Thế giới là phẳng: Tóm tắt Lịch sử Thế kỉ Hai mươi Mốt

pdf 505 trang phuongnguyen 3300
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Thế giới là phẳng: Tóm tắt Lịch sử Thế kỉ Hai mươi Mốt", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfthe_gioi_la_phang_tom_tat_lich_su_the_ki_hai_muoi_mot.pdf

Nội dung text: Thế giới là phẳng: Tóm tắt Lịch sử Thế kỉ Hai mươi Mốt

  1. TỦ SÁCH SOS2 THOMAS L. FRIEDMAN THẾ GIỚI LÀ PHẲNG Tĩm tắt Lịch sử Thế kỉ Hai mươi Mốt Farrar, Straus and Gioux / New York 1
  2. Mục Lục 1. Khi Tơi Cịn Đang Ngủ 4 2. Mười Lực làm Phẳng Thế giới 48 LỰC LÀM PHẲNG # 1: KHI CÁC BỨC TƯỜNG ĐỔ XUỐNG VÀ WINDOWS ĐI LÊN 48 LỰC LÀM PHẲNG # 2: KHI NETSCAPR LÊN SÀN 56 LỰC LÀM PHẲNG # 3: PHẦN MỀM WORK FLOW 71 LỰC LÀM PHẲNG # 4: OPEN-SOURCING 81 LỰC LÀM PHẲNG # 5: OUTSOURCING 103 LỰC LÀM PHẲNG # 6: OFFSHORING 114 LỰC LÀM PHẲNG # 7: XÂU CHUỖI CUNG 128 LỰC LÀM PHẲNG # 8: INSOURCING 141 LỰC LÀM PHẲNG # 9: IN-FORMING 150 LỰC LÀM PHẲNG # 10: CÁC STEROID 159 3. Ba Sự Hội tụ 173 SỰ HỘI TỤ I 176 SỰ HỘI TỤ II 177 SỰ HỘI TỤ III 181 ZIPPIE” TIẾNG TRUNG QUỐC NĨI THẾ NÀO? 192 VỚI TÌNH YÊU TỪ NGA 195 BA SỰ HỘI TỤ KHÁC 197 4. Sự Sắp xếp Vĩ đại 201 INDIA ĐỐI LẠI INDIANA:AI BOC LOT AI 205 CÁC CƠNG TI DỪNG VÀ BẮT ĐẦU Ở ĐÂU? 208 TỪ MỆNH LỆNH & CHỈ HUY ĐẾN CỘNG TÁC VÀ KẾT NỐI 212 NHIỀU RỐI LOẠN BẢN SẮC 214 AI SỞ HỮU GÌ? 217 CÁI CHẾT CỦA NHỮNG NGƯỜI BÁN HÀNG 219 5. Mĩ và Tự do Thương mại 225 Ricardo Vẫn cịn Đúng? 225 6. Những Tiện dân 237 7. Cuộc Khủng hoảng Thầm lặng 250 BÍ MẬT NHỎ KHĨ CHỊU # 1: LỖ HỔNG SỐ LƯỢNG 256 BÍ MẬT NHỎ KHĨ CHỊU # 2: LỖ HỔNG HỒI BÃO 260 BÍ MẬT NHỎ KHĨ CHỊU # 3: LỖ HỔNG GIÁO DỤC 265 2
  3. 8. Đây Khơng phải là một Thử nghiệm 276 SỰ LÃNH ĐẠO 280 CƠ BẮP 284 MỠ TỐT: Những cái Đệm Đáng Giữ lại 293 CHỦ NGHĨA TÍCH CỰC XÃ HỘI 297 NUƠI DẠY CON CÁI 303 9. Đức Mẹ Đồng Trinh Guadalupe 309 TỰ XEM XÉT 312 TƠI CĨ THỂ BÁN BUƠN CHO BẠN 313 TƠI CHỈ CĨ THỂ BÁN LẺ CHO BẠN 316 VĂN HỐ LÀ QUAN TRỌNG: GLOCALIZATION 324 NHỮNG ĐIỀU VƠ HÌNH 329 10. Các cơng ti đối phĩ ra sao 339 QUI TẮC #1: KHI THẾ GIỚI TRỞ NÊN PHẲNG 340 QUI TẮC #2: VÀ BÉ SẼ HÀNH ĐỘNG LỚN 345 QUI TẮC #3: VÀ LỚN SẼ HÀNH ĐỘNG BÉ 350 QUI TẮC #4: CÁC CƠNG TY TỐT NHẤT LÀ NHỮNG NGƯỜI CỘNG TÁC TỐT NHẤT 353 QUI TẮC #5: TRONG MỘT THẾ GIỚI PHẲNG 357 QUI TẮC #6: CÁC CƠNG TY GIỎI NHẤT OUTSOUCE ĐỂ THẮNG 360 QUI TẮC #7: OUTSOUCING KHƠNG CHỈ CHO BENEDICT ARNOLDS 363 11. Thế giới khơng phẳng 371 CẤM SÚNG VÀ ĐIỆN THOẠI DI ĐỘNG 371 QUÁ ỐM YẾUU 375 QUÁ THIẾU QUYỀN 382 QUÁ THẤT VỌNG 391 QUÁ NHIỀU XE TOYOTA 407 12. Lí thuyết Dell về ngăn ngừa xung đột 414 THỜI XƯA ĐỐI LẠI KỊP THỜI [Just-in-Time] 414 INFOSYS ĐỐI LẠI AL-QAEDA 429 QUÁ BẤT AN VỀ MẶT CÁ NHÂN 436 13. 9/11 đối lại 11/9 441 EBAY 453 ẤN ĐỘ 456 TAI HOẠ TỪ DẦU MỎ 460 CHỈ MỘT TẤM GƯƠNG TỐT 463 TỪ CÁC TIỆN DÂN -> ĐẠI GIA 464 3
  4. LỜI CẢM ƠN 471 CHỈ MỤC 475 4
  5. LỜI GIỚI THIỆU Bạn đọc cầm trên tay cuốn thứ mười ba* của tủ sách SOS2, cuốn Thế giới Phẳng của Thomas L. Freedman. Cuốn sách được in và phát hành lần đầu vào tháng 4-2005. Đây là cuốn sách thứ tư của Freedman, cuốn thứ hai, Xe Lexus và Cây Ơliu, vừa được Nhà xuất bản Khoa Học Xã hội xuất bản bằng tiếng Việt. T. L. Freedman là nhà báo nổi tiếng của tờ New York Times, đi nhiều, gặp gỡ với rất nhiều nhân vật nổi tiếng, với con mắt hết sức sắc sảo, ơng trình bày những vấn đề tồn cầu hố rất súc tích và sinh động, ơng trình bày những vấn đề khơ khan, khĩ hiểu một cách sáng sủa, dí dỏm, dùng nhiều ẩn dụ giúp bạn đọc lĩnh hội vấn đề một cách dễ dàng. Tơi nghĩ cuốn sách rất bổ ích cho các nhà chính trị, các nhà hoạch định chính sách, vì nĩ trình bày những thách thức của thế giới phẳng đối với Mĩ, với thế giới đang phát triển, với các cơng ti, nên các loại độc giả này sẽ cĩ thể thấy thơng tin và ý tưởng của Freedman gây kích thích. Các học giả chắc sẽ học được cách trình bày đơn giản nhiều vấn đề phức tạp. Tơi nhiệt thành khuyên giới trẻ và các doanh nhân hãy đọc cuốn sách này, vì nĩ sẽ bổ ích cho họ để xác định lại mình trong học tập, khởi nghiệp, học và làm việc suốt đời. Tất nhiên cuốn sách cũng bổ ích cho tất cả những ai quan tâm đến tương lai, việc làm, cơng nghệ, khoa học, và sáng tạo. Người dịch đã cố hết sức để làm cho bản dịch được chính xác và dễ đọc, song do hiểu biết cĩ hạn nên khĩ thể tránh khỏi sai sĩt. Phần chỉ mục nội dung, ở mỗi mục chính (và cả ở mục phụ nếu chúng tơi thấy thuật ngữ cĩ thể là lạ), cĩ kèm theo thuật ngữ tiếng * Các quyển trước gồm: 1. J. Kornai: Con đường dẫn tới nền kinh tế thị trường, Hội Tin học Việt Nam 2001, Nhà Xuất bản Văn hố Thơng tin (NXB VHTT) 2002. 2. J. Kornai: Hệ thống Xã hội chủ nghĩa, NXB Văn hố Thơng tin 2002 3. J. Kornai- K. Eggleston: Chăm sĩc sức khoẻ cộng đồng, NXB VHTT 2002 4. G. Soros: Giả kim thuật tài chính, sắp xuất bản 5. H. de Soto: Sự bí ẩn của tư bản, sắp xuất bản 6. J. E. Stiglitz: Chủ nghĩa xã hội đi về đâu? sắp xuất bản 7. F.A. Hayek: Con đường dẫn tới chế độ nơng nơ, sắp xuất bản 8. G. Soros: Xã hội Mở, sắp xuất bản 9. K. Popper: Sự Khốn cùng của Chủ nghĩa lịch sử, sắp xuất bản. 10. K. Popper: Xã hội mở và những kẻ thù của nĩ, I, Plato 11. K. Popper: Xã hội mở và những kẻ thù của nĩ, II, Hegel và Marx 12. Thomas S. Kuhn: Cấu trúc của các cuộc Cách mạng Khoa học 5
  6. Anh để bạn đọc tiện tham khảo; tác giả dùng nhiều từ mới, một số từ được để nguyên bằng tiếng Anh, phần giải thích nghĩa cĩ thể tìm thấy ở Chỉ mục. Những người dịch cuốn sách này gồm: Cao Việt Dũng (các Chương 9, 10, 11, 12) và Nguyễn Tiên Phong (Chương 13), phần cịn lại tơi dịch và đảm đương việc hiệu đính chung. Tơi thành thật xin lỗi các cộng sự vì đã sốt lại và sửa từng câu của các chương đĩ. Làm vậy cĩ thể mất cái hay của bản dịch ban đầu, kể cả cách viết chính tả nhưng để cho bản dịch được nhất quán tơi đã sửa rất nhiều, phần hay là của họ, các lỗi và thiếu sĩt là của tơi. Tơi chịu trách nhiệm về mọi lỗi và sai sĩt của tồn bộ bản dịch. Mọi chú thích của tác giả được đánh bằng số. Tất cả các chú thích đánh dấu sao (*) ở cuối trang là của người dịch. Trong văn bản đơi khi người dịch cĩ đưa thêm từ hay cụm từ để cho câu được rõ nghĩa, phần đĩ được đặt trong dấu [như thế này]. Bản dịch chắc cịn nhiều thiếu sĩt mong bạn đọc thơng cảm, lượng thứ, và chỉ bảo; xin liên hệ theo địa chỉ Tạp chí Tin học và Đời sống, 54 Hồng Ngọc Phách Hà Nội [25/B7 Nam Thành Cơng], hoặc qua điện thư thds@hn.vnn.vn hay nqa@netnam.vn 09-2005 Nguyễn Quang A 6
  7. Thế giới Trở thành Phẳng Thế nào
  8. 4 THẾ GIỚI LÀ PHẲNG MỘT Khi Tơi Cịn Đang Ngủ Tâu các Hoảng tử, với tư cách những người Cơng giáo Cơ đốc, và các hồng tử những người yêu mến và thúc đẩy niềm tin Cơng giáo linh thiêng, và là những kẻ thù của học thuyết Mohamet, và của mọi sự sùng bái thần tượng và dị giáo, đã quyết định cử tơi, Christopher Columbus, đi đến các miền nĩi trên của Ấn Độ, để xem các hồng tử, nhân dân, và các vùng đất ấy, và để tìm hiểu tính khí của họ và phương pháp thích hợp nhằm cải biến họ theo niềm tin linh thiêng của chúng ta; và hơn nữa đã chỉ dẫn rằng tơi khơng được đi bằng đường bộ theo hướng Đơng, như lệ thường, mà bằng đường phía Tây, theo hướng mà đến nay chúng ta khơng cĩ bằng chứng chắc chắn nào rằng đã cĩ bất cứ ai đi. - Từ nhật kí của Christopher Columbus về chuyến đi 1492 của ơng hẳng ai đã từng chỉ hướng cho tơi như thế này trên một sân C golf trước đây: “Hãy nhắm vào hoặc Microsoft hay IBM”. Tơi đứng ở điểm phát bĩng đầu tiên tại sân golf KGA Golf Club ở khu trung tâm thành phố Bangalore, miền nam Ấn Độ, khi bạn chơi của tơi trỏ vào hai cao ốc bằng kính-và thép bĩng lống nổi bật lên ở đằng xa, đúng sau thảm cỏ xanh đầu tiên. Cao ốc Goldman Sachs vẫn chưa xong; nếu khơng thì anh ta đã cĩ thể trỏ vào cái đĩ nữa và biến nĩ thành bộ ba. HP và Texas Instrument cĩ văn phịng của họ ở sau lỗ thứ chín, dọc theo lỗ thứ mười. Đĩ khơng phải là tất cả. Các mốc phát bĩng là của Epson, cơng ti máy in, và một trong những người xách gậy của chúng tơi đội mũ 3M. Bên ngồi, một số biển hiệu giao thơng cũng do Texas Instrument tài trợ, và bảng 4
  9. KHI TƠI CỊN ĐANG NGỦ 5 quảng cáo Pizza Hut trên đường trưng một miếng pizza bốc hơi, dưới đầu đề “Các miếng giga đầy Hương vị!” Khơng, đấy dứt khốt khơng phải Kansas. Thậm chí khơng cĩ vẻ giống Ấn Độ. Đấy là Thế giới Mới, Thế giới Cũ, hay Thế giới tiếp? Tơi đã đến Bangalore, Silicon Valley của Ấn Độ, bằng hành trình khám phá của riêng tơi giống của Columbus. Columbus đã đi thuyền buồm với các tàu Niđa, Pinta, và Santa María trong một nỗ lực để khám phá ra một đường ngắn hơn, trực tiếp hơn đến Ấn Độ bằng hướng về phía tây, qua Đại Tây Dương, mà ơng cho là đường biển khơi đến Đơng Ấn – hơn là đi xuống phía nam và đơng vịng qua châu Phi, như những người khai phá Bồ Đào Nha thời ơng đã thử đi. Ấn Độ và các Hịn đảo Gia Vị phương Đơng nổi tiếng một thời về vàng, ngọc, đá quý, và tơ lụa của họ - một nguồn vật báu khơng kể xiết. Tìm đường tắt qua biển này đến Ấn Độ, ở thời khi các thế lực Hồi giáo ngày đĩ đã chặn các đường bộ từ châu Âu, đã là một cách cho cả Columbus và nền quân chủ Tây Ban Nha trở nên giàu cĩ và hùng mạnh. Khi Columbus căng buồm, hiển nhiên ơng đã cho rằng Trái đất trịn, đĩ là vì sao ơng lại tin chắc rằng ơng cĩ thể đến Ấn Độ bằng cách đi về phương tây. Tuy nhiên, ơng đã tính sai quãng đường. Ơng nghĩ Trái Đất là một quả cầu nhỏ hơn. Ơng cũng đã khơng dự kiến gặp một vùng đất rộng trước khi ơng đến được Đơng Ấn. Tuy nhiên, ơng đã gọi các thổ dân mà ơng đã gặp ở thế giới mới là các “Indian-dân da đỏ” [những người Ấn Độ]. Quay về nhà, tuy thế, Columbus đã cĩ thể nĩi cho những người đỡ đầu ơng, Vua Ferdinand và Hồng hậu Isabella, rằng mặc dù ơng khơng thấy Ấn Độ, ơng cĩ thể xác nhận rằng thế giới quả thực trịn. Tơi bắt đầu đi Ấn Độ theo đúng hướng đơng, qua Frankfurt. Tơi dùng Lufthansa với vé hạng thương gia. Tơi biết chính xác hướng mình đi nhờ bản đồ GPS hiện trên màn hình thịi ra từ ngăn của ghế ngồi trên máy bay. Tơi hạ cánh an tồn và đúng giờ. Tơi cũng đã gặp những người được gọi là Indian. Tơi cũng đã đi tìm nguồn giàu cĩ của Ấn Độ. Columbus đã tìm phần cứng – các kim loại quý, tơ lụa, và gia vị - nguồn giàu cĩ trong thời ơng. Tơi đã tìm phần mềm, năng lực trí ĩc, các thuật giải phức tạp, các cơng nhân tri thức, các call center [trung tâm phục vụ khách hàng qua điện thoại], các giao thức truyền, những đột phá về kĩ thuật quang học – các nguồn giàu cĩ của thời chúng ta. Columbus đã vui sướng biến những người Indian ơng gặp thành các nơ lệ, một quỹ lao động chân tay tự do. 5
  10. 6 THẾ GIỚI LÀ PHẲNG Tơi chỉ muốn hiểu vì sao những người Indian tơi gặp lại lấy việc làm của chúng ta, vì sao họ trở thành một quỹ quan trọng như vậy cho outsourcing [thuê làm ngồi] dịch vụ và việc làm cơng nghệ thơng tin (CNTT) từ Hoa Kì và các nước cơng nghiệp khác. Columbus cĩ hơn một trăm người trên ba tàu của ơng; tơi cĩ một nhĩm nhỏ từ kênh Discovery Times vừa thoải mái trong hai xe tải dã chiến, với các lái xe Ấn Độ đi chân trần. Khi căng buồm, ấy là nĩi vậy, tơi cũng đã cho rằng thế giới là trịn, song cái tơi bắt gặp ở Ấn Độ thật đã hết sức làm lung lay niềm tin của tơi vào ý niệm đĩ. Columbus tình cờ gặp châu Mĩ song ơng nghĩ mình đã khám phá ra một phần Ấn Độ. Tơi thực sự thấy Ấn Độ và nghĩ nhiều người tơi gặp ở đĩ là những người Mĩ. Một số đã thực sự lấy tên Mĩ, và những người khác bắt chước rất cừ giọng nĩi Mĩ ở các call center và các kĩ thuật kinh doanh Mĩ ở các phịng thí nghiệm phần mềm. Columbus tâu lên vua và hồng hậu của mình rằng thế giới trịn và ơng đã đi vào lịch sử như người đầu tiên khám phá ra điều này. Tơi quay về nhà và chia sẻ sự phát hiện chỉ với vợ, và chỉ thì thầm. “Em yêu”, tơi thủ thỉ, “anh nghĩ thế giới là phẳng”. àm sao tơi đã đi đến kết luận này? Tơi nghĩ bạn cĩ thể nĩi tất L cả bắt đầu trong phịng họp của Nadan Nilekani ở cơng ti Infosys Technologies Limited. Infosys là một trong các báu vật của thế giới CNTT Ấn Độ, và Nilekani, CEO [Tổng điều hành] của cơng ti, một trong những thuyền trưởng chín chắn và được kính trọng nhất của nền cơng nghiệp Ấn Độ. Tơi đi xe với nhĩm Discovery Times đến khu Infosys, khoảng bốn mươi phút từ trung tâm Bangalore, để thăm cơ sở và phỏng vấn Nilekani. Đến khu Infosys bằng con đường sứt sẹo, với các chú bị linh thiêng, các xe ngựa kéo, và các xe kéo cĩ động cơ tất cả cùng chen lấn sát cạnh xe chúng tơi. Tuy nhiên, một khi bước vào cổng Infosys bạn ở trong một thế giới khác. Một bể bơi lớn cỡ khu nghỉ mát nép mình gữa các tảng đá mịn và những dải cỏ được cắt tỉa, sát kề một bãi cỏ khổng lồ như một sân golf nhỏ. Cĩ vơ số quán ăn và một câu lạc bộ sức khoẻ tuyệt vời. Các cao ốc kính-và-thép dường như mọc lên giống cỏ dại mỗi tuần. Trong một số cao ốc đĩ, các nhân viên Infosys đang viết các chương trình phần mềm cụ thể cho các cơng ti Mĩ hay châu Âu; trong các cao ốc khác, họ thực hiện những cơng 6
