Sức khỏe và đời sống: Ăn uống quân bình âm dương để hài hòa thân tâm

doc 84 trang phuongnguyen 250
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sức khỏe và đời sống: Ăn uống quân bình âm dương để hài hòa thân tâm", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docsuc_khoe_va_doi_song_an_uong_quan_binh_am_duong_de_hai_hoa_t.doc

Nội dung text: Sức khỏe và đời sống: Ăn uống quân bình âm dương để hài hòa thân tâm

  1. 1 Sức khỏe và đời sống: Ăn uống quân bình âm dương để hài hòa thân tâm
  2. 2 SỨC KHỎE VÀ ĐỜI SỐNG Ăn uống quân bình âm dương để hài hòa thân tâm DÙNG THUỐC UỐNG TRỊ BỊNH LÀ HẠ SÁCH. DÙNG THUỐC CHÍCH TRỊ BỊNH LÀ TRUNG SÁCH. KHÔNG DÙNG THUỐC MÀ TRỊ ĐƯỢC BỊNH MỚI LÀ THƯỢNG THƯỢNG SÁCH Sưu tầm: NGUYỄN QUỐC TUẤN Âm và dương theo khái niệm cổ sơ không phải là vật chất cụ thể, không gian cụ thể mà là thuộc tính của mọi hiện tượng, mọi sự vật trong toàn vũ trụ cũng như trong từng tế bào, từng chi tiết. Âm và dương là hai mặt đối lập, mâu thuẫn thống nhất, trong dương có mầm mống của âm và ngược lại. Học thuyết âm dương là 1 trong những học thuyết căn bản nhất đối với nền triết lý Phương Đông, các quy luật trong học thuyết này có thể coi là các qui luật phổ quát, tức là áp dụng vào hầu hết các lĩnh vực của đông phương học. Theo tư duy Đạo giáo Trung Quốc, “ Âm ” và “Dương” là hai nguyên lý cơ bản, đối lập và bổ sung cho nhau về mọi mặt, quyết định sự vận hành của vũ trụ. Trong ăn uống cũng vậy. Nấu nướng món ăn trường sinh nhằm lập lại sự cân bằng “âm dương” cho cơ thể. Cách nấu nướng này xem trọng ngũ cốc và rau quả, sữa, bỏ thịt, cá, nhưng dùng trứng (trứng đẻ ra nhờ ánh sáng bóng đèn chứ không phải trứng có trống). Lấy rau quả làm gốc, thỉnh thoảng nếu cần thiết thì thêm chút thịt. Theo quan niệm dưỡng sinh đông phương, nguyên lý Âm Dương là một nguyên lý hợp nhất của hai lực tương phản, bổ sung và kết hợp với nhau trong vũ trụ. Con người là một tiểu vũ trụ, chịu chung sự vận hành, đồng điệu với đại vũ trụ thiên nhiên. Do đó, ba yếu tố: Cơ thể, Thực phẩm, và Thiên nhiên (hoàn cảnh sống: Địa lý, Thời tiết, ) có một sự liên quan mật thiết, đến nguồn sinh lực của con người. Từ ngàn xưa, trong việc ăn uống ( ẩm thực ) hàng ngày, người đông phương, đa số, có thói quen dùng
  3. 3 nhiều loại hạt cốc như : gạo, nếp, bắp, lúa mì, từ khoảng 50% - 60%, và được xem là loại thực phẩm chánh yếu, được kèm với một số ít các loại thực phẩm phụ khác. Tùy theo cách thức nấu nướng khác nhau, loại hạt cốc có thể dùng ở tình trạng nguyên hạt, hoặc được nghiền nát thành tinh bột, để có 2-nhiều hình thức đồ ăn khác như : bánh bột, bánh phở, bánh mì, mì sợi, mì ống, Thông thường nhất, gạo nguyên hạt ngâm chung với nước được nấu sôi thành cơm, hoặc cháo. Ngoài ra, các loại thực phẩm phụ khác được dùng ít hơn như : rau, cải, đậu, trái cây, các loại thảo mộc nói chung, khoảng 20% - 25%. Thủy sản như : cá, tép, tôm, cua, xò, ốc, Các loại thịt động vật trên đất liền như : heo, bò, dê, nai, gà, vịt, chim, , từ 5% - 10%. Các loại dầu được ép ra từ các loại hạt, chất muối, và các gia vị khác nhau khỏang 5 %. Thức uống ở vào thể lỏng, không kể các chất lỏng có tự nhiên trong các thực phẩm, hoặc chất lỏng được dùng trong cách thức nấu ăn. Các thức uống như : nước được lọc tinh khiết, nước được nấu sôi, các loại nước trà, kể cả các loại nước trà dược thảo khác nhau. ÂM DƯƠNG HÀI HÒA TRONG TRUYỀN THỐNG ẨM THỰC VIỆT GsTs. Nguyễn Văn Luật Truyền thống văn hóa ẩm thực là một mảng văn hóa trong kho tàng văn hóa vật chất và tinh thần đã có từ hàng ngàn năm. Tới nay, trong tri thức dân gian không những bao gồm sự tích luỹ hiểu biết tường tận những loại thực phẩm, mà còn biết kết hợp hài hòa, liên kết hợp lý giữa chúng trong một bữa ăn, và ngay trong cả một món ăn như nem gián, lẩu mắm, ốc hầm chuối già, thịt vịt nấu chao, thịt trâu riềng mẻ, thịt chó mơ lông + riềng mẻ. Trong phong cách ăn uống của dân tộc ta, cơ sở để đánh giá các món ăn là tính nhiệt (nóng), hàn (lạnh), bình (mát), ấm (giữa nhiệt và bình). Cơ sở này cũng được dùng trong y học cổ truyền khi bốc thuốc Nam hay thuốc Bắc. Thức ăn có vị chua, vị đắng thuộc "bình" hoặc "ấm"; mặn thuộc "ấm". Những thực phẩm có tính nhiệt và ôn; vị cay, vị ngọt đều thuộc "dương". Còn thực phẩm có tính hàn và bình, có vị chua, vị đắng và vị mặn đều thuộc "âm". Các vị thức ăn được phân loại quy về âm dương và ngũ hành. Chiếu vào ngũ hành thì chua thuộc "mộc", đắng thuộc "hỏa", ngọt thuộc "thổ", cay thuộc "kim" và mặn thuộc "thủy". Các nhà y học cổ truyền với thuyết âm - dương cho rằng, khi ăn vào, thức ăn sẽ tạo ra những biến đổi trong cơ thể, như làm cho cơ thể nóng/ấm lên tạo cảm giác hưng phấn, hay làm cho cơ thể mát mẻ, dễ chịu. Ngược lại, thức ăn có thể làm cho người ta cảm thấy bức rứt khó chịu, hay cảm giác bị ức chế, nặng nề. Nếu chọn thức ăn có tác dụng điều hòa cơ thể đến thế cân bằng âm - dương, thì có thể giữ được trạng thái thoải mái, hưng phấn, khỏe mạnh. Nghiên cứu xác định được tính vị của mỗi loại thức ăn thì có thể chọn được thức ăn góp phần chữa cho mỗi căn bệnh, hợp với thể trạng của mỗi bệnh nhân. Thức ăn dương tính có tác dụng ôn dương, như hành, gừng, hồ tiêu, rượu, thịt dê. Thức ăn âm tính có tác dụng thanh nhiệt, bổ âm, như bạc hà, dưa hấu, ba ba. Nguyên lý "Tương sinh, Tương khắc" giữa các yếu tố được y học cổ truyền vận dụng trong cách ăn uống chữa bệnh. Tính vị thức ăn được phân loại theo âm - dương: chua là cực âm. Cay là cực dương. Từ âm tới dương là: chua; ngọt; mặn, đắng, cay. Chua cho ta cảm giác thanh, nhẹ mát. Cay sẽ tạo ra cảm giác nóng, tăng sự tuần hoàn của máu. Khi kết hợp hài hòa trong một món ăn cả chua lẫn cay sẽ có khả năng kích thích dịch vị rất mạnh, do có sự giao hòa âm - dương tương xứng. Như vậy, sự kết hợp hài hòa những chất dinh dưỡng trong khẩu phần ăn không những phải bảo đảm về chất lượng và số lượng, mà còn cần đạt được cân bằng về âm dương ngũ hành, những nhân tố cơ bản của sự hình thành, tồn tại và phát triển của con người, cũng như của cả vũ trụ. Tất cả đều dựa trên cơ sở lập luận như sau: Tự nhiên cũng như con người đều chịu ảnh hưởng tương khắc tương sinh của âm dương. Từ thái cực hỗn mang biến hóa sinh ra lưỡng nghi, hay âm dương. Âm dương kết hợp với nhau thành ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Ngũ hành theo dòng vận động mà kết hợp với nhau tạo thành Tam Tài: trời, đất và người bao trùm lên tất cả.
  4. 4 Về vai trò của gia vị trong kết hợp âm dương trong món ăn - vị thố:. Các nhà y học phương Đông đã khái quát vấn đề ăn uống và sức khỏe nâng lên thành học thuyết "Y thực đồng nguyên". Nội dung cơ bản của học thuyết này được xem là phép ăn uống chữa bệnh. Trong công trình nghiên cứu về thuốc sớm nhất, có niên đại hơn 2.000 năm trước còn giữ lại được, đã khuyến cáo có những loại thức ăn đồng thời cũng là những vị thuốc có giá trị chữa bệnh rất cao, như gia vị gừng, tỏi, và các loại khác như muối, vừng, hạt sen, ngó sen, long nhãn, táo, nho, Khi nào bệnh nặng thì mới nên kết hợp giữa ăn uống và dùng thuốc, kết hợp giữa Đông y và Tây y. Một món ăn được coi là ngon lành phải đạt được sự cân bằng giữa hàn, nhiệt, ôn, bình, nói chung là giữa âm và dương. Sử dụng đúng cách các gia vị có hương vị làm dấy lên mùi thơm ngon, vừa có tác dụng kích thích dịch vị, vừa có tác dụng trung hòa hàn nhiệt, cân bằng âm dương, làm cho người ăn không phải chịu những phản ứng phụ có hại. Một số ví dụ: Chất gia vị gừng đứng đầu các chất dùng làm thức ăn có tính "nhiệt", có thể dùng để trung hòa hàn nhiệt, giải độc, giải cảm. Khi dùng thức ăn có tính hàn hay bình, nhất là đối với người có "máu hàn", mà không có gừng thì dễ bị rối loại tiêu hóa, thể hiện ở đi cầu (đại tiện) không bình thường. Cụ thể là, khi dùng món ăn có tính hàn như thịt trâu, thịt bò, thịt vịt, rau cải, cải bắp, bí đao, hay có tính bình như rau khoai lang, thì cần phải có gia vị gừng với vai trò trung hòa âm dương, cũng để ăn ngon miệng hơn. Để giải cảm, nếu là sốt cảm hàn thì dùng cháo gừng; còn như khi bị sốt cảm nóng thì dùng cháo hành. Ớt cũng thuộc loại có tính nhiệt, tính bình, có tác dụng giải độc. Ớt được dùng với nhiều món ăn mang tính hàn và bình như cá, cua, mắm, nem chua. Tỏi có tính âm, hơi nhiệt, nên ăn với thịt trâu, thịt vịt, mang tính bình, hơi hàn. Lá chanh, hay chanh mang tính ôn, hơi hàn một chút, có thể trung hòa tính âm của thịt gà./. I/ Cách ăn uống hằng ngày. Con người và cảnh vật xung quanh không thể tách rời. Như vậy người phải thận trọng sửa soạn cách nấu nướng thức ăn cho nhu cầu hoà hợp với môi trường mình đang sống. Dưới đây, một thí dụ, cách ăn uống thông thường mổi ngày. Trong mỗi buổi ăn cần có : 1/ ngũ cốc từ hạt như yến mạch, hạt kê, ngô và các loại hạt đậu, lúa mì, gạo lức và chế biến như bánh mì, cơm, bánh tráng các loại bún, bột 2/ rau cải: 2/3 nấu chín (xào, nấu cách thủy, nấu trong nước, hoặc đúc lò); 1/3 còn lại ăn sống hoặc trộn dầu dấm hay là nấu nửa chín nửa sống cho còn chất sinh tố. 3/ 1 hay 2 chén canh nhỏ, nên có thêm tương đậu nành, tương tàu yểu. Người Nhật dùng xúp miso được chế biến từ hạt đậu nành và hạt ngũ cốc như hạt đại mạch, hạt gạo và hạt lúa mì và muối bể. Đậu và rong biển phải nấu chín. Đậu xanh, đậu đen, đậu đỏ trộn với gạo để nấu cháo hay với nếp để nấu xôi. Nên dùng sữa đậu nành thay thế sữa bò vì có người không hạp với sữa bò, uống không tiêu. Rong biển để nấu canh. II/ Âm dương trong thức ăn hằng ngày. Thức ăn từ thực vật và từ động vật được xếp theo hai loại âm dương vì những lý do sau đây: 1/ Loài thực vật thì tự dưỡng, ổn định bằng cách tự nảy nở từ chất khoáng. Loài động vật thì dị dưõng, dời chổ và có thể đi chiếm cả một vùng rộng lớn khi đi tìm miếng ăn. 2/ Loài thực vật cho ta thấy một cấu trúc chỉ dẩn sự nảy nở bành trướng, sức mạnh của cỏ cây mọc từ dưới
  5. 5 đất vươn lên trời hay là giải ra, chạy dài trên mặt đất. Còn động vật thi tựu lại, sống tập thể nhưng từng nhóm nhỏ, riêng biệt. Loài thảo mộc có những hình dáng giãn nở ra phía ngoài như cành nhánh lá của cây cối. Trong lúc đó thân hình của loài động vật bị hạn chế, theo một chiều hướng nhất định về phía trong với những bộ phận trong cơ thể và tế bào gọn lại. Xem hình dưới đây về tế bào thực vật và tế bào động vật: Tế bào thực vật Tế bào động vật Âm là trương nở bành trướng táng phát; Dương là co rút Hình dáng giãn nở ra: âm Hình dáng gọn lại: dương 3/ Nhiệt độ trong thực vật xuống thấp hơn động vật. Thực vật hít vào khí cacbonic (gaz carbonique) và nhả ra khí ôxy (oxygène). Trái lại, động vật hít vào khí ôxy và thở ra khí cacbonic. Màu xanh lá cây của loài thảo mộc là do “diệp lục tố ” (chlorophylle) tạo thành, còn màu đỏ của loài động vật là do “ hêmôglobin, hồng cầu ” (hémoglobine) tạo thành. Cấu trúc của chúng giống nhau, chỉ khác nhau ở hạt nhân, một đằng thì chứa “ magiê ” (magnésium, Mg) cho diệp lục tố và đằng kia thì chứa “sắt ” (fer, Fe) trong trường hợp của hêmôglobin. Hạt nhân của diệp lục tố chứa magiê có thể biến hoá thành hạt nhân hêmôglobin chứa sắt, bằng cách lấy hai ôxy. 12 8 28 26 Diệp lục tố (thực vật) biến đổi Mg +20 ( ? ) Fe Hêmôglobin (động vật) 24 16 56 56 Vì những lý do trên, thức ăn từ thực vật được coi là có nhiều âm hơn dương, còn thức ăn từ động vật được coi là có nhiều dương hơn âm. Mặc dù thực vật có nhiều “âm” hơn động vật, động vật có nhiều “dương ”hơn thực vật, nhưng nó có từng độ khác nhau, ngay trong một loài giống và ở trong của một thể chất. Chúng ta nên thận trọng chú ý theo yếu tố như sau: Trong vùng nóng, cảnh vật chung quanh là “dương”, ta phải chọn loại thảo mộc có nhiều “âm” nhất, ngược lại nếu ta sống ở vùng lạnh, thì ta phải chọn loại thảo mộc có nhiều “dương” nhất mà dùng. Nếu ta sống ở một vùng không khí điều hoà, ta đừng quên rằng thảo mộc có nhiều chất “âm”, ta phải nấu lên lâu hơn, vì sức nóng lúc nấu làm tăng chất “dương” và đừng quên bỏ thêm chút muối, vì muối có chất dương, trong lúc đó có loại rau cải có nhiều chất “dương” , đừng nấu lâu. Rau cải nào có nhiều chất “âm” mà ta không nấu lên, thì, ăn vào nhiệt độ trong người của ta bị hạ xuống. Nấu lên, nhờ sức nóng của nấu tăng chất dương, ăn vào, cơ thể của ta tăng nhiệt độ lên. Vài thí dụ cho thấy thực vật nào có chất “dương”, “âm” 1/ Rau cần tây, mọc vào mùa nóng, rất nhanh, thân cây cao dài, mong manh và chứa nhiều nước, mùi và vị hắc mạnh, màu lá cây dợt, nấu rất mau chín. Rau cần tây nhiều chất “âm”. 2/ Cải cà rốt, cứng hơn, hình dáng gọn, mọc chậm và có thể mọc vào mùa lạnh, màu cam, mùi và vị không nặng, chứa ít nước, nấu lâu hơn. Cải cà rốt chứa nhiều chất “dương”. 3/ Hạt lúa mì, nhỏ và gọn, mọc ở vùng lạnh và mọc vào mùa lạnh, mọc rất chậm, nó khô và cứng, màu vàng nâu, mùi và vị rất tế nhị, chứa nhiều chất “hyđrátcarbon”. Hạt lúa mì và loài ngũ cốc chứa nhiều chất “dương”.
