Tế bào gốc và hiện trạng nghiên cứu, ứng dụng tế bào gốc ở Việt Nam

pdf 10 trang phuongnguyen 4630
Bạn đang xem tài liệu "Tế bào gốc và hiện trạng nghiên cứu, ứng dụng tế bào gốc ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfte_bao_goc_va_hien_trang_nghien_cuu_ung_dung_te_bao_goc_o_vi.pdf

Nội dung text: Tế bào gốc và hiện trạng nghiên cứu, ứng dụng tế bào gốc ở Việt Nam

  1. Bộ Giáo dục và Đào tạo - Trường Đại học Duy Tân TẾ BÀO GỐC VÀ HIỆN TRẠNG NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG TẾ BÀO GỐC Ở VIỆT NAM STEM CELL AND THE CURRENT STUTUS OF STEM CELL RESEARCH AND APPLICATION IN VIETNAM PHẠM MẠNH HÙNG * LÊ VĂN ĐÔNG TOM TẮT Báo cáo này sẽ điểm qua một số khái niệm chung về tế bào gốc (TBG), công nghệ TBG, triển vọng và các khó khăn về kỹ thuật cần phải vượt qua để đưa trị liệu TBG trở thành thường qui. Sau đó báo cáo sẽ điểm lại tình hình nghiên cứu TBG ở Việt Nam trước năm 2006-2007 là thời điểm xuất hiện đề xuất của một số nhà khoa học về việc xây dựng hệ thống ngân hàng và tổ chức mạng lưới nghiên cứu, ứng dụng và trị liệu TBG ở Việt Nam. Cuối cùng, báo cáo trình bày hiện trạng triển khai thực hiện các nội dung nghiên cứu, ứng dụng TBG tại các cơ sở trong cả nước cũng như thông tin về một số hoạt động nghiên cứu phát triển khác về TBG. Từ khoá: tế bào gốc, công nghệ tế bào gốc, trị liệu tế bào gốc ABSTRACT This paper aims to introduce some concepts and definitions on stem cell and stem cell technology, its therapeutic potentials and challenges need to be overcome in order to make stem cell therapy to be routine practices. Its then list out some stem cell researches done before 2006-2007 when stem cell researchers in Vietnam proposed to set up stem cell banks and network of stem cell research, application and therapy in Vietnam. Finally, this report will summarize the current situation of stem cell research and application in Vietnam. Key words: stem cell; stem cell technology; stem cell therapy. 1. Tê bào gốc 1.1. Khái niệm và phân loại tế bào gốc Tế bào gốc (TBG) là những tế bào chưa có chức năng chuyên biệt, chúng có khả năng tăng sinh mạnh mẽ, có tiềm năng phát triển thành nhiều loại tế bào khác nhau và có khả năng tự thay mới. Nhờ những đặc điểm này mà TBG đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu ứng dụng để chữa một số bệnh của cơ quan tạo máu, một số bệnh di truyền bẩm sinh liên quan đến chuyển hoá và suy giảm miễn dịch, ung thư máu, và có 22 * GS.TSKH, Chủ tịch Tổng hội y học Việt Nam TS BS, Ngân hàng tế bào gốc MekoStem
  2. KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC nhiều hứa hẹn dùng để chữa được nhiều bệnh nan y như tiểu đường, liệt do chấn tương tuỷ sống, suy tim do tổn thương cơ tim, một số bệnh ung thư và bệnh lý gen Có nhiều cách phân loại và gọi tên TBG khác nhau tuỳ theo tiêu chí phân loại, ví dụ như dựa trên nguồn gốc, thời điểm phân lập, tiềm năng biệt hoá Có thể chia các TBG hiện đang được quan tâm nhiều thành các loại sau: - Tế bào gốc phôi (enbryonic stem cell), chính xác là các tế bào gốc từ phôi, được phân lập từ phôi (bất kỳ phần nào của phôi, không giới hạn chỉ vào các tế bào của khối tế bào bên trong phôi nang), là các tế bào gốc toàn năng hoặc vạn tiềm năng. Để có được các tế bào này thường phải hủy phôi. Đã có những thông báo sinh thiết phôi lấy ra một số tế bào của phôi sau đó phôi vẫn phát triển bình thường. Tuy nhiên còn nhiều nghi ngại về tính an toàn của kỹ thuật này đối với phôi được sinh thiết, đặc biệt là sinh thiết khối tế bào bên trong của phôi nang để có được các tế bào gốc phôi “kinh điển”. - Tế bào gốc thai (fetal stem cell) được phân lập từ các mô của thai sau nạo phá thai, thường là đa tiềm năng hoặc vạn tiềm năng. Việc nghiên cứu và sử dụng các tế bào này có ảnh hưởng khá nặng nề về đạo đức nghiên cứu, nên thường chỉ giới hạn vào mục đích tìm hiểu quá trình phát triển phôi