Internet, là một minh hoạ sự trộn lẫn. Chúng ta cần phải xác định cho việc sưu tầm thông tin từ Web. rõ để tập trung giải quyết vấn đề trước Người ta sử dụng phần mềm "robot" để khi tiến hành dự án xây dựng thư viện tải xuống một cách liên tục phần lớn số. 6
  6. BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 4/2004 1. Tính hữu dụng: Hữu dụng là lý Chuyển đổi một thư viện hiện do cơ bản trước tất cả mọi quyết hữu định phát triển sưu tập. Tài liệu Chuyển một thư viện thường sang có tần suất sử dụng cao (như dạng số là một cách làm đầy tham vọng giáo trình, tài liệu tham khảo mà và đắt tiền. Số hóa nội dung của một sưu các giáo viên thường yêu cầu tất tập in ấn thường là một công việc đồ sộ cả sinh viên tìm đọc); và chán nản. Thế nhưng có người cho 2. Nhu cầu nội bộ: Sưu tập nội bộ rằng muốn xây dựng thư viện số thì phải được xây dựng để phục vụ nhu số hoá toàn bộ tài liệu có trong thư viện. cầu nội bộ và chi phí cho tài Đây là một quan niệm hết sức sai lầm, nguyên nội bộ phải được thuyết thực ra đây là một ảo tưởng vì thực tế minh vì lợi ích nội bộ – chẳng không có một thư viện nào trên thế giới hạn như đối với thư viện đại có đủ nhân lực tài lực để thực hiện công học, yêu cầu học tập, giảng dạy, việc này. và nghiên cứu là ưu tiên; 3. Tài liệu mới: Mặc dù sưu tập cũ Mặc dù thư viện số có ba thuận lợi mang tính lịch sử là cần thiết chính hơn hẳn thư viện thường là: Dễ cho nghiên cứu, nhưng tài liệu dàng truy cập từ xa, nâng cao hơn năng mới vẫn ưu tiên hơn; lực truy tìm và lướt tìm, và phục vụ với 4. Tài liệu liên quan đến bản gốc: tính cách là một dịch vụ mang đến giá trị Những tài liệu mà người muốn gia tăng cho người sử dụng, tuy nhiên tìm hiểu không thể tiếp cận trước khi bắt tay vào việc số hóa một sưu được bản gốc (ví dụ các văn bản tập chúng ta cần phải cân nhắc thật kỹ viết tay – "manuscript" của các lưỡng liệu có thật cần thiết để thực hiện nhà thơ, nhà văn, các nhà chính không. trị, hoặc các bản tuyên ngôn có chữ ký cuả các lãnh tụ như bản Một khi chúng ta đã quyết định tiến tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ hành thì vấn đề then chốt là xác định độ hiện có tại Thư viện Quốc hội ưu tiên của tài liệu để chuyển đổi. Tài Hoa Kỳ, vv ). Trên thực tế, liệu thư viện có thể chia làm ba loại: sưu còn có rất nhiều thể loại viết tay tập đặc biệt và tài liệu một bản, chẳng trên những chất liệu khác nhau. hạn sách quý hiếm và bản viết tay; tài Việc số hoá các bản viết tay đó liệu được sử dụng cao, thường xuyên tạo điều kiện tiếp cận thuận lợi được yêu cầu cho giảng dạy và nghiên hơn cho các nhà nghiên cứu; cứu; và tài liệu có mức độ sử dụng thấp 5. Tài liệu quý hiếm: Tài liệu quí bao gồm tài liệu nghiên cứu ít dùng hiếm, lâu năm, độc giả không thường xuyên. thể trực tiếp sử dụng, dễ hư hỏng – chẳng hạn như tài liệu Có sáu nguyên tắc được xác định chữ Nôm trên giấy bổi; nhằm chọn tài liệu để số hóa hướng đến 6. Chuyển đối nhận thức: Ngày việc phát triển sưu tập thư viện số: càng có nhiều thông tin chuyển 7