  6. 6 4/ Các động vật ở dưới nước: . Tôm, tép, nhỏ con, màu đỏ hay hồng, chứa nhiều khoáng vật, ít mở, lội nhanh, được đặt vào hạng có nhiều chất “dương”. . Cá chép, to con, mềm, béo, bơi chậm chạp, ở nơi nước lặng và ấm (sông, kênh rạch, hồ, ao) được xếp vào hạng có nhiều chất “âm”. . Cá hương có đốm màu sắc, ở dòng sông nước lạnh, thân cứng và gọn, không mở, lội nhanh, nó chứa nhiều chất “dương”. III / Tính cách tương phản Âm-Dương giữa loài thực vật và thân thể người. Khí ôxy (âm), khí cacbonic ( dương) cho thấy một quan hệ đối kháng và bổ sung. Vai trò ôxy-cacbonic đóng góp vào luật tuần hoàn của vũ trụ. Lá của cây xanh cho ta thấy một cấu trúc nảy nở, bành trướng um tùm, vươn lên trời, hút khí cacbonic (gaz carbonique, CO2) của không khí và nhả ra khí ôxy (oxygène, O2), chứa chất âm nhiều hơn. Trong khi đó buồng phổi của của con người có một cấu khí gọn lại, hít vào khí ôxy và thở ra khí cacbonic, chứa chất dương nhiều hơn. Các lông của rễ cây hút thức ăn dưới hình thức nước trong đất, trong khi đó, ngược lại, lông nhung ở màng nhầy ruột của con người hút thức ăn từ phân tử thức ăn. Xem hình dưới đây chỉ rỏ về âm dương giữa loài thực vật và thân thể người. Cây xanh với lá Phế nang, túi phổi Buồng phổi Lông nhung ở Ruột màng nhầy ruột Người Á đông, đồng nhất hoá với trời-dương-nam, đất-âm-nữ. IV/ Âm dương theo tháng sinh ra đời Người chào đời vào khoảng từ tháng 3 đến tháng 9 dương lịch có một thể chất dương vì người này trải qua một giai đoạn phôi thai khá dài, được nuôi dưởng bằng dòng máu của người mẹ, chứa chất dưong. Người mẹ nấu nướng những thức ăn mùa đông, chống lạnh, có nhiều chất dương. Trái lại, người ra đời từ tháng 9 đến tháng 3 thì có thể chất âm. Người mẹ thích ăn uống rau quả nhiều hơn vào mùa này, có nhiều chất âm. Phần lớn người có thể
  7. 7 chất dương thích hoạt động trong xả hội, còn người có thể chất âm, thì có khuynh hướng về tâm linh, văn chương. Người nào có chất dương tìm đối tượng với mình có chất âm, và ngược lại. Họ như bị thu hút bởi đá nam châm. Họ bổ sung cho nhau. Kết luận Chúng ta phải hiểu rằng những gì chúng ta ăn dưới hình thức này hay hình thức kia, và những môi trường xung quanh, như nước, không khí, tia sáng của vũ trụ, biến chuyển không ngừng. Chúng ta là phản ảnh của sự biến đổi của cảnh vật xung quanh, của vũ trụ. Những hệ thống, những khí quan, những tế bào trong cơ thể của chúng ta đến từ thế giới bên ngoài. Không có thức ăn lấy từ cảnh vật xung quanh thì chắc chắn không có một hiện tượng sống nào tồn tại trong ta. Ăn uống điều hoà theo luật âm dương có ảnh hưởng quan trọng đến thân, tâm và ngay cả xả hội, kiến thức và nền văn minh. Nói cho cùng, thân tứ đại này cấu tạo từ thế giới bên ngoài đưa vào, như đất, gió, hoả, nước (đất là thức ăn, gió là hơi thở, hoả là hơi nóng, nước là chất lỏng, máu, nước mắt). Rồi một ngày nào đó, thân tứ đại không hoạt động nữa, sẽ tan rã, trả lại cho đất, gió, hoả, nước, để trở về vào hư không Đau đầu thường có hai nguyên nhân chính: 1. Do bị stress, ức chế dục là chính. Tuy nhiên theo Osho nói thì những người ăn mặn thường hay bị căng thẳng, bởi sao? vì thức ăn mả bạn ăn vào là do sự bất như ý của con vật bị giết, nó không muốn chết và phần hạ ý thức của nó thấp và trong khi bạn lại muốn vươn tới những mức thanh cao của đời sống như vậy bạn ăn thịt động vật bạn vẫn bị phải nạp vào loại năng lượng loại đó như thế tự dưng bạn sẽ bị căng thẳng mà không tự biết. 2. Nguyên nhân do ăn thức ăn cực dương thì thường có cảm giác đau đầu như búa bổ, vì thức ăn dương gây co rút làm chạm tới các dây thần kinh não bộ một cách mạnh mẽ. Nếu ăn nhiều đồ âm thì đau ê ẩm, vì sự bành chướng chèn ép các dây thần kinh não bộ. Khi ăn chay chưa đủ, mà phải ăn thức ăn quân bình nữa mới là điểm đến có những thời gian mặc dầu ăn chay tôi vẫn bị đau đầu - loại đau đầu ê ẩm do lực âm hướng lên và bành chướng cho nên nó xông lên não bộ và làm cho tôi bị đau đầu Chúng ta thấy có hai loại đau đầu một do dương một do nguyên nhân âm. Và do vậy con đường thoát khổ tức thoát đau đầu là một cuộc sống ăn thức ăn quân bình luôn luôn nhớ kỹ cho điều này và làm nhiều việc hữu ích giúp đỡ mọi người giúp đỡ người khác là giúp đỡ chính mình Ngoài ra có những loại đau đầu khác do nghiệp do thời tiết do tà kiến và do ma quỉ AM DƯƠNG TÍNH TRONG THỰC PHẨM Thực phẩm đến từ thiên nhiên là nguồn bổ dưỡng tốt cho cơ thể. Tùy theo những yếu tố tăng trưởng và cấu tạo khác nhau, thực phẩm mang tính chất căn bản thuộc Âm hoặc Dương. Thực phẩm Âm tính: Các loại thực phẩm có Âm tính khi: -Được tăng trưởng tại các miền thuộc khí hậu nóng ( Nhiệt đới ), hoặc vào lúc mùa hè, - Có tính chất tăng trưởng nhanh chóng, - Có chứa nhiều nước ( như các loại trái cây, rau lá ), có sự sống trên mặt đất – có vị cay, nồng, chua, ngọt, bùi, hoặc thơm. Thực phẩm Dương tính Các loại thực phẩm có Dương tính khi: -Được tăng trưởng trong khí hậu lạnh, hoặc vào mùa Đông, - Có tính chất tăng trưởng chậm chạp, hoặc bị khô héo, - Các cây có thân, cuống, và rể, - Các loại hột được tăng trưởng trong lòng đất, - Các loại có vị mặn, đắng, và ngọt thường. Thực phẩm thái Âm tính (quá âm): Các loại thực phẩm có tính chất Thái Âm (Quá Âm) đều gây nên tình trạng phân tán sinh lực, làm cho cơ thể
  8. 8 dễ bị suy yếu như: Các loại thực phẩm được vô hộp, và đông lạnh, các loại trái cây và rau cải ở miền nhiệt đới, các chất gia vị ( tiêu, cà ri, ), mật ông, chất đường, và các chất ngọt được tinh chế. Thực phẩm thái Dương tính (quá Dương): Các loại thực phẩm có tính chất Thái Dương ( Quá Dương ) đều gây nên tình trạng cô động, bế tắc sinh lực, làm cho cơ thể dễ bị ngột ngạt, khó chịu như : Các loại muối được tinh chế, các loại trứng và các loại thịt động vật, cá có chất béo, các loại thịt thuộc hải sản, các chất phó-mát ( cheese ). Thực phẩm quân bình Âm Dương tính (Âm Dương điều hòa): Các loại thực phẩm có tính chất quân bình Âm Dương ( Âm Dương Điều Hòa ) là loại thực phẩm tốt nhất, tạo nên sinh lực khỏe mạnh, điều hòa cơ thể như : Các loại hạt ngũ cốc, các loại đậu và các sản phẩm từ đậu ra, các loại rau cải có lá xanh hình tròn, hoặc có rể, các loại thảo mộc dưới biển, các loại hạt thảo mộc hoặc trái cây ở miền ôn đới, các thức uống không chứa chất kích thích, chất ngọt được rút từ các lọai hạt thiên nhiên (được dùng điều độ). THỰC ĐƠN BỒI DƯỠNG TỔNG QUÁT Sau đây là thực đơn tổng quát dùng để bồi dưỡng của người Đông phương: BỒI DƯỠNG THỂ CHẤT - 50% các loại ngũ cốc nguyên hạt, được nấu bằng nhiều cách thức khác nhau. - 8% canh rau cải, hoặc có thêm thịt động vật. - 22% rau cải, một phần được nấu chín, một phần được ăn sống. - 8% loại thịt động vật trên đất như: heo, bò, gà, vịt, dưới nước : cá, tép, tôm, cua, xò, - 7% các loại đậu, và rau biển, được nấu chung hoặc riêng biệt. - 5% các loại trái cây tươi, khô, hay nấu chín, và loại hạt thảo mộc, đồ ăn tráng miệng. Bồi Dưỡng Tinh Thần : - 60% các loại ngũ cốc nguyên hạt được nấu chung với ít bột. - 8% canh rau cải, hoặc nấu chung với các rau biển. - 22% rau cải sản xuất tại bản xứ, một phần được nấu chín, và một phần được ăn sống. - 7% các loại đậu và rau biển được nấu chung, hoặc riêng biệt. - 5% các trái cây tươi, khô hoặc được nấu với hạt thảo mộc để ăn tráng miệng. TIÊU CHUẨN TUYỂN CHỌN THỰC PHẨM - Nên phân biệt giữa thực phẩm chánh (như các loại hạt cốc), và các loại thực phẩm phụ khác (như rau, cải, đậu, thịt, cá, ). - Sức khỏe con người có liên quan mật thiết với hoàn cảnh sống thiên nhiên địa phương. Cho nên, trong việc ăn uống (ẩm thực), thực phẩm từ các loại thực vật, và động vật phải được sinh sản, trong cùng địa phương, đất đai, và khí hậu, nơi con người sinh sống, xoay quanh đường bán kính khoảng từ 100 - 500 dặm (miles), tỷ lệ với các nước có diện tích đất từ nhỏ đến lớn dần. - Con người sinh sống nơi vùng có khí hậu ôn đới, bán nhiệt đới, và nhiệt đới, nên dùng nhiều thực phẩm rau cải, thảo mộc. Ngoại trừ dưới hoàn cảnh bất thường, như mùa đông tuyết lạnh, hoặc trên đỉnh núi cao. Nơi miền cực lạnh, con người tiêu thụ nhiều các loại thịt động vật hơn các miền khác. - Thực phẩm nên được nấu chín trước khi ăn. Dưới hoàn cảnh đặc biệt, thực phẩm sống chỉ nên được dùng