thai. - Tế bào gốc nhũ nhi (infant stem cell) được phân lập từ trẻ sơ sinh hoặc các phần phụ của thai như dây rốn, nhau thai, màng ối, dịch ối Các tế bào này thường là đa tiềm năng hoặc vạn tiềm năng. Tùy theo cách thu thập có thể ảnh hưởng hoặc không ảnh hưởng đến đối tượng cho tế bào. Chọc dịch ối trước khi sinh hoặc chọc tĩnh mạch dây rốn trước sinh để lấy để lấy tế bào gốc của em bé có trong dịch ối hoặc trong máu dây rốn có những nguy cơ của các kỹ thuật này là nhiễm trùng, chảy máu, sẩy thai hoặc đẻ non Tuy nhiên, lấy máu dây rốn từ dây rốn hoặc bánh nhau sau khi đã “mẹ tròn con vuông” vừa được tế bào có thành phần giống hệt máu tĩnh mạch của trẻ sơ sinh lại không ảnh hưởng gì đến em bé. Tương tự như vậy, lấy các tế bào từ mô dây rốn và bánh nhau sau khi sinh cũng không ảnh hưởng đến sức khỏe của em bé vì các thành phần này là sản phẩm bỏ đi sau khi sinh. - Tế bào gốc trưởng thành (adult stem cell) được phân lập từ các mô của người từ trẻ em đến người già. Các tế bào này rất đa dạng, từ đa tiềm năng đến vài tiềm năng hoặc đơn tiềm năng. Kỹ thuật thu thập ít nhiều đều ảnh hưởng đến sức khỏe của người cho nhưng mức độ dao động rất lớn. Ví dụ lấy răng sữa hoặc da qui đầu của trẻ sau khi rụng hoặc cắt bỏ để tách tế bào gốc không ảnh hưởng gì đáng kể đến trẻ; lấy dịch tủy xương để có tế bào gốc tủy xương của bệnh nhân hoặc người hiến tủy xương là kỹ thuật tương đối phức tạp có có hưởng nhất định đến người cho vì ngoài việc thao tác chọc hút còn phải sử dụng thêm một số thuốc tác động lên tủy xương. - Tế bào giống tế bào gốc phôi (embryonic-like stem cell) hay tế bào gốc vạn tiềm năng cảm ứng (induced pluripotent stem cell: iPS): được tạo ra bằng cách cảm ứng các tế bào đã biệt hoá của cơ thể trở lại trạng thái giống như tế bào gốc phôi hay còn gọi là tế bào gốc nhân tạo. Đây là kỹ thuật chủ yếu thao tác trong phòng thí nghiệm, người cho tế bào để cảm ứng (ví dụ tế bào da) bị ảnh hưởng rất ít, có thể là sinh thiết để lấy một miếng da nhỏ. - Tế bào gốc ung thư (cancer stem cell) được phân lập từ các khối u. Các tế bào gốc này được coi là nguồn gốc của khối u. Trong chiến lược trị liệu miễn dịch chống 23
  3. Bộ Giáo dục và Đào tạo - Trường Đại học Duy Tân ung thư, tế bào này đang được chú ý để làm vaccine chống ung thư với hy vọng điều trị được “tận gốc” ung thư. Các tế bào gốc ung thư từ khối u của chính bệnh nhân hoặc khối u cùng loại của bệnh nhân khác được dùng làm vaccine kích thích thích hệ thống miễn dịch của bệnh nhân chống lại các thành phần của khối u. Hình 1.1: Phân loại TBG theo nguồn gốc và thời điểm phân lập Mỗi loại TBG kể trên có tiềm năng biệt hoá khác nhau và do vậy triển vọng ứng dụng khác nhau. Việc phân lập và duy trì mỗi loại TBG này cũng đòi hỏi những kỹ thuật và công nghệ khác nhau. Trên phương diện đạo đức y sinh học, việc thu thập nguồn cung cấp tế bào, tách và sử dụng mỗi loại TBG trên cũng có những tác động khác nhau. Nhìn bao quát nhiều khía cạnh thì mỗi loại TBG kể trên đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Do đó việc lựa chọn loại TBG nào để nghiên cứu phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó mục tiêu sử dụng thường là yếu tố quyết định. 1.2. Triển vọng và những khó khăn trong ứng dụng của tế bào gốc Các TBG có rất nhiều triển vọng ứng dụng trong nghiên cứu cơ bản cũng như lâm sàng. Để thực hiện được các ứng dụng này, cần phải thực hiện 3 nhóm công việc chính của công nghệ TBG là: - Phân lập, bảo quản các loại TBG từ các nguồn khác nhau. - Tăng sinh và biệt hoá các TBG thành một số loại chế phẩm tế bào đã biệt hoá có hình thái và chức năng khác nhau. - Ứng dụng TBG và các tế bào biệt hoá từ TBG vào nghiên cứu cơ bản trong y sinh học, nghiên cứu phát triển thuốc và điều trị bệnh. Cho tới nay, ngoại trừ TBG tạo máu được ứng dụng thường qui để điều trị một số bệnh của cơ quan miễn dịch và tạo máu, phần lớn các ứng dụng khác đều còn ở giai 24