  11. KHI TƠI CỊN ĐANG NGỦ 7 việc hậu trường của các cơng ti siêu quốc gia lớn đặt cơ sở ở Mĩ và châu Âu - mọi thứ từ bảo trì máy tính đến các đề án nghiên cứu cụ thể đến trả lời các cuộc gọi của khách hàng từ khắp nơi trên thế giới. An ninh là chặt, các camera theo dõi các cửa, và nếu anh làm việc cho American Express, anh khơng thể đi vào cao ốc quản lí các dịch vụ và nghiên cứu cho General Electric. Các kĩ sư Ấn Độ trẻ, nam và nữ, đi nhanh nhẹn từ cao ốc này sang cao ốc kia, lủng lẳng các thẻ ID [nhận dạng]. Một người cĩ vẻ như cĩ thể lo các khoản thuế của tơi. Người khác cĩ vẻ như cơ cĩ thể tháo rời máy tính của tơi. Và người thứ ba cĩ vẻ như cơ ta đã thiết kế nĩ! Sau khi ngồi cho một cuộc phỏng vấn, Nilekani đã dẫn nhĩm TV chúng tơi dạo quanh trung tâm hội nghị tồn cầu của Infosys- tầng zero của cơng nghiệp outsourcing Ấn Độ. Nĩ là một phịng sâu thẳm lát ván ơ gỗ nhìn giống một phịng học được xếp thành dãy từ một trường luật Ivy League. Ở một đầu cĩ một màn hình đồ sộ cỡ bức tường và ở trên cao cĩ các camera trên trần cho hội nghị từ xa. “Đây là phịng hội nghị của chúng tơi, đây cĩ lẽ là màn hình lớn nhất châu Á - gồm bốn mươi màn hình số [gộp lại],” Nilekani tự hào giải thích, chỉ lên màn hình TV lớn nhất tơi đã từng thấy. Infosys, ơng nĩi, cĩ thể tổ chức một cuộc hội nghị ảo của những người chơi chủ chốt của tồn bộ chuỗi cung ứng tồn cầu của nĩ cho bất cứ dự án nào vào bất cứ lúc nào trên màn hình siêu cỡ đĩ. Như thế các nhà thiết kế Mĩ của họ cĩ thể nĩi chuyện trên màn hình với các nhà viết phần mềm Ấn Độ và các nhà sản xuất Á châu của họ cùng một lúc. “Chúng tơi cĩ thể ngồi ở đây, ai đĩ từ New York, London, Boston, San Francisco, tất cả đều trực tiếp [live]. Và cĩ thể việc thực hiện là ở Singapore, cho nên người ở Singapore cũng cĩ thể trực tiếp ở đây Đĩ là tồn cầu hố,” Nilekani nĩi. Phía trên màn hình cĩ tám chiếc đồng hồ tĩm tắt rất khéo ngày làm việc của Infosys: 24/7/365 [24 giờ một ngày; 7 ngày một tuần; 365 ngày một năm]. Các đồng hồ được gắn nhãn Tây Mĩ, Đơng Mĩ, GMT, Ấn Độ, Singapore, Hong Kong, Nhật Bản, Úc. “Outsourcing chỉ là một chiều của một thứ cơ bản hơn nhiều đang xảy ra hiện nay trên thế giới,” Nilekani giải thích. “Cái xảy ra [vài] năm vừa qua là đã cĩ một sự đầu tư ồ ạt vào cơng nghệ, đặc biệt trong thời đại bong bĩng, khi hàng trăm triệu dollar được đầu tư để thiết lập kết nối khắp nơi trên thế giới, cáp biển, và tất cả các thứ đĩ”. Đồng thời, ơng nĩi thêm, máy tính đã trở nên rẻ hơn và 7
  12. 8 THẾ GIỚI LÀ PHẲNG phân tán khắp thế giới, và đã cĩ một sự bùng nổ về phần mềm – e- mail, các phương tiện tìm kiếm như Google, và phần mềm sở hữu riêng, cĩ thể chẻ bất cứ cơng việc nào và gửi một phần đến Boston, một phần đến Bangalore, và một phần đến Bắc Kinh, tạo dễ dàng cho bất cứ ai để phát triển từ xa. Khi tất cả các thứ này đột nhiên xảy ra cùng lúc vào khoảng năm 2000, Nilekani nĩi thêm, chúng “đã tạo ra một nền nơi việc làm tri thức, vốn trí tuệ, cĩ thể được giao từ bất cứ đâu. Nĩ cĩ thể được chia nhỏ, giao, phân phối, sản xuất và ráp lại cùng nhau lần nữa – và điều này đã cho cách làm việc của chúng ta một độ tự do hồn tồn mới, đặc biệt việc làm cĩ tính chất trí tuệ Và cái mà anh đang nhìn thấy tại Bangalore ngày nay thực sự là đỉnh điểm của tất cả những điều trên kết hợp lại.” Chúng tơi ngồi trên đi văng bên ngồi văn phịng của Nilekani, đợi đội TV dựng các camera. Tại một điểm, tĩm tắt các ẩn ý của tất cả điều này, Nilekani đã thốt ra một cụm từ cứ lảng vảng trong đầu tơi. Ơng nĩi với tơi, “Tom, sân chơi đang được san phẳng”. Ý ơng muốn nĩi là các nước như Ấn Độ bây giờ cĩ khả năng cạnh tranh vì lao động tri thức tồn cầu như chưa từng bao giờ cĩ - và rằng Mĩ tốt hơn hãy sẵn sàng cho điều này. Mĩ bị thách thức, nhưng, ơng nhấn mạnh, sự thách thức sẽ là tốt cho Mĩ bởi vì chúng ta luơn sung sức nhất khi bị thách thức. Khi tơi rời khu Infosys về Bangalore tối hơm ấy và bị xĩc suốt dọc đường ổ gà, tơi cứ ngẫm nghĩ mãi về cụm từ đĩ: “Sân chơi đang được san phẳng”. Cái Nandan nĩi, tơi nghĩ, là sân chơi đang được san phẳng Được san phẳng? Được san phẳng? Trời ơi, ơng ta nĩi với tơi thế giới là phẳng!” Tơi ở đây, ở Bangalore – hơn 500 năm sau khi Columbus vượt qua đường chân trời, dùng cơng nghệ hàng hải thơ sơ của thời ơng, và trở về an tồn để chứng minh dứt khốt rằng thế giới trịn – và một trong những kĩ sư tinh nhanh nhất Ấn Độ, được đào tạo tại học viện kĩ thuật hàng đầu của Ấn Độ và được hỗ trợ bởi cơng nghệ hiện đại nhất hiện nay, về cơ bản đã nĩi với tơi là thế giới này phẳng, phẳng như màn hình mà trên đĩ ơng ta cĩ thể chủ trì cuộc họp tồn bộ chuỗi cung ứng tồn cầu của mình. Thậm chí lí thú hơn, ơng biểu dương sự phát triển này như một điều tốt, như cột mốc mới trong sự phát triển của lồi người và một cơ hội lớn cho Ấn Độ và thế giới – một sự thực đã khiến thế giới chúng ta phẳng! 8
  13. KHI TƠI CỊN ĐANG NGỦ 9 Ngồi đằng sau chiếc xe đĩ, tơi đã viết vội vàng bốn từ đĩ vào sổ tay của mình: “Thế giới là phẳng”. Ngay khi viết chúng, tơi nhận ra rằng đấy là thơng điệp cơ bản của mọi thứ tơi đã thấy và đã nghe ở Bangalore trong hai tuần làm phim. Sân chơi cạnh tranh tồn cầu được san bằng. Thế giới được san phẳng. Khi tơi nhận rõ điều này, cả hứng khởi và sự kinh hãi tràn đầy tơi. Nhà báo trong tơi hứng khởi khi đã tìm thấy một khung khổ để hiểu kĩ hơn các tin chính buổi sáng và để giải thích cái xảy ra trên thế giới ngày nay. Rõ ràng, hiện nay là cĩ thể cho nhiều người hơn bao giờ hết để hợp tác và cạnh tranh trong thời gian thực với nhiều người hơn về nhiều loại việc làm khác nhau hơn từ nhiều ngõ ngách của hành tinh hơn và trên cơ sở bình đẳng hơn bất cứ thời gian nào trước đây trong lịch sử lồi người – dùng máy tính, e- mail, mạng, hội nghị từ xa, và phần mềm mới năng động. Đĩ là cái Nandan đã nĩi cho tơi. Đĩ là cái tơi đã khám phá ra trong hành trình của tơi đến Ấn Độ và xa hơn. Và đĩ là cái cuốn sách này nĩi về. Khi bạn bắt đầu nghĩ về thế giới như là phẳng, rất nhiều thứ cĩ ý nghĩa theo những cách chúng khơng cĩ trước đây. Nhưng đích thân tơi cũng hứng khởi, bởi vì sự san phẳng thế giới cĩ nghĩa là bây giờ chúng ta đang kết nối tất cả các trung tâm tri thức trên hành tinh lại thành một mạng tồn cầu đơn nhất, mà - nếu hoạt động chính trị và chủ nghĩa khủng bố khơng cản đường – thì sẽ cĩ thể mở ra một kỉ nguyên thịnh vượng và đổi mới gây sửng sốt. Nhưng suy ngẫm thế giới phẳng cũng làm tơi tràn đầy kinh hãi, về mặt nghề nghiệp và cá nhân. Sự kinh sợ riêng của tơi xuất phát từ sự thực hiển nhiên rằng khơng chỉ những người viết phần mềm và các geek [các tay cự phách về] máy tính được trao quyền để cộng tác trong cơng việc ở một thế giới phẳng. Nĩ cũng là al-Qaeda và các mạng lưới khủng bố khác. Sân chơi khơng được san bằng chỉ theo cách thu hút và siêu trao quyền một nhĩm hồn tồn mới của những người đổi mới sáng tạo. Nĩ được san bằng theo cách lơi kéo và siêu trao quyền một nhĩm hồn tồn mới của những người đàn ơng và đàn bà giận dữ, nản chí, và bị làm nhục. Về nghề nghiệp, sự nhận ra thế giới là phẳng làm căng thẳng thần kinh vì tơi nhận ra rằng sự san bằng này đã xảy ra khi tơi cịn đang ngủ, và tơi đã bỏ quên nĩ. Tơi thực sự khơng ngủ, mà đã bận việc khác. Trước 11 tháng 9 (11/9), tơi đã tập trung theo dõi tồn cầu hố và khai thác sự căng thẳng giữa các lực “Lexus” của sự hội 9
  14. 10 THẾ GIỚI LÀ PHẲNG nhập kinh tế và các lực “Cây Ơ liu” của bản sắc và chủ nghĩa dân tộc – do đĩ cuốn Xe Lexus và Cây Ơ liu của tơi ra đời 1999. Song sau 11/9, các cuộc chiến tranh cây ơ liu đã ám ảnh tơi hồn tồn. Tơi dành hầu hết thời gian của mình chu du trong các thế giới Ả Rập và Hồi giáo. Vào các năm đĩ tơi đã mất dấu vết tồn cầu hố. Tơi đã lại tìm thấy vết đĩ trên hành trình của tơi đến Bangalore tháng 2 năm 2004. Một khi đã tìm thấy, tơi nhận ra rằng cĩ cái gì đĩ thật sự quan trọng đã xảy ra trong khi tơi gắn bĩ với các lùm cây ơ liu của Kabul và Baghdad. Tồn cầu hố đã đi đến một mức mới hồn tồn. Nếu bạn đặt cuốn Xe Lexus và Cây Ơ liu và cuốn sách này lại với nhau, bạn sẽ đi đến kết luận lí lẽ lịch sử khái quát là đã cĩ ba kỉ nguyên lớn của tồn cầu hố. Thời đại đầu kéo dài từ 1492- khi Columbus dương buồm, mở ra sự giao thương giữa Thế giới Cũ và Thế giới Mới – cho đến khoảng 1800. Tơi sẽ gọi thời đại này là Tồn cầu hố 1.0. Nĩ đã làm thế giới co lại từ một kích thước lớn thành cỡ trung bình. Tồn cầu hố 1.0 là về các nước và sức mạnh cơ bắp. Tức là, trong Tồn cầu hố 1.0 tác nhân then chốt của sự thay đổi, động lực thúc đẩy quá trình hội nhập tồn cầu đã là nước bạn cĩ bao nhiêu cơ bắp – bao nhiêu sức cơ bắp, bao nghiêu sức ngựa, sức giĩ, hay, muộn hơn, sức hơi nước – và bạn đã cĩ thể triển khai nĩ sáng tạo đến thế nào. Trong kỉ nguyên này, các nước và các chính phủ (thường được tơn giáo hay chủ nghĩa đế quốc hay sự kết hợp của cả hai xúi giục) đã dẫn đường phá bỏ các bức tường và nối chặt thế giới lại với nhau, thúc đẩy sự hội nhập tồn cầu. Trong Tồn cầu hố 1.0, các câu hỏi chủ yếu là: Nước tơi hợp với sự cạnh tranh và các cơ hội tồn cầu ở chỗ nào? Làm sao tơi cĩ thể đi tồn cầu và cộng tác với những người khác thơng qua nước tơi? Kỉ nguyên lớn thứ hai, Tồn cầu hố 2.0, kéo dài từ 1800 đến 2000, bị gián đoạn bởi Đại Khủng hoảng và Chiến tranh Thế giới I và II. Thời đại này làm thế giới co từ cỡ trung bình xuống cỡ nhỏ. Trong Tồn cầu hố 2.0, nhân tố then chốt của thay đổi, động lực thúc đẩy hội nhập tồn cầu, đã là các cơng ti đa quốc gia. Các cơng ti đa quốc gia này tiến hành tồn cầu hố vì thị trường và lao động, đầu tiên do sự bành trướng của các cơng ti cổ phần Hà Lan và Anh và Cách mạng Cơng nghiệp làm mũi nhọn. Trong nửa đầu của thời đại này, hội nhập tồn cầu được cấp lực bởi sự sụt giảm chi phí chuyên chở, nhờ động cơ hơi nước và đường sắt, và trong nửa sau bởi sự sụt giảm các chi phí liên lạc - nhờ sự phổ biến của điện tín, 10
  15. KHI TƠI CỊN ĐANG NGỦ 11 điện thoại, PC, vệ tinh, cáp quang, và phiên bản ban đầu của World Wide Web (WWW). Chính trong thời đại này mà chúng ta thực sự thấy sự ra đời và trưởng thành của một nền kinh tế tồn cầu, theo nghĩa rằng đã cĩ sự dịch chuyển đủ của hàng hố và thơng tin từ lục địa này sang lục địa khác để ở đĩ cĩ một thị trường tồn cầu, với sự chênh lệch giá về các sản phẩm và lao động. Các động lực ở đằng sau kỉ nguyên tồn cầu hố này là các đột phá về phần cứng - từ tàu hơi nước và đường sắt lúc ban đầu đến điện thoại và các máy tính lớn vào lúc cuối. Và câu hỏi lớn trong thời đại này đã là: Cơng ti tơi hợp với nền kinh tế tồn cầu ở chỗ nào? Nĩ tận dụng các cơ hội thế nào? Làm sao tơi cĩ thể đi tồn cầu và cộng tác với những người khác qua cơng ti của tơi? Cuốn Xe Lexus và Cây Ơ liu chủ yếu là về đỉnh điểm của kỉ nguyên này, một thời đại khi các bức tường bắt đầu sụp đổ trên khắp thế giới, và sự hội nhập, và sự phản ứng dữ dội với nĩ, lên một mức mới hồn tồn. Nhưng ngay cả khi các bức tường sụp đổ, vẫn cịn nhiều rào cản đối với sự hội nhập tồn cầu suơn sẻ. Hãy nhớ, khi Bill Clinton được bầu làm tổng thống năm 1992, hầu như khơng ai ngồi chính phủ và giới hàn lâm cĩ e-mail, và khi tơi viết Xe Lexus và Cây Ơ liu năm 1998, Internet và thương mại điện tử vừa mới cất cánh. Phải, chúng đã cất cánh – cùng với nhiều thứ khác nữa đã cùng đến trong khi tơi ngủ. Và đĩ là lí do vì sao tơi lí lẽ trong cuốn sách này rằng vào khoảng năm 2000 chúng ta đã bước vào một kỉ nguyên mới hồn tồn: Tồn cầu hố 3.0. Tồn cầu hố 3.0 làm thế giới co từ cỡ nhỏ xuống cỡ bé tí và đồng thời san bằng sân chơi. Và trong khi động lực trong Tồn cầu hố 1.0 là các nước tiến hành tồn cầu hố và động lực trong Tồn cầu hố 2.0 là các cơng ti tiến hành tồn cầu hố, động lực trong Tồn cầu hố 3.0 - thứ cho nĩ đặc trưng độc nhất vơ nhị - là năng lực mới tìm thấy cho các cá nhân để cộng tác và cạnh tranh tồn cầu. Và cái địn bẩy cho phép các cá nhân và các nhĩm đi tồn cầu dễ đến vậy và suơn sẻ đến vậy khơng phải là sức ngựa, khơng phải là phần cứng, mà là phần mềm- tất cả các loại ứng dụng mới – cùng chung với sự sáng tạo ra một mạng cáp quang tồn cầu biến tất cả chúng ta thành láng giềng sát vách. Bây giờ các cá nhân phải, và cĩ thể, hỏi, Tơi hợp với cạnh tranh và các cơ hội tồn cầu ngày nay ở chỗ nào, và làm sao tơi cĩ thể, tự mình, cộng tác với những người khác một cách tồn cầu? 11