  9. 9 phụ thuộc với thực phẩm nấu chín. - Thực phẩm nên được giữ ở tình trạng tươi tốt, cho đến lúc được nấu. - Trong cách thức nấu ăn, thực phẩm nên được pha chế, ở mức độ quân bình tổng quát, giữa các yếu tố bổ sung tương phản, thí dụ như : các khoáng chất với đường, đường với nước, lửa với nước, muối với dầu, sức ép với không khí, nhiệt độ cao với nhiệt độ thấp. - Nên dùng điều độ các chất gia vị. CÁCH THỨC DÙNG BỮA ĂN CỦA ĐÔNG PHƯƠNG - Trước và sau mỗi bữa ăn, người ta nên có vài giây phút yên tịnh mặc niệm, để diễn tả sự biết ơn đến vũ trụ thiên nhiên, và những người giúp tạo ra thực phẩm. - Khung cảnh của bữa ăn nên được sắp xếp trang nhã, trong bầu không khí yên bình. - Trong suốt giờ ăn, nên tránh sự ồn ào quá độ. - Thực phẩm khi được đưa vào trong miệng, nên được nhai cẩn thận nhiều lần, để cho thực phẩm được nghiền nát thật nhỏ. - Trong mỗi bữa ăn, người ta không nên ăn quá no, chỉ nên ăn giới hạn không quá 70% sức chứa của bao tử. - Các bữa ăn nên được dùng từ hai đến ba lần trong ngày. Đôi khi, chỉ dùng một bữa ăn trong ngày, nhưng phải cách xa ba tiếng đồng hồ, trước giờ ngủ. ÂM DƯƠNG TÍNH TRONG THỰC PHẨM Thực phẩm đến từ thiên nhiên là nguồn bổ dưỡng tốt cho cơ thể. Tùy theo những yếu tố tăng trưởng và cấu tạo khác nhau, thực phẩm mang tính chất căn bản thuộc Âm hoặc Dương. Thực Phẩm Âm Tính : Các loại thực phẩm có Âm tính khi: -Được tăng trưởng tại các miền thuộc khí hậu nóng ( Nhiệt đới ), hoặc vào lúc mùa hè, - Có tính chất tăng trưởng nhanh chóng, - Có chứa nhiều nước ( như các loại trái cây, rau lá ), - Có sự sống trên mặt đất, - Có vị cay nồng, chua, ngọt bùi, hoặc thơm. Thực Phẩm Dương Tính : Các loại thực phẩm có Dương tính khi: - Được tăng trưởng trong khí hậu lạnh, hoặc vào mùa Đông, - Có tính chất tăng trưởng chậm chạp, hoặc bị khô héo, - Các cây có thân, cuống, và rể, - Các loại hột được tăng trưởng trong lòng đất, - Các loại có vị mặn, đắng, và ngọt thường. Thực Phẩm Thái Âm Tính ( Quá Âm ) : Các loại thực phẩm có tính chất Thái Âm (Quá Âm) đều gây nên tình trạng phân tán sinh lực, làm cho cơ thể dễ bị suy yếu như: Các loại thực phẩm được vô hộp, và đông lạnh, các loại trái cây và rau cải ở miền nhiệt đới, các chất gia vị ( tiêu, cà ri, ), mật ông, chất đường, và các chất ngọt được tinh chế.
  10. 10 Thực Phẩm Thái Dương Tính ( Quá Dương ) : Các loại thực phẩm có tính chất Thái Dương ( Quá Dương ) đều gây nên tình trạng cô động, bế tắc sinh lực, làm cho cơ thể dễ bị ngột ngạt, khó chịu như : Các loại muối được tinh chế, các loại trứng và các loại thịt động vật, cá có chất béo, các loại thịt thuộc hải sản, các chất phó-mát ( cheese ). Thực Phẩm Quân Bình Âm Dương Tính ( Âm Dương Điều Hòa ): Các loại thực phẩm có tính chất quân bình Âm Dương ( Âm Dương Điều Hòa ) là loại thực phẩm tốt nhất, tạo nên sinh lực khỏe mạnh, điều hòa cơ thể như : Các loại hạt ngũ cốc, các loại đậu và các sản phẩm từ đậu ra, các loại rau cải có lá xanh hình tròn, hoặc có rể, các loại thảo mộc dưới biển, các loại hạt thảo mộc hoặc trái cây ở miền ôn đới, các thức uống không chứa chất kích thích, chất ngọt được rút từ các loại hạt thiên nhiên ( được dùng điều độ ). Bắt đầu ăn thực dưỡg như thế nào Thực dưỡng không phải là một cách nấu nướng khác biệt hay là việc hạn chế ăn uống mà là sự sắp xếp trong cách ăn. Chúng ta phải có một chế độ ăn hợp lý nếu muốn có tình trạng sức khỏe tốt và trạng thái tinh thần sảng khoái. Ốm đau không là gì nhưng sự xáo trộn cần phải sắp xếp lại. Thực dưỡng dạy chúng ta cách nhận biết và hình thành sự ngăn nắp trong cuộc sống. Bước đầu tiên là ăn các loại ngũ cốc và rau tươi trồng theo mùa. Bạn cần tránh các thức ăn công nghiệp như đồ hộp, thực phẩm đông lạnh và các loại hoa quả nhiệt đới. Ngũ cốc và các loại tảo biển, dù là chúng có xuất xứ ở nước ngoài, đều có thể ăn được trong quá trình áp dụng Thực dưỡng miễn là chúng không có hóa chất. Ngũ cốc được trồng ở hầu hết các vùng ôn đới vì chúng có điều kiện thích nghi với đất cũng như với sự thay đổi khí hậu tốt. Rong biển thì có thể phát triển trên từng dặm dưới đại dương. Bước thứ hai là bạn phải hiểu rằng các thức ăn tự nhiên đều đáng quý. Hãy tìm kiếm thức ăn tự nhiên ở chợ hay những siêu thị. Nhưng thức ăn tự nhiên là gì? Đó là các loại thức ăn chưa qua tinh chế, hoặc là tổng hợp nhân tạo. Bởi vậy, bột mỳ đã lọc, bánh mỳ trắng, đường, các sản phẩm bơ sữa (kem, phomat) và đường đã tinh chế không phải là thức ăn tự nhiên. Tất cả các loại ngũ cốc, (cá bao gồm phần đầu và phần đuôi), rau, củ được coi là thức ăn tự nhiên. Thức ăn tự nhiên chứa đầy đủ các chất dinh dưỡng và chất khoáng cần thiết (Tất nhiên là một vài nhân tố có thể có số lượng ít hơn ở thức ăn này so với ở thức ăn khác). Việc ăn các thức ăn tự nhiên sẽ giúp cho chúng ta duy trì trạng thái cân bằng các chất dinh dưỡng trong máu, cơ thể và các tế bào. Hơn nữa, nó còn giúp chúng ta phát triển khả năng chuyển hóa của cơ thể. Khi đã có khả năng này, mặc dù chỉ ăn ngũ cốc và rau tươi nhưng cơ thể vẫn có thể chuyển hóa chúng thành chất đạm và nuôi dưỡnmg các tế bào. Bước thứ ba là áp dụng nguyên lý âm dương trong việc chọn lựa và chế biến thức ăn. Tuy nhiên, đừng quá lo lắng về việc chọn thức ăn âm dương. Hãy làm theo bước 1 thật tốt rồi bạn sẽ hiểu rõ hơn về bước này. Song, trong cùng một nhóm thức ăn, bạn có thể cho thêm thức ăn âm hay dương như carôt, hành, bắp cải. Lời khuyên là bạn nên tránh xa các loại cà, cà chua, bởi vì chúng quá “âm”. Nhưng nếu đó là món ăn yêu thích của bạn thì bạn có thể thỉnh thoảng ăn và chỉ với số lượng ít và như thế sẽ không gây hại gì cho bạn. Đừng nên qua nghiêm khắc với bản thân. Bước thứ tư là học cách chế biến biến món ăn âm thành dương và cả cách sao cho món ăn hấp dẫn hơn. Ninh, nấu bằng nồi áp suất trong thời gian dài hay cho thêm muối là một cách để dương hóa thức ăn. Đối với thức ăn dương, một trong những thủ thuật trên là đủ. Tuy nhiên, đối với thức ăn âm, bạn phải cần đến 3 hoặc nhiều hơn công đoạn chế biến. Ví dụ, ngưu bàng cần phải luộc kỹ và cho thêm muối. Áp dụng nguyên lý âm dương, hương vị của món ăn sẽ hấp dẫn lên rất nhiều. Bản thân người đầu bếp sẽ giống như là các nghệ sĩ. Khi mà chúng ta đem lại nhiều điều thú vị và hấp dẫn trong bữa ăn, chế độ ăn
  11. 11 thực dưỡng của chung ta đã đi đúng hướng. Khi thời tiết nóng, điều kiện khí hậu và thời tiết thuận lợi cho việc phát triển của thức ăn âm, chúng ta sẽ phải sử dụng kĩ thuật đối nghịch - âm hóa. Cụ thể ta sẽ phải cần đến giấm, rượu, gừng. gia vị, rau sống, men. Ví dụ, cho thêm củ cải nạo vào cá hoặc là rau xào vào món Tempura (món ăn Nhật gồm cá, hải sâm chiên với nước sốt). Rau sống ăn kèm với các món gỏi cá sống. Âm hóa cũng là một kỹ thuật nấu ăn cho người mà có thể tạng duơng. Nguyên lý này giúp cho chúng ta đạt được trình độ nấu ăn cao hơn - biết cách kết hợp thức ăn. Từ đó, chúng ta có thể chế ra các công thức nấu ăn riêng mà có thể làm thực khách phải bất ngờ khi thưởng thức. Bước thứ năm là tìm hiểu xem việc ứng dụng các nguyên lý trên có ảnh hưởng đến việc chuyển hóa như thế nào. Nói cách khác bạn nên tránh những thức ăn không hay ít cần đến bộ máy tiêu hóa để chuyển hóa thành năng lượng. Sữa và các sản phẩm từ sữa là một ví dụ điển hình. Không có một loài động vật nào dùng sữa khi đứa trẻ đã lớn trừ con người. Sữa là một thức ăn phù hợp cho trẻ sơ sinh vì chúng chưa có khả năng tiêu hóa và chuyển hóa các loại ngũ cốc và rau. Hơn nữa, sữa lại rất dễ chuyển hóa thành chất dinh dưỡng vào máu và các tế bào. Bởi vậy, những người phụ thuộc vào sữa thì khả năng chuyển hóa sẽ kém và thường thấy khó chịu khi ăn đồ Tây. Thậm chí còn có thể bị dị ứng. Thế có nghĩa là những người đó phải sống trong một thế giới riêng biệt. Thật đáng tiếc vì họ không thể hưởng thụ các món ăn ngon. Và do vậy dù có cố gắng đến đâu thì họ vẫn không thể làm bạn với nừieu người. Bước thứ sáu là học cách lên thực đơn sáng suốt. Mỗi một cá nhân cần cân nhắc về thói quen ăn uống cũ của mình, khối lượng và các loại hoạt động, tuổi tác, điều kiện khí hậu, mùa trong năm Để quyết định xem thức ăn nào là phù hợp, nên lưu ý rằng điều kiện thay đổi thì thức ăn cũng phải thay đổi theo. Tỉ lệ phần trăm trên bảng dưới đây chỉ mang tính chất tương đối, Thức ăm mùa Đông mùa Xuân/Thu mùa Hè Ngũ cốc 70 – 90 % 50 – 70 % 30 - 50 % Rau 10 - 30 % 30 – 50 % 50 – 70 % Đậu 05 – 10 % 07 – 12 % 19 – 15 % Rong biển 05 – 10 % 07 – 12 % 10 –15 % Salad 10 % 05 % 02 % Rau sống, hoa quả, lạc và các sản phẩm từ bơ sữa nên hạn chế. Nên dùng thức ăn theo mùa, trồng tại địa phương và không có hóa chất (chất bảo quản, thuốc trừ sâu, phẩm màu). Những viên thuốc vitamin (dù là được chiết xuất từ tự nhiên hay nhân tạo) đều không nên dùng. (Thực đơn và công thức nấu ăn có thể tìm trong cuốn Chế biến món ăn Thực dưỡng cơ bản của tác giả Julia Ferre - Ed). Những người không muốn uống trà hay nước sau bữa ăn thường là do trong cơ thể có quá nhiều khí âm dù người đó có tập thể dục đầy đủ tích cực thế nào đi chăng nữa. Một vài người có thói quen bỏ bữa sáng hoặc thay thế bữa trưa cho bữa sáng rồi thôi không ăn bữa trưa nữa. Cách này chỉ dành cho những người quá cỡ. Đối với những người như vậy thì chỉ ăn 2 lần một ngày sẽ giảm được khối lượng cân năng đáng kể. Nếu bạn thích cá, có thể sử dụng cá nhỏ để nấu súp. Khi nấu, chú ý rằng không hoặc cho rất ít muối. Vào mùa hè nên tuyệt đối kiêng cá. Gần đây, người Nhật đã dần từ bỏ thói quen ăn tráng miệng bằng hoa quả. Thay vào đó, họ ăn mocha (một loại bánh làm từ gạo, kèm với đậu và một số gia vị khác) hoặc là salad. Trong một vài tuần ngày hay tuần đầu áp dụng chế độ ăn Thực dưỡng, sẽ rất khó cho bạn để có thể kiêng ngay đồ ăn ngọt. Để khắc phục vấn đề này, bạn có thể ăn một ít hoa quả tươi hoặc mật ong. Nên loại bỏ hoàn toàn đường ngay cả với mật ong. Vào mùa hè hoặc đối với trường hợp ăn quá nhiều thịt thì có thể dùng một ít hoa quả tươi. Bạn cũng có thể ăn tráng miệng bằng các loại bánh quy, lạc, nho khô, hạt dẻ, bánh táo tùy vào điều kiện khí hậu và tuổi tác. Theo ý kiến của tôi thì những món ăn kể trên phù hợp cho trẻ em hơn là người già. Một vài người vẫn không thể từ bỏ đường thậm chí là sau mấy năm áp dụng phương pháp Thực dưỡng. Trong trường hợp này, hãy ăn nhiều bí ngô, bí. Bí ngô và bí non đầu mùa đông rất ngọt, đặc biệt là khi đã luộc. Nếu bạn vẫn không thể kiêng đường, hãy thử ăn ít hoa quả. Trong bất cứ trường hợp nào cũng nên tranh xa các lọai hoa