  4. KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC đoạn thí điểm. Còn rất nhiều trở ngại kỹ thuật cần vượt qua để biến các triển vọng của TBG thành hiện thực đưa trị liệu TBG thành phương thức điều trị thường qui. Trước hết, các nghiên cứu về TBG phôi sẽ cho chúng ta các thông tin về các hiện tượng vô cùng phức tạp diễn ra trong quá trình hình thành và phát triển cơ thể người. Mục tiêu chính là nghiên cứu xem bằng cách nào mà các TBG chưa biệt hoá trở thành các tế bào biệt hoá. Nhờ có nghiên cứu TBG chúng ta đã biết diễn biến chính của quá trình này là sự bật và tắt của các gen. Các bệnh được coi là nguy hiểm nhất như ung thư hay các dị tật bẩm sinh cũng có căn nguyên chính là do bất thường trong tăng sinh và biệt hoá TBG. Vì thế, nếu chúng ta hiểu rõ hơn các gen và phân tử liên quan đến các quá trình sinh bệnh ấy chúng ta sẽ có các chiến lược điều trị hiệu quả hơn. Trở ngại cho vấn đề này đó là chúng ta còn chưa hiểu hết được những tín hiệu nào đóng vai trò bật và tắt các gen liên quan đến quá trình biệt hoá của TBG. Triển vọng tiếp theo là sử dụng các TBG vào nghiên cứu thử nghiệm và phát triển các loại thuốc mới. Thông thường để đánh giá tác dụng cũng như độc tính của một thuốc mới thì cần qua các giai đoạn thử nghiệm trên tế bào, rồi đến động vật, rồi mới tới thử nghiệm lâm sàng trên người tình nguyện. Yêu cầu của thử nghiệm là đối tượng thử càng giống nhau và càng giống với điều kiện bệnh lý thực tế thì càng chính xác. Ví dụ, muốn thử hoạt tính một thuốc chữa bệnh Alzheimer là bệnh mất trí nhớ ở người có tuổi do các tế bào thần kinh bị thoái hoá, công nghệ TBG có thể giúp tạo ra được hàng loạt tế bào thần kinh giống hệt nhau ở các giai đoạn phát triển khác nhau tương ứng với các giai đoạn sinh lý và bệnh lý khác nhau, từ đó cho phép thử sàng lọc hàng loạt chất khác nhau tìm hoạt chất có tiềm năng ứng dụng trong phòng và chữa bệnh có tổn thương tế bào thần kinh trong đó có bệnh Alzheimer. Có lẽ tiềm năng ứng dụng quan trọng nhất của TBG đó là ứng dụng tạo ra các tế bào và mô dùng trong trị liệu tế bào (cell therapy) để bổ sung và thay thế cho các mô và cơ quan mất chức năng. Cho tới nay biện pháp hữu hiệu nhất để điều trị những trường hợp này là ghép mô và cơ quan nhưng nhu cầu mô và tạng ghép hiện nay cao hơn rất nhiều so với nguồn cung cấp. Do có thể định hướng để các TBG biệt hoá thành các loại tế bào đặc hiệu nên có thể cung cấp nguồn tế bào và mô để điều trị thay thế trong các bệnh có thoái hoá hay tổn thương tế bào và mô như các bệnh Parkinson, bệnh Alzheimer, chấn thương tuỷ sống, đột quỵ não, bỏng, bệnh tim, tiểu đường và nhiều bệnh khác. Hiện nay một số trung tâm nghiên cứu đã thành công trong việc biệt hoá một số loại TBG thành nguyên bào cơ tim, thành tế bào thần kinh, thành tế bào chế tiết insulin Các thực nghiệm trên động vật cho thấy các tế bào sau khi được ghép vào các mô tổn thương có tác dụng tái tạo lại mô tổn thương hoặc duy trì được hoạt động chế tiết hormone khi được ghép vào cơ thể. Tuy nhiên, để biến các kỹ thuật này thành kỹ thuật thường qui dùng cho người bệnh giới khoa học còn phải vượt qua một số trở ngại cơ bản sau đây: - Các TBG chiếm tỷ lệ rất thấp trong cơ thể. Khi đã phân lập được chúng thì làm sao để cho chúng tăng sinh một cách mạnh mẽ, tạo ra đủ lượng tế bào và mô cần cho điều trị. - Cần làm cho các tế bào biệt hoá thành loại tế bào như mong muốn. Điều này có liên quan đến việc lựa chọn loại TBG càng có tiềm năng tạo ra được nhiều loại tế bào thì thường lại càng ít biệt hoá và như vậy lộ trình làm cho tế bào biệt hoá thành tế bào cuối cùng càng xa và càng phức tạp. Ngược lại TBG ít tiềm năng thì việc điều khiển cho chúng đi nốt con đường biệt hoá còn lại ngắn hơn nhưng khả năng tăng sinh của 25