  16. 12 THẾ GIỚI LÀ PHẲNG Song Tồn cầu hố 3.0 khơng chỉ khác các kỉ nguyên trước ở chỗ nĩ làm thế giới co lại và phẳng thế nào và nĩ trao quyền cho các cá nhân ra sao. Nĩ khác ở chỗ Tồn cầu hố 1.0 và Tồn cầu hố 2.0 chủ yếu do các cá nhân và doanh nghiệp Âu Mĩ dẫn dắt. Tuy Trung Quốc thực sự là nền kinh tế lớn nhất thế giới trong thế kỉ mười tám, chính các nước, các cơng ti, những người thăm dị phương Tây tiến hành phần lớn việc tồn cầu hố và định hình hệ thống. Nhưng về sau này, điều này sẽ ngày càng ít đúng hơn. Bởi vì nĩ làm thế giới co lại và phẳng, Tồn cầu hố 3.0 ngày càng nhiều sẽ được dẫn dắt khơng chỉ bởi các cá nhân mà cũng bởi các nhĩm cá nhân – phi Tây phương, khơng da trắng – đa dạng hơn nhiều. Các cá nhân từ mọi nơi của thế giới phẳng đều được trao quyền. Tồn cầu hố 3.0 biến thành cĩ thể cho rất nhiều người để cắm và chơi [plug and play], và bạn sẽ thấy mọi sắc cầu vồng con người tham gia. (Trong khi sự trao quyền cho các cá nhân để hành động tồn cầu là đặc tính mới quan trọng nhất của Tồn cầu hố 3.0, các cơng ti- to và nhỏ- cũng được trao quyền một cách mới nữa trong kỉ nguyên này. Tơi thảo luận chi tiết cả hai muộn hơn trong cuốn sách này). Khơng cần phải nĩi, tơi đã chỉ cĩ sự đánh giá lờ mờ nhất về tất cả điều này khi tơi rời văn phịng của Nandan ngày ấy ở Bangalore. Nhưng khi tơi ngồi suy ngẫm những thay đổi này ở ban cơng của phịng khách sạn của tơi tối hơm đĩ, tơi đã biết một thứ: tơi muốn bỏ mọi thứ và viết một cuốn sách cĩ thể cho phép tơi hiểu quá trình làm phẳng này đã diễn ra thế nào và các hệ luỵ của nĩ cĩ thể là gì đối với các nước, các cơng ti, và các cá nhân. Cho nên tơi nhấc điện thoại gọi cho vợ tơi, Ann, và bảo cơ, “anh sẽ viết một cuốn sách nhan đề Thế giới là Phẳng”. Cơ vừa buồn cười vừa tị mị - ờ, cĩ thể buồn cười hơn là tị mị! Cuối cùng, tơi đã cĩ khả năng thuyết phục được cơ, và tơi hi vọng sẽ cĩ khả năng làm thế với bạn, bạn đọc thân mến. Hãy để tơi đưa bạn quay về lúc đầu của hành trình của tơi đến Ấn Độ, và các điểm phương đơng khác, và chia sẻ với bạn một số cuộc gặp tình cờ đã dẫn tơi đến kết luận rằng thế giới khơng cịn trịn – mà phẳng. aithirth “Jerry” Rao là một trong những người đầu tiên tơi gặp ở J Bangalore- và tơi gặp anh chưa hơn vài phút ở khách sạn Leela Palace trước khi anh bảo tơi rằng anh cĩ thể xử lí các tờ khai thuế 12
  17. KHI TƠI CỊN ĐANG NGỦ 13 của tơi và các yêu cầu kế tốn khác tơi cần - từ Bangalore. Khơng, cảm ơn, tơi đã cĩ một kế tốn viên rồi ở Chicago. Jerry chỉ mỉm cười. Anh ta quá lịch sự để nĩi - rằng anh ta cĩ thể là kế tốn viên của tơi rồi, hay đúng hơn kế tốn viên của của kế tốn viên của tơi, nhờ sự bùng nổ về outsourcing việc chuẩn bị thuế. “Điều này xảy ra như chúng ta nĩi”, Rao bảo, anh quê ở Mumbai, trước là Bombay, hãng của anh, MphasiS, cĩ một đội các kế tốn viên Ấn Độ cĩ khả năng làm cơng việc kế tốn được outsource từ bất cứ bang nào của Mĩ và chính phủ liên bang. “Chúng tơi liên kết với nhiều hãng CPA [kiểm tốn viên (cơng) cĩ chứng chỉ] cỡ nhỏ và vừa ở Mĩ”. “Ý anh nĩi giống kế tốn viên của tơi?” tơi hỏi. “Vâng, giống kế tốn viên của anh”, Rao nĩi với một nụ cười. Cơng ti của Rao đã đi tiên phong về một phần mềm work flow [luồng cơng việc] với một định dạng chuẩn làm cho outsourcing khai thuế rẻ và dễ. Tồn bộ quá trình bắt đầu, Jerry giải thích, với một kế tốn viên ở Hoa Kì quét các tờ khai thuế năm ngối của tơi, cộng với các bản kê khai W-2, W-4, 1099, tiền thưởng, cổ phiếu của tơi- mọi thứ- vào một máy chủ, đặt ở California hay Texas. “Bây giờ kế tốn viên của anh, nếu anh ta xử lí thuế của anh ở hải ngoại, biết rằng anh thích khơng cho (ai đĩ ở ngồi nước) biết họ (tên) hay số An sinh Xã hội của anh, thì anh ta cĩ thể chọn giữ kín thơng tin đĩ”, Rao nĩi. “Các kế tốn viên ở Ấn Độ [dùng mật khẩu] gọi tất cả thơng tin thơ một cách trực tiếp từ máy chủ ở Mĩ, và họ hồn tất các tờ khai thuế của anh, với việc anh vẫn giấu tên. Tất cả các số liệu khơng ra ngồi Hoa Kì để tuân thủ các quy chế riêng tư Chúng tơi coi việc bảo vệ dữ liệu và sự riêng tư rất nghiêm túc. Kế tốn viên ở Ấn Độ cĩ thể nhìn thấy số liệu trên màn hình của mình, nhưng anh ta khơng thể tải nĩ xuống hay in nĩ ra – chương trình của chúng tơi khơng cho phép việc đĩ. Nhiều nhất anh ta cĩ thể làm là thử nhớ nĩ, giả như anh ta cĩ ý định xấu nào đĩ. Các kế tốn viên khơng được phép mang thậm chí giấy và bút vào trong phịng khi họ làm việc trên các tờ khai thuế”. Tơi bị tị mị về chính làm thế nào dạng tiên tiến này của dịch vụ outsourcing đã trở thành. “Chúng tơi làm nhiều ngàn tờ khai”, Rao nĩi. Hơn nữa, “CPA của anh ở Mĩ khơng cần thậm chí ở văn phịng của họ. Họ cĩ thể ngồi trên một bãi biển ở California và e-mail cho chúng tơi và nĩi, ‘Jerry, cậu làm các tờ khai thuế Bang New York 13
  18. 14 THẾ GIỚI LÀ PHẲNG thật cừ, vì thế cậu làm các tờ khai của Tom. Và Sonia, cậu và đội của cậu ở Delhi làm các tờ khai Washington và Florida’. Tiện thể, Sonia làm việc từ nhà cơ ở Ấn Độ, [cơng ti khơng phải trả] chi phí chung. ‘Và các việc khác này, chúng thực sự phức tạp, cho nên tơi tự làm chúng’.” Năm 2003, khoảng 25.000 tờ khai thuế Mĩ được làm ở Ấn Độ. Năm 2004 con số là 100.000. Năm 2005, dự kiến là 400.000. Trong một thập niên, anh sẽ cho rằng kế tốn viên của anh outsource việc chuẩn bị cơ bản của các tờ khai thuế của anh - nếu khơng hơn nữa. “Anh đã vào nghề này thế nào?” tơi hỏi Rao. “Bạn tơi Jeroen Tas, một người Hà Lan, và tơi đều đã làm cho Citigroup ở California”, Rao giải thích. “Tơi là sếp của anh ta và một hơm chúng tơi cùng trở về từ New York trên một chuyến bay và tơi nĩi mình cĩ kế hoạch thơi việc và anh ta bảo, ‘Tơi cũng thế’. Cả hai chúng tơi đều nĩi, ‘Vì sao chúng ta lại khơng khởi động doanh nghiệp riêng của chúng ta?’ Vì thế vào năm 1997-98, chúng tơi cùng nhau đưa ra một kế hoạch kinh doanh để cung cấp các giải pháp Internet cao cấp cho các cơng ti lớn Hai năm trước, tuy vậy, tơi đã đi dự một hội nghị cơng nghệ ở Las Vegas và một số hãng kế tốn [Mĩ] cỡ trung bình đã tiếp cận tơi, và họ nĩi rằng họ khơng thể đủ sức để đưa ra các hoạt động outsourcing lớn về thuế đến Ấn Độ, nhưng các gã [cơng ti] lớn cĩ thể, và [những gã vừa] muốn vượt họ. Vì lẽ đĩ chúng tơi đã phát triển một sản phẩm phần mềm gọi là VTR – Virtual Tax Room: Buồng Thuế Ảo- để cho phép các hãng kế tốn cỡ vừa này dễ dàng outsource khai thuế.” Các hãng cỡ vừa này “cĩ được một sân chơi bằng phẳng hơn, mà trước đây họ bị từ chối,” Jerry nĩi. “Đột nhiên họ cĩ thể tiếp cận đến cùng các lợi thế về quy mơ mà các gã lớn hơn đã luơn cĩ.” Cĩ phải thơng điệp cho những người Mĩ, “Má, đừng để các con má lớn lên đi làm kế tốn viên?” Tơi hỏi. Khơng thật vậy, Rao nĩi. “Cái mà chúng tơi làm là làm cơng việc tạp nhạp. Anh biết cần cái gì để chuẩn bị một tờ khai thuế? Việc làm rất ít sáng tạo. Đấy là cái sẽ chuyển ra hải ngoại”. “Cái gì sẽ ở lại Mĩ?” Tơi hỏi. “Kế tốn viên muốn ở lại trong nghề tại Mĩ sẽ là người tập trung vào nghĩ ra các chiến lược sáng tạo phức hợp, như tránh thuế hay né tránh thuế, quản lí các quan hệ khách hàng”, Rao nĩi. Anh hay chị ta sẽ bảo các khách hàng của mình, ‘Tơi đã khiến cơng việc tạp 14
  19. KHI TƠI CỊN ĐANG NGỦ 15 nhạp được làm rất hiệu quả. Bây giờ hãy nĩi về làm thế nào chúng tơi quản lí tài sản của anh và anh sẽ làm gì cho lũ trẻ của anh. Anh cĩ muốn để một số tiền nào đĩ trong các quỹ quản thác [trust] của mình?’ Nĩ cĩ nghĩa là cĩ các thảo luận chất lượng-thời gian với các khách hàng hơn là chạy vịng quanh giống những con gà với đầu bị cắt đứt từ tháng Hai đến tháng Tư, và thường đệ đơn xin gia hạn đến tháng Tám, bởi vì họ đã khơng cĩ chất lượng thời gian với các khách hàng.” Đánh giá từ một tiểu luận trong tạp chí Accounting Today (7 tháng Bảy, 2004), quả thực, điều này cĩ vẻ là tương lai. L. Gary Boomer, một CPA và CEO của Boomer Consulting ở Manhattan, Kansas, đã viết, “Mùa [thuế] vừa rồi đã tạo ra hơn 100.000 tờ khai thuế [được outsource] và bây giờ được mở rộng ngồi các tờ khai thuế cá nhân sang các quỹ quản thác, các hội buơn và các cơng ti Lí do chủ yếu khiến ngành kinh doanh đã cĩ khả năng tăng quy mơ nhanh như nĩ đã cĩ ba năm qua là do đầu tư mà các cơng ti [đặt cơ sở ở nước ngồi] này đã tiến hành vào hệ thống, quy trình và đào tạo.” Cĩ khoảng bảy mươi ngàn người tốt nghiệp đại học ngành kế tốn ở Ấn Độ mỗi năm, ơng nĩi thêm, nhiều trong số đĩ đi làm cho các hãng địa phương Ấn Độ khởi đầu với 100 $ một tháng. Với sự giúp đỡ của truyền thơng tốc độ cao, đào tạo nghiêm ngặt, và các mẫu biểu chuẩn hố, những người Ấn Độ trẻ này cĩ thể được cải biến thành các kế tốn viên phương Tây cơ bản khá nhanh với phần nhỏ chi phí. Một số hãng kế tốn Ấn Độ thậm chí bắt đầu tiếp thị chính họ cho các hãng Mĩ qua hội nghị từ xa và bỏ qua việc đi lại. Boomer kết luận, “Nghề kế tốn hiện nay đang biến đổi. Những người bấu víu vào quá khứ và chống lại sự thay đổi sẽ bị buộc dấn sâu hơn vào sự hàng hố hố (commoditization). Những người cĩ thể tạo ra giá trị thơng qua sự lãnh đạo, các mối quan hệ và sức sáng tạo sẽ làm biến đổi ngành kinh doanh, cũng như tăng cường các mối quan hệ với các khách hàng hiện cĩ của họ.” Cái anh đang nĩi cho tơi, tơi bảo Rao, là bất kể nghề của bạn là gì – bác sĩ, luật sư, kiến trúc sư, kế tốn viên - nếu bạn là một người Mĩ, tốt hơn bạn hãy giỏi ở thứ dịch vụ nhạy cảm, bởi vì bất cứ thứ gì cĩ thể được số hố cĩ thể được outsource cho nhà sản xuất hoặc khéo nhất hoặc rẻ nhất, hoặc cả hai. Rao trả lời, “Mỗi người phải tập trung vào cái chính xác là giá trị gia tăng của mình.” 15
  20. 16 THẾ GIỚI LÀ PHẲNG Nhưng nếu tơi chỉ là một kế tốn viên trung bình thì sao? Tơi đã đi học ở một đại học nhà nước. Tơi cĩ kết quả trung bình B+. Cuối cùng tơi cĩ bằng CPA. Tơi làm việc ở một hãng kế tốn lớn, làm nhiều việc thơng thường. Tơi hiếm khi gặp khách hàng. Họ giữ tơi ở đằng sau. Nhưng đĩ là một sinh kế tử tế và về cơ bản hãng vừa lịng với tơi. Cái gì sẽ xảy ra với tơi trong hệ thống này? “Đĩ là một câu hỏi hay,” Rao nĩi. “Chúng ta phải chân thật về nĩ. Chúng ta đang ở giữa một sự thay đổi cơng nghệ to lớn, và khi bạn sống trong một xã hội ở đỉnh của sự thay đổi đĩ [như Mĩ], khĩ để tiên đốn. Dễ tiên đốn cho ai đĩ sống ở Ấn Độ. Trong mười năm chúng tơi sẽ làm nhiều thứ đang được làm ở Mĩ ngày nay. Chúng tơi cĩ thể dự đốn tương lai của mình. Nhưng chúng tơi ở sau các bạn. Các bạn xác định tương lai. Mĩ luơn luơn ở trên đỉnh của làn sĩng sáng tạo mới Cho nên là khĩ để nhìn vào mắt kế tốn viên đĩ và nĩi đây là cái sẽ là. Chúng ta khơng được tầm thường hố điều đĩ. Chúng ta phải xử lí nĩ và nĩi về nĩ một cách chân thật Bất cứ hoạt động nào mà chúng ta cĩ thể số hố và phân li chuỗi giá trị, và di chuyển cơng việc đi đĩ đây, sẽ được di chuyển đi. Ai đĩ sẽ nĩi, ‘Ừ, nhưng anh khơng thể phục vụ tơi một miếng thịt nướng’. Đúng, nhưng tơi cĩ thể làm việc đặt trước bàn của anh ngồi ở bất cứ đâu trên thế giới, nếu quán ăn khơng cĩ một người phụ trách. Chúng tơi cĩ thể nĩi, ‘Vâng, ơng Friedman, chúng tơi cĩ thể dành cho ơng một bàn gần cửa sổ’. Nĩi cách khác, cĩ những phần của việc đi ăn cơm hiệu mà chúng ta cĩ thể phân li và outsource. Nếu bạn quay lại và đọc các sách giáo khoa kinh tế học cơ bản, chúng sẽ bảo: Các hàng hố được trao đổi, cịn các dịch vụ được tiêu thụ và sản xuất ở cùng chỗ. Và bạn khơng thể xuất khẩu việc cắt tĩc. Song chúng ta đang đến gần việc xuất khẩu cắt tĩc, phần việc hẹn. Bạn muốn cắt kiểu tĩc gì? Bạn muốn thợ cắt nào? Tất cả các thứ đĩ cĩ thể và sẽ được một call center ở rất xa làm.” Khi chúng tơi kết thúc cuộc nĩi chuyện, tơi hỏi Rao tiếp theo anh sẽ làm gì. Anh ta tràn đầy sinh lực. Anh bảo tơi anh đã nĩi chuyện với một cơng ti Israel cĩ những bước tiến lớn về cơng nghệ nén cho phép truyền các hình quét CAT (Computer Assisted Tomography) tốt hơn và dễ hơn qua Internet cho nên bạn cĩ thể mau chĩng cĩ một ý kiến thứ hai từ một bác sĩ cách xa nửa vịng trái đất. 16