  7. BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 4/2004 sang dạng số. Tài liệu giúp thông tin điện tử thông qua những chỉ người sử dụng chuyển đổi nhận điểm – pointers. thức để làm quen việc sử dụng dạng thông tin này là ưu tiên. Như chúng ta đã đề cập ở trên, Web thiếu những đặc điểm sưu tầm và tổ chức Chúng ta cần phải cân nhắc mức độ thông tin như của thư viện số. Nhưng nó ưu tiên đối với những nguyên tắc trên chứa một lượng khổng lồ thông tin có trong việc chọn tài liệu để số hóa. ích. Người ta sàng lọc thông tin đó và tổ chức lại để xây dựng những sưu tập phụ Xây dựng một sưu tập mới của Web. Thư viện số xây dựng theo Xây dựng thư viện số bằng cách cách này sẽ tạo ra những phân lớp quan thiết lập những sưu tập tài liệu mới là trọng cung cấp việc truy cập thông tin đã phổ biến hơn việc số hoá thư viện hiện có sẵn trên Web. Giá trị học thuật và hữu. Để xây dựng một sưu tập mới ta giáo dục của nguồn tài liệu càng cao thì thường phải đối mặt với cả hai loại tài khối lượng thời gian của chuyên gia đầu liệu: tài liệu đã ở dạng điện tử rồi và tài tư cho việc mô tả càng lớn. liệu in ấn cần phải số hoá. Nếu toàn bộ tài liệu ở dạng điện tử thì công việc hết Cổng thông tin thường tập trung sức dễ dàng, ngay cả việc sưu tầm, tổ một đề tài chuyên biệt hoặc chú trọng chức tập tin và chuyển đổi dạng thức; đến đối tượng người sử dụng cụ thể. công việc này rẽ hơn nhiều so với việc số Chẳng hạn như đối với một thư viện đại hoá tài liệu. học, công nghệ cổng thông tin tích hợp cung cấp những công cụ mới cho người Vấn đề là chúng ta phải xác định quản lý thư viện, giảng viên, các nhà metadata. Có được metadata cần thiết và nghiên cứu khoa học và các chuyên gia chuyển đổi qua dạng điện tử thường là công nghệ thông tin tạo nên một môi công việc chính trong vấn đề xây dựng trường dạy, học và nghiên cứu với bốn sưu tập. Khi số hoá một thư viện hiện (4) mục tiêu sau: hữu thì metadata có sẵn rồi, nhưng khi 1. Mục tiêu thứ nhất là cung cấp xây dựng sưu tập mới việc xác định kho tài nguyên trung tâm cho metadata là phức tạp hơn nhiều. các tài nguyên được số hoá, hỗ trợ việc chia sẻ các nguồn tài Thư viện ảo nguyên và làm nơi bảo tồn các Một loại thư viện số khác cung cấp công trình số hoá này. một cổng thông tin nhằm vào thông tin 2. Mục tiêu thứ hai là cung cấp hệ điện tử ở nơi khác ngoài thư viện. Loại thống thông tin số có khả năng này đôi khi được gọi là thư viện ảo để tổ chức, phân loại, biên mục, nhấn mạnh rằng đây là thư viện mà bản chú dẫn và tổng hợp các tài thân không chứa nội dung. Những quản nguyên theo các chuẩn IMS, thủ thư viện đã dùng thuật ngữ này cách DC, trên nền hỗ trợ của siêu đây hơn mười năm để chỉ một loại thư dữ liệu XML. viện chuyên cung cấp việc truy cập 8
  8. BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 4/2004 3. Mục tiêu thứ ba là tạo nên giao được tạo ra một cách tự động để độc giả diện duy nhất và thống nhất cho có thể định vị bất kỳ một tổ hợp từ nào các giảng viên, sinh viên và hay đối với bất kỳ kỹ thuật trích dẫn nghiên cứu sinh cùng truy cập, metadata tự động được định trước, chẳng tra cứu, tìm kiếm các tài nguyên hạn xác định nhan đề của tài liệu bằng số hoá này để hỗ trợ nguồn cách tìm trong văn bản. thông tin cho các bài giảng, công việc học tập, tham khảo Những