  5. Bộ Giáo dục và Đào tạo - Trường Đại học Duy Tân chúng lại kém hơn. - Các tế bào phải tồn tại được trong cơ thể người bệnh sau khi được ghép vào. - Các tế bào phải hoà nhập được với các tế bào khác của bệnh nhân xung quanh chỗ ghép để cùng sửa chữa tái tạo lại mô, cơ quan tổn thương. - Các tế bào ghép vào phải thực hiện được các chức năng cần thiết một cách hoàn hảo trong suốt phần còn lại của cuộc đời bệnh nhân. - Các TBG ghép vào không gây nguy hại cho bệnh nhân. Cuối cùng, trên phương diện Miễn dịch, cho dù các chế phẩm TBG có được chế tạo hoàn hảo đến đâu, kỹ thuật cấy ghép có thuần thục đến mấy, nhưng nếu các tế bào ấy là của người khác thì khi cấy ghép vào cơ thể người nhận có đặc điểm di truyền khác với của các TBG đều xảy ra quá trình nhận diện và tấn công miễn dịch theo hướng cơ thể người nhận phát hiện và loại bỏ tế bào ghép (đáp ứng thải ghép) hoặc các TBG được ghép vào tạo ra các tế bào miễn dịch mới tấn công cơ thể người nhận (bệnh mô ghép chống túc chủ). Mức độ khốc liệt của quá trình tấn công miễn dịch này tỷ lệ thuận với mức độ khác biệt về di truyền giữa chủ nhân sinh học của các TBG và người được cấy ghép TBG. Vì thế việc cấy ghép mô và tế bào nói chung, TBG nói riêng, luôn mong muốn có được các tế bào có nguồn gốc từ chính cơ thể người nhận hoặc người có đặc điểm di truyền giống với người nhận. Để đạt được điều này thì một trong những cách tiếp cận là lấy các TBG ra khỏi cơ thể (đặc biệt là lấy ngay từ khi còn trẻ và chưa bị bệnh) đem bảo quản trong những điều kiện đặc biệt, duy trì chúng là các tế bào sống và không bị thay đổi theo thời gian bảo quản dưới dạng ngân hàng TBG. Các tế bào này khi cần có thể lấy ra để điều trị cho chính chủ nhân sinh học của các TBG đó hoặc những người khác trong gia đình và cộng đồng có đặc điểm di truyền phù hợp. Ngoài ra, các TBG này còn có thể dùng trong các mục đích nghiên cứu khác. 2. Thực trạng nghiên cứu, ứng dụng tê bào gốc ở Việt Nam 2.1. Trước năm 2007 Tương tự như trên thế giới, các hoạt động nghiên cứu về TBG ở Việt Nam cũng được khởi đầu từ những nghiên cứu thuộc lĩnh vực huyết học với các TBG tạo máu. Ngay cả trước khi bùng nổ sự tập trung chú ý của giới chuyên môn cũng như cộng đồng vào TBG sau các sự kiện ra đời của cừu Dolly (1996) và phân lập được TBG phôi người (1998), các nhà huyết học Việt Nam đã có những bước tiên phong trên lĩnh vực TBG qua triển khai nghiên cứu ghép tuỷ xương (mà bản chất là ghép các TBG tạo máu) để điều trị các bệnh lý huyết học. Trong thập niên từ 1995 đến 2005 tại các cơ sở mạnh về huyết học ở nước ta như Trung tâm TM-HH Tp.HCM (nay là Bệnh viện TM-HH Tp.HCM), Viện HH-TM TƯ, Trung tâm HH-TM Bệnh viện TƯ Huế, Khoa HH-TM Bệnh viện TƯ Quân đội 108 đều đã triển khai các nghiên cứu thuộc lĩnh vực này. Có thể nói, về phương diện nghiên cứu ứng dụng TBG tạo máu trong lĩnh vực huyết học, các nhà huyết học Việt Nam đã triển khai được tất cả các kỹ thuật cơ bản từ ghép TBG tạo máu lấy từ tuỷ xương đến ghép TBG tạo máu được huy động từ tuỷ xương ra máu ngoại vi và ghép TBG tạo máu lấy từ máu dây rốn trẻ sơ sinh. Việc cấy ghép cũng đã được thực hiện với các trường hợp ghép tự thân cũng như các trường hợp ghép khác gen đồng loài từ người này sang người khác hoà hợp về HLA. 26
  6. KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC Bênh cạnh lĩnh vực huyết học, chúng ta cũng có những nhà khoa học có những nghiên cứu tiên phong về TBG và nhân bản vô tính như cố GS.TS Nguyễn Mộng Hùng với các nghiên cứu TBG trên đối tượng động vật ngay từ khi Giáo sư còn học tập và làm việc ở nước ngoài cũng như các nghiên cứu sau này của ông và các cộng sự được triển khai tại Đại học KHTN, ĐHQG Hà Nội về TBG phôi gà; Các nghiên cứu về nhân bản vô tính Sao La được triển khai tại Viện CNSH thuộc Viện KH&CN Việt Nam; các nghiên cứu về nhân bản vô tính bò tại Viện CNSH thuộc Viện KH&CN Việt Nam cũng như của Trường đại học KHTN thuộc ĐHQG Tp.HCM phối hợp với trung tâm CNSH thuộc Sở KHCN Tp.HCM; Các nghiên cứu về TBG phôi chuột nhắt