  21. KHI TƠI CỊN ĐANG NGỦ 17 Vài tuần sau khi tơi nĩi chuyện với Rao, tơi nhận được e-mail sau từ Bill Brody, hiệu trưởng Đại học Johns Hopkins, người tơi vừa phỏng vấn cho cuốn sách này: Tom mến, tơi nĩi tại một cuộc hội nghị giáo dục y tế tiếp tục của trường Hopkins cho các bác sĩ xạ chẩn [radiologist] (tơi đã từng là một radiologist) Tơi chợt thấy một tình hình rất hấp dẫn mà tơi nghĩ anh cĩ thể quan tâm. Tơi vừa được biết rằng nhiều bệnh viện nhỏ và một số bệnh viện vừa ở Hoa Kì, các radiologist đang outsourcing việc đọc các ảnh quét CAT cho các bác sĩ ở Ấn Độ và Úc!!! Hầu hết việc này xảy ra vào ban đêm (và cĩ thể cuối tuần) khi các radiologist khơng cĩ đủ nhân viên để lo việc yểm trợ trong bệnh viện. Trong khi một số nhĩm xạ chẩn sẽ dùng xạ chẩn từ xa [teleradiology] để chuyển các ảnh từ bệnh viện về nhà của họ (hay đến Vail hay Cape Cod, tơi giả sử) như thế họ cĩ thể diễn giải các ảnh và cho chẩn đốn 24/7, hiển nhiên các bệnh viện nhỏ chuyển các bức ảnh quét cho các radiologist nước ngồi. Lợi thế là ban ngày ở Úc hay Ấn Độ khi ban đêm ở đây – cho nên yểm trợ ngồi giờ trở nên dễ làm hơn bằng chuyển các ảnh qua trái đất. Vì các ảnh CAT (và MRI-Magnetic Resonance Imaging) đã ở dạng số rồi và cĩ sẵn để dùng trên mạng với một giao thức chuẩn, khơng cĩ vấn đề gì để xem các ảnh ở bất cứ đâu trên thế giới Tơi cho rằng các radiologist ở đầu kia phải được đào tạo ở Hoa Kì và cĩ các bằng, chứng chỉ và khả năng phù hợp Các nhĩm thực hiện việc đọc ngồi giờ này được các radiologist Mĩ thuê họ gọi là “các Cú ăn đêm – Nighthawks”. Chúc tốt lành, Bill hờ trời tơi là một nhà báo và khơng phải là một kế tốn viên N hay một radiologist. Khơng cĩ outsourcing nào đối với tơi- cho dù một số bạn đọc nào đĩ của tơi cĩ thể muốn mục báo của tơi cĩ thể chuyển đi Bắc Triều Tiên. Ít nhất đĩ là cái tơi nghĩ. Sau đĩ tơi nghe về hoạt động của Reuters ở Ấn Độ. Tơi đã khơng cĩ thời gian để thăm văn phịng Reuters ở Bangalore, nhưng tơi đã cĩ khả năng nắm được Tom Glocer, CEO của Reuters, để nghe ơng đã làm 17
  22. 18 THẾ GIỚI LÀ PHẲNG gì. Glocer là người đi tiên phong về outsourcing các yếu tố của chuỗi cung tin thức. Với 2.300 nhà báo quanh thế giới, ở 197 văn phịng, phục vụ một thị trường bao gồm các nhà ngân hàng đầu tư, các nhà buơn bán các cơng cụ phái sinh, các nhà mơi giới chứng khốn, các báo, đài phát thanh, truyền hình, và các đại lí Internet, Reuters đã luơn cĩ một khán-thính-độc giả rất phức tạp để thoả mãn. Sau sự phá sản dot-com, tuy vậy, khi nhiều khách hàng của nĩ trở nên rất cĩ ý thức về chi phí, Reuters bắt đầu tự hỏi mình, vì các lí do cả về chi phí và hiệu quả: Chúng ta thực sự cần đặt người của chúng ta vào đâu để cung ứng cho chuỗi cung tin tức tồn cầu của chúng ta? Và chúng ta cĩ thể thực sự chia nhỏ cơng việc của một nhà báo và giữ một phần ở London và New York và chuyển một phần sang Ấn Độ? Glocer bắt đầu ngĩ đến chức năng kiếm cơm cơ bản nhất mà Reuters cung cấp, là tin sốt dẻo về thu nhập cơng ti và những tiến triển kinh doanh liên quan, từng giây của mỗi ngày. “Exxon tiết lộ thu nhập của nĩ và chúng ta cần đưa điều đĩ càng nhanh càng tốt lên các màn hình khắp thế giới: ‘Exxon kiếm được ba mươi chín cent quý này trái với ba mươi sáu cent quý trước’. Năng lực cốt lõi ở đĩ là tốc độ và sự chính xác”, Glocer giải thích. “Chúng ta khơng cần nhiều phân tích. Ta chỉ cần đưa tin cơ bản càng nhanh càng tốt. Tin khẩn phải ra tính bằng giây sau cơng bố của cơng ti, và bảng [cho thấy lịch sử gần đây về thu nhập quý] vài giây muộn hơn”. Các loại tin đặc biệt về thu nhập đĩ đối với kinh doanh tin là vanilla đối với kinh doanh kem - một hàng hố cơ bản thực sự cĩ thể được làm ở bất cứ đâu trong thế giới phẳng. Việc làm tri thức cĩ giá trị gia tăng thực xảy ra trong năm phút tiếp theo. Đĩ là khi anh cần một nhà báo thật, người biết làm sao để cĩ một bình luận từ cơng ti, một bình luận từ hai nhà phân tích hàng đầu trong lĩnh vực, và thậm chí vài lời từ các đối thủ cạnh tranh để đặt báo cáo thu nhập vào viễn cảnh. “Điều đĩ cần một tập kĩ năng báo chí cao hơn – ai đĩ cĩ các quan hệ trên thị trường, người biết ai là các nhà phân tích ngành giỏi nhất và đã đưa đúng người đi ăn trưa”, Glocer nĩi. Sự phá sản dot-com và sự làm phẳng thế giới đã buộc Glocer phải nghĩ lại Reuters cung cấp tin thế nào - liệu nĩ cĩ thể chia nhỏ các chức năng của một nhà báo và chuyển các chức năng cĩ giá trị gia tăng thấp sang Ấn Độ. Mục tiêu chính của ơng là để giảm sự chồng chéo tổng tiền lương của Reuters, trong khi bảo tồn càng nhiều việc 18
  23. KHI TƠI CỊN ĐANG NGỦ 19 làm báo giỏi càng tốt. “Cho nên việc đầu tiên chúng tơi đã làm”, Glocer nĩi, “là đi thuê sáu phĩng viên ở Bangalore như một thử nghiệm. Chúng tơi bảo, ‘Hãy bảo họ làm chỉ các tĩm tắt tin đặc biệt và các bảng và bất cứ thứ gì khác cĩ thể sai họ làm ở Bangalore’.” Những người Ấn Độ mới được thuê này cĩ kiến thức kế tốn và được Reuters huấn luyện, song họ được trả lương, ngày nghỉ và trợ cấp y tế theo chuẩn địa phương. “Ấn Độ là một địa điểm phong phú khơng thể tin nổi để tuyển người, khơng chỉ cĩ kĩ năng kĩ thuật mà cả kĩ năng tài chính,” Glocer nĩi. Khi một cơng ti cơng bố thu nhập của mình, một trong những việc đầu tiên nĩ làm là trao cho các hãng điện tín – Reuters, Dow Jones, và Bloomberg - để phân phát. “Chúng tơi sẽ lấy dữ liệu thơ đĩ,” ơng nĩi, “và rồi là một cuộc chạy đua xem chúng tơi cĩ thể quay vịng nĩ nhanh ra sao. Bangalore là một trong những nơi được nối mạng nhất trên thế giới, và mặc dù cĩ một chút trễ - một giây hay ít hơn – để kéo thơng tin sang đĩ, hố ra là bạn cĩ thể ngồi ở Bangalore và cĩ được phiên bản điện tử của một thơng cáo báo chí và biến nĩ thành một câu chuyện dễ dàng hệt như bạn cĩ thể làm ở London hay New York”. Sự khác biệt, tuy vậy, là lương và tiền thuê nhà ở Bangalore ít hơn một phần năm so với ở các thủ đơ phương Tây đĩ. Trong khi kinh tế học và sự làm phẳng thế giới đã đẩy Reuters xuống con đường này, Glocer đã cố vui vẻ làm vì đằng nào cũng phải làm. “Chúng tơi nghĩ chúng tơi cĩ thể trút gánh nặng báo cáo đã bị hàng hố hố và khiến việc đĩ được làm một cách cĩ hiệu quả ở nơi khác trên thế giới,” ơng nĩi, và rồi tạo cơ hội cho các nhà báo Reuters theo quy ước để tập trung vào việc làm báo và phân tích cĩ giá trị gia tăng cao và thoả mãn cá nhân hơn nhiều. “Hãy giả như anh là một nhà báo Reuters ở New York. Anh đạt sự thoả mãn cuộc sống của mình bằng chuyển các cơng bố báo chí thành các hộp trên các màn hình hay làm việc phân tích?” Glocer hỏi. Tất nhiên, là việc sau. Outsourcing các thơng báo tin tức cho Ấn Độ cũng cho phép Reuters mở rộng bề ngang của việc làm phĩng sự của nĩ tới nhiều cơng ti cĩ vốn nhỏ hơn, các cơng ti đã khơng cĩ hiệu quả về chi phí đối với Reuters để theo dõi trước đây với các nhà báo được trả lương cao hơn ở New York. Nhưng với các phĩng viên Ấn Độ cĩ lương thấp, cĩ thể thuê nhiều người với chi phí của một phĩng viên ở New York, bây giờ cĩ thể làm việc đĩ từ Bangalore. Mùa hè 2004, Reuters đã tăng hoạt động nội dung Bangalore của nĩ lên ba 19
  24. 20 THẾ GIỚI LÀ PHẲNG trăm nhân viên, nhắm cuối cùng đến tổng số một ngàn rưởi. Một vài trong số đĩ là các phĩng viên Reuters kì cựu được cử sang để huấn luyện các đội Ấn Độ, một số là các phĩng viên làm các tin thu nhập đặc biệt, nhưng hầu hết là các nhà báo làm phân tích dữ liệu chuyên biệt hơn một chút – nghiền số [number crunching: tính tốn số liệu]- cho chào bán chứng khốn. “Rất nhiều khách hàng của chúng tơi đang làm cùng việc,” Glocer nĩi. “Nghiên cứu đầu tư đã bĩc toạc số lượng chi phí khổng lồ, vì thế rất nhiều hãng dùng làm ca ở Bangalore để làm việc kiếm cơm phân tích cơng ti”. Cho đến gần đây các hãng lớn ở Wall Street đã tiến hành nghiên cứu đầu tư bằng tiêu hàng triệu dollar cho các nhà phân tích ngơi sao và sau đĩ tính một phần chi phí lương của họ cho các phịng mơi giới chứng khốn của họ, chúng chia sẻ kết quả phân tích với các khách hàng tốt nhất của họ, và tính một phần chi phí cho kinh doanh ngân hàng đầu tư của họ, thường dùng các phân tích tơ hồng của một cơng ti để nhử việc kinh doanh ngân hàng của nĩ. Theo sau các vụ điều tra của Eliot Spitzer Tổng Chưởng lí Bang New York về các tập quán Wall Street, tiếp theo nhiều vụ bê bối, hoạt động ngân hàng đầu tư và mơi giới chứng khốn đã phải tách bạch rõ ràng – sao cho các nhà phân tích sẽ ngừng thổi phồng các cơng ti nhằm nhận được hoạt động ngân hàng đầu tư của họ. Nhưng như một kết quả, các hãng đầu tư lớn ở Wall Street đã phải cắt giảm mạnh chi phí nghiên cứu thị trường của họ, tất cả bây giờ do riêng các phịng mơi giới chứng khốn chi trả. Và điều này tạo một khuyến khích lớn đối với họ để outsource một số cơng việc giải tích cho các nơi như Bangalore. Bên cạnh việc cĩ khả năng trả một nhà phân tích ở Bangalore khoảng 15.000 $ tổng đền bù, trái với 80.000 $ ở New York hay London, Reuters đã thấy rằng các nhân viên Ấn Độ của nĩ cũng thường hay cĩ học về tài chính và tận tuỵ do cĩ động cơ cao nữa. Mới đây Reuters cũng đã mở một trung tâm phát triển phần mềm ở Bangkok vì hố ra là một chỗ tốt để tuyển các nhà phát triển phần mềm những người mà tất cả các cơng ti phương Tây ganh đua vì tài năng ở Bangalore đã khơng để ý tới. Bản thân tơi bị xu hướng này giằng xé. Sau khi bắt đầu sự nghiệp của mình như một phĩng viên điện tín với hãng UPI-United Press International, tơi cĩ đồng cảm lớn lao với các phĩng viên điện tín và với các áp lực, cả chuyên mơn và tài chính, mà dưới đĩ họ làm 20
  25. KHI TƠI CỊN ĐANG NGỦ 21 việc cật lực. Song UPI cĩ thể vẫn phát đạt ngày nay như một hãng điện tín, mà nĩ khơng là, nếu giả như nĩ đã cĩ khả năng outsource việc kinh doanh cấp thấp hơn của nĩ khi tơi bắt đầu với tư cách một phĩng viên ở London hai mươi lăm năm trước. “Khĩ xử với nhân viên,” Glocer nĩi, người đã cắt gần một phần tư tồn bộ nhân viên Reuters, mà khơng cĩ những tổn thương sâu sắc giữa các phĩng viên. Ơng nĩi, nhân viên Reuters hiểu rằng việc này phải làm sao cho cơng ti cĩ thể sống sĩt và rồi thịnh vượng lại. Đồng thời, Glocer nĩi, “đấy là những người sành điệu làm phĩng sự. Họ thấy các khách hàng của chúng tơi làm chính xác cùng việc. Họ nắm được cốt truyện Quan trọng là phải chân thật với con người về cái chúng ta làm và vì sao và khơng tơ vẽ thơng điệp. Tơi tin vững chắc vào bài học của các nhà kinh tế cổ điển về di chuyển cơng việc đến nơi nĩ cĩ thể được làm tốt nhất. Tuy nhiên, ta khơng được bỏ qua rằng trong một số trường hợp, cá nhân những người lao động sẽ khơng dễ tìm việc làm mới. Đối với họ, việc giữ lại và một mạng lưới an sinh xã hội thích đáng là cần thiết”. Trong một nỗ lực để giải quyết trực tiếp với nhân viên Reuters, David Schlesinger đứng đầu Reuters Mĩ, đã gửi cho tất cả các nhân viên biên tập một thư báo, chứa đoạn trích sau: OFF-SHORING VỚI NGHĨA VỤ Tơi lớn lên ở New London, Connecticut, trong thế kỉ mười chín đã là một trung tâm săn cá voi lớn. Trong các năm 1960 và 70 cá voi đã hết từ lâu và các nhà sử dụng lao động chính ở vùng đều gắn với quân đội – khơng là một điều ngạc nhiên trong kỉ nguyên Việt Nam. Bố mẹ bạn học của tơi đã làm việc tại Electric Boat, Tổ chức Hải quân và Tuần Duyên hải. Cổ tức hồ bình lại làm thay đổi vùng này một lần nữa, và bây giờ nĩ nổi tiếng nhất vì các casino cờ bạc lớn của Mohegan Sun và Foxwoods và vì các nhà nghiên cứu dược của Pfizer. Các việc làm mất đi; các việc làm được tạo ra. Các kĩ năng khơng cịn được sử dụng; cần đến các kĩ năng mới. Vùng đã thay đổi, người dân đã thay đổi. New London, tất nhiên, đã khơng là độc nhất. Bao nhiêu thị trấn xay xát đã thấy các cối xay của mình đĩng cửa; bao nhiêu thành thị làm giày đã thấy ngành giày di đi nơi khác; bao nhiêu thị trấn một thời đã rất mạnh về dệt may bây giờ mua tất cả đồ vải lanh từ Trung Quốc? Sự thay đổi là 21
  26. 22 THẾ GIỚI LÀ PHẲNG khắc nghiệt. Sự thay đổi là khắc nghiệt nhất với những người bị bất ngờ giáng xuống. Sự thay đổi cũng khắc nghiệt nhất đối với những người cĩ khĩ khăn thay đổi. Song sự thay đổi là tự nhiên; sự thay đổi khơng phải là mới; sự thay đổi là quan trọng. Cuộc tranh cãi hiện thời về off-shoring là gay gắt một cách nguy hiểm. Song tranh cãi về cơng việc di sang Ấn Độ, Trung Quốc và Mexico thực sự khơng khác cuộc tranh luận một thời về việc làm tàu ngầm bỏ New London hay việc làm giày bỏ Massachusetts hay việc làm dệt may bỏ Bắc Carolina. Cơng việc được làm ở nơi nĩ cĩ thể được làm cĩ kết quả và hiệu quả nhất. Điều đĩ cuối cùng giúp các New London, New Bedford, và các New York của thế giới này thậm chí nhiều hơn các Bangalore hay Thẩm Khuyến. Nĩ giúp bởi vì nĩ giải phĩng con người và vốn để làm cơng việc khác, tinh xảo hơn, và nĩ giúp bởi vì nĩ tạo cơ hội để sản xuất sản phẩm cuối cùng rẻ hơn, làm lợi cho các khách hàng ngang như nĩ giúp cơng ti. Chắc chắn khĩ đối với các cá nhân để nghĩ về cơng việc “của họ” rời đi, được làm xa hàng ngàn dặm bởi ai đĩ kiếm ít hơn hàng ngàn dollar một năm. Nhưng đây là lúc để nghĩ về cơ hội cũng như về nỗi đau, đúng như là lúc để nghĩ về các nghĩa vụ của off-shoring cũng như về các cơ hội Mỗi người, hệt như mỗi cơng ti, phải chăm lo vận mệnh kinh tế riêng của mình, hệt như cha ơng chúng ta trong các cối xay, các hiệu và nhà máy giày đã chăm lo. “MÀN HÌNH ĐANG CHÁY?” nh cĩ biết một call center Ấn Độ nghe giống thế nào? A Trong khi làm phim tài liệu về outsourcing, đội TV và tơi đã ở một buổi tối tại call center “24/7 Customer” do người Ấn Độ sở hữu ở Bangalore. Call center này là một thứ lai tạp giữa một kí túc xá đại học dành cho cả nam lẫn nữ và một ngân hàng điện thoại huy động tiền cho đài TV cơng cộng địa phương. Cĩ nhiều tầng với các phịng đầy khoảng hai mươi mấy người làm việc với điện thoại - tổng cộng khoảng hai ngàn rưởi người. Một số được biết như các 22