  12. 12 quả nhiệt đới. Bạn có thể ăn kèm salad hoặc dưa chua trong mỗi bữa ăn. Chúng tôi đã phát hiện ra rằng chúng rất hữu ích đối với những người có chế độ ăn kiêng. Đối với những người quá nhiều dương khí, thay vì uống trà, ăn một vài quả táo hay uống thật nhiều nước lã, bạn có thể thay thể bằng cách ăn salad. Trong trường hợp không có salad, bạn có thể ăn carot sống, rau diếp, củ cải trắng, bắp cải, củ cải đỏ hay dưa chuột. Có một vài lí do giải thích tại sao phần lớn người dân Mỹ khi bắt đầu chế độ ăn Thực dưỡng thì chỉ nên ăn ít muối. Thứ nhất, bởi muối là một loại thức ăn dương. Thứ hai là ăn quá nhiều muối có thể dẫn tới mệt mỏi. Thứ ba, không thể nào mà dương hóa nhanh chóng khi mà không hạn chế dần thức ăm âm. Để tránh ăn đường, bạn nên hạn chế tối đa các loại thức ăn dương như ngưu bàng, kiều mạch, kê, cá, thịt gà. Cách khác là bạn có thể ăn một chút ít thức ăn âm như rau, đậu ninh nhừ, rong biển. Cách thứ ba là nên vận động nhiều. Một người có bộ não trung gian yếu thì thường hay bị quá mẫn cảm với các biến cố. Kết quả là, hệ thần kinh làm việc quá tải, kích thích những ham muốn. Để giúp hệ thần kinh cũng như não bộ tốt hơn, bạn nên để cho bản thân luôn có cảm giác hơi đói, hãy năng động khi làm việc và tập thể dục chăm chỉ. Hãy giúp đỡ mọi người và hãy luôn tươi cười. Việc cố gắng làm việc chăm chỉ tích cực dù bạn có thể trạng yếu đi chăng nữa luôn luôn là một bài thuốc có ích. Sổ Tay Dưỡng Sinh Ohsawa - TỶ LỆ BÌNH QUÂN TRONG MỘT NGÀY: - Khoảng từ 70 – 90 % đồ ngũ cốc nguyên cám, từ 30 – 10 % rau quả khô hoặc xanh. - Ngũ cốc gồm: Lúa mì, gạo lức, kê, bắp, bo bo, lúa mạch, đại mạch, hắc mạch, kiều mạch v.v - CÁC LỌAI RAU, QUẢ VÀ GIA VỊ NÊN DÙNG: +Cà rốt, củ cải, bí ngô, hành tỏi, kiệu tây, bắp su trắng, rau dền, rau xà lách son, rau má, rau bồ ngót, cải bẹ xanh v.v (rau củ mọc thiên nhiên và rau củ sạch không sử dụng phân hóa học và thuốc trừ sâu: +Nước uống: NưỚc thiên nhiên trà bancha gạo lức, trà củ sen, trà bồ công anh. +Chất béo: Dầu mè, d6àu phộng (mức tối đa 2 muỗng canh dầu cho một người bệnh). +Trái cây. Trái gất, dâu tây, Hạt dẻ, trái cây thiên nhiên và đúng mùa. +Đường: Nếu sức khỏe ổn định thì có thể sử dụng đôi chút đường đen, đường thốt nốt, đường phèn, mạch nha. - NHỮNG THỨC UỐNG, THỨC ĂN TRÁNH DÙNG ĐẾN LÀ: + Tất cả các loại cà, măng, giá, nấm khoai tây, đậu leo, rau bá hợp, dưa gang, bắp su đỏ, củ cải đường. + Bơ, Sửa, đồ ăn chế bằng phó mát + Trái cây, các đồ tươi, sống và đường (trong lúc đang trị bệnh). + Gia vị: Tiêu, Ớt, Cà ri. + Nước uống: Luôn luôn uống nước ấm (khỏang 37 độ C) và khảong 03 xị (0,75 lít) trở lại. - SAU ĐÂY MỘT SỐ ĐIỀU CẦN LƯU Ý: Về tâm trạng: Không vui, không khỏe thì không nên ăn và cũng không được nấu ăn. Về đại tiện: Phân luôn màu vàng, chặt không rã nát và đúng giờ vào buổi sáng. Nếu là phân khác là âm hơn. Hoặc dương hơn thì cần phải điều chỉnh lại. Về tiểu tiện: Phụ nữ không đi tiểu quá 3 lần trong ngày. Nam không đi quá 4 lần trong ngày. Lưu ý đường ruột đang tốt là một ngày chỉ đi đại tiện một lần vào buổi sáng và chỉ nên súc miệng một lần vào buổi tối (bột cha răng). Nước uống: Một người quá âm, hay bệnh về gan thì nên sử dụng trà gạo lức rang và trà bồ công anh.
  13. 13 Trà củ sen tốt cho người bệnh phổi, trà bancha tốt cho bệnh tim mạch, đường ruột, bao tử (tốt nhất là được sự hướng dẫn của người có kinh nghiệm. Dầu mè gừng: Giả nát, hoặc mài gừng tươi, vắt lấy nước cốt trộn đều với một lượng dầu mè tương đương. Dùng xoa hay đánh gió khi cảm, sốt, xoa bóp khi nhức mỏi, tức, trặc, đau bụng, sưng u, bôi lên vết lỡ ở tai, mũi, ghẻ lác, xức dầu trị gầu và rụng tóc, chỉ nên làm vừa đủ dùng trong 2-3 ngày, vì để lâu gừng thối, có mùi khó chịu, có thể dùng xen kẻ với áp nước gừng. Cao hạ nhiệt: Ngâm đậu nành với nước cho mềm, giả nát và trộn thêm ít bột gạo cho khỏi nhão, rồi đem đắp lên trán để hạ sốt, (xem chừng thân nhiệt hạ còn 38.5 độ thì lấy ra ngay) hoặc đắp những hỗ viên nhức, (không dùng trong trường hợp ban, sởi, tot, rạ đầu mùa). Bột gạo lức sống: Nhai nhỏ gạo lức sống và hạt muối sống, hoặc giả thành bột mịn trộn nước và tí muối cho dẻo, đem đắp vào vết thương, vết lở loét, hoặc ghẻ chốc Những trở ngại trong dưỡng sanh, trị liệu theo pháp thực dưỡng thiên về giáo dục, chữa con người hơn là chữa bệnh. Nghĩa là giúp bệnh nhân tự suy xét lại bản thân mình về mọi mặt từ thể chất đến tinh thần, hầu tránh đi những việc làm có hại cho mình và cho người khác, đồng thời tổ chức được một nếp sống lành mạnh, vui tươi và hữu ích hơn, bởi vậy nếu sử dụng phương pháp thực dưỡng thuần túy để chữa bệnh có tính cách tạm thời, thường sẽ không thành công theo ý muốn, sau đây là một số trở ngại cho việc áp dụng phuơng pháp này trong trị liệu: 1. Quá muộn: Đối với những trường hợp quá muộn, nghĩa là cơ thể đã suy thoái trầm trọng, ví dụ như đến mức cùng thì phương pháp thực dưỡng một đường lối trị bệnh dựa vào cơ thể chế miễn nhiễm tự nhiên có thể không đủ thời gian cứu con bệnh, tuy nhiên, nếu áp dụng phương pháp này, những bệnh nhân quá muộn vẫn hưởng được nhiều lợi ích như không bị đau đớn hành hạ và ra đi êm thắm. 2. Thiếu niềm tin và ý chí: Nếu không tin tưởng tuyệt đối vào những hướng dẫn của phương pháp này, bệnh nhân rất dễ sai phạm hoặc bỏ dở nửa chừng do ý kiến của những người không am hiểu vấn đề, hoặc dễ bị lôi cuốn bởi những món ăn thức uống “cấm kỵ” 3. Thiếu nghiên cứu: Niềm tin và ý chí được củng cố qua sự nghiên cứu lý thuyết sách báo Thực Dưỡng và học hỏi những người có kinh nghiệm, nhất là những người đồng bệnh đã và theo phương pháp này. Đồng thời phải lưu tâm theo dõi những biến chuyển của cơ thể và vận dụng những điều đã nghiên cứu, học hỏi để lấy kinh nghiệm cho bản thân. 4. Không được gia đình, thân nhân hỗ trợ: Nếu những người trong gia đình bệnh nhân, nhất là những người có phận sự chăm sóc trực tiếp không hiểu biết, hoặc không đồng tình ủng hộ, thì có thể vì lòng “thương” sẽ làm “hại” diển tiến cải thiện sức khỏe Theo phương pháp thực dưỡng. 5. Những sai lầm khác: Ngoài những sai lầm đã nói như: Nhai không kỹ, ăn nhiều, uống nước nhiều, nhịn ăn không cẩn thận, v.v Người mới thực hành thường mắc một số sai lầm khác như: - Dương quá độ: Nhiều người lầm tưởng yêu cầu của Thực Dưỡng là “Càng dương càng tốt”, nên ra sức ăn thật mặn, cố nhịn nước dù khát, vận động thể lực tối đa, hoặc ăn toàn các món nướng, rang, chiên, dù đang trong mùa hè, v.v. sự việc này có thể vượt mức chịu đựng của cơ thể, gây ra tình trạng kiệt sức, hoặc những phản ứng mãnh liệt dẫn đến sự “phá giới” vô cùng nguy hiểm. Các bạn nhớ cho chủ trương của phương pháp Thực Dưỡng là quân bình và chế độ, - Không biết linh động: Thường đây là những người không chịu đọc sách báo Thực Dưỡng và thiếu tìm hiểu thực tế. Thí dụ trẻ con và người già răng yếu không biết nấu nhừ, hoặc xay, giã nhỏ vật thực trước khi ăn, hoặc không biết chế biến thực phẩm cho dễ ăn, hoặc có người cứ ăn mãi gạo lức muối mè lâu ngày sinh chán, vv . Trong vủ trụ này, mọi sự vật đều vận động và biến hóa không ngừng, nào ngày đêm đắp đổi, nào bốn mùa luân chuyển, khi nắng khi mưa và cuộc sống con người cũng đa dạng. Vì vậy, để có thể tồn tại, sống vui qua năm tháng của đời người, chúng ta không nên đóng khung vào một khuôn mẫu hoặc một công thức cố định, mà phải biết thích ứng với mỗi đổi thay, khác biệt của từng cá nhân theo thời gian và không gian. Đồng thời cũng nên biết không có hiện tượng nào thuần Âm hoặc thuần Dương, mà bao gồm cả Âm lẫn Dương. Trong sinh hoạt hàng ngày cũng như trong chữa trị bệnh, chúng ta tuân theo nguyên lý nầy, lẽ dĩ nhiên có lúc dương hơn và có lúc cần âm hơn.