yếu tố tổ chức tài liệu của sinh viên và công tác nghiên Nếu tài liệu là những khối xây cứu khoa học. dựng căn bản của thư viện số, thì markup 4. Mục tiêu thứ tư nhằm đảm bảo và metadata là những yếu tố tổ chức. việc thống nhất các quy trình bổ Markup được dùng để chỉ rõ cấu trúc của sung thông tin, cơ sở dữ liệu, bộ tài liệu riêng lẻ và kiểm soát phương sưu tập điện tử cũng như việc thức trình bày cho người sử dụng. lưu trữ và quản lý tập trung các Metadata được dùng để xúc tiến việc nguồn tài nguyên này giữa thư truy cập đến những phần thích hợp của viện và các khoa. Đây là khả sưu tập qua việc truy tìm và lướt tìm. năng tập trung và chia sẻ hợp lý Một phần công việc của markup là để các lực lượng lao động giữa thư xác định metadata. viện và các khoa. Có một sự khác biệt quan trọng Số hóa tài liệu giữa metadata hiện – explicit với Một trong những công việc đầu metadata trích –extracted. Metadata hiện tiên mà ta quan tâm khi bắt đầu xây dựng được xác định bởi con người sau khi xem một thư viện số là liệu ta có cần phải số xét cẩn thận và phân tích tài liệu. Tạo hoá tài liệu hiện hữu trong thư viện hay nên một dẫn mục của mục lục thư viện không. Số hoá là tiến trình chuyển tài truyền thống (biểu ghi MARC) là một liệu thư viện truyền thống, cụ thể là sách công việc của một biên mục viên được và văn bản sang dạng điện tử và lưu trữ đào tạo kỹ lưỡng: thường phải mất từ trên máy tính. một đến hai tiếng đồng hồ để tạo nên Có hai giai đoạn trong tiến trình một dẫn mục mới. Do đó để có một tập số hoá. Giai đoạn đầu quét hình – hợp lớn biểu ghi thư tịch dạng MARC thì scanning cho ra sản phẩm số hoá dạng phải đầu tư rất nhiều công sức và tiền hình. Giai đoạn hai cho ra một sản phẩm của. Tác giả Ian H. Witten trong cuốn dạng số hoá văn bản bằng môt tiến trình sách How to Build a Digital Library đã cho biết vào năm 1997 Thư viện Quốc – gọi là nhận dạng ký tự quang học OCR hội Hoa Kỳ đã biên mục gần 300.000 (Optical Character Recognition). Trong biểu ghi thư tịch MARC, tiêu tốn vào nhiều hệ thống thư viện số, tài liệu chỉ ở khoảng 25 triệu đô la. OCLC, một cơ giai đoạn đầu, nghĩa là những gì độc giả quan biên mục tập trung ở Mỹ, có vào thấy chỉ là hình ảnh. Giai đoạn hai là cần – thiết đối với những văn bản có chỉ mục khoảng 34 triệu biểu ghi MARC biểu 9
  9. BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 4/2004 hiện một đầu tư vào khoảng 30.000 năm lưu trữ và tổ chức dữ liệu trong khi nhân công! HTML cho phép hiển thị dữ liệu đó trong trình duyệt Web. Do đó XML và Metadata trích có được một cách tự HTML có thể chuyển đổi cho nhau. động từ nội dung tài liệu. Công việc này thường khó thực hiện chính xác. Khai – Ngôn ngữ đánh dấu siêu văn thác văn bản – text mining, được định bản: HTML nghĩa như một tiến trình phân tích văn HTML, hay HyperText Markup bản để trích thông tin hữu ích cho mục Language, là dạng tài liệu cơ sở của đích cụ thể, là một đề tài nghiên cứu World Wide Web, được thiết kế một nóng bỏng hiện nay. cách đặc biệt để cho phép tham khảo hay siêu kết nối – hyperlinks đến những tập Markup tin khác. Với tư cách là ngôn ngữ chung Để hiểu được công nghệ mới, của