của Trường đại học KHTN thuộc ĐHQG Tp.HCM; Các nghiên cứu nuôi cấy tinh tử tại Trung tâm Công nghệ phôi, nuôi cấy nguyên bào sợi và tế bào sừng tại Viện Bỏng Quốc Gia thuộc Học viện Quân y cũng là những nghiên cứu tiền đề cho nghiên cứu TBG sinh tinh, TBG trung mô và TBG biểu mô của da sau này. Cùng với việc tiếp nhận kiến thức hiện đại về TBG của giới chuyên môn cũng như việc truyền bá những thông tin về TBG của giới truyền thông đại chúng, các nghiên cứu này cũng đã góp phần gây được chú ý của các cơ quan quản lý khoa học, của cộng đồng khoa học trong nước cũng như của đại chúng về các nghiên cứu TBG. 2.2. Từ năm 2007 Có thể nói các năm 2006-2007 là những năm giới khoa học và các nhà quản lý, các nhà đầu tư trong nước hướng sự tập trung chú ý đến TBG khá mạnh mẽ. Đã có hàng loạt đề xuất nghiên cứu do các cá nhân và đơn vị đưa ra và được chọn triển khai ở các cấp khác nhau từ cấp Cơ sở, cấp Thành phố đến cấp Bộ và cấp Nhà nước. Giới hạn nghiên cứu không chỉ dừng lại ở TBG tạo máu điều trị bệnh lý huyết học mà đã tiến dần đến các loại TBG khác như TBG biểu mô dây rốn, TBG vùng rìa giác mạc, TBG niêm mạc miệng, TBG trung mô từ tuỷ xương, TBG trung mô màng dây rốn, TBG trung mô màng ối, TBG trung mô máu dây rốn. Các nghiên cứu biệt hoá TBG cũng đã được đề xuất và đưa vào triển khai. Bức tranh nghiên cứu TBG đã dần được xây dựng hoàn chỉnh thành ba mảng lớn là:(i) tạo nguồn TBG (phân lập, lưu giữ TBG các loại); (ii) biệt hoá TBG thành các tế bào mang tính chuyên biệt hơn và (iii) ứng dụng TBG, đặc biệt là vào việc điều trị một số bệnh cho người. Về phương diện vốn đầu tư, Bộ KH&CN đã giao một loạt đề tài cấp Nhà nước cho các đơn vị để triển khai. Bên cạnh đó Quỹ KHCN do Bộ quản lý cũng tài trợ cho các nghiên cứu về TBG; các cơ sở nghiên cứu, các bộ ngành, thành phố cũng đầu tư kinh phí xây dựng phòng thí nghiệm và cấp kinh phí cho các đề tài nghiên cứu TBG, điển hình nhất là dự án xây dựng Phòng thí nghiệm TBG của Đại học QG Tp.HCM; Dự án đầu tư cơ sở hạ tầng xây dựng Ngân hàng TBG của Công ty cổ phần hoá dược phẩm Mekophar; Dự án thành lập công ty cổ phần về y học tái tạo (FBM) của Tập đoàn FPT. Điều này cho thấy mối quan tâm đầu tư vào lĩnh vực TBG không chỉ dừng lại ở kinh phí nhà nước mà đã bắt đầu có từ khối doanh nghiệp và tư nhân. Về phương diện kết quả cũng như hiệu quả đầu tư. Phần lớn các đề tài dự án vẫn còn đang trong giai đoạn triển khai chưa kết thúc nghiệm thu. Từ một số đề tài đã hoàn thành và đánh giá các kết quả đạt được theo giai đoạn của các đề tài đang triển khai, có thể nói trong số các kết quả đạt được bước đầu có một số kết quả đáng khích lệ nhưng vẫn cần thêm thời gian, công sức và kinh phí để khẳng định các kết quả này. Về ngân hàng TBG, hiện nay chúng ta đã có 2 cơ sở có khả năng thu thập, xử lý và bảo quản dài hạn các TBG từ máu dây rốn là Bệnh viện TM-HH Tp.HCM và Ngân 27
  7. Bộ Giáo dục và Đào tạo - Trường Đại học Duy Tân hàng tế bào gốc MekoStem (cả 2 đều ở Tp.HCM). Riêng ngân hàng Mekostem có khả năng thu thập và bảo quản cả tế bào gốc màng dây rốn theo sự chuyển giao công nghệ của công ty Cordlabs (Singapore). Việc xây dựng ngân hàng TBG này tuy đã làm chủ được công nghệ thu thập, lưu giữ TBG máu hay màng dây rốn, nhưng mới chỉ ở quy mô nhỏ. Nếu chỉ đáp ứng cho các đối tượng có mục đích sử dụng để cấy ghép tự thân hoặc cho người thân trong gia đình thì các ngân hàng này đã đáp ứng được yêu cầu và tỏ ra có hiệu quả. Tuy nhiên, khi việc cấy ghép được thực hiện giữa người cho và người nhận không cùng huyết thống, đặc biệt nếu không cùng chủng tộc, thì cần có các ngân hàng TBG với số mẫu rất lớn lên tới hàng chục ngàn mẫu mới có cơ hội tìm ngay được mẫu TBG phù hợp với bệnh nhân cần TBG để điều trị. Điều này cho thấy, về lĩnh vực ngân hàng TBG dù được coi là đã làm chủ được công nghệ thì việc đầu tư và khai thác chỉ đạt hiệu quả khi ngân hàng TBG công có được số mẫu rất lớn. Về phân lập và bảo quản TBG từ các nguồn khác nhau. Các phòng thí nghiệm cả ở miền Bắc và miền Nam đều đã có các công bố phân lập được TBG từ tuỷ xương, máu ngoại vi, máu dây rốn, từ màng ối, màng dây rốn, từ lớp Wharton jelly của dây rốn, từ gan, từ niêm mạc miệng, từ vùng rìa giác mạc, từ da, từ các mô sinh dục và thậm trí từ máu kinh nguyệt hay từ phôi gà, từ phôi chuột nhắt. Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu toàn diện để giải quyết bài toán duy trì tính gốc của các tế bào này và yêu cầu cần có số lượng tế bào đủ lớn để điều trị vẫn cần phải tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện. Biệt hoá TBG thành một số loại tế bào như tế bào giống cơ tim, tế bào giống tế bào thần kinh, tế bào da, xương, sụn, mỡ Đây được coi là hướng nghiên cứu đi song hành với các nước trên thế giới, nhưng các kết quả chúng ta đã đạt được còn tương đối khiêm tốn. Ngoại trừ nghiên cứu của Phòng thí nghiệm TBG của Đại học KHTN, ĐHQG Tp.HCM một lần tạo ra được tế bào cơ tim có khả năng co bóp từ TBG phôi chuột nhắt, các nghiên cứu của chúng ta mới chỉ ở giai đoạn còn tương đối sơ khai. Một số nghiên cứu thậm chí mới chỉ bắt đầu. Nghiên cứu biệt hoá TBG vẫn được đánh giá là khó, phức tạp và đôi khi còn mò mẫm; trong khi đó các yêu cầu về đánh giá theo dõi tế bào biệt hoá đòi hỏi rất nhiều chỉ tiêu để có thể khẳng định không chỉ là tế bào đã được biệt hoá có được biểu hiện chức năng như mong muốn mà còn đòi hỏi chúng phải là các tế bào an toàn không được có các biến đổi bất lợi như các đột biến gen có thể sinh ung thư. Hơn thế nữa, nhằm hướng tới ứng dụng điều trị thì hai vấn đề quan trọng là tính ổn định của qui trình biệt hoá và số lượng tế bào sau biệt hoá là các yếu tố cũng góp phần quyết định tính khả thi của ứng dụng TBG biệt hoá trong điều trị. Trong số các nghiên cứu biệt hoá TBG, một đề tài cấp Nhà nước nghiên cứu nuôi cấy và biệt hoá TBG sinh tinh để ứng dụng trong điều trị vô sinh nam đã được giao cho Trung tâm công nghệ phôi Học Quân y chủ trì thực hiện từ năm 2009. Hướng đi này chắc chắn cũng cần vượt qua các khó khăn đã đề cập ở mục 1.2 và do vậy đề tài này cũng mới chỉ hướng tới mục tiêu thực nghiệm trước khi có thể nghiên cứu tiếp để áp dụng trên người tình nguyện. Nghiên cứu biệt hoá TBG đôi khi là quá trình mò mẫm dò tìm và liên quan rất nhiều đến các kỹ thuật in vitro, vì vậy dễ được coi một cách đơn thuần là những nghiên cứu cơ bản. Tuy nhiên nếu nhìn nhận trên cơ sở toàn cảnh của việc nghiên cứu TBG thì đây lại là vấn đề khá then chốt của nghiên cứu TBG và đôi khi chính là bước bản lề hay đột phá của nghiên cứu TBG. Nếu chúng ta cứ đợi các phòng thí nghiệm trên thế giới làm trước rồi mới nghiên cứu áp dụng thì mãi mãi ta là người đi sau. Nếu đầu tư không đủ lớn (cả về con người, kinh phí, trang thiết bị và thời gian) thì khó ra được kết quả đủ tin cậy. Hơn thế nữa, nếu chỉ coi nghiên cứu biệt hoá TBG là nghiên cứu mò 28
  8. KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC mẫm có tính chất khai phá và giành phần đầu tư thấp về mọi mặt thì khả năng chúng ta có được những kết quả tiên phong trong lĩnh vực này sẽ càng khó thành hiện thực. Kế tiếp các kinh nghiệm và kết quả đạt được từ nghiên cứu ứng dụng nguyên bào sợi và tế bào sừng vào điều trị vết bỏng và các vết thương khó liền, năm 2010 Viện Bỏng Quốc Gia được giao chủ trì một Đề tài độc lập cấp Nhà nước nhằm biệt hoá các TBG biểu mô và TBG trung mô từ màng dây rốn thành các tế bào da và chế tạo các vật liệu tương đương da để áp dụng cho điều trị vết thương da. Việc ứng dụng điều trị cho vết thương bỏng và mất da lâu liền là những thương tổn trên bề mặt đôi khi được coi là đích dễ được áp dụng trước cho những biện pháp điều trị mới. Với tư duy đó, chúng ta mong muốn sẽ sớm có được các ứng dụng của TBG vào điều trị vết bỏng ở người. Ứng dụng TBG để điều trị bệnh xương khớp. Từ nghiên cứu cho thấy các TBG từ tuỷ xương có thể biến đổi thành các tế bào xương, nhiều nước trên thế giới đã áp dụng qui trình tiêm trực tiếp dịch tuỷ xương hoặc các tế bào tạo xương được biệt hoá từ TBG tuỷ xương của chính bệnh nhân vào ổ gãy xương hoặc khuyết hổng xương hay vết thương xương khó liền. Theo hướng này chúng ta cũng đã có 01 đề tài luận án Tiến sĩ của một bác sĩ công tác tại Bệnh viện Chợ Rẫy bảo vệ thành công. Một đề tài cấp Nhà nước do Bệnh viện TƯ Quân đội 108 phối hợp với Bệnh viện Việt Đức thực hiện từ năm 2008. Đây là hướng đi tương đối khả quan với các trường hợp ghép tự thân. Tác dụng phụ rất quan trọng của hoá trị và xạ trị ung thư là suy tuỷ thứ phát sau điều trị, điều này là trở ngại trong quá trình hồi phục sau điều trị ung thư. Nếu tiến hành cất giữ các TBG từ tuỷ xương chưa bị tổn thương của hoá chất hoặc phóng xạ trước điều trị, sau đó khi phác đồ hoá trị và xạ trị ung thư đã kết thúc thì tiến hành truyền chúng trở lại cho bệnh nhân với mong muốn đẩy mạnh được quá trình phục hồi cho bệnh nhân. Đây là nội dung cơ bản của một đề tài độc lập cấp Nhà nước được đưa ra triển khai năm 2010. Chúng ta mong muốn và chờ đợi đây sẽ là một biện pháp hỗ trợ điều trị ung thư hữu hiệu. Ứng dụng TBG để điều trị một số bệnh ở trẻ em. Năm 2010 Bộ KH&CN cũng đã triển khai một đề tài nhằm mở rộng phạm vi ứng dụng các TBG từ máu dây rốn và từ tuỷ xương hoặc TBG huy động ra máu ngoại vi để điều trị cho các bệnh nhi. Sau các kết quả thành công bước đầu ở Bệnh viện TM-HH Tp.HCM với 05 trường hợp ghép TBG máu dây rốn để điều trị một số bệnh máu và cơ quan tạo máu của bệnh nhi, việc tiếp tục mở rộng các nghiên cứu này với số ca bệnh nhiều hơn và số mặt bệnh phong phú hơn là cần thiết để sớm đưa kỹ thuật điều trị này trở thành thường qui tại nước ta. Số cơ sở triển khai có cả ở miền Bắc, Trung, Nam. Có cơ sở triển khai mới từ đầu, có cơ sở triển khai kế tiếp các kết quả nghiên cứu trước. Để đẩy mạnh hoạt động này, cần huy động nguồn đầu tư cho các đề tài từ Bộ KH&CN, Bộ Y tế, các Sở KHCN các tỉnh/ thành phố lớn như Hà Nội, Thừa Thiên Huế và Tp. HCM và cả sự tham gia của gia đình bệnh nhân khi việc điều trị tổng hợp, bên cạnh cấy ghép TBG, còn cần thêm các biện pháp điều trị khác kết hợp. Ứng dụng TBG điều trị bệnh lý giác mạc. Hai cơ sở nhãn khoa ở nước ta là Bệnh viện mắt Tp.HCM và Bệnh viện mắt TƯ đã ứng dụng thành công việc cấy ghép TBG để điều trị bệnh lý giác mạc. Kết quả thu được là sản phẩm của quá trình hợp tác quốc tế và hợp tác liên viện-trường khu vực Tp.HCM cũng như khu vực Hà Nội. Năm 2010, Bệnh viện mắt TƯ đã nhận chủ trì một đề tài cấp Nhà nước theo hướng này và chúng ta hy vọng kỹ thuật sẽ được hoàn thiện hơn nữa sau đề tài nghiên cứu này. 29
  9. Bộ Giáo dục và Đào tạo - Trường Đại học Duy Tân Ứng dụng TBG để điều trị bệnh tim. Các nghiên cứu bước đầu ứng dụng TBG từ tuỷ xương tự thân để hỗ trợ điều trị suy tim sau nhồi máu có tim đã được Viện tim mạch Việt Nam triển khai trên 6 bệnh nhân. Các kết quả bước đầu thấy có hiệu quả trên bệnh nhân và không thấy tai biến của việc bơm TBG vào tim. Hướng nghiên cứu này cần được tiếp tục với số bệnh nhân lớn hơn cũng như khắc phục những điểm mà các nhà nghiên cứu đã gặp trong quá trình triển khai đề tài ở giai đoạn trước. Ứng dụng TBG trong chuyên ngành da liễu và thẩm mỹ. Các nghiên cứu do công ty FBM phối hợp với Viện Da liễu Quốc gia tiến hành đang đi theo hướng ứng dụng các sản phẩm từ TBG để làm mỹ phẩm. Chúng ta chờ đợi các kết quả nghiên cứu khoa học từ các nghiên cứu này. 3. Kêt luận Nghiên cứu ứng dụng TBG tại Việt Nam thực sự được bắt đầu ngay từ những năm 1995 và đặc biệt được chú ý đến nhiều sau năm 2006-2007. Cho đến nay đã có trên 10 đề tài cấp Nhà nước được đề xuất và triển khai. Đại đa số các đề tài đều còn đang trong giai đoạn thực hiện. Ngoài các kết quả ứng dụng TBG tạo máu trong lĩnh vực huyết