  27. KHI TƠI CỊN ĐANG NGỦ 23 nhân viên “outbound-từ bên ngồi”, bán mọi thứ từ thẻ tín dụng đến số phút điện thoại. Những người khác xử lí các cuộc gọi “inbound-về” - mọi thứ từ tìm hành lí thất lạc cho các khách hàng của các hãng hàng khơng Mĩ và châu Âu đến giải quyết các vấn đề máy tính cho những người tiêu dùng Mĩ bị lẫn lộn. Các cuộc gọi được chuyển đến đây bằng vệ tinh và cáp quang dưới biển. Mỗi tầng mênh mơng của call center gồm các cụm những ngăn khối nhỏ. Những người trẻ làm việc trong các đội nhỏ dưới ngọn cờ của cơng ti mà họ cung cấp hỗ trợ điện thoại. Như thế một gĩc cĩ thể là nhĩm Dell, gĩc khác cĩ thể là cờ bay của Microsoft. Điều kiện làm việc của họ nhìn giống như ở cơng ti bảo hiểm trung bình của bạn. Tuy tơi chắc là cĩ các call center hoạt động như các cơ sở bĩc lột cơng nhân tàn tệ, 24/7 khơng phải là một trong số đĩ. Hầu hết thanh niên tơi đã phỏng vấn đều đưa tất cả hay một phần lương của họ cho bố mẹ họ. Thực ra, nhiều trong số họ cĩ lương khởi điểm cao hơn lương hưu của bố mẹ. Đối với việc làm mức mới vào nền kinh tế tồn cầu, đấy là khoảng gần như nĩ nhận được. Tơi lang thang quanh khu Microsoft khoảng sáu giờ chiều theo giờ Bangalore, khi hầu hết các bạn trẻ này bắt đầu ngày làm việc của họ để trùng với rạng sáng ở Mĩ, khi tơi hỏi một chuyên gia máy tính trẻ người Ấn Độ ở đĩ một câu hỏi đơn giản: Trên tầng này kỉ lục về cuộc gọi dài nhất để giúp người Mĩ nào đĩ bị lạc trong mê cung phần mềm của mình là bao nhiêu? “Mười một giờ,” anh ta trả lời ngay tức khắc. “Mười một giờ?” tơi la lên. “Mười một giờ,” anh ta nĩi. Tơi chẳng cĩ cách nào để kiểm tra liệu điều này cĩ đúng khơng, nhưng bạn cĩ nghe các mẩu của các cuộc nĩi chuyện quen thuộc kì quặc khi bạn lang thang trên sàn ở 24/7 và chỉ nghe qua vai của các nhân viên khác nhau của call center khi họ làm việc. Đây là một mẫu nhỏ của cái chúng tơi đã nghe tối đĩ khi chúng tơi quay phim cho Discovery Times. Nĩ phải được đọc, nếu bạn cĩ thể tưởng tượng điều này, theo giọng của ai đĩ với giọng Ấn Độ cố bắt chước giọng Mĩ hay Anh. Cũng tưởng tượng rằng bất kể các giọng nĩi ở đầu bên kia cĩ thơ lỗ, buồn rầu, cáu kỉnh, hay xấu tính đến thế nào, những người Ấn Độ trẻ này khơng ngừng và lúc nào cũng lịch sự. Nhân viên call center nữ: “Chào [buổi chiều], tơi cĩ thể nĩi chuyện với ?” (Ai đĩ ở đầu bên kia vừa dập điện thoại xuống). 23
  28. 24 THẾ GIỚI LÀ PHẲNG Nhân viên call center nam: “Dịch vụ buơn bán đây, tơi là Jerry, tơi cĩ thể giúp?” (Các nhân viên call center Ấn Độ lấy tên phương Tây do họ tự chọn. Ý tưởng, tất nhiên, là để khiến các khách hàng Mĩ hay châu Âu cảm thấy thoải mái hơn. Hầu hết các thanh niên Ấn Độ mà tơi nĩi về chuyện này đã khơng bực mình mà coi nĩ như một cơ hội để cĩ một chút vui đùa. Trong khi một vài người chỉ chọn Susan hay Bob, một số thực sự sáng tạo). Nhân viên nữ ở Bangalore nĩi với một người Mĩ: “Tơi tên là Ivy Timberwoods và tơi gọi ngài ” Nhân viên nữ ở Bangalore nhận diện một người Mĩ: “Cĩ thể cho tơi bốn số cuối của số Anh sinh Xã hội của anh?” Nhân viên nữ ở Bangalore cho lời chỉ dẫn cứ như cơ ở Manhattan và nhìn ra cửa sổ phịng cơ: “Vâng, chúng tơi cĩ một chi nhánh ở Đường Bảy Mươi Tư và Thứ Hai, một chi nhánh ở [Đường] Năm Mươi Tư và Lexington ” Nhân viên nam ở Bangalore bán thẻ tín dụng mà anh chẳng bao giờ cĩ thể mua cho bản thân mình: “Thẻ này là thẻ cĩ phí suất tín dụng hàng năm APR [Annual Percentage Rate] thấp nhất ” Nhân viên nữ ở Bangalore giải thích cho một bà Mĩ xử lí tài khoản séc của mình thế nào: “Séc số sáu-sáu-năm là tám mươi mốt dollar và năm mươi lăm cent. Bà vẫn cịn một khoản phải trả ba mươi dollar. Bà hiểu rõ tơi khơng?” Nhân viên nữ ở Bangalore sau khi dẫn một người Mĩ qua một trục trặc máy tính: “Khơng cĩ vấn đề gì, ơng Jassup. Cảm ơn ơng đã dành thời gian. Cẩn thận nhé. Bye-bye”. Nhân viên nữ ở Bangalore sau khi ai đĩ vừa chỉ trích gay gắt cơ trên điện thoại: “Alơ? Alơ?” Nhân viên nữ ở Bangalore xin lỗi vì gọi ai đĩ ở Mĩ quá sớm: “Đây chỉ là một cuộc gọi xã giao, tơi sẽ gọi lại muộn hơn vào buổi tối ” Nhân viên nam ở Bangalore rất muốn thử bán một thẻ tín dụng hàng khơng cho ai đĩ ở Mĩ người cĩ vẻ khơng muốn: “Cĩ phải vì bà cĩ quá nhiều thẻ tín dụng, hay bà khơng thích đi máy bay, bà Bell?” Nhân viên nữ ở Bangalore thử nĩi chuyện với một người Mĩ vì máy tính của bà ta bị hỏng: “Bắt đầu chuyển giữa merory OK và memory test ” 24
  29. KHI TƠI CỊN ĐANG NGỦ 25 Nhân viên nam ở Bangalore làm cùng việc: “Tốt, sau đĩ, hãy gõ vào ba và ấn nút Enter ” Nhân viên nữ ở Bangalore thử giúp một người Mĩ khơng thể nán thêm một giây nữa trên đường dây trợ giúp: “Vâng, cơ ạ, tơi hiểu là cơ đang vội đúng lúc này. Tơi chỉ thử giúp cơ ra ” Nhân viên nữ ở Bangalore bị một chỉ trích gay gắt khác: “Vâng, ơi, thế khi nào sẽ ” Cũng nhân viên ấy ở Bangalore bị một chỉ trích gay gắt khác: “Vì sao, Bà Kent, đĩ khơng phải là ” Cũng nhân viên ấy ở Bangalore bị một chỉ trích gay gắt khác: “Như một bản [sao] an tồn Alơ?” Cũng nhân viên ấy ở Bangalore ngước lên từ điện thoại của mình: “Tơi hẳn cĩ một ngày xui xẻo!” Nhân viên nữ ở Bangalore thử giúp một bà người Mĩ với một sự cố máy tính mà cơ chưa bao giờ nghe thấy trước đây: “Cĩ vấn đề gì với chiếc máy này, thưa bà? màn hình đang cháy à?” iện tại cĩ khoảng 245.000 người Ấn Độ trả lời các cuộc gọi H điện thoại đến từ mọi nơi trên thế giới hay quay số ra để khẩn khoản chào mời người ta mua thẻ tín dụng hay điện thoại di động hay hối phiếu quá hạn. Những việc làm call center này là các việc làm lương thấp, uy tín thấp ở Mĩ, nhưng khi chuyển qua Ấn Độ chúng trở thành những việc làm cĩ lương cao, uy tín cao. Tinh thần đồng đội ở 24/7 và các call center khác mà chúng tơi đã đến thăm cĩ vẻ khá cao, và những người trẻ này hồn tồn háo hức để chia sẻ một số cuộc nĩi chuyện điện thoại kì quái mà họ đã cĩ với những người Mĩ đã quay số 1-800-HELP, nghĩ như họ kết thúc nĩi chuyện với ai đĩ quanh khối [nhà], chứ khơng phải quanh thế giới. C. M. Meghna, một nhân viên nữ của 24/7 call center, nĩi với tơi, “tơi cĩ rất nhiều khách hàng gọi đến [với các câu hỏi] thậm chí khơng liên quan gì đến sản phẩm mà chúng tơi buơn bán. Họ gọi đến bởi vì họ bị mất ví của họ hay chỉ để nĩi chuyện với ai đĩ. Tơi nĩi chẳng hạn, ‘OK, được thơi, cĩ thể chị phải ngĩ ở gầm giường [để tìm chiếc ví] hay ngĩ nơi chị thường để nĩ,’ và chị ta nĩi giống như, ‘OK, cảm ơn rất nhiều vì sự giúp đỡ’.” Nitu Somaiah: “Một trong những khách hàng hỏi tơi lấy ơng ta.” 25
  30. 26 THẾ GIỚI LÀ PHẲNG Sophie Sunder làm việc cho phịng hành lí thất lạc của hãng Delta: “Tơi nhớ bà này gọi từ Texas,” cơ nĩi, “và bà ta, giống như khĩc trên điện thoại. Bà đã bay hai chuyến nối tiếp nhau và bà mất túi xách của mình, trong túi xách cĩ áo cưới và nhẫn cưới của con gái bà và tơi cảm thấy rất buồn cho bà và tơi chẳng cĩ thể làm gì. Tơi đã khơng cĩ thơng tin nào”. “Hầu hết khách hàng đều giận dữ,” Sunder nĩi. “Việc đầu tiên họ nĩi là, ‘Túi của tơi đâu? Tơi muốn túi của mình bây giờ!’ Chúng tơi chẳng hạn phải nĩi, ‘Xin lỗi, cĩ thể cho tơi biết họ và tên?’ ‘Nhưng túi của tơi đâu!’ Một số người hỏi tơi là người nước nào? Chúng tơi được bảo phải nĩi thật, [nên] chúng tơi bảo họ Ấn Độ. Một số người nghĩ là Indiana. Tơi bảo đĩ là nước cạnh Pakistan”. Tuy tuyệt đại đa số cuộc gọi là khá thơng thường và nhàm chán, cạnh tranh vì các việc làm này là mãnh liệt – khơng chỉ vì họ trả lương khá, mà vì bạn cĩ thể làm việc ban đêm và đi học trong một phần ban ngày, cho nên chúng là bàn đạp đến một cuộc sống cĩ tiêu chuẩn cao hơn. P. V. Kannan, CEO và đồng sáng lập của 24/7, đã giải thích cho tơi tất cả hoạt động thế nào: “Ngày nay chúng tơi cĩ hơn bốn ngàn cộng tác viên trải ra ở Bangalore, Hyderabad, và Chennai. Các cộng tác viên của chúng tơi khởi đầu với lương đưa về nhà khoảng 200 $ một tháng, rồi lên 300 $ đến 400 $ một tháng sau sáu tháng. Chúng tơi cũng cấp (vé) tàu xe, bữa trưa, và bữa tối mà khơng phải trả thêm đồng nào. Chúng tơi cung cấp bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm y tế cho tồn bộ gia đình và các phúc lợi khác”. Vì thế, tồn bộ chi phí cho mỗi nhân viên call center thực sự là khoảng 500 $ một tháng khi họ khởi đầu và gần 600 $ đến 700 $ một tháng sau sáu tháng. Mỗi người cũng được hưởng các phần thưởng theo thành tích cho phép họ kiếm được, trong các trường hợp nhất định, tương đương với 100 phần trăm lương cơ bản của họ. “Khoảng 10 đến 20 phần trăm các cộng tác viên của chúng tơi theo đuổi bằng cấp về kinh doanh hay khoa học máy tính trong các giờ ban ngày,” Kannan nĩi, thêm vào đĩ hơn một phần ba tham gia loại huấn luyện thêm nào đĩ về máy tính hay kinh doanh, cho dù khơng nhằm đạt bằng cấp. “Khá thường xuyên ở Ấn Độ đối với người dân theo đuổi giáo dục suốt các năm tuổi hai mươi - tự cải thiện là một chủ đề lớn và được cha mẹ và các cơng ti khuyến khích một cách tích cực. Chúng tơi tài trợ một chương trình MBA cho những người làm kiên định với các lớp cả ngày vào cuối tuần. 26
  31. KHI TƠI CỊN ĐANG NGỦ 27 Mọi người làm tám giờ một ngày, năm ngày một tuần, với hai đợt giải lao [mỗi đợt] mười lăm phút và một giờ ăn trưa hay ăn tối”. Khơng ngạc nhiên, trung tâm dịch vụ khách hàng 24/7 nhận được khoảng bảy trăm đơn xin việc một ngày, nhưng chỉ 6 phần trăm người xin việc được thuê. Đây là một mẩu từ buổi tuyển nhân viên call center ở một trường chuyên nghiệp nữ ở Bangalore: Tuyển mộ viên 1: “Chào các em”. Cả lớp đồng thanh: “Chào cơ ạ”. Tuyển mộ viên 1: “Chúng tơi được một số cơng ti đa quốc gia ở đây thuê làm việc tuyển người cho họ. Khách hàng chính mà chúng tơi tuyển [cho] hơm nay là Honeywell. Và cả cho America Online”. Các nữ thanh niên - nhiều trong số họ - sau đĩ sắp hàng với đơn xin việc và đợi để được tuyển mộ viên phỏng vấn ở một bàn gỗ. Đây là thí dụ một số cuộc phỏng vấn nghe giống thế nào: Tuyển mộ viên 1: “Em kiếm loại việc làm nào?” Người xin việc 1: “Nĩ phải dựa vào đánh giá, rồi, ở đâu em cĩ thể phát triển, em cĩ thể thăng tiến trong sự nghiệp của em”. Tuyển mộ viên 1: “Em phải tự tin hơn về mình khi nĩi. Em rất bồn chồn. Chị muốn em lo một chút về việc đĩ và rồi liên hệ với chúng tơi”. Tuyển mộ viên 2 với một ứng viên khác: “Nĩi cho chị một chút về bản thân em”. Người xin việc 2: “Em đã qua [kì thi] SSC với kết quả xuất sắc. P đệ nhị cũng với điểm ưu tú. Và em cũng cĩ 70 phần trăm tổng hợp trong hai năm trước”. (Đây là biệt ngữ Ấn Độ tương đương với điểm trung bình GPA [Grade Point Average] và điểm trắc nghiệm SAT [Scholastic Aptitude Test]). Tuyển mộ viên 2: “Chậm hơn một chút. Đừng căng thẳng. Hãy bình tĩnh”. Bước tiếp theo cho các ứng viên được thuê ở một call center là chương trình huấn luyện, mà họ được trả tiền để tham dự. Nĩ kết hợp việc học làm thế nào để giải quyết các quá trình đặc thù cho cơng ti mà các cuộc gọi của nĩ họ sẽ phải nhận hay gọi, và tham dự cái gọi là “lớp trung hồ giọng nĩi”. Đấy là các buổi học suốt ngày với một thày giáo ngữ văn chuẩn bị cho những người Ấn Độ mới được thuê che giấu giọng đặc sệt Ấn Độ của họ khi nĩi tiếng Anh và thay chúng bằng giọng Mĩ, Canada, hay Anh - tuỳ thuộc vào phần nào của thế giới họ sẽ nĩi chuyện với. Thật khá kì lạ để xem. 27
  32. 28 THẾ GIỚI LÀ PHẲNG Lớp mà tơi dự đang huấn luyện để nĩi giọng trung lập miền giữa nước Mĩ. Các học sinh được yêu cầu đọc đi đọc lại một đoạn ngữ âm đơn nhất được thiết kế để dạy họ làm thế nào để làm mềm âm t của họ và rung âm r của họ. Cơ giáo của họ, một thiếu phụ duyên dáng cĩ chửa tám tháng mặc sari Ấn Độ truyền thống, chuyển suơn sẻ giữa giọng Anh, Mĩ, và Canada khi cơ đọc minh hoạ một đoạn được nghĩ ra để nhấn mạnh ngữ âm. Cơ nĩi với lớp, “Hãy nhớ ngày đầu cơ đã nĩi với các em rằng người Mĩ bật âm ‘tuh’? Các em biết, nĩ nghe giống hầu như âm ‘duh’ – khơng giịn và sắc như âm của người Anh. Cho nên cơ sẽ khơng nĩi” - ở đây cơ nĩi giịn và sắc – “‘Betty bought a bit of better butter’ hay ‘Insert a quarter in the metter.’ Mà cơ sẽ nĩi - ở đây giọng cơ rất bằng – “‘Insert a quarter in the meter’ hay ‘Betty bought a bit of better butter’. Vì thế cơ sẽ chỉ đọc cho các em một lần, và sau đĩ chúng ta cùng đọc. Được khơng? ‘Thirty little turtles in a bottle of bottled water. A bottle of bottled water held thirty little turtles. It didn’t matter that each turtle had to rattle a metal ladle in order to get a little bit of noodles.’ “Được rồi, ai sẽ đọc đầu tiên?” cơ giáo hỏi. Rồi mỗi thành viên của lớp lần lượt thử nĩi câu khĩ đọc này theo giọng Mĩ. Một vài trong số họ đã đạt trong lần thử đầu tiên, và những người khác, ừ, hãy nĩi thật rằng bạn sẽ khơng nghĩ rằng họ ở Kansas City nếu họ trả lời cuộc gọi của bạn gọi đến số hành lí thất lạc của hãng Delta. Sau khi nghe họ vấp bài ngữ âm này một nửa giờ, tơi hỏi cơ giáo nếu cơ cĩ muốn tơi cho họ một phiên bản đích thực – vì tơi xuất thân từ Minnesota, ngay giữa miền Trung-Tây, và vẫn nĩi giống như ai đĩ từ phim Fargo. Tất nhiên, cơ nĩi. Thế là tơi đọc đoạn sau: “A bottle of bottled water held thirty little turtles. It didn’t matter that each turtle had to rattle a metal ladle in order to get a little bit of noodles, a total turtle delicacy The problem was that there were many turtle battles for less than oodles of noodles. Every time they thought about grappling with the haggler turtles their little turtle minds boggled and they only caught a little bit of noodles.” Lớp học đáp lại nồng nhiệt. Đấy là lần đầu tiên từ trước đến giờ tơi được hoan hơ vì đọc giọng Minesota. Trên bề mặt, cĩ cái gì đĩ khơng hấp dẫn về ý tưởng khiến người khác làm phẳng giọng của họ để cạnh tranh trên một thế giới phẳng. Nhưng trước khi bạn miệt 28