  14. 14 - PHÉP DINH DƯỠNG CẦN ĐƯỢC TUÂN THỦ TRIỆT ĐỂ TỪ BA TUẦN ĐẾN MỘT THÁNG: - Vài phản ứng có thể xảy ra cần được biết đến vào thời kỳ đầu sau khi áp dụng phương pháp dinh dưỡng này. - Cảm giác suy nhược, cảm thấy chân bị bại liệt từng phần, do nơi nguồn gốc tâm linh và cũng do nơi giảm thiểu số luợng huyết dịch lưu thông trong cơ thể, sau khoảng 15 ngày đến 1 tháng, trạng chứng nầy sẽ mất đi. - Thường tim đập chậm lại, nhất là khi ta dùng một số lượng muối khá nhiều, vô hại. - Đau đầu thường xảy ra vào nghững ngày đầu trong thời gian ăn số 7. - Trạng thái buồn nôn, cũng thuờng hay mửa cả đồ ăn và mật (đảm trấp), ớn cơm (nói chung các đồ ăn ngũ cốc). Đừng ngại cứ ăn ít lại, vài ngày sau sẽ ăn ngon trở lại, vẫn cứ làm việc như bình thường. - Chảy máu cam máu mũi, đôi khi thổ huyết, hoặc tiện huyết (phẩn có vấy máu). Cũng gặp trường hợp chảy máu tai; hầu hết các trạng thái khủng hoảng này đều được cải thiện sau đó. - Nhất là ở thiếu nữ thường có sự ngưng chỉ kinh nguyệt, thay đổi từ 1 đến 6 tháng, sau đó kinh nguyệt sẽ trở lại. - Về phía nam giới, đôi khi có trạng chứng bất lực trong một thời gian ngắn, có thể cũng cùng một trạng chứng như trên. - Rất thường xảy ra trường hợp táo bón vào lúc đầu do nơi sự thiếu nước và do sự giảm thiểu số lượng thực phẩm, nhưng không có gì đáng quan tâm, chớ dùng thuốc nhuận trường, không có nguy hại vì không có đản bạch tinh (proteins) động vật. Chịu khó chờ đợi, sự đi tiểu sẽ được điều hòa trở lại, trong một thời kỳ nào đó, nghe phân không có hôi thúi gì cả. - Trong tháng đầu, hầu hết đều gầy hẳn xuống. - Ở những người mắc bệnh phong thấp thường có sự gia tăng đau nhức và sưng khớp xương tạm thời. - Về phương diện tinh thần, hình như luôn có một thời kỳ hay nổi xung (dễ phát cáu), chán đời do một số nơi cảm giác khát nước đến bắt khó chịu. Người ta thường hay bỏ cuộc vào thời kỳ này, việc rất thường thấy, cần phải tiên liệu trước để chịu đựng. - Giấc ngủ bị rút ngắn lại, thường có mộng mị liên miên vào lúc đầu, đôi khi rất nhanh; nhưng trái lại không hề có sự mất ngũ. - Thường thường nước tiểu có mầu rất đậm và chứa nhiều chất lạ. Cả đến khi khối lượng nước tiểu trong trở lại, nhưng vẫn phải giữ cho được màu vàng sẫm. Đôi khi có trường hợp sưng bọng đái nhẹ. - Đôi khi có phản ứng cảm sốt bất thình lình trong vòng 24 đến 48 giờ, rồi dứt đi cũng thình lình như thế mà không thấy có dấu hiệu chi hết. - Mặc dù có cảm giác mệt mỏi lúc đầu, cũng cần phải tiếp tục công việc và cố gắng tập một vài cử động thể dục hàng ngày. - Sự tiếp tục dùng thức ăn thuộc động vật trong khi giảm uống và ăn nhiều muối thêm sẽ rất có hại. -GIẢI ĐÁP MỘT SỚ THẮC MẮC THÔNG THUỜNG LIÊN QUAN ĐẾN TÂM TRẠNG: - Ngại thiếu chất đạm bạch tố (proteines) thuộc động vật? Các chất đạm bạch tố thực vật đã có đủ, các acid anime strong loại ngũ cốc và rau quả như: Biến đậu (Lentilles), đậu xanh chẳng hạn đủ bổ túc cho chỗ thiếu thốn ấy. Một vài loại thảo mộc có giá trị bổ túc cho đồ ăn ngũ cốc hơn hẳn các món ăn thịt cá, hoặc sữa như bánh dầu mè (xác mè sau khi ép lấy dầu rồi), hay xác dầu quỳ (công
  15. 15 cuộc khảo cứu của bà Randoin). Nó chỉ thua có mỗi một thứ đản bạch tố ở trứng mà thôi. Các đồ ăn bổ túc cho loại ngũ cốc là những đồ ăn mang tới cho cơ thể những chất không có trong ngũ cốc. - Sợ thiếu sinh tố C chăng ? Các cuộc khảo cứu thảo mộc mới đây ở Nhật và ở Anh đã chứng tỏ rằng trong các loại ngũ cốc (Paoviatamine C) sự chịu nóng tới ngoài 150 độ và cơ thể người ta có thể tổng hợp và chuyển hóa nó thành sinh tố C. Ngoài ra, trong các thức ăn, thực dụng như ngò tây (persil) và bồ công anh (Pissenlit) chẳng hạn, người ta cũng nhận thấy có nhiều sinh tố C trong cám hay cà chua (tomate) và được kèm với một hàm lượng phong phú tương đương về sinh tố A. Các sinh tố khác thì đều có đầy đủ cả. Đại loại như sinh tố B và PP có nhiều trong các loại ngũ cốc và sinh tố E trong mầm ngũ cốc. Về sinh tố D thì trong mầm các loại ngũ cốc còn nguyên cám và trong bột kiều mạch (Flocon Davoine). Còn lại các sinh tố thuộc nhóm F do nơi các acid béo bất bão hòa trong các loại dầu thảo mộc sinh ra. Các acid béo giúp đắc lực cho sự biến hóa chất Cholesterol ở cơ thể người. Các thức loại nên dùng: dầu mè (vừng) và dầu quỳ (Tourynesil) cả dầu Ô liu (cảm lảm) nữa. Trong các chất béo có nguồn gốc động vật và chất magarine. (loại mỡ trứng) đều có tác dụng độc hại. (công cuộc khảo cứu của bà Randoin đăng tải trong công báo của viện vệ sinh thực phẩm năm 1975) - Sợ sự hạn chế nước uống sẽ làm cho thận mệt chăng? Trái hẳn lại, chúng ta hãy nhớ lại những kết quả tuyệt hảo trong thực chế khô của Volhard trong việc chữa trị chứng sưng thận cấp tính khuếch tán (Người Đức đã dùng từ 7 đến 10 ngày để áp dụng thực chế khô này). Ngoài ra, thận tạng có khả năng bài tiết chất muối (CINa) trội hơn khả năng người thường tưởng tới. Thận tạng của người có thể thải ra cứ mỗi lít nước tiểu la 30 gram CINa và còn hơn thế nữa. Cho dù ăn 4, 5 muỗng cà phô muối mè mỗi ngày cũng không dung chứa tới trên 10 gram CINa mỗi ngày, đó là điều rất thuờng. -KẾT LUẬN: Cơ bản của thực chế này là đúng theo cơ bản các phép dinh dưỡng cổ truyền của phần đông dân chúng nông thôn vạm vỡ ở Âu châu, ở các xứ Đông Dương, nhất là ở miền cực Đông. Sự quân bình dinh dưỡng ấy đã bị đảo lộn ở Tây Phương. Ở đây chỉ có thể sửa đổi gia giảm một cách rất khôn ngoan. Các yếu tố có thể thay đổi được trong phép ăn này tùy theo tạng thể hoặc căn bệnh, là số lượng nước và muối, rồi đến tỷ độ tương quan về số lượng đồ ăn ngũ cốc và rau quả, là sự chọn lựa một số ngũ cốc hoặc rau quả, và dĩ nhiên thời kỳ cần phải thay đổi các tỷ lượng giữa những yếu tố này cho thích hợp với người bệnh. Bảng thực dưỡng âm - dương, phương pháp ăm gạo lức muối mè trị và ngừa bá bệnh (Ohsawa) Phương pháp Tiết-Thực của bác sĩ Ohsawa hệ tại trị bịnh toàn khoa bằng cách ăn uống theo đúng luật quân bình Âm Dương. Như thế, ta thấy rằng: muôn bệnh tật đều do lạm dụng ăn uống. Theo nguyên tắc "ngừa bệnh hơn chữa bệnh" con người cần phải chú ý nhiều về vấn đề ăn & uống. Hễ ăn uống theo đúng quân bình "Âm & Dương” thì vô bệnh. Ăn quá nhiều đồ ăn Dương thì nóng nẩy, hoảng hốt, gầy còm, tuy cơ thể khỏe mạnh, hăng hái, có khi đến bạo tàn. Ăn quá nhiều đồ Âm, có thể hiền lành, nhu nhược, ươn lười và nặng nề. Ăn uống theo luật quân bình Âm Dương sẽ khỏe mạnh, trường sinh. Nhưng dựa trên căn bản nào để biết: đồ ăn đồ uống này Dương, đồ ăn đồ uống kia Âm ? Người xưa dựa trên mầu sắc, nhiệt độ hay mùi vị để phân biệt Âm với Dương. Ngày nay các BS Nhật Bản, tiêu biểu là BS Ohsawa, dựa trên 2 hóa chất Potassium (K) và Spdium (Na) để phân định Âm Dương. Vật nào nhiều
  16. 16 Sodium là Dương, vật nào nhiều Potassium là Âm. BS đề ra một phương trình: K/Na = 5, để làm tỷ lệ cho quân bình Âm Dương. Tất cả những vật có tỷ số cao hơn 5 là Âm, có tỷ sớ dưới 5 là Dương. Ví dụ: Gạo có K/Na = 4.5 là Dương. Khoai tây có K/Na = 5.12 thì rất Âm. Cam có K/Na = 5.7 thì rất Âm. Chuối có K/Na = 8.4 thì cực âm. Như vậy tỷ lệ âm dưong quân bình trong cơ thể và dinh dưỡng luôn luôn là: 01 Dương = 5 Âm. Dưới đây là bảng sắp xếp các đồ ăn Theo thứ tự từ âm đến dương:
  17. 25 Vitamin - tìm ở đâu? Mỗi ngày, cơ thể nạp đa dạng thực phẩm song chưa chắc đã đáp ứng đúng nhu cầu vitamin của cơ thể. Hãy tra cứu bảng dưới đây để chủ động kiểm soát loại vitamin cần thiết.
  18. 26 Sau đây là một số đối ứng căn bản để phân định Âm, Dương trong việc lựa chọn thực phẩm : ÂM DƯƠNG Màu xanh Màu đỏ, vàng Vị chua, ngọt Vị đắng, mặn Mọng nước và mềm Khô, cứng Lớn, giãn nở Nhỏ, cô đọng Trên mặt đất Dưới lòng đất Mọc hướng lên Mọc hướng xuống Sinh ra ở vùng khí hậu nóng, ấm Sinh sản ở vùng khí hậu mát, lạnh 1/- NHÓM 01 ÂM (-): 1) Dairy products camembert cheese Gruyere cheese. 2) Đồ ngọt: Mật ong. 3) Giải khác: Nước giếng, nuớc khóang chất, soda. 4) Hải Sản: Các chép, cá hương. Cá lờn bơn, hào, hến, lươn, mực, sò, vạng, tôm hùm. 5) Herbs: Cam thảo tươi, Dâu tầm (lá). 6) Ngũ cốc: Bo bo. Đại mạch, đạu xanh, kiều mạch, lõa mạch. 7) Rau/Củ: Bạc Hà, bắp ngô, cần, củ nưa, dền tía (rau), mã đề, su đỏ, su hào, su su, thiên môn (củ), tỏi 8) Thịt: Cừu, Gà, Thỏ. 9) Thức ăn: Chả (heo chiên), chả giò, giò lụa 10)Tráicây: Khế, lựu, mãng cầu. Măm cục, Nhãn, ổ, Vú sữa. 2/- NHÓM 2 ÂM (- -): 1) Dairy products cheeses. (các lọai sữa bò). 2) Đồ ngọt: Đường, bạch nha, đường phèn. 3) Giải khác: Beer. Nước đá lạnh, rược đế. 4) Hải Sản: Ếch, nhái, óc bưu. 5) Rau/Củ: Herbs: 6) Ngũ cốc: Đậu nành. Đậu phọng. Tiêu. (pepper). 7) Rau/Củ: Bầu, củ cải đỏ, (củ) khoai từ, đậu lăng-tị đậu petite-pois, mồng tơi, rau muống, rau dền xanh, Rau sam, khoai mì. 8) Thịt: Bò, heo. Sửa động vật, ngựa, thỏ rừng. 9) Thức ăn: Dầu dừa. 10) Trái Cây: Bứa, chanh, chôm chôm, dưa tây, dưa hấu, đào, lê, mít, nho, phật thủ, trái vải, trái hồng, trái sapotier 3/- NHÓM 3 Âm (- - -): 1) Dairy products Butter, ice cream, magarine, yogurt. 2) Đồ ngọt: Kẹo, Socolate, Đường hóa học, mật mía, trà tàu. 3) Giải khác: Cà phê, champagne, Coca cola, nước ngọt, rượu chat, rượu tây. 4) Hải Sản:
  19. 27 5) Herbs: Gừng. 6) Ngũ cốc: Đậu, La ve, Đậu ngự. 7) Rau/Củ: Atichoke, (bắp) hoa chuối, cà chua, cà ghém, cà tím, củ sắn (củ đậu), dưa chuột, đậu đũa, khoai lang, khoai sọ, khoai tây, khoai lang tía, măng tây, măng tre, me, mướp ngọt 8) Thịt: 9) Thức ăn: Dấm chua, tàu vị yểu. 10) Trái Cây: Bưởi, cam, quít, chuối, dưa bở, dưa gang, dứa (thơm), đu đủ, hồng (giòn), măng cầu xiêm. Sầu riêng, trái vải, trái ví sữa. NHÓM 01 DƯƠNG (+): 1) Dairy products: cheese, Holland, Roquefort, (cheese) trái lekima. 2) Đồ ngọt: Cookies. 3) Giải Khát: Sữa thảo mộc, trà bạc hà, trà lá sen, trà trinh nữ, trà lá sọ khỉ, trà tươi già, trà vú sữa. 4) Hải Sản: Cá hồi, cá mòi, cá trích, khô mực, tôm tép. 5) Herbs: Lá Bồ Công Anh, cam thảo sao, đồng tiện (nước tiểu), hà thủ ô, hoa hồng khô, lá điền thất, r4 dâu tầm. 6) Ngũ Cốc: Butter mè (vừng), cà phê gạo lứt, đậu bắp, đậu bạc, đậu đen, đậu đỏ, đậu ván, gạo trắng, hạt kê. 7) Rau/Củ: Bí đao, cải bắp, cải củ, cải radish, củ ấu, cúc tần ô, rau diếp đắng, rau diếp quăn, hành (củ), hẹ (củ & lá), củ hoàng tinh, hạt dẻ, hạt mít luộc, củ kiệu, mướp đắng, ngò (rau thơm), rau đắng, rau má, Mít nob, (sống). 8) Thịt: Bồ câu, chó, chim đa đa, gà tây, vịt. 9) Thức Ăn: Cải cay, chao, dầu cá thu, dầu egoma, dầu hướng quỳ, dầu đậu phụng, dầu mè, dầu olive. Nước đậu huyết, nước mắm, thịt gà bộng ( con ruốc), tương. 10) Trái cây, Anh đào, trái gấc. NHÓM 02 DƯƠNG (+ +): 1) Dairy products: Sũa dê. 2) Đồ ngọt: Biscuit, mật nhân. 3) Giải Khát: Trà đầu lân, trà điền thất, trà ngải cứu, trà ngũ trảo, trà tam thất, trà từ bi 4) Hải Sản: 5) Herbs: Hà thủ ô chế, hắc mạch, hoàng liên, hoàng nàn, rễ bồ công anh, xuyên tâm lien 6) Ngũ Cốc: Gạo đỏ, hạt bí rang, hạt sen, hạt sung, hạt mít rang. 7) Rau/Củ: Bí rợ, carrot, cresson, củ mài, củ sắn dây, củ sen, diếp quăng đắng, củ nghệ. 8) Thịt: Mèo. 9) Thức Ăn: Cà nén, củ kiệu nén, dầu đậu nành, dầu dừa, hành nén, ô mai, trứng cá muối, trứng gà (có 10) Trái cây: Táo ta, Táo tàu, Táo tây. NHÓM 03 DƯƠNG (+ + +): 1) Dairy products: 2) Đồ ngọt: 3) Giải Khát: 4) Hải Sản: 5) Herbs: Đầu lân chế, điền thất chế. Hung hòang, mật nhân, quế nhục, thục đậu, tam thất chế, xuyên tâm lien chế. 6) Ngũ Cốc: 7) Rau/Củ: Bí rợ, carrot, cresson, củ mài, củ sắn dây, củ sen, diếp quăng đắng, củ nghệ. 8) Thịt: Chim trĩ. 9) Thức Ăn: Cà nén phi, muối biển. 10) Trái cây:
  20. 28 CÁCH NẤU GẠO LỨC. MUỐI MÈ (OHSAWA) * PHÂN LƯỢNG GẠO LỨC, NƯỚC VÀ MUỐI: Một lon gạo (lon sữa bò) + hai lon nước (lon sữa bò) + một phần tư (¼) muỗng cà phê muối. Lượng nước có thể thêm bớt tùy theo loại gạo. * CÁCH NẤU GẠO LỨC BẰNG NỒI THƯỜNG: Không được nấu bằng nồi cơn điện. Nấu nước sôi, cho gạo và muối vào nước sôi, khuấy đều. Đậy nắp, nấu cho sôi bùng lên rồi tắt lửa. Nhắc nồi xuống vẫn đậy nắp để 15 phút. Sau đó, bắt nồi lên bếp nấu tiếp lửa nhỏ cho đến khi chín cơm. * CÁCH NẤU GẠO LỨC BẰNG NỒI ÁP SUẤT: Một gạo + một rưỡi (1½) nước (đong bằng lon sữa bò) + một phần tư (¼) muỗng cà phê muối. Cho gạo, nước, muối vô nồi một lượt. Nấu sôi xì hơi, tắt lửa. Nhắc nồi xuống để 15 phút. Sau đó, bắt nồi lên bếp, nấu tiếp, lửa nhỏ, cho đến khi chín. * CÁCH GIỮ CƠM GẠO LỨC KHÔNG THIU Không đậy nắp kín mà dùng rá để đậy nồi cơm. Không được để cơm trong tủ lạnh. * CÁCH HÂM CƠM GẠO LỨC Mở nồi cơm, dùng muỗng xới cơm khoét một lỗ tròn giữa nồi cơm cho đến đụng đáy nồi, đổ nước vô (lượng nước đủ tráng đáy nồi để cơm không bị khét khi hâm). Đậy nắp nồi cơm, nấu cho nước bốc hơi lên, mở nắp nồi khuấy đều. Dùng muỗng ép cơm cho bằng mặt và cứng. Đây nắp nồi, để lửa riu riu khoảng 5 phút là cơm đã được hâm nóng đều, tắt lửa. * CÁCH RANG MÈ Mè vàng còn vỏ. Đổ mè vào thau nước đầy, vớt bỏ phần nồi trên mặt nước và bỏ sạn cát chìm xuống dưới thau. Sử dụng phần mè sạch còn lại, phơi mè cho khô, đựng trong hộp đậy nắp. Khi rang mè nhúng tay cho ướt để bóp sơ mè cho thấm nước mới rang thì mè sẽ thơm hơn khi rang khô. Rang lửa đều và nhỏ, khuấy đều mè, đến khi mè nổ lách tách là chín. Đổ mè chín ra thau, phải đậy kín liền. Mười phút sau, mè nguội, bỏ vô cối nghiền chung với muối (nghiền chớ không phải giả). Một muỗng cà phê muối nghiền với 14-20 muỗng mè. Phân lượng này có thể Mè trộn muối rồi chỉ được sử dụng 4 ngày. Ăn tiếp phải rang mè mới. * CÁCH ĂN CƠM GẠO LỨC VỚI MUỐI MÈ Khi múc cơm ra chén, không được xới cơm đều, chỉ xắn cơm trong nồi từ trên xuống dưới để lấy đủ âm dương. Ăn bao nhiêu thì xắn bấy nhiêu ra chén. Để nguyên phần cơm dư ngày mai, không được xới lên. Một chén cơm trộn đều với 2 muỗng cà phê muối mè. Ăn bằng muỗng cà phê, một lần ăn một muỗng cà phê cơm trộn mè, không được nhiều hơn, để nhai nát cơm cho dễ. Phải nhai cho đến khi cơm thành nước và cảm thấy ngọt mới được nuốt và chỉ nuốt một lần, không được nuốt nhiều lần, vì nuốt nhiều lần sẽ bị khát nước. Khi ăn không được hở môi, không được nói chuyện. Ăn bất cứ giờ nào, không cần đúng bữa. Trước khi ngủ hai tiếng, không được ăn. Dùng số lượng cơm nhiều ít tùy theo cơ địa mỗi người, nhưng không nên ăn no một lần, một chén cơm có thể ăn nhiều lần. * ĂN GẠO LỨC RANG BUỖI CHIỀU ĐỂ CHỮA BỆNH THẤP KHỚP Đổ nước bằng với mặt gạo, nấu sôi đều, không được để nở gạo. Đậy nắp, tắt lửa, nhắc nồi cơm xuống. Sau khi cơm nguội, xới cơm ra mâm phơi cho ráo nước (không cần phơi khô). Rang cơm cho đến khi hạt gạo vàng. Tắt lửa, đậy nắp liền. Đậy nắp khoảng 30 phút trở lên, khi sờ tay thấy gạo còn ấm, không phỏng tay, cho muối vào (lượng muối bao nhiêu cũng được) đậy nắp lại, đến khi gạo nguội hoàn toàn, đổ ra vợt rây, bỏ muối lấy gạo. Chú ý nếu cho muối vào gạo còn nóng thì gạo sẽ hút nhiều muối, không được. Nếu cho muối vào gạo đã nguội thì gạo sẽ không thấm được muối. Nếu răng yếu, có thể xay gạo rang thành bột để ăn, nhưng phải nhai bột gạo này cho đến thành nước, mới
  21. 29 được nuốt. Số lượng bột ăn tùy theo cơ địa mỗi người, nhưng cũng không được ăn no. CÁCH NẤU CHÁU GẠO LỨC RANG Vật liệu: 180 gram gạo lức và 1,5 lít nước. Rang gạo lứt trong chảo cho tới vàng nâu. Nấu 1.5 lít nước cho thật sôi. Rồi đổ toàn bộ gạo lứt đã rang vào nước đang sôi. Lập tức tắt lửa, rồi để vậy trong vòng 5 phút. Sau đó lượt lấy nước trong để riêng. Kế đó cũng nấu 1.5 lít nước khác cho sôi, rồi đổ toàn bộ xác gạo lứt đã được lượt ra vừa rồi. Sau đó vặn lửa riu riu và tiếp tục cho sôi thêm trong vòng 5 phút nữa mới tắt lửa. Xong lượt lấy nước trong. Hòa nước gạo lứt đã nấu lần trước và lần này lại với nhau cho đều rốiuống như nước trà vậy. Xin lưu ý: Tùy theo bệnh trạng mà thay đổi cách dùng. Không nên uống nước gạo lứt chung với sữa bò hoặc chung với những thức ăn có chất đạm (protein). Không nên hòa canh dưỡng sinh và nước gạo lứt rang chung với nhau để dùng. Uống hai thứ nước này cách nhau tối thiểu 15 phút. Giá trị dinh dưỡng của gạo lức Hạt gạo không chỉ nuôi sống con người bao đời nay nhưng gạo cũng là sản phẩm dinh dưỡng có giá trị cao hàng đầu trong các loại lương thực. Giá trị dinh dưỡng của gạo lức Trong các loại gạo thì gạo lức còn giữ lại một phần vỏ cám bên ngoài hạt gạo trong quá trình chế biến. Gạo
  22. 30 lức cung cấp nhiều thành phần carbohydrate, vitamin nhóm B, chất xơ, chất dầu, sắt, kali, kẽm, các yếu tố vi lượng và chất khoáng được tìm thấy nhiều ở phần bọc ngoài của hạt gạo lức. Chính vì vậy, gạo lức là một loại thực phẩm nhiều dinh dưỡng hơn nhiều so với gạo trắng. Các nghiên cứu cho thấy những thành phần có trong gạo lức giúp cho phòng ngừa những bệnh trong hệ tiêu hóa và tim mạch. Để giảm cân, giảm cholesterol xấu trong máu nhiều người đã chọn gạo lức làm lương thực chính thay cho gạo trắng. Cơm gạo lức muối mè còn là một trong những phương pháp thực dưỡng do giáo sư Oshawa, nhà dưỡng sinh người Nhật đã dày công nghiên cứu và truyền bá. Theo phương pháp này thì ăn cơm gạo lức muối mè là một trong những cách giúp thanh lọc các tạp chất trong cơ thể con người một cách hiệu quả. NẤU CƠM GẠO LỨT THẾ NÀO CHO NGON Gạo lứt thì đầy bổ dưỡng và khoái khẩu. Đơn giản là ngon! Bạn có thể ăn nó quanh năm.Kỹ thuật đầu tiên để khai thác là cách nấu gạo lứt thơm ngon. Bất cứ người nào cũng có thể nấu một nồi cơm, nhưng không phải ai cũng có thể nấu ngon. Để có được những kết quả phù hợp, bạn phải lường nước cẩn thận và điều tiết nhiệt lượng. Nên nhớ rằng mọi vật biến đổi và mỗi ngày khác nhau. Bạn sẽ cần phải quan tâm đến những thay đổi phức tạp mà chúng ảnh hưởng đến nghệ thuật nấu ăn như là thời gian trong ngày, những sự biến đổi khí hậu, vân vân , khi bạn bước vào nhà bếp của bạn. Một lon gạo lứt (hạt ngắn, gạo đỏ là tốt nhất) 1 ¼ - 1 ½ lon nước 1/8 muỗng càfê muối biển Vo gạo trong nước lạnh. Vo trực tiếp trong nồi cơm với nước và bằng cách xoáy nước theo chuyển động xoắn ốc bằng tay của bạn. Vo gạo nhanh; trong khi vẫn còn chuyển động thì bắt đầu đổ nước, để cho những mảnh trấu lớn chảy ra ngoài trước, giữ những hạt gạo lại bằng rá tre là tốt nhất, đãi sạn bằng cách vớt gạo ra một rá khác để tìm nhặt những hạt sạn lắng ở dưới, khi đãi sạn nhớ để những cái nan rá nằm ngang chiều đãi để sạn đọng lại vào những kẽ nan. Lường nước, muối, bỏ gạo vào. Bạn nên ngâm gạo trong nước mà bạn muốn nấu nó. Ngâm từ 2 đến 4 giờ để nó được chuẩn bị cho quá trình tiêu hóa dễ dàng hơn. Phải xếp đặt tất cả các phần của nồi áp suất đàng hoàng và được đặt trong vị trí thích hợp. Phải chắc chắn rằng cái nắp được đóng thật chặt. Tăng áp suất bằng lửa cao. Khi nút áp suất bắt đầu xì hơi, thì giảm lửa và chuyển sang lửa riu riu để giữ cho hạt gạo không bị cháy. Nấu trong 50 phút nữa. Chuyển nồi ra khỏi bếp vào cuối giờ nấu, và để cho áp suất trở lại bình thường trước khi mở nắp. Trộn cơm nhẹ nhàng bằng một cái vá và chuyển nó sang một cái tô lớn, một vá đầy một lần, làm đầy tô theo một mẫu đúng quy cách, quay theo chiều đồng hồ, ép cơm xuống khi bạn múc. Tiến trình này sẽ giúp duy trì độ nóng của cơm trong khi cũng nói lên một quá trình đúng quân bình. GHI CHÚ: xin vui lòng điều chỉnh những lượng nước và muối và thời gian nấu để được loại cơm bạn thích. Nhiều nước hơn hiển nhiên sẽ làm cơm nhão hơn và ít khô hơn. Hãy thử nghiệm và đừng sợ mắc lỗi. * NẾU BỊ BÓN Hai tiếng một lần, nhai một muỗng cà phê muối mè (mè đã nghiền chung với muối). Và trước khi ngủ, nhai 4 muỗng cà phê muối mè, nhai đến lúc không còn mặn mới được nuốt. * NƯỚC UỐNG TÙY THEO BỆNH Bệnh tim mạch, đường ruột, bao tử, vôi cột sống: Dùng lá trà ba năm, nấu nước sôi, cho lá trà vào rồi vớt ra liền (đó là cách rửa trà). Sau đó ủ một đêm, phơi chỗ mát, một ngày xốc lên ba lần (sáng, trưa, chiều) phơi khoảng một tuần đến 10 ngày, lá trà khô, cho vô bao, để chỗ không ẩm. Khi dùng, rang lá trà, sao khử thổ bằng cách đổ lá trà đã rang xuống nền gạch tàu, rồi hốt lên liền, không được để lâu. Có thể mua 4 miếng gạch tàu, nếu nhà không có lót gạch tàu. Lá trà rang rồi, để nguội cho vô bao nilon treo lên. Tùy khả năng không nhứt thiết ăn ròng gạo lức + muối + mè. Hoặc ăn bình-thường, nhưng tránh bớt món cực âm, nhiều âm mà lâu nay không biết để duy-trì Âm Dương
  23. 31 điều hoà, được sức khoẻ tốt, tránh bệnh nan y. · Ruồi kiến bị đường rơi rớt trong nhà bếp chúng ta lôi cuốn như thế nào, thì trong cơ thể ta đường cũng hấp dẫn các vi trùng và ký sinh trùng như vậy. · Ung thư dĩ nhiên là một bệnh Âm, đặc tính của nó là một số tế bào nào đó trong một cơ quan nào đó của cơ thể tăng trưởng một cách quá mau lẹ. Nguyên-nhân chính luôn luôn là quá dư chất Âm trong món ăn hằng ngày. · Ung thư máu chỉ xuất hiện nơi những người thích ăn ngọt: nước ngọt, kem, sữa có đường, cà phê sữa, trà đường. Điều đáng chú ý và rõ ràng là người quá ham ăn ngọt chắc chắn sẽ phải chết vì bệnh. · Đường biến thành nước và C0₂ trong cơ thể, nó làm giảm các nguyên tố Dương trong máu và làm gia tăng tỷ lệ K đối với Na. Nó là chất Cực Âm. Âm nhất trong các thức ăn của con người và là nguyên-nhân trực-tiếp của nhiều bệnh giết người. · Ngày nay một đứa trẻ Mỹ trung bình tiêu thụ một số lượng đường kinh khủng so với những đứa trẻ 50 năm về trước. Thế thì có gì đáng ngạc nhiên khi thấy các bệnh hoại huyết và ung thư, hơn tất cả các bệnh khác, giết hại vô số trẻ con vô tội Mỹ. CÁC TRỢ PHƯƠNG THEO PHƯƠNG PHÁP DƯỠNG SINH 1- Cách xông đau nhức: 1 ký muối hột và một ký củ cải trắng cho vào 4 lít nước nấu sôi. Đổ nước sôi này ra xô, rồi dùng vật cản gác trên nặt nước để chân không đụng vô nước bị phỏng và gác chân lên xông, dùng mền quấn bít kín lại đến ngang rốn. Nước xông nguội thì cho chân vô ngâm 5 phút, rồi ngâm chân vô nước lạnh trong một phút. Xông chân liên tục 2 tuần. 2 – Cách đắp nước gừng chỗ đau và khối u trong cơ thể: 200 gram gừng tươi giã nhuyễn cho vào bọc vải mùng. Nấu 2 lít nước sôi cho bọc gừng vô rồi hạ bớt lửa liền và để lửa nhỏ riu riu, không được tắt lửa để giữ nước còn nóng. Nắm góc khăn để nhúng khăn vô nồi nước gừng và vắt khăn ráo. Gấp khăn làm 4 đắp lên chỗ đau với độ nóng chịu được và phủ lên khăn nóng này một khăn khô bên ngoài để giữ nóng. Trong lúc đắp khăn nóng thứ nhất, lo chuẩn bị nhúng khăn thứ hai vô nước gừng nóng và vắt ráo để vô thau. Khăn thứ nhất đã nguội thì lấy khăn ra, rồi đắp khăn nóng thứ hai tiếp theo. Đắp từ 25 đến 30 phút một lần. Một ngày đắp ba lần hay ít nhất cũng phải đắp hai lần mới có kết quả. Chú ý lúc đang cho con bú, không được đắp nước gừng, vì sẽ bị tắt sữa. 3 – Cách dán cao khoai môn (củ nhỏ) chỗ đau vào buổi tối trước khi ngủ Khoai sọ củ nhỏ rửa sạch và gọt vỏ. Chín phần khoai sọ đã giã nhuyễn, (hoặc mài nhuyễn, hoặc xay nhuyễn) trộn cho đều với một phần củ gừng đã gọt vỏ và đã giã nhuyễn. Đổ hỗn hợp này vô miếng vải mùng, bề dày hỗn hợp độ một phân rưỡi. Đắp lên chỗ đau, bó lại để không bị rớt khoai ra và đắp nguyên đêm. 4 – Viêm Nhiễm Âm hộ-Ung Thư Tử cung 4 cây cải xậy tươi độ 1 ký (cải làm dưa muối) + 4 lít nước + 1 nắm muối. Nấu chín cải, đổ nước ra chậu, cho thêm nước lạnh cho vừa đủ nóng, ngồi vào chậu nước này để ngâm mông và phủ mền lên ngang rún 30 phút. Sau đó tắm cho sạch. Ngâm mông 2 tuần liên tục. Đắp nước gừng và dán cao khoai sọ từ rún trở xuống (Xem số 2 trang 10 và số 3 trang 10). Uống nước lá trinh nữ hoàng cung và lá trà bồ công anh (xem số 38 trang 15). Mỗi tối lấy bông gòn bằng ngón tay út nhúng vô dầu mè và lăn bột Denti (Bột Denti chữa bệnh) rồi nhét vô đường tiểu, sáng đi tiểu ra. Nhét như vậy từ 1 tuần đến 10 ngày. Trường hợp bị huyết trắng thì nhét bông gòn tẩm dầu mè và bột Denti giống như vậy trong 5 ngày. Ăn cơm gạo lức muối mè theo số 7. 5 - Bệnh Hay Đau Bụng - Nhức Đầu - Trúng gió méo miệng trong vòng 5 phút-phong giựt-Tăng huyết áp-Ỗn định thần kinh. 1 muỗng canh bột sắn dây cho một chút xíu nước lạnh (nước nấu chín để nguội), khuấy lên để bột không bị ốc trâu, rồi mới cho 1 bát nước sôi vào, khuấy lên thấy bột trong là chín. Nếu bột chưa trong thì cho vào nồi để lên bếp lửa khuấy cho chín, rồi cho một muỗng cà phê nước tương Tamari vào khuấy đều. Uống hỗn hợp này lúc bụng đói, hoặc lúc trúng gió, hoặc vào buổi tối và trùm mền cho đổ mồ hôi. Sau đó, lau khô người và thay quần áo. Không được ra gió trước một tiếng đồng hồ.
  24. 32 6 – Ăn Không Tiêu Dầm 1 miếng chanh muối lâu năm với nước nóng để uống, hoặc ngậm 1 miếng nhỏ chanh muối (chanh muối lâu năm), ngậm một lúc rồi nuốt. 7 - Cảm 15 lá trà 3 năm + nửa trái chanh muối lâu năm (trái nhỏ, trái lớn thì một phần ba) + 1 lóng gừng bằng ngón chân cái nướng cho chín rồi băm nhuyễn. Ba thứ này nấu với một chén rưỡi nước cho sôi, sắc lại còn 1 chén, vớt bỏ lá trà, rồi chế nước này vào chén có 1 muỗng canh bột sắn dây đã được tán ra với 1 muỗng canh nước khuấy lên, nếu bột trong là chín, bột chưa trong thì bắc lên bếp khuấy sơ thêm cho chín bột. Sau đó, cho vào một muỗng nước tương Tamari và khuấy đều. Ăn nóng rồi trùm mền cho ra mồ hôi, không ra gió trước 1 tiếng đồng hồ. 8 – Đau cổ họng-viêm họng hạt và viêm nhiễm thanh quản, thực quản Đánh răng bằng bột Denti, sau đó ngậm 1 phần 4 muỗng cà phê bột Denti (loại ngậm, không phải loại đánh răng), ngửa cổ để khò khò cho nước bột này thấm vô cổ họng, rồi ngậm đến khi hết mặn nuốt luôn, sau đó không được uống nước, vì sẽ làm trôi thuốc. 9 – Đàm trong cổ-mệt đứt hơi Để trị đàm, buổi tối, trước khi đi ngủ, ngậm 1 phần 8 trái chanh muối, nuốt từ từ đến hết chanh muối rồi ngủ, không được uống nước vì sẽ làm trôi thuốc. (Chanh này đã ngâm muối 3 năm). Ăn gạo lức muối mè theo số 7 trong 1 tháng. Răng yếu, có thể xay cơm gạo lức rồi trộn muối mè. Xay bằng cối xay thịt của Liên Sô. Chú ý, cũng phải nhai cơm cho nát thành nước và cảm thấy vị ngọt mới được nuốt. 10 - Bệnh Nhức Đầu Kinh Khủng 1 lon nếp nấu chín trộn với hành hương sống đã thái nhỏ, túm vào khăn, đắp lên đầu. Vừa cảm thấy nóng chịu không nổi thì lấy ra, rồi lại đắp vào, liên tục đắp như vậy cả vùng đầu và thái dương, cho đến khi nếp nguội. Một ngày đắp 1 lần. 11- Thú Độc Cắn Dùng dây cột phần trên chỗ bị cắn để nọc độc không theo máu chảy về tim, sau đó lấy bông gòn nhúng vô nước tương Tamari đắp lên chỗ bị cắn. Và lấy hai lòng đỏ trứng gà có trống khuấy đều với hai muỗng canh nước tương Tamari và uống. Dược tính của rau, quả Theo tây y và đông y Hỏi: Có phải bất cứ loại trái cây nào cũng tốt cho sức khoẻ? Nhiều người cho rằng không nên ăn nhiều loại trái cây nóng như nhãn, sầu riêng, vải, xoài ? Lối nghĩ này đúng không? Đáp: Đúng hay không tùy Theo ta hiểu “nóng” Theo tây y hay Theo Đông y. Theo Tây Y, một trái cây, cũng như bất cứ thức ăn nào, được gọi là nóng, nếu từ 100g phần ăn được, trái này tương đối với những thức ăn đồng loại, đem lại nhiều năng lượng và ít nước, ít chất xơ, ít muối khoáng, ít sinh tố - vì nước và các chất này không mang lại Calo nào cả. Nghĩa là dưa hấu có nóng hay không bao giờ cũng là tương đối thôi, và chỉ nên được so sánh với các thứ dưa khác thôi. Nếu đem so sánh với sầu riêng, mít, chuối hay nhãn, thì dưa hấu chắc chắn phải mát hơn rồi !
  25. 33 Về hệ quả "dễ mọc mụn" của tính "nóng" thì khó chứng minh được tính tất yếu của nó, vì mụn ở mặt còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác như tình trạng hormone của cơ thể (tuổi dậy thì và hàm lượng hormone trong máu gia tăng chẳng hạn), tính chất da nghiêng về bên nhờn, có nhiều tuyến bã sebum v.v. Mặt có mụn hay mắt đổ ghèn khó có thể quy trách nhiệm cho việc ăn vài miếng dưa hấu vô tội! Theo Đông Y, ý niệm một thức ăn "nóng hay lạnh" được hiểu theo nghĩa thức ăn đó tương đối có nhiều "dương tính hay âm tính" hơn - "Âm" hoặc "Dương" là do phải có một bên lấn hơn. Để tiện việc phân loại âm, dương trong các thức ăn thuộc thảo mộc, chúng chúng tôi lập lại bảng các điểm cần xét Theo thuyế ohsawa, đặc điểm Âm, Dương Miền sinh trưởng: Miền Nam - Miền Bắc. Mùa sinh trưởng: Mùa nóng, hay mùa lạnh. Hướng mộc: Hướng lên cao trên mặt đất, hướng xuống thấp bò trên đất. Hướng ở trên mặt đất: Dọc, thẳng, đứng, nằm ngang. Huớng ở dưới mặt đất: Nằm ngang, nằm dọc. Nước: Nhiều; ít Thời gian nấu chin: Nhanh - chậm. Bề cao: Cao - thấp Biến đổi Theo nhiệt độ: Mềm, cứng lại. Màu sắc: Lục, xanh, trắng, lam, tím, đỏ, cam nâu, vàng, đen. Sinh tố C: Nhiều - ít Bộ phận của cây: Thân và lá, Rể cây và củ. Hột cây: trức mần, đã khô. Tỷ lệt K/Na: Trên 5 và dưới 5 Theo các nguyên tắc này, ví dụ, nếu ta chưa vội bàn tới hậu quả "dễ làm cho mọc mụn", chắc bạn đã tự mình phân loại cho dưa hấu thuộc âm (lạnh) hay dương (nóng) rồi chứ ? Theo Nguyên Lý Aâm Dương Theo các nguyên lý để phân biệt âm dương được trình bày trong cuốn Zen & Phương Pháp Dưỡng Sinh Ohsawa của tác giả Thái Khắc Lễ, thì có 15 phạm trù về đặc điểm giúp chúng ta phân loại thức ăn thảo mộc nào có thể liệt vào bên âm, thứ nào có thể liệt vào bên dương, luôn luôn là tương đối với nhau : Đặc điểm Aâm Dương
  26. 34 1. Miền sinh trưởng Thường là miền Nam Thường là miền Bắc 2. Mùa sinh trưởng Mùa nóng Mùa lạnh 3. Hướng mọc Lên cao trên mặt đất Xuống thấp (bò trên đất) 4. Hướng lên trên mặt đất Dọc, thẳng đứng Nằm ngang 5. Hướng mọc dưới đất Nằm ngang Nằm dọc 7. Nước Nhiều Ít 8. Thời gian nấu chín Nhanh Chậm 9. Bề cao Cao Thấp 10. Biến đổi do nhiệt độ Mềmï Cứng lại 11. Màu sắc Lục, xanh, trắng, lam, tím Đỏ, da cam, nâu, vàng, đen 12. Tỷ lệ K/Na Trên 5 Dưới 5 13. Sinh tố C Nhiều Ít 14. Bộ phận của cây Thân và lá Rễ cây, củ 15. Hột cây Trức mầm Đã kho Lưu ý : Ngoài ra, còn có thể phân biệt Aâm Dương qua mùi vị. Theo thứ tự từ Aâm đến Dương : nóng hay là cay (như quả ớt đỏ gây ra cảm giác nóng làm dãn các mao quản và tăng tuần hoàn máu) - chua - dịu (ngọt) - mặn - đắng - chát . Tuy nhiên, những vị ấy phải là thiên nhiên, không phải là nhân tạo hoá học. Đường trắng hoá học sắp hạng trong danh sách phẩm vị sẽ vượt quá cả các thức ăn cực âm . Bạn muốn tìm hiểu thêm về Aâm Dương trong các thức ăn thì có thể viết thư liên lạc với Ông Ngô Thành Nhân hay Ngô Aùnh Tuyết, Trung Tâm Dưỡng Sinh Việt Nam - Nhà OHSAWA, 390 Điện Biên Phủ, Quận Bình Thạnh, TP HCM. Vậy Thì Nên Theo Cách Phân Loại Nào ? Ngay chính cách phân loại (khó nhớ - và cũng rất tương đối - nói trên) thực ra cũng phải căn cứ vào việc phân tích, xét nghiệm các chất trong thực phẩm : có phân tích, thì mới định lượng được hệ số K/Na hay Vitamin C nhiều hay ít, để phân loại một thức ăn là Aâm - coi như đồng nghĩa với "mát" - hay là Dương - coi như đồng nghĩa với "nóng". Một vài thí dụ nêu ra đây để các bạn suy xét : Con gà sống trên cạn, theo định nghĩa trên đây sẽ được coi là Dương - trong khi con vịt bơi lội được dưới nước, thì hẳn là Aâm. Cũng theo nguyên lý ấy, con bò thuộc Dương, nhưng con trâu thì thuộc Aâm. Tuy nhiên, con vịt đi lạch bạch, chậm chạp hơn con gà, nên nhiều mỡ hơn. Nhiều mỡ, ắt nhiều Calo hơn, vậy về mặt này thịt vịt hẳn là "nóng" hơn thịt gà, mà nóng thì phải là Dương chứ?? Dù sao thì về mặt "văn hoá ẩm thực", chỉ biết là bao giờ người ta cũng ăn thịt vịt - cũng như ăn ốc vậy - với gừng là một gia vị "nóng" để cân đối lại các thức ăn "lạnh = hàn" như vịt hay ốc. Còn thuần túy theo dinh dưỡng thì chúng ta ăn bún ốc sẽ yên tâm không sợ mau tăng cân như ăn món bún vịt ngậy mỡ ! Kéo Lại Bằng Nghệ Thuật Nấu Ăn Trong khi còn phân vân trước những thắc mắc nêu trên, người ta cũng vẫn có thể có cách xử lý thức ăn để điều hoà lại Aâm Dương - những thức ăn được coi là mát với những thức ăn coi là nóng, theo 2 hướng chính sau đây : Phối hợp những thức ăn mát với những thức ăn nóng : thí dụ kho cá (sống dưới nước nên coi là mát = Am hơn) với thịt (súc vật sống trên cạn nên coi là nóng = Dương hơn), Thịt hay cá (Dương hơn) thì xào hay nấu canh với rau, củ (Aâm hơn). Trong một thức ăn, tìm cách xử dụng hết mọi phần ăn được - càng tiết kiệm, không lãng phí : Thí dụ rau thì dùng cả thân, lá, rễ, hoa (Mướp dùng trái, hoa, lá non; đậu rồng dùng cả trái non, hoa, đậu hạt già, củ; Khoai lang ăn cả củ lẫn lá vì trong cây này, phần lá bò ngang trên mặt đất thuộc Dương , trong khi củ ăn sâu dưới đất, lại bị liệt vào loại Aâm cũng vì mọc ngang, vậy ăn cả lá lẫn củ, hẳn phải cân đối. Còn nếu không rành, thì cứ ăn nhiều thức ăn đa dạng, mỗi thứ một tí, không chừa thứ gì, ắt sẽ có sự cân đối giữa "nóng" và "mát" một cách tự nhiên !
  27. 35 Để duy trì sự sống của con người thì ăn uống là việc rất quan trọng. Người xưa thường nói “có thực mới vực được đạo”. Trong các nhu cầu của con người: thực, y, cư, hành, khang, lạc, thì Thực (ăn) đứng đầu. Mọi hành vi của con người đều được ghép với ăn: ăn uống, ăn mặc, ăn học, ăn nói, ăn ở, ăn chơi, ăn ngủ, ăn nằm, Nghệ thuật ăn uống của người Việt Nam hết sức tinh tế dựa trên cơ sở của triết lý Âm Dương – Ngũ Hành. Trong việc ăn, người Việt Nam đặc biệt chú trọng đến quan hệ biện chứng âm dương, bao gồm 3 mặt quan hệ hết sức mật thiết với nhau, đó là: bảo đảm hài hòa âm dương của thức ăn; bảo đảm sự quân bình âm dương trong cơ thể và bảo đảm sự cân bằng âm dương giữa con người với môi trường tự nhiên. - Thứ nhất, bảo đảm hài hòa âm dương của thức ăn. Để tạo nên các món ăn có sự cân bằng âm dương, người Việt phân biệt năm mức âm dương của thức ăn theo ngũ hành, bao gồm: Hàn (lạnh, âm nhiều, hành thủy), Nhiệt (nóng, dương nhiều, hành hỏa), Ôn (ấm, dương ít, hành mộc), Lương (mát, âm ít, hành kim), Bình (trung tính, hành thổ). Khi chế biến thức ăn, phải tuân thủ nghiêm ngặt luật âm dương bù trừ và chuyển hóa khi kết hợp các loại lương thực, thực phẩm, gia vị với nhau tạo thành các món ăn có sự cân bằng âm – dương, thủy, hỏa. Có như vậy, thức ăn mới có lợi cho sức khỏe và ngon miệng. Chẳng hạn: rau răm là nhiệt (dương) được ăn với trứng lộn là hàn (âm) thì ngon miệng, dễ tiêu hóa. Hoặc gừng là thứ gia vị nhiệt (dương) có tác dụng thanh hàn, giải cảm, khi nấu kèm với các loại thực phẩm như: cá, rau cải (kho cá, canh rau cải) là thực phẩm có tính hang thì ăm rất ngon. - Thứ hai, bảo đảm sự quân bình âm dương trong cơ thể. Người Việt Nam sử dụng thức ăn như là các vị thuốc để trị bệnh. Theo quan niệm của người Việt Nam thì mọi bệnh tật sinh ra là do cơ thể bị mất quân bình âm dương, thức ăn chính là vị thuốc để điều chỉnh sự mất quân bình âm dương ấy, giúp cơ thể khỏi bệnh. Vì vậy, nếu người bệnh ốm do quá âm cần phải ăn đồ ăn dương (đau bụng lạnh, uống nước gừng sẽ khỏi); ngược lại nếu người bệnh ốm do quá dương thì cần phải ăn đồ ăn âm (bệnh kiết lị, ăn trứng gà rang với lá mơ) - Thứ ba, bảo đảm sự quân bình âm dương giữa con người và môi trường. Người Việt Nam có tập quán ăn uống theo vùng khí hậu và theo mùa. Chẳng hạn, mùa hè nóng (nhiệt – hành hỏa) nên ăn các loại thức ăn hàn, lương (mát), có nước (âm – hành Thủy), có vị chua (âm) thì vừa dễ ăn, vừa dễ tiêu hóa, vừa giải nhiệt. Mùa đông lạnh (hàn – âm) thì nên ăn các loại thức ăn khô, nhiều mỡ (dương), như các món xào, rang, kho * Trong chế biến thức ăn, phải đảm bảo đủ ngũ chất gồm: bột, nước, khoáng, đạm, béo; đủ ngũ vị gồm: Chua, cay, ngọt, măng. Đắng; đủ ngũ sắc gồm: trắng, xanh, vàng, đỏ, đen. Du khách nước ngoài đến Việt Nam rất khoái khẩu với món phở Việt Nam, chỉ trong một bát phở ta thấy có đủ sự tổng hợp của mọi chất liệu, mùi, vị, màu sắc. Nó vừa có cái mềm của thịt bò tái hồng, cái dẻo của bánh phở trắng, cái cay dìu dịu của lát gừng vàng, hạt tiêu đen, cái cay xuýt xoa của ớt đỏ, cái thơm nhè nhẹ của hành hoa thơm nhạt, cái thơm hăng hắc của rau thơm xanh đậm, vị chua thanh của chanh và hòa hợp tất cả lại là nước phở dùng được nấu từ xương * Trong cách ăn, phải ăn bằng cả năm giác quan. Mũi ngửi mùi thơm từ thức ăn; mắt nhìn màu sắc hài hòa của thức ăn được bày biện; lưỡi nếm vị ngon của thức ăn; tai nghe tiếng kêu giòn tan của thức ăn; tay sờ mó, cắn xé thức ăn (có những loại thức ăn dứt khoát phải ăn bằng tay mới ngon thử tưởng tượng tay cầm chiếc đùi gà, chấm muối chanh ớt, đưa lên miệng cắn xé cảm giác ăn sẽ ngon hơn nhiều khi chặt đùi gà ra thành từng miếng, dùng đũa gắp ăn).
  28. 36 Đau đầu thường có hai nguyên nhân chính: Do bị stress, ức chế dục là chính. Tuy nhiên theo Oshawa nói thì những người ăn mặn thường hay bị căng thẳng, bởi sao? + Nguyên nhân do ăn thức ăn cực dương thì thường có cảm giác đau đầu như búa bổ, vì thức ăn dương gây co rút làm chạm tới các dây thần kinh não bộ một cách mạnh mẽ. + Nếu ăn nhiều đồ âm thì đau ê ẩm, vì sự bành chướng chèn ép các dây thần kinh não bộ. Khi ăn chay chưa đủ, mà phải ăn thức ăn quân bình nữa mới là điểm đến có những thời gian mặc dầu ăn chay tôi vẫn bị đau đầu - loại đau đầu ê ẩm do lực âm hướng lên và bành chướng cho nên nó xông lên não bộ và làm cho tôi bị đau đầu Chúng ta thấy có hai loại đau đầu một do dương một do nguyên nhân âm. Và do vậy con đường thoát khổ tức thoát đau đầu là một cuộc sống ăn thức ăn quân bình âm dương. Vitamin Và Nguyên Tố Vi lượng Với Đời Sống Con Người: Con người không biết thế giới bắt đầu từ bao giờ. Trong vài tỷ năm, trái đất và hệ sinh vật luôn vận động, phát triển không ngừng theo những quy luật và tồn tại đến nay. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật cho phép chúng ta miêu tả hầu hết các chức năng sinh học của con người. Y học hiện đại đã nghiên cứu sự tác động trực tiếp giữa các chương trình và cuộc sống tế bào và hiện nay đã sản xuất ra các loại thuốc hoá học ngày càng tinh vi hơn. Vitamin là lớp chất hữu cơ không có giá trị năng lượng riêng, rất cần thiết cho sự phát triển của cơ thể, vitamin hoạt động có liều lượng rất nhỏ (từ mg đến mcg). Vitamin là chất có vai trò đồng xúc tác trong nhiều phản ứng diễn ra bên trong tế bào, đặc biệt nó như là đồng enzym, như là thành phần cấu thành nên hệ hoocmon, tuy nhiên còn nhiều vai trò của nó mà ta chưa biết. Vitamin là những phân tử hữu cơ được tập hợp trong tế bào sống với hiệu suất thay đổi theo từng loại. Trong đó có một số vitamin cần phải đưa vào cơ thể bằng con đường thức ăn, do con người không có khả năng tổng hợp được. Chúng không phải là những vị thuốc chữa bệnh, nhưng chúng rất cần thiết cho sự chuyển hoá của cơ thể. Ví dụ: - Vitamin tan trong mỡ: Vitamin A,D,E và K. - Vitamin tan trong nước: thường có trong hoa quả, rau và thịt. Đó là vitamin nhóm B như vitamin B1,B2,B3,B5,B6,B9,B12, acid folic, biotin và vitamin C Cuốn sách Vitamin và các nguyên tố vi lượng giúp chúng ta hiểu rõ hơn vai trò của nó với đời sống con người, trong phòng và
  29. 37 chữa bệnh thường gặp như bệnh dị ứng, thiếu máu, ung thư, tim mạch, thấp khớp, nội tiết I. CÁC NGUYÊN TỐ HOÁ HỌC CẤU TẠO NÊN TẾ BÀO 1. Những nguyên tố hoá học của tế bào Trong số 92 nguyên tố hoá học có trong thiên nhiên, có khoảng 25 nguyên tố (O,C, H