học, một số ứng dụng trong lĩnh vực tạo xương cho kết quả tương đối rõ ràng, còn lại các nghiên cứu ứng dụng khác vẫn rất khiêm tốn, cần thêm thời gian, kinh phí và công sức nghiên cứu để có được những bằng chứng thuyết phục hơn - cả trên khía cạnh nghiên cứu áp dụng những điều thế giới đã làm được vào Việt Nam cũng như các nghiên cứu tiên phong trên lính vực này. Điều này cần có sự nhập cuộc và cố gắng của cả đội ngũ nhà khoa học, các cơ quan quản lý và nhà đầu tư cũng như sự tham gia từ phía người tình nguyện. Nguyên tắc của biệt hoá TBG là phải tạo ra được vi môi trường thích hợp để định hướng TBG thành tế bào mình mong muốn. “Vi môi trường” này trong nghiên cứu TBG ở nước ta đang phụ thuộc vào cả các nhà khoa học, các nhà quản lý và các nhà đầu tư. 30
  10. KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đỗ Vĩnh An, Đỗ Trung Phấn, Nguyễn Triệu Vân và CS (1999), “Máu cuống rốn – một nguồn cung cấp tế bào nguồn tạo máu có giá trị cho ghép tủy”, Y học Việt Nam, 99(1), tr.19-21. 2. Trần Văn Bé và CS (2004), Nghiên Cứu hoàn thiện kỹ thuật chiết tách TBG tạo máu từ máu cuống rốn để điều trị bệnh lý về máu, Đề tài cấp cơ sở, Sở KH-CN-MT Tp.HCM, tr.11-14. 3. Trần Văn Bé (2004), “Tình hình ghép tế bào gốc tại TP. HCM Việt Nam”, Tạp chí Y học VN, 299(6), tr.1-2. 4. Trần Văn Bé và CS (2010), “Nghiên cứu máu cuống rốn tại bệnh viện Truyền máu Huyết học Tp.HCM”, Kỷ yếu hội thảo nghiên cứu ứng dụng tế bào gốc trong y học, tr.9-15. 5. Nguyễn Tấn Bỉnh (2002), Bước đầu nghiên cứu các phương pháp ghép tự thân TBGMNV không giữ đông lạnh để điều trị bệnh máu ác tính, Luận án Tiến sĩ Y học, ĐHYD TP.HCM. 6. Nguyễn Tấn Bỉnh và CS (2010), “Ghép tế bào gốc máu ngoại vi trong điều trị bệnh bạch cầu cấp dòng tủy tại BV TTHH TP.HCM”, Kỷ yếu hội thảo nghiên cứu ứng dụng tế bào gốc trong y học, tr.16-26. 7. Lê Văn Đông, Phạm Mạnh Hùng (2006), “Công nghệ tế bào gốc và tạo clôn”, Tạp chí Thông tin Y học, 8, tr.4-11. 8. Nguyễn Thị Thu Hà (2004). Tế bào gốc và ứng dụng trong y sinh học. TCNCYDH phụ bản 32 (6): 13-26. 9. Nguyễn Thị Thu Hà, Lý Tuấn Khải và CS (2010), “Ghép tế bào gốc máu ngoại vi tự thân trong điều trị u hạch ác tính non-hodgkin và đa u tủy xương”, Kỷ yếu hội thảo nghiên cứu ứng dụng tế bào gốc trong y học, tr.27-39. 10. Bạch Quốc Khánh và CS (2010), “Ghép tế bào gốc tạo máu điều trị các bệnh máu ác tính tại Viện HH và TM TƯ”, Kỷ yếu hội thảo nghiên cứu ứng dụng tế bào gốc trong y học, tr.40-46. 11. Nguyễn Mạnh Khánh và CS (2010), “Hiệu quả của ghép tế bào gốc tủy xương tới quá trình liền xương trong điều trị khớp giả thân xương chày”, Kỷ yếu hội thảo nghiên cứu ứng dụng tế bào gốc trong y học, tr.47-56. 12. Nguyễn Ngọc Minh (2004), “Nhân 4 trường hợp ghép tự thân tế bào gốc tạo máu ngoại vi tại trung tâm HHTM Bệnh viện TW Huế”, Y học Việt Nam số đặc biệt, 302(9), tr.45-51. 13. Huỳnh Nghĩa (2004), “Tình hình thu thập, sàng lọc và xử lý máu dây rốn tại bệnh viện truyền máu-huyết học TP Hồ Chí Minh” Tạp chí Y học Việt nam, 6, tr.5-12. 14. Phan Kim Ngọc, Phạm Văn Phúc, Trương Định (2009) Công nghệ tế bào gốc, NXB Giáo dục. 15. Trần Quốc Tuấn, Huỳnh Nghĩa, Nguyễn Tấn Bỉnh và CS (2006), “Ghép TBGMNV giữ đông lạnh -1960C tại BV.TMHH TP.HCM”, Y học thực hành, 545, tr.230-233. 16. Nguyễn Lân Việt và CS (2010), “Kết quả bước đầu nghiên cứu thử nghiệm tế bào gốc trong điều trị bệnh nhân suy tim nặng sau nhồi máu cơ tim cấp”, Kỷ yếu hội thảo nghiên cứu ứng dụng tế bào gốc trong y học, tr.74-86. 17. Fuchs E và Segre JA. (2000). Stem cells: a new lease on life. Cell 100:143–155. 18. Smith AG. (2001). Embryo-derived stem cells: of mice and men. Annu Rev Cell Dev Biol 17: 435–462. 19. Fischbach GD và Fischbach RL. (2004). Stem cells: science, policy, and ethics. J. Clin. Invest. 114:1364–1370. 20. Wobus AM và Boheler KR. (2005). Embryonic Stem Cells: Prospects for Developmental. Physiol Rev. 85:635-678. 31