  33. KHI TƠI CỊN ĐANG NGỦ 29 thị nĩ, bạn phải nếm trải những đứa trẻ này khao khát đến thế nào để thốt khỏi mức thấp của tầng lớp trung lưu và tiến lên. Nếu sửa đổi giọng một chút là cái giá họ phải trả để nhảy một bậc của chiếc thang, thì đành vậy thơi - họ nĩi. “Đây là một mơi trường stress cao,” Nilekani CEO của Infosys nĩi, người cũng điều hành một call center lớn. “Hai mươi bốn [giờ/ngày] trên bảy [ngày/tuần]. Bạn làm việc ban ngày, rồi ban đêm, rồi sáng hơm sau”. Nhưng mơi trường làm việc, ơng nhấn mạnh, “khơng phải là sự căng thẳng gây xa lánh. Nĩ là sự căng thẳng của sự thành cơng. Họ đối đầu với các thách thức về thành cơng, về đời sống áp lực cao. Nĩ khơng phải là thách thức của nỗi lo lắng về liệu họ cĩ một thách thức hay khơng”. Đĩ chắc chắn là cảm giác tơi cĩ được từ nĩi chuyện với nhiều nhân viên call center ở trên sàn. Giống như bất cứ sự bùng nổ hiện đại nào, outsourcing thách thức các chuẩn mực và cách sống truyền thống. Nhưng những người Ấn Độ cĩ giáo dục đã bị ngăn lại bao nhiêu năm bởi cả sự nghèo đĩi và bộ máy quan liêu xã hội chủ nghĩa đến mức nhiều trong số họ cĩ vẻ sẵn sàng hơn để chịu đựng giờ làm. Và chẳng cần nĩi, dễ hơn và thoả mãn hơn nhiều đối với họ để làm việc chăm chỉ ở Bangalore hơn là thơi và làm một khởi đầu mới ở Mĩ. Trong thế giới phẳng họ cĩ thể ở lại Ấn Độ, kiếm đồng lương tử tế, và khơng phải xa gia đình, bạn bè, thức ăn, và văn hố. Sau khi cân nhắc kĩ lưỡng, các việc làm mới này thực sự cho phép họ là Ấn Độ hơn. Anney Unnikrishnan, một giám đốc nhân sự ở 24/7, nĩi, “Tơi đã hồn thành MBA và tơi nhớ viết bài thi GMAT (Graduate Management Admission Test) và vào Đại học Purdue. Song tơi đã khơng thể đi vì tơi khơng đủ sức. Tơi đã khơng cĩ tiền cho việc đĩ. Bây giờ tơi cĩ thể, [song] tơi thấy cả lơ ngành cơng nghiệp Mĩ đã đến Bangalore và thực sự tơi khơng cần sang đĩ. Tơi cĩ thể làm việc cho một cơng ti đa quốc gia ở ngay đây. Như thế tơi vẫn cĩ thể ăn cơm và sambar [một mĩn ăn Ấn Độ truyền thống]. Anh biết, tơi khơng cần học để ăn xà lách trộn và thịt bị nguội. Tơi vẫn tiếp tục với thức ăn Ấn Độ của mình và vẫn làm việc cho một cơng ti đa quốc gia. Vì sao tơi phải đi Mĩ?” Mức sống tương đối cao mà bây giờ cơ cĩ thể hưởng - đủ cho một căn hộ nhỏ và một xe hơi ở Bangalore – là tốt cho cả Mĩ nữa. Khi ngĩ quanh call center của 24/7, bạn thấy tất cả các máy tính đều chạy Microsoft Windows. Các chip do Intel thiết kế. Điện thoại 29
  34. 30 THẾ GIỚI LÀ PHẲNG thì từ Lucent. Máy điều hồ nhiệt độ của Carrier, và ngay cả nước đĩng chai là của Coke. Ngồi ra, 90 phần trăm cổ phần trong 24/7 là do các nhà đầu tư Hoa Kì sở hữu. Điều này giải thích vì sao, tuy Hoa Kì đã mất một số việc làm dịch vụ cho Ấn Độ trong các năm vừa qua, tổng xuất khẩu từ các cơng ti cĩ cơ sở ở Mĩ – hàng hố và dịch vụ - sang Ấn Độ đã tăng từ 2,5 tỉ $ năm 1990 lên 5 tỉ $ năm 2003. Như thế ngay cả với outsourcing một số việc làm dịch vụ từ Hoa Kì sang Ấn Độ, nền kinh tế tăng lên của Ấn Độ tạo ra cầu cho nhiều hàng hố và dịch vụ Mĩ hơn. Cái đi vịng, sẽ quay trở lại. hín năm trước, khi Nhật Bản vượt Mĩ trong ngành ơtơ, tơi đã C viết một cột báo về chơi trị chơi máy tính về địa lí Carmen Sandiego ở Đâu trên Thế giới? với con gái chín tuổi của tơi, Orly. Tơi đã thử giúp nĩ bằng cho nĩ một manh mối bằng gợi ý rằng Carmen đã sang Detroit, vì thế tơi hỏi nĩ, “Ơtơ được sản xuất ở đâu?” Và ngay lập tức nĩ trả lời, “Nhật Bản”. Ối! Thế đấy, tơi đã nhớ lại câu chuyện đĩ trong khi thăm Global Edge, một hãng thiết kế phần mềm Ấn Độ ở Bangalore. Giám đốc tiếp thị của cơng ti, Rajesh Rao, bảo tơi ơng vừa cĩ một cuộc gọi lạnh nhạt đến Phĩ Tổng giám đốc kĩ thuật của một cơng ti Mĩ, thử đánh trống khua chiêng việc kinh doanh. Ngay sau khi ơng Rao tự giới thiệu mình như gọi từ một hãng phần mềm Ấn Độ, người điều hành Mĩ nĩi với ơng, “Namaste”, lời chào phổ biến tiếng Hindi. Ơng Rao nĩi, “Vài năm trước chẳng ai ở Mĩ muốn nĩi chuyện với chúng tơi. Bây giờ họ háo hức”. Và một vài người thậm chí cịn biết chào thế nào theo kiểu Hindu. Cho nên bây giờ tơi tự hỏi: Nếu một ngày nào đĩ tơi cĩ một đứa cháu gái, và bảo nĩ tơi đi Ấn Độ, nĩ sẽ bảo, “Ơng ơi, cĩ phải đĩ là nơi phần mềm bắt nguồn?” Khơng, vẫn chưa phải, cháu yêu. Mọi sản phẩm mới - từ phần mềm đến đồ dùng - trải qua một chu kì bắt đầu với nghiên cứu cơ bản, rồi nghiên cứu ứng dụng, rồi thời kì ấp ủ, rồi phát triển, rồi thử nghiệm, rồi sản xuất, rồi triển khai, rồi hỗ trợ, rồi đến mở rộng kĩ thuật để cải tiến. Mỗi trong các pha này được chuyên mơn hố và đơn nhất, và cả Ấn Độ và Trung Quốc lẫn Nga đều khơng cĩ khối lượng tới hạn về tài năng cĩ thể quản lí tồn bộ chu kì sản phẩm 30
  35. KHI TƠI CỊN ĐANG NGỦ 31 cho một cơng ti đa quốc gia Mĩ lớn. Song các nước này đang phát triển đều đặn năng lực nghiên cứu và phát triển của họ để quản lí ngày càng nhiều các pha này. Khi điều đĩ tiếp tục, chúng ta thực sự sẽ thấy phần đầu của cái mà Satyam Cherukuri của Sarnoff, một hãng nghiên cứu và phát triển Mĩ, đã gọi là “sự tồn cầu hố về đổi mới” và sự kết thúc của mơ hình cũ của một cơng ti đa quốc gia Mĩ hay châu Âu đơn độc giải quyết mọi yếu tố của chu kì phát triển sản phẩm từ nguồn lực riêng của nĩ. Ngày càng nhiều cơng ti Mĩ và châu Âu outsourcing đáng kể các nhiệm vụ nghiên cứu và phát triển cho Ấn Độ, Nga, và Trung Quốc. Theo cục IT chính phủ bang Karnataka, mà Bangalore ở đĩ, các đơn vị Ấn Độ của Cisco Systems, Intel, IBM, Texas Instruments và GE đã đệ 1.000 đơn xin cấp bằng sáng chế với Cục Sáng chế Mĩ. Riêng Texas Instruments được cấp 225 bằng sáng chế Mĩ cho hoạt động Ấn Độ của nĩ. “Đội Intel ở Bangalore đang phát triển các chip vi xử lí cho cơng nghệ khơng dây dải rộng tốc độ cao, để tung ra năm 2006,” cục IT Karnataka nĩi, trong một tuyên bố đưa ra cuối năm 2004, và “ở Trung tâm Cơng nghệ John F. Welch của GE ở Bangalore, các kĩ sư đang phát triển các ý tưởng mới cho động cơ máy bay, các hệ thống giao thơng và ngành nhựa.” Thực vậy, qua nhiều năm GE đã thường xuyên chuyển các kĩ sư Ấn Độ làm việc cho nĩ ở Mĩ quay lại Ấn Độ để tích hợp tồn bộ nỗ lực nghiên cứu tồn cầu của nĩ. Bây giờ GE thậm chí cử những người phi Ấn Độ đến Bangalore. Vivek Paul là tổng giám đốc Wipro Technologies, một cơng ti khác của các cơng ti cơng nghệ tinh tuý của Ấn Độ, song ơng đặt cơ sở ở Silicon Valley cho gần các khách hàng Mĩ của Wipro. Trước khi đến Wipro, Paul đã quản lí kinh doanh máy quét CT của GE ở Milwaukee. Lúc đĩ ơng cĩ một đồng nghiệp Pháp quản lí kinh doanh máy phát điện của GE cho các máy quét ở Pháp. “Tơi gặp anh ta trên máy bay mới đây,” Paul nĩi, “và anh ta bảo tơi anh ta đã chuyển sang Ấn Độ để cầm đầu việc nghiên cứu năng lượng cao của GE ở đĩ”. Tơi bảo Vitek rằng tơi thích nghe một người Ấn Độ đã từng cầm đầu việc kinh doanh CT của GE ở Milwaukee nhưng bây giờ điều hành kinh doanh tư vấn của Wipro ở Silicon Valley nĩi cho tơi về một cựu đồng nghiệp Pháp đã chuyển sang Bangalore để làm việc cho GE. Đĩ là một thế giới phẳng. 31
  36. 32 THẾ GIỚI LÀ PHẲNG ỗi khi tơi nghĩ mình đã tìm thấy việc làm cuối cùng, khĩ hiểu M nhất cĩ thể được outsource cho Bangalore, tơi phát hiện ra một việc làm mới. Bạn tơi Vivek Kulkarni đã từng cầm đầu một cơ quan chính phủ ở Bangalore chịu trách nhiệm về thu hút đầu tư tồn cầu cơng nghệ cao. Sau khi rời chức vụ đĩ năm 2003, ơng khởi động một cơng ti gọi là B2K, với một bộ phận gọi là Brickwork [Xây Gạch], nĩ chào cho các nhà điều hành tồn cầu bận rộn trợ lí cá nhân riêng của họ ở Ấn Độ. Giả sử bạn điều hành một cơng ti và được mời nĩi chuyện và trình bày bằng PowerPoint hai ngày nữa. “Trợ lí điều hành từ xa” của bạn ở Ấn Độ, do Brickwork cung cấp, sẽ làm mọi việc tìm kiếm cho bạn, soạn bài trình bày PowerPoint, và e-mail tồn bộ cho bạn vào ban đêm sao cho nĩ ở trên bàn bạn ngày bạn phải trình bày. “Bạn cĩ thể giao việc cho trợ lí điều hành từ xa của mình khi bạn rời cơ quan vào cuối ngày ở Thành phố New York, và việc sẽ sẵn sàng cho bạn sáng hơm sau,” Kulkarni giải thích. “Bởi vì thời gian chênh lệch với Ấn Độ, họ cĩ thể làm việc được giao khi bạn ngủ và đưa lại cho bạn vào buổi sáng”. Kulkarni gợi ý tơi thuê một trợ lí từ xa ở Ấn Độ để làm tất cả việc tìm kiếm cho cuốn sách này. “Anh hay chị ta cũng giúp anh theo kịp với cái anh muốn đọc. Khi anh thức dậy, anh sẽ thấy tĩm tắt đầy đủ trong in-box của anh”. (Tơi bảo ơng ta khơng ai cĩ thể giỏi hơn trợ lí lâu đời của tơi, Maya Gorman, người ngồi cách xa mười bước!). Cĩ một trợ lí điều hành từ xa tốn khoảng 1.500 đến 2.000 $ một tháng, và căn cứ và quỹ những người tốt nghiệp đại học Ấn Độ mà từ đĩ Brickwork cĩ thể tuyển, năng lực trí tuệ mà bạn cĩ thể thuê dollar lấy dollar là đáng kể. Như tài liệu quảng cáo của Brickwork nĩi, “Quỹ tài năng của Ấn Độ tạo cho các cơng ti tiếp cận đến một dải phổ rộng của những người cĩ trình độ cao. Bên cạnh những người mới tốt nghiệp đại học, khoảng 2,5 triệu mỗi năm, nhiều người nội trợ cĩ trình độ cũng tham gia thị trường việc làm”. Các trường kinh doanh Ấn Độ, nĩ nĩi thêm, tạo ra khoảng tám mươi chín ngàn MBA mỗi năm. “Chúng tơi cĩ sự đáp ứng tuyệt vời,” Kulkarni nĩi, từ các khách hàng đến từ hai lĩnh vực chính. Một là các nhà tư vấn chăm sĩc sức khoẻ Mĩ, thường cần tính tốn rất nhiều số liệu và thảo các trình bày PowerPoint. Thứ hai, ơng nĩi, là các ngân hàng đầu tư và các 32
  37. KHI TƠI CỊN ĐANG NGỦ 33 cơng ti dịch vụ tài chính Mĩ, thường cần chuẩn bị các sách mỏng bĩng lống với các đồ thị minh hoạ lợi ích của một IPO (ra niêm yết trên thị trường chứng khốn) hay một đề xuất sát nhập. Trong trường hợp sát nhập, Brickwork sẽ chuẩn bị các đoạn của báo cáo đề cập đến các điều kiện và xu hướng thị trường chung, nơi phần lớn nghiên cứu cĩ thể lượm lặt được từ Web và tĩm tắt ở một dạng chuẩn. “Đánh giá về định giá thương vụ ra sao là việc của bản thân các nhà ngân hàng đầu tư.” Kulkarni nĩi. “Chúng tơi làm cơng việc chất lượng thấp, và họ sẽ làm các việc cần sự đánh giá phê phán và kinh nghiệm, sát với thị trường.” Đội của ơng tham gia càng nhiều dự án, họ tích được càng nhiều tri thức. Kulkarni nĩi, họ cũng đầy khát vọng để giải vấn đề cao hơn. “Ý tưởng là học liên tục. Bạn luơn tham gia một kì thi. Khơng cĩ kết thúc đối với việc học Khơng cĩ giới hạn thực sự đối với cái cĩ thể được làm bởi ai đĩ.” hơng giống Columbus, tơi đã khơng dừng với Ấn Độ. Sau khi K về nhà, tơi quyết định tiếp tục thám hiểm phương Đơng tìm nhiều dấu hiệu hơn về thế giới là phẳng. Vì thế sau Ấn Độ, tơi mau chĩng đi Tokyo, nơi tơi đã cĩ cơ hội phỏng vấn Kenichi Ohmae, nguyên là nhà tư vấn huyền thoại của McKinsey & Company ở Nhật Bản. Ohmae đã rời McKinsey và lập ra doanh nghiệp riêng của mình, Ohmae & Associates. Và họ làm gì? Khơng cịn làm tư vấn nữa, Ohmae giải thích. Bây giờ ơng đi tiên phong trong nỗ lực để outsource các việc làm chất lượng thấp cho các call center và các nhà cung cấp dịch vụ nĩi tiếng Nhật ở Trung Quốc. “Ơng nĩi gì?” tơi hỏi. “Sang Trung Quốc? Chẳng phải một thời người Nhật đã thuộc địa hố Trung Quốc, để lại vị rất khĩ chịu trong miệng người Trung Quốc?” Thế đấy, phải, Ohmae nĩi, nhưng ơng giải thích rằng người Nhật cũng để lại một số đơng người nĩi tiếng Nhật những người đã duy trì một phần văn hố Nhật, từ sushi đến karaoke, ở bắc Trung Quốc, đặc biệt quanh thành phố cảng đơng bắc Đại Liên. Đối với Nhật Bản Đại Liên đã trở thành cái mà Bangalore đã trở thành đối với Mĩ và các nước nĩi tiếng Anh khác: trung tâm outsourcing. Người Trung Quốc cĩ thể khơng bao giờ tha thứ cho Nhật Bản vì cái nĩ đã làm đối với Trung Quốc trong thế kỉ trước, nhưng người Trung Quốc hết sức tập trung vào việc lãnh đạo thế giới trong thế 33
  38. 34 THẾ GIỚI LÀ PHẲNG kỉ tiếp đến mức họ sẵn sàng xem lại tiếng Nhật của họ và đảm nhận mọi việc Nhật Bản cĩ thể outsource. “Việc tuyển mộ là khá dễ,” Ohmae nĩi đầu năm 2004. “Khoảng một phần ba dân số ở vùng này [quanh Đại Liên] đã học tiếng Nhật như sinh ngữ thứ hai ở trường trung học. Cho nên tất cả các cơng ti Nhật này đều tham gia”. Cơng ti của Ohmae chủ yếu vào số liệu ở Trung Quốc, nơi các cơng nhân Trung Quốc lấy các tư liệu viết tay tiếng Nhật, được quét, fax, hay được e-mail từ Nhật Bản sang Đại Liên, và sau đĩ gõ chúng vào một cơ sở dữ liệu số bằng kí tự Nhật. Cơng ti của Ohmae đã phát triển một phần mềm lấy dữ liệu phải nhập và bẻ nĩ thành các gĩi. Các gĩi này sau đĩ cĩ thể được chuyển quanh Trung Quốc hay Nhật Bản để đánh máy, tuỳ thuộc vào chuyên mơn cần phải cĩ, và sau đĩ được ghép lại ở cơ sở dữ liệu của cơng ti tại hội sở của nĩ ở Tokyo. “Chúng tơi cĩ khả năng phân cơng việc làm cho cá nhân người am hiểu về lĩnh vực giỏi nhất”. Cơng ti của Ohmae thậm chí cịn cĩ hợp đồng với hơn bảy mươi ngàn bà nội trợ, một số trong số họ là chuyên gia về các thuật ngữ y học hay luật, để vào số liệu ở nhà. Hãng mới đây đã mở rộng sang thiết kế với sự trợ giúp của máy tính cho một cơng ti nhà ở Nhật Bản. “Khi bạn thương lượng với khách hàng ở Nhật Bản để xây một căn nhà”, ơng giải thích, “bạn sẽ phác hoạ sơ đồ mặt bằng - hầu hết các cơng ti này khơng dùng máy tính”. Cho nên các sơ đồ vẽ tay được chuyển bằng điện tử sang Trung Quốc, nơi chúng được biến đổi thành các bản thiết kế số, sau đĩ được e-mail lại cho hãng xây dựng Nhật, biến chúng thành các bản kế hoạch xây dựng. “Chúng tơi kiếm các nhà nhập liệu Trung Quốc cĩ thành tích tốt nhất”, Ohmae nĩi, “và bây giờ họ xử lí nhiều nhà một ngày”. Người Trung Quốc làm đồ hoạ máy tính cho các căn nhà Nhật, gần bảy mươi năm sau khi quân đội Nhật tham tàn chiếm đĩng Trung Quốc, phá trụi nhiều nhà đang xây. Cĩ lẽ cĩ hi vọng cho thế giới phẳng này ơi phải trực tiếp xem Đại Liên, Bangalore này của Trung Quốc, T cho nên tơi tiếp tục đi quanh phương Đơng. Đại Liên uy nghi khơng chỉ cho một thành phố Trung Quốc. Với các đại lộ rộng rãi, khơng gian xanh tươi đẹp, và mối liên hệ của các trường đại học, các cao đẳng kĩ thuật, và cơng viên phần mềm đồ sộ của nĩ, Đại 34
  39. KHI TƠI CỊN ĐANG NGỦ 35 Liên cĩ thể nổi bật ở Silicon Valley. Tơi đã ở đây năm 1998, nhưng đã cĩ rất nhiều cao ốc mới từ khi đĩ khiến tơi khơng nhận ra vị trí. Đại Liên, nằm ở đơng bắc cách Bắc Kinh khoảng một giờ bay, tượng trưng cho hầu hết các thành phố hiện đại của Trung Quốc – và vẫn cịn rất nhiều thành phố khốn khổ, lạc hậu- chộp lấy việc kinh doanh như các trung tâm tri thức nhanh thế nào, chứ khơng chỉ như các trung tâm sản xuất. Các bảng hiệu trên các cao ốc nĩi tồn bộ câu chuyện: GE, Microsoft, Dell, SAP, HP, Sony, và Accenture - tất cả đều cĩ cơng việc hậu trường làm ở đây để hỗ trợ hoạt động Á châu của họ, cũng như nghiên cứu và phát triển phần mềm mới. Vì gần Nhật Bản và Hàn Quốc, cách mỗi nước chỉ khoảng một giờ bay, số lượng lớn người nĩi tiếng Nhật, băng thơng Internet dư dả, và nhiều bãi đỗ xe và một sân golf tầm cỡ thế giới của nĩ (tất cả đều hấp dẫn các lao động tri thức), Đại Liên đã trở thành nơi hấp dẫn outsourcing Nhật. Các hãng Nhật cĩ thể thuê ba kĩ sư phần mềm Trung Quốc với giá của một ở Nhật Bản và vẫn cịn tiền lẻ để trả cả phịng đầy nhân viên call center (lương khởi điểm 90 $ một tháng). Khơng ngạc nhiên rằng khoảng hai ngàn bảy trăm cơng ti Nhật đã cĩ hoạt động ở đây hay kết hợp với các đối tác Trung Quốc. “Tơi đã đưa nhiều người Mĩ đến Đại Liên, và họ đều kinh ngạc về nền kinh tế Trung Quốc phát triển nhanh ra sao trong lĩnh vực cơng nghệ cao này”, Win Liu, giám đốc dự án U.S./EU cho DHC, một trong các hãng phần mềm cây nhà lá vườn lớn nhất của Đại Liên, mở rộng từ ba mươi lên một ngàn hai trăm nhân viên trong sáu năm, nĩi vậy. “Người Mĩ khơng nhận ra thách thức ở mức họ phải [nhận ra] ”. Thị trưởng năng động của Đại Liên, Xia Deren, bốn mươi chín tuổi, nguyên hiệu trưởng một trường cao đẳng. (Đối với một hệ thống Cộng sản độc đốn, Trung Quốc đã làm một việc rất tốt về cất nhắc người theo cơng trạng. Văn hố Quan lại trọng dụng tài năng [Mandarin meritocratic] vẫn ăn rất sâu ở đây). Xong bữa ăn tối mười mĩn truyền thống ở một khách sạn địa phương, thị trưởng bảo tơi Đại Liên đã tiến xa thế nào và ơng muốn dẫn nĩ tới đâu. “Chúng tơi cĩ hai mươi hai trường đại học và cao đẳng với hơn hai trăm ngàn sinh viên ở Đại Liên,” ơng giải thích. Hơn nửa số sinh viên đĩ tốt nghiệp cĩ bằng kĩ thuật hay khoa học, và ngay cả những 35
  40. 36 THẾ GIỚI LÀ PHẲNG người khơng [cĩ bằng đĩ], những người học lịch sử hay văn học, vẫn được bảo học một năm tiếng Nhật hay tiếng Anh, cộng với khoa học máy tính, sao cho họ cĩ thể dùng được. Thị trưởng ước lượng hơn nửa dân cư Đại Liên cĩ truy cập Internet ở cơ quan, ở nhà, hay ở trường. “Ban đầu các cơng ti Nhật Bản khởi động một số ngành xử lí dữ liệu ở đây,” thị trưởng nĩi thêm, “và với việc này như cơ sở bây giờ họ chuyển sang R & D và phát triển phần mềm Trong một hay hai năm qua, các cơng ti phần mềm Mĩ cũng cĩ nỗ lực nào đĩ để chuyển outsourcing phần mềm từ Hoa Kì sang thành phố chúng tơi Chúng tơi tiến gần và bắt kịp những người Ấn Độ. Xuất khẩu phần mềm [từ Đại Liên] đã tăng 50 phần trăm mỗi năm. Và Trung Quốc hiện nay trở thành nước tạo ra số lượng người tốt nghiệp đại học lớn nhất. Tuy nhìn chung tiếng Anh của chúng tơi khơng được thơng thạo như của người Ấn Độ, chúng tơi cĩ dân số lớn hơn, [vì thế] chúng tơi cĩ thể chọn ra các sinh viên thơng minh nhất những người cĩ thể nĩi tiếng Anh giỏi nhất”. Người dân Đại Liên cĩ khĩ chịu khơng khi làm việc cho người Nhật, mà chính phủ của họ vẫn chưa bao giờ xin lỗi chính thức về cái chính phủ Nhật Bản thời chiến tranh đã làm với Trung Quốc? “Chúng tơi sẽ khơng bao giờ quên rằng một cuộc chiến tranh lịch sử đã xảy ra giữa hai quốc gia,” ơng trả lời, “nhưng khi nĩi về lĩnh vực kinh tế, chúng tơi chỉ tập trung vào các vấn đề kinh tế- đặc biệt nếu chúng tơi nĩi về kinh doanh outsourcing phần mềm. Nếu các cơng ti Mĩ và Nhật làm sản phẩm của họ ở thành phố chúng tơi, chúng tơi coi đĩ là một việc tốt. Những đứa trẻ của chúng tơi cố học tiếng Nhật, để làm chủ cơng cụ này sao cho họ cĩ thể cạnh tranh với các đối tác Nhật Bản của họ để giành được các vị trí lương cao cho bản thân họ trong tương lai”. Thị trưởng sau đĩ nĩi thêm vào, “Cảm giác riêng của tơi là lũ trẻ Trung Quốc cĩ tham vọng hơn thanh niên Nhật hay Mĩ trong các năm gần đây, song tơi khơng nghĩ họ cĩ tham vọng đủ, vì họ khơng cĩ khát vọng như thế hệ chúng tơi. Vì thế hệ chúng tơi, trước khi vào đại học hay cao đẳng, bị đưa đi các vùng nơng thơn xa xơi và các nhà máy và các đội quân sự, và trải qua một thời kì rất khắc nghiệt, nên về mặt tinh thần khắc phục và đối mặt với khĩ khăn, [thế hệ chúng tơi phải cĩ nhiều khát vọng] hơn lũ trẻ bây giờ”. 36
  41. KHI TƠI CỊN ĐANG NGỦ 37 Thị trưởng Xia cĩ một cách trực tiếp quyến rũ để mơ tả thế giới, và tuy một số điều ơng nĩi bị thất lạc do phiên dịch, ơng hiểu nĩ – và người Mĩ cũng phải [hiểu]: “Quy tắc của nền kinh tế thị trường,” quan chức Cộng sản này giải thích cho tơi, “là nếu ở đâu đĩ cĩ nguồn nhân lực phong phú nhất và lao động rẻ nhất, tất nhiên các doanh nghiệp và các hãng sẽ tự nhiên đi đến đĩ”. Về sản xuất, ơng chỉ ra, đầu tiên người Trung Quốc đã là người làm cơng và làm cho các nhà sản xuất lớn nước ngồi, sau nhiều năm, sau khi chúng tơi đã học được tất cả các quy trình và các bước, chúng tơi cĩ thể khởi động các hãng riêng của mình. Phần mềm sẽ theo cùng đường Đầu tiên chúng tơi sẽ phải để những người nước ngồi thuê các thanh niên của chúng tơi, và sau đĩ chúng tơi sẽ khởi động các cơng ti riêng của mình. Giống như xây dựng một cao ốc. Ngày nay, Hoa Kì, các bạn là những người thiết kế, các kiến trúc sư, và các nước đang phát triển là các thợ nề cho các cao ốc. Nhưng một ngày nào đĩ tơi hi vọng chúng tơi sẽ là các kiến trúc sư”. ơi vừa mới tiếp tục khám phá – đơng và tây. Vào mùa hè 2004, T tơi đi nghỉ ở Colorado. Tơi đã nghe về hãng hàng khơng giá rẻ này được gọi là JetBlue, khai trương năm 1999. Tơi khơng cĩ ý tưởng nào về họ hoạt động ở đâu, nhưng tơi cần bay giữa Washington và Atlanta, và khơng thể hồn tồn cĩ được giờ bay tơi muốn, cho nên tơi quyết định gọi JetBlue và xem chính xác họ bay ở đâu. Tơi thú nhận mình đã cĩ một động cơ khác. Tơi nghe là JetBlue đã outsource tồn bộ hệ thống giữ chỗ của nĩ cho các bà nội trợ ở Utah, và tơi muốn kiểm tra việc này. Cho nên tơi đã gọi hệ thống giữ chỗ của JetBlue và cĩ đối thoại sau với người đại lí: “Alơ, đây là Dolly, tơi cĩ thể giúp ơng?” một giọng như của bà trả lời cho cháu. “Vâng, tơi muốn bay từ Washington đi Atlanta”, tơi nĩi. “Hãng cĩ bay đường ấy khơng ạ?” “Khơng, tơi rất tiếc chúng tơi khơng. Chúng tơi bay từ Washington đi Ft. Lauderdale”, Dolly nĩi. “Thế cịn Washington đi New York City?” tơi hỏi. “Khơng, tơi rất tiếc chúng tơi khơng bay đường đĩ. Chúng tơi cĩ bay từ Washington đến Oakland và Long Beach”, Dolly nĩi. 37
  42. 38 THẾ GIỚI LÀ PHẲNG “Bà ơi, tơi cĩ thể hỏi bà việc này? Thật sự bà ở nhà à? Tơi đọc thấy các đại lí của JetBlue chỉ làm việc ở nhà”. “Vâng, đúng vậy,” Dolly nĩi với giọng vui vẻ nhất. (Muộn hơn tơi xác minh với JetBlue rằng họ tên đầy đủ của bà là Dolly Baker). “Tơi ngồi trong văn phịng của mình ở lầu trên trong nhà của tơi, nhìn ra cửa sổ thấy trời nắng đẹp. Đúng năm phút trước ai đĩ đã gọi và hỏi tơi cùng câu hỏi ấy và tơi bảo họ và họ nĩi, “Tốt, tơi nghĩ bà sẽ bảo tơi là bà ở New Delhi”. “Bà sống ở đâu?” tơi hỏi. “Salt Lake City, Utah,” Dolly nĩi. “Chúng tơi cĩ ngơi nhà hai tầng, và tơi thích làm việc ở đây, đặc biệt vào mùa đơng khi tuyết xốy tít và tơi ở trên này trong văn phịng ở nhà”. “Làm thế nào bà cĩ một việc làm như vậy?” tơi hỏi. “Anh biết đấy, họ khơng quảng cáo,” Dolly nĩi với giọng ngọt ngào nhất cĩ thể. “Tất cả là do truyền miệng. Tơi đã làm việc cho chính phủ bang và tơi đã về hưu, và [sau một thời gian] tơi nghĩ tơi phải làm việc gì đĩ khác và đúng tơi thích nĩ”. David Neeleman, người sáng lập và CEO của JetBlue Airways Corp., nổi tiếng về tất cả việc này. Ơng gọi nĩ là “homesourcing- thuê làm ở nhà”. JetBlue bây giờ cĩ bốn trăm đại lí giữ chỗ, giống Dolly, làm việc ở nhà ở vùng Salt Lake City, lấy việc đặt chỗ - giữa chừng trơng trẻ con, tập luyện, viết tiểu thuyết, và nấu ăn tối. Vài tháng sau tơi đến thăm Needleman tại hội sở của JetBlue ở New York, và ơng đã giải thích cho tơi những ưu điểm của homesourcing, mà ơng thực sự khởi đầu ở Morris Air, việc đầu tư mạo hiểm đầu tiên của ơng vào kinh doanh hàng khơng. (Nĩ được Sothwest mua lại). “Chúng tơi cĩ 250 người ở nhà của họ làm việc giữ chỗ tại Morris Air,” Needleman nĩi. “Họ cĩ năng suất hơn 30 phần trăm - họ bán vé được nhiều hơn 30 phần trăm, chính do họ thấy hạnh phúc hơn. Họ trung thành hơn và ít mệt mỏi hơn. Cho nên khi tơi khởi động JetBlue, tơi nĩi, “Chúng ta sẽ cĩ 100 phần trăm giữ chỗ ở nhà”. Needleman cĩ một lí do cá nhân để muốn làm việc này. Ơng là người [theo giáo phái] Mormon và tin rằng xã hội sẽ khấm khá hơn nếu nhiều bà mẹ hơn cĩ thể ở nhà với các con trẻ của mình nhưng đồng thời cĩ cơ hội là người ăn lương. Cho nên ơng đặt cơ sở hệ thống giữ chỗ tại gia của ơng ở Salt Lake City, nơi tuyệt đại đa số phụ nữ theo phái Mormon và nhiều người là các bà mẹ ở nhà. 38
  43. KHI TƠI CỊN ĐANG NGỦ 39 Những người giữ chỗ tại gia làm việc hai mươi lăm giờ một tuần và phải vào văn phịng khu vực của JetBlue ở Salt Lake City bốn giờ một tháng để học các kĩ năng mới và để được cập nhật về cái gì xảy ra ở bên trong cơng ti. “Chúng tơi sẽ khơng bao giờ outsource sang Ấn Độ,” Needleman nĩi. “Chất lượng mà chúng tơi cĩ thể cĩ được ở đây là tốt hơn rất nhiều [Những người sử dụng lao động] muốn outsource sang Ấn Độ hơn là cho các gia đình của chính họ, và tơi khơng thể hiểu điều đĩ. Khơng hiểu sao họ lại nghĩ rằng cần phải đặt người ta ngồi trước họ hay sếp nào đĩ mà họ đã bổ nhiệm. Năng suất chúng tơi cĩ ở đây nhiều hơn thành phần cho nhân tố [lương] Ấn Độ”. Một bài báo của Los Angeles Times về JetBlue (9-5-2004) lưu ý rằng “năm 1997, 11,6 triệu nhân viên của các cơng ti Mĩ làm việc từ nhà ít nhất một phần thời gian. Ngày nay con số này đã tăng vọt lên 23,5 triệu – 16% lực lượng lao động Mĩ. (Trong lúc đĩ, đội ngũ của những người tự làm chủ, những người thường làm việc ở nhà, đã phình lên 23,4 triệu từ 18 triệu trong cùng thời kì). Trong con mắt của một số người, homesourcing và outsourcing khơng phải là các chiến lược cạnh tranh nhau mà chúng là những biểu lộ của cùng thứ: một sự thúc đẩy tàn nhẫn bởi corporate America [nước Mĩ như một cơng ti] để giảm chi phí và tăng hiệu quả, bất cứ ở đâu điều đĩ cĩ thể dẫn đến”. Đĩ chính xác là cái tơi đã học được trong các chuyến du hành của tơi: Homesourcing sang Salt Lake City và outsourcing sang Bangalore chỉ là các mặt của cùng đồng xu – sourcing. Và thứ mới, mới, tơi cũng học được, là mức độ theo đĩ ngày nay là cĩ thể cho các cơng ti và các cá nhân để source việc làm ở bất cứ đâu. ơi cứ tiếp tục di chuyển. Mùa thu 2004, tơi đi theo chủ tịch Bộ T Tổng Tham mưu Liên quân, Tướng Richard Myers, trong một cuộc kinh lí các điểm nĩng ở Iraq. Chúng tơi thăm Baghdad, tổng hành dinh quân sự Mĩ ở Fallujah, và Đơn vị Viễn Chinh Lính Thuỷ đánh Bộ (MEU) thứ 24 bên ngồi Babil, ở trung tâm của cái gọi là Tam giác Sunni của Iraq. Căn cứ MEU thứ 24 tạm thời là một loại Cơng sự [của người] Apache, ở giữa dân cư Hồi giáo Sunni Iraq khá thù địch. Trong khi Tướng Myers đang gặp các sĩ quan và các binh nhì ở đĩ, tơi được tự do lang thang quanh căn cứ, và cuối cùng 39
  44. 40 THẾ GIỚI LÀ PHẲNG tơi thơ thẩn vào trung tâm chỉ huy, nơi mắt tơi chợt thấy một màn hình TV phẳng. Trên màn hình được truyền trực tiếp cái cĩ vẻ như đến từ loại camera nào đĩ ở trên cao. Nĩ cho thấy một số người di chuyển quanh sau một căn nhà. Cũng trên màn hình, dọc bên phải, là một chat room thơng điệp tức thời [instant-messaging ] tích cực, cĩ vẻ như thảo luận cảnh trên TV. “Cái gì đĩ?” tơi hỏi anh lính theo dõi cẩn thận tất cả các ảnh từ một máy xách tay. Anh ta giải thích rằng một Predator drone Mĩ - một máy bay khơng người lái nhỏ với camera TV cơng suất cao – đang bay trên một làng Iraq, trong khu vực hoạt động của MEU thứ 24, và truyền các ảnh tình báo thời gian thực về máy xách tay của anh ta và về màn hình phẳng này. Máy bay khơng người lái này thực sự “bay” và được điều khiển bởi một chuyên gia ngồi ở Căn Cứ Khơng Quân Nellis ở Las Vegas, Nevada. Đúng thế, máy bay khơng người lái trên [bầu trời] Iraq thực sự được điều khiển từ xa từ Las Vegas. Trong khi đĩ, các ảnh video mà nĩ phát về được MEU thứ 24, tổng hành dinh Chỉ huy Trung Tâm Hoa Kì ở Tampa, tổng hành dinh khu vực CentCom ở Quatar, Lầu Năm Gĩc, và cĩ lẽ CIA, theo dõi đồng thời. Các nhà phân tích khác nhau quanh thế giới đã tiến hành chat trực tuyến về diễn giải thế nào cái đang xảy ra và phải làm gì với nĩ. Chính cuộc nĩi chuyện của họ là cái cuộn xuống ở bên phải màn hình. Trước khi tơi cĩ thể thậm chí biểu lộ sự kinh ngạc của mình, một sĩ quan khác đi cùng chúng tơi đã làm tơi sửng sốt khi nĩi rằng cơng nghệ này đã “làm phẳng” hệ thống thứ bậc quân sự - bằng cho nhiều thơng tin đến vậy cho sĩ quan cấp thấp, hay thậm chí cho binh nhì, người đang cho máy tính hoạt động, và trao quyền cho anh ta để ra các quyết định về thơng tin anh ta thu thập. Trong khi tơi tin chắc rằng khơng trung uý nào sẽ được phép khai hoả mà khơng hỏi ý kiến cấp trên, ngày mà chỉ cĩ các sĩ quan cấp cao cĩ bức tranh lớn đã qua rồi. Sân chơi quân sự được làm bằng. Tơi kể chuyện này cho bạn tơi Nick Burns, đại sứ Hoa Kì ở NATO và một thành viên trung thành của Red Sox Nation [câu lạc bộ người hâm mộ hội bĩng chày Red Sox- Tất Đỏ]. Nick bảo tơi anh ta đã ở tổng hành dinh CentCom ở Quatar tháng Tư 2004, được Tướng John Abizaid và ban tham mưu của ơng chỉ dẫn. Đội của Abizaid ngồi ở bên kia bàn từ Nick với bốn màn hình phẳng TV ở đằng sau họ. Ba chiếc đầu tiên cĩ các ảnh từ cao do các máy bay 40
  45. KHI TƠI CỊN ĐANG NGỦ 41 khơng người lái Predator truyền tiếp về từ các quân khu khác nhau của Iraq trong thời gian thực. Màn hình cuối, mà Nick tập trung vào, đang chiếu một trận Yankees-Red Sox. Trên một màn hình là Pedro Martinez đối lại Derek Jeter, và trên ba màn hình khác là các tay Jihadist đối lại Sư đồn Cơ Động số Một (First Cavalry). MĨN THỊT BĂM PHẲNG VÀ THỊT CHIÊN ơi cứ di chuyển - suốt lộ trình quay lại nhà mình ở Bethesda, T Maryland. Vào lúc tơi ngồi thoải mái ở nhà mình sau hành trình này đến rìa trái đất, đầu tơi quay cuồng. Nhưng ngay khi tơi về nhà nhiều dấu hiệu về sự làm phẳng đến gõ cửa tơi hơn. Một số đến ở dạng các tin chính gây căng thẳng cho bất cứ cha mẹ nào lo lắng về con cái ở tuổi trung học của họ sẽ hợp vào đâu. Thí dụ, Forrester Research, Inc., đã tiên đốn hơn 3 triệu việc làm dịch vụ và chuyên mơn sẽ di chuyển khỏi đất nước vào năm 2015. Nhưng tơi thực sự há hốc mồm kinh ngạc khi đọc một bài báo từ International Herald Tribune ngày 19-7-2004 cĩ đầu đề: “Muốn Các mĩn Thịt Chiên Với Outsourcing?” “Đi xa khỏi Đường Cao Tốc 55 Giữa các bang Hoa Kì gần Cape Girardeau, Missouri, và rẽ vào làn lái-thẳng [để mua (vé, hàng) mà khơng cần xuống xe] của một quán McDonald’s sát đường cao tốc và bạn cĩ dịch vụ nhanh, thân thiện, cho dù người lấy đơn hàng của bạn khơng ở trong quán ăn – hay thậm chí ở Missouri,” bài báo viết. “Người lấy đơn hàng là một call center ở Colorado Springs, cách xa hơn 900 dặm, hay 1.450 kilomet, được nối với khách hàng và với những người lao động chuẩn bị thức ăn bằng các đường dữ liệu tốc độ cao. Ngay cả một số việc làm nhà hàng ăn, cĩ vẻ, khơng miễn khỏi outsourcing”. “Chủ tiệm ăn ở Cape Girardeau, Shannon Davis, đã kết nối nĩ và ba trong 12 quán đặc quyền kinh tiêu McDonald’s của ơng với call center ở Colorado, được vận hành bởi một người được đặc quyền kinh tiêu khác của McDonald’s, Steven Bigari. Và ơng đã làm việc đĩ vì cùng các lí do mà các chủ doanh nghiệp khác nắm lấy các call center: các chi phí thấp hơn, tốc độ nhanh hơn và ít sai sĩt hơn”. 41
  46. 42 THẾ GIỚI LÀ PHẲNG “Các đường truyền thơng rẻ, nhanh và tin cậy cho phép những người nhận thực đơn ở Colorado Springs trị chuyện với các khách hàng ở Missouri, chụp một ảnh điện tử nhanh về họ, hiển thị thực đơn của họ trên một màn hình nhằm đảm bảo rằng nĩ đúng, rồi gửi đơn hàng và ảnh đến bếp của tiệm ăn. Ảnh được huỷ ngay khi thực đơn được hồn tất, Bigari nĩi. Người dân mua mĩn thịt băm của mình chẳng bao giờ biết đơn hàng của họ đi ngang hai bang và bật lại trước khi họ cĩ thể thậm chí lái xe đến cửa sổ để lấy thức ăn”. “Davis nĩi rằng anh đã mơ làm cái gì đĩ giống thế này trong hơn một thập niên. ‘Chúng tơi khơng thể đợi để đi theo nĩ’, anh nĩi thêm. Bigari, người đã lập ra call center cho các tiệm ăn riêng của mình, vui vẻ giúp đỡ – lấy một khoản phí nhỏ cho mỗi giao dịch”. Bài báo lưu ý là Cơng ti McDonald’s nĩi thấy ý tưởng call center là đủ lí thú để khởi động một thử nghiệm với ba cửa hàng gần tổng hành dinh ở Oak Brook, Illinois, với phần mềm khác với phần mềm Bigari dùng. “Jim Sappington, một phĩ chủ tịch của McDonald’s về IT, nĩi rằng cịn ‘quá, quá sớm’ để nĩi nếu ý tưởng call center cĩ thể hoạt động chéo qua mười ba ngàn tiệm ăn McDonald’s ở Hoa Kì Tuy nhiên, những người được kinh tiêu của hai tiệm ăn McDonald’s khác, ngồi của Davis, đã outsource việc lấy đơn hàng lái-thẳng của họ cho Bigari ở Colorado Springs. (Hai tiệm khác ở Brainerd, Minnesota, và Norwood, Massachusetts). Cái chính cho thành cơng của hệ thống, Bigari nĩi, là cách nĩ sĩng đơi ảnh của khách hàng với đơn hàng của họ; bằng tăng sự chính xác, hệ thống cắt giảm số các khiếu nại và vì thế khiến việc phục vụ nhanh hơn. Trong kinh doanh thức ăn nhanh, thời gian thực sự là tiền: cắt thậm chí năm giây khỏi thời gian xử lí một đơn hàng là đáng kể,” bài báo lưu ý. “Bigari nĩi anh đã cắt ngắn thời gian đặt hàng trong các cửa hiệu hai làn lái-thẳng của anh hơn 30 giây một chút, xuống trung bình cịn khoảng 1 phút 5 giây. Ít hơn một nửa thời gian trung bình 2 phút 36 giây, cho tất cả các tiệm McDonald’s, giữa các tiệm nhanh nhất ở trong nước, theo QSRweb.com, trang theo dõi những việc như vậy. Các tiệm lái-thẳng của anh hiện nay phục vụ 260 xe một giờ, Bigari nĩi, 30 phần trăm nhiều hơn chúng đạt trước khi anh khởi động call center Tuy các nhà điều hành của anh kiếm, trung bình, được 40 cent một giờ cao hơn các nhân viên tuyến của anh, anh đã cắt tổng chi phí lao động của mình được một điểm phần trăm, ngay cả khi lượng bán hàng lái-thẳng tăng lên Các 42
  47. KHI TƠI CỊN ĐANG NGỦ 43 trắc nghiệm được tiến hành bên ngồi các cơng ti cho thấy các tiệm lái-thẳng của Bigari hiện nay cĩ lỗi ít hơn 2 phần trăm của tất cả các đơn hàng, xuống từ khoảng 4 phần trăm trước khi anh bắt đầu sử dụng các call center, Bigari nĩi”. Bigari “say mê ý tưởng call center đến mức,” bài báo nhận xét, “anh đã mở rộng nĩ quá cửa sổ lái-thẳng ở bảy tiệm ăn của anh cĩ dùng hệ thống. Trong khi anh vẫn chào dịch vụ quầy ở các tiệm ăn đĩ, hầu hết khách hàng bây giờ đặt hàng qua call center, dùng điện thoại với máy đọc thẻ tín dụng ở trên các bàn trong khu vực ngồi”. ột số dấu hiệu về làm phẳng mà tơi bắt gặp ở nhà, tuy vậy, M chẳng liên quan gì đến kinh tế học. Ngày 3-10-2004, tơi xuất hiện trên chương trình buổi sáng Tin Chủ nhật của CBS, Đối mặt với Quốc gia, do phĩng viên kì cựu của CBS Bob Schieffer dẫn. CBS đã lên tin rất nhiều trong các tuần trước bởi vì phĩng sự 60 Phút của Dan Rather về sự phục vụ ở cục Vệ binh Quốc gia Khơng quân của Tổng thống George W. Bush hố ra là dựa vào các tài liệu giả. Sau chương trình Chủ nhật đĩ, Schieffer kể rằng thứ lì quặc nhất xảy ra với ơng ta vào tuần trước. Khi ơng bước ra khỏi studio của CBS, một phĩng viên trẻ đã đợi ơng ở vỉa hè. Đấy khơng hề lạ thường, bởi vì như với tất cả các chương trình sáng Chủ nhật, các mạng tin lớn – CBS, NBC, ABC, CNN, và Fox – luơn cử người đến các studio của nhau để chộp các cuộc phỏng vấn với các khách mời. Nhưng gã trẻ này, Schieffer giải thích, đã khơng từ một mạng chính nào. Anh ta lịch sự giới thiệu mình là phĩng viên của một Web site gọi là InDC Journal và hỏi liệu anh ta cĩ thể hỏi Schieffer vài câu hỏi. Schieffer, do là một tay lịch sự, nĩi chắc chắn. Gã trẻ phỏng vấn ơng ta với một dụng cụ mà Schieffer khơng nhận ra và sau đĩ hỏi nếu anh ta cĩ thể chụp ảnh ơng. Ảnh à? Schieffer thấy gã trẻ khơng cĩ máy ảnh. Anh ta chẳng cần máy ảnh. Anh ta quay máy điện thoại di động của mình và nháy một ảnh của Schieffer. “Vì thế sáng hơm sau tơi đến và ngĩ vào trang Web site này và ảnh của tơi ở đĩ với bài phỏng vấn và đã cĩ rồi ba trăm bình luận về nĩ,” Schieffer nĩi, ơng, tuy biết rất kĩ nghề báo trực tuyến, tuy thế vẫn sửng sốt về cách nhanh khơng thể tin nổi, rẻ tiền, và đơn độc mà gã trẻ này đã làm cho mình được biết đến [đưa mình lên ánh sáng]. 43
  48. 44 THẾ GIỚI LÀ PHẲNG Câu chuyện này làm tơi tị mị, cho nên tơi lần ra gã trẻ này từ InDC Journal. Tên anh ta là Bill Ardolino, và anh là gã rất chu đáo. Tơi tiến hành phỏng vấn riêng của mình với anh ta trực tuyến – làm sao khác được? – và bắt đầu bằng hỏi về thiết bị anh dùng với tư cách một mạng/báo một-người. “Tơi dùng một máy chơi MP3/ghi âm nhỏ xíu (ba inch rưỡi và hai inch [~8,9 x 5 cm]) để ghi âm, và một máy ảnh điện thoại số nhỏ riêng để chụp ảnh ơng ta,” Ardolino nĩi. “Khơng hồn tồn gợi tình như chiếc máy một-trong-tất-cả điện thoại/máy ảnh/máy ghi âm (hiện cĩ bán), nhưng dẫu sao đi nữa là một sự bày tỏ về tính phổ biến khắp nơi và sự thu nhỏ của cơng nghệ. Tơi mang thiết bị này đi khắp D.C. mọi lúc bởi vì, này, ai biết được. Cái cĩ lẽ gây hoảng hốt hơn là Mr. Schieffer đã quyết định trả lời nhanh thế nào, sau khi bị người lạ nào đĩ nhảy bổ vào với các câu hỏi phỏng vấn. Ơng làm tơi rất ngạc nhiên thích thú.” Ardolino nĩi máy chơi MP3 tốn khoảng 125 $. “Nĩ chủ yếu được thiết kế để chơi nhạc,” anh giải thích, song cũng “được đĩng gĩi sẵn như một máy ghi âm số tạo các file âm thanh WAV cĩ thể tải được lên máy tính Về cơ bản, tơi cĩ thể nĩi rằng hàng rào để bước vào làm báo cần thiết bị cầm tay, ghi âm đặc biệt, [bây giờ] khoảng 100-200 $ đến 300 $ nếu anh muốn thêm một máy ảnh, 400 $ đến 500 $ cho một chiếc máy ghi âm rất xinh và một máy ảnh thật xinh. [Nhưng] 200 $ là tất cả cái anh cần để làm việc”. Cái gì thúc đẩy anh ta để trở thành mạng tin tức của riêng mình? “Làm một nhà báo độc lập là một thú riêng xuất phát từ sự thất vọng của tơi về thơng tin thiên lệch, khơng đầy đủ, được chọn lọc, và/hoặc kém cỏi do phương tiện truyền thơng chủ đạo thu thập”, Ardolino giải thích, anh diễn đạt mình như một “người tự do trung- hữu”. “Nghề làm báo tự do và người bà con của nĩ, blogging*, là biểu lộ của các lực lượng thị trường- một nhu cầu khơng được các nguồn thơng tin hiện tại thoả mãn. Tơi bắt đầu chụp ảnh và lấy phỏng vấn về các cuộc mít ting lớn chống chiến tranh ở D.C., vì các phương tiện truyền thơng đã bĩp méo thơ thiển bản chất của các nhĩm tổ chức các cuộc tụ họp - [như] những người Marxist ngoan cố, những kẻ ủng hộ khủng bố rõ ràng hay ngấm ngầm, v.v. Tơi lúc đầu chọn dùng hài hước như một cơng cụ, nhưng từ đĩ tơi * blogging ~ làm báo trên Web; xem blog ở trang sau 44