Web, HTML là cơ sở cho tất cả giao chúng ta cần biết đôi chút về lịch sử, diện thư viện số và giao diện chuẩn đối công việc của những con người thầm với Internet. Do đó, tài liệu nguồn thư lặng sau “hậu trường”. Một consortium viện số thường được trình bày dưới dạng nổi tiếng W3C (World Wide Web HTML bao gồm hình ảnh, đồ hoạ, hình Consortium) bao gồm các nhà nghiên ảnh động, âm thanh, các chương trình cứu và chuyên gia CNTT, trong suốt tương tác hoàn chỉnh và văn bản. Hàng thập niên 1970 và 1980 với một nỗ lực triệu trang Web được truy xuất mỗi ngày tiên khởi để phối hợp một dạng thức dữ từ hàng ngàn máy tính Web server trên liệu có thể trao đổi toàn cục với các khả khắp thế giới. năng lưu trữ thông tin phong phú đã tạo nên một hệ thống khái quát hoá việc – Ngôn ngữ đánh dấu mở rộng: đánh dấu cấu trúc được phát triển gọi là XML Ngôn ngữ đánh dấu khái quát hoá tiêu Hạn chế của SGML đã làm xúc tác chuẩn hay SGML – Standard phát sinh "ngôn ngữ đánh dấu mở rộng" Generalised Markup Language; được XML – Extensible Markup Language. thông qua như là một tiêu chuẩn quốc tế XML là một công cụ đầy năng lực. Nó ISO vào năm 1986. SGML không phải là cho phép các dạng thức tập tin trong một ngôn ngữ đánh dấu mà là siêu ngôn phạm vi một tổ chức, như thư viện số, ngữ (ngôn ngữ nói về ngôn ngữ khác) hợp lý hoá và được chia sẻ. Những tiêu miêu tả dạng markup. Ngôn ngữ này phổ chuẩn quan hệ khác nhau gia tăng năng biến trong những tổ chức lớn như văn lực XML và mở rộng khả năng ứng phòng chính phủ và quân đội. Tuy nhiên dụng. XML cung cấp một cú pháp biểu nó khá phức tạp và tỏ ra khó để phát thị thông tin có cấu trúc hay metadata. triển những công cụ phần mềm linh hoạt. Được kết hợp với những tiêu chuẩn phụ, Ứng dụng nổi tiếng nhất của SGML XML còn được ứng dụng rất nhiều: hỗ chính là HTML; còn XML là phiên bản trợ tái cấu trúc tài liệu, truy vấn, trích đơn giản hoá của SGML được thiết kế dẫn và định dạng thông tin, vv đặc biệt có thể thao tác trên Web. XML 10
  10. BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 4/2004 Siêu dữ liệu thư tịch Nhật, và Hoa Kỳ để hoàn thiện. Dublin Những ai làm việc với thư viện số Core được Tổ chức Chuẩn Quốc gia Hoa thì cần phải biết hai phương pháp chuẩn Kỳ – ANSI phê chuẩn vào năm 2001. khác nhau về trình bày siêu dữ liệu tài liệu: Dạng biên mục máy đọc được So với dạng MARC, Dublin Core MARC và Dublin Core. Dạng MARC đơn giản một cách dễ chịu. Dublin Core được phát triển công phu, kiểm soát chặt chỉ bao gồm 15 thành phần so với hàng chẽ, chi ly và bao hàm đến độ khá phức trăm của MARC. Như cái tên "core – tạp, được tạo nên bởi những nhà biên nòng cốt" đã hàm ý rằng Dublin Core là mục học chuyên nghiệp chủ yếu để sử một tập hợp những thành phần nòng cốt, dụng trong thư viện truyền thống. Chuẩn ngoài ra còn có thể tăng thêm những Dublin Core chủ trương đơn giản hóa để thành phần phụ cho mục đích riêng. Hơn có thể áp dụng rộng rãi cho tài liệu thư nữa, những thành phần hiện hữu có thể viện số đối với những người không cần được cải tiến xuyên qua việc sử dụng. được huấn luyện biên mục thư viện. Hai Tất cả những thành phần này đều có thể chuẩn này không những chú ý đến giá trị lập lại khi cần thíết. đặc thù của mình mà còn lưu tâm đến những triết lý căn bản đối nghịch nhau Các bước cơ bản hình thành một cách tuyệt đối. thư viện số Sử dụng phần mềm thư viện số Chuẩn MARC được Thư viện Hòn đá xanh – Greenstone là giải pháp Quốc hội Hoa Kỳ phát triển vào cuối thích hợp với điều kiện của chúng ta hiện thập niên 1960 để phục vụ việc trao đổi nay. Các bước cơ bản hình thành thư biểu ghi mục lục giữa các thư viện. viện số với Hòn đá xanh bao gồm: MARC được giảng dạy khá kỹ lưỡng 1. Chọn các tài liệu muốn thêm vào; trong những chương trình đào tạo thư 2. Xác lập quyền hạn, bản quyền cho viện học trên thế giới. Chúng ta khá quen việc sử dụng các tài liệu này thuộc với biểu ghi MARC khi tiếp xúc trong thư viện số; với mục lục trực tuyến ở thư viện đại 3. Dùng máy quét để chuyển thể các học. tài liệu giấy tờ thành dạng kỹ thuật số; Chuẩn Dublin Core là một tập 4. Chuyển đổi các tài liệu này thành hợp những thành phần metadata được định dạng (có thể tích hợp giữa thiết kế đặc biệt cho việc sử dụng không văn bản và hình) mà phần mềm chuyên. Được dùng chủ yếu cho việc mô Hòn đá xanh hiểu được (tốt nhất tả tài liệu điện tử. Đây là kết quả của một là HTML, các tài liệu soạn bởi sự hợp tác nhiều người cùng xây dựng. Microsoft Word, riêng một số Dublin là tên của thành phố ở Bang định dạng khác cũng có thể Ohio, Hoa Kỳ, nơi cuộc họp đầu tiên được chấp nhận nhờ vào một được tổ chức vào năm 1995. Từ đó đến phần gọi là plug-in nhưng với nay đã có 11 lần hội nghị quốc tế tổ chức mức độ chính xác khác nhau); tại Anh, Úc, Phần Lan, Đức, Canađa, 11
  11. BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 4/2004 5. Đánh nhãn cho các chương, các 4. Số lượng tài liệu bạn muốn có đoạn và hình ảnh cho tài liệu; trong thư viện số? 6. Tổ chức tập hợp này thành thư 5. Tổng cộng bao nhiêu trang? viện số có cấu trúc tối ưu hóa; 6. Có bao nhiêu tài liệu loại hình 7. Xây dựng thư viện số bằng phần ảnh đồ họa? mềm Hòn đá xanh; 7. Tài liệu có cần thiết được chia 8. Xuất bản tập hợp này thành CD- thành các phần được tra cứu ROM và/hay phân phối trên bởi một số ít người đọc và các Internet. phần được tham khảo một cách phổ biến? Để tạo ra một thư viện số, sản 8. Các tài liệu đã ở sẵn dạng kỹ phẩm sau khi xuất bản phải ở dạng kỹ thuật số chưa? thuật số. Nếu tài liệu là sách, tờ bản tin 9. Nếu vậy, chúng ở dạng nào? hoặc các tài liệu giấy tờ khác thì chúng 10. Quyền hạn và bản quyền của cần phải được quét (scan) để chuyển các tài liệu là gì? thành dạng máy tính hiểu được (bước 3). 11. Ai sở hữu bản quyền? Thông thường công việc này được thực 12. Có những tổ chức nào khác có hiện nhờ vào bộ nhận dạng kí tự, nhưng cùng nhóm đối tượng không? cũng có thể được đánh máy lại. Bước 5 13. Bạn có sẵn sàng hợp tác với làm cho các phần khác nhau của tài liệu những tổ chức khác không? có thể được người sử dụng chọn và xem 14. Ngân quỹ bạn dành cho toàn một cách độc lập trong thư viện số. Còn bộ dự án thư viện số là bao nhiêu? bước 6 liên quan đến việc gán các thuộc 15. Bao nhiêu nhân lực dành cho tính cho các tài liệu chẳng hạn như tiêu việc biên tập tài liệu, quét tài đề đề mục, từ khóa, và các dữ liệu thư liệu và lập trình? tịch khác giúp sắp xếp thứ tự và tìm kiếm 16. Cần bao nhiêu máy tính cho trong thư viện. dự án? 17. Bao nhiêu đĩa CD-ROM bạn Những điều cần quan tâm trước muốn phát hành? tiên 18. Chúng là miễn phí hay để bán? Để bắt đầu một tiến trình biên tập tạo ra thư viện số từ tài liệu, văn bản Phần mềm Thư viện số Hòn đá giấy, chúng ta nên quan tâm đến những xanh – Greenstone câu hỏi dưới đây: Giải pháp tốt để xây dựng bộ sưu 1. Mục tiêu thư viện số của bạn tập nhằm hình thành Thư viện số chính là gì? là sử dụng phần mềm nguồn mở Hòn đá 2. Nhóm đối tượng mà bạn quan xanh – Greenstone. tâm? 3. Nhóm đối tượng này đa dạng Greenstone đáp ứng yêu cầu của như thế nào, địa phương, tôn giáo các Thư viện: hay toàn cầu? • Xây dựng các bộ sưu tập tài liệu điện tử từ Internet và các CSDL 12
  12. BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 4/2004 trực tuyến dạng đa phương tiện: viện hoàn chỉnh theo yêu cầu của Sưu tập âm thanh, tranh ảnh, hình từng thư viện. ảnh động, hoạt hình, đồ hình, toàn văn. Greenstone chính là công nghệ • Xây dựng các sưu tập về các giúp cán bộ tham khảo (reference chuyên ngành, bằng cách số hoá librarian) chuyển câu hỏi của độc giả các tài liệu hiện có tại thư viện: thành câu trả lời qua những bộ sưu tập và Sách, tạp chí, luận văn, báo cáo xuất bản thông tin trên CD-ROM hay khoa học, đề tài nghiên cứu khoa những phương tiện truyền thông khác để học, bài giảng, giáo trình, vv phục vụ độc giả. Greenstone hỗ trợ cho với Sưu tập toàn văn. cán bộ giảng dạy và nghiên cứu tự xây • Xây dựng CSDL Sưu tập dạng dựng những bộ sưu tập chuyên ngành và thư tịch biên mục theo Dublin cùng với cán bộ thư viện đóng góp vào Core hay MARC 21. kho tài nguyên học tập theo phương • Hỗ trợ thực hành xây dựng sưu châm "Thư viện số là sự tương tác giữa tập và biên mục Dublin Core và người sử dụng với thư viện để phục vụ MARC 21 của Greenstone bằng chính người sử dụng". công cụ Librarian Interface. • Greenstone có thể tích hợp vào Phần mềm nguồn mở Thư viện số phần mềm quản lý thư viện có Hòn đá xanh – Greenstone là người bạn sẵn. đồng hành của tất cả chúng ta, có thể hỗ • Greenstone có thể được phát triển trợ cho tất cả các loại hình thư viện với thành một phần mềm quản lý thư bất cứ quy mô nào để cùng XÂY DỰNG THƯ VIỆN SỐ. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. FOX, Adward A., SULEMAN, Hussein, LUA. Ming. Building Digital Libraries Made Easy: Toward Open Digital Libraries. Proccedings. – 5th ICADL 2002. – Singapore, 11-14/12/2002. 2. LESK, MICHAEL. Practical Digital Libraries: Books, Bytes, and Bucks. – San Francisco: Morgan Kaufmann, 2000. 3. NGUYỄN MINH HIỆP và ĐOÀN HỒNG NGHĨA. Bài giảng Thư viện điện tử - Thư viện số (powerpoints). – TP. HCM : Thư viện Cao học, 2004. 4. NGUYỄN MINH HIỆP và ĐOÀN HỒNG NGHĨA. Thực hành xây dựng thư viện số. – TP. HCM : Đại học Quốc gia, 2004. 5. Từ giấy đến bộ sưu tập. – Phần mềm Thư viện số Hòn đá xanh – Greenstone Digital Library Software, 2003 6. WITTEN, Ian H. và BAIBRIDGE, David. How to Build a Digital Library. – New York : Morgan Kaufmann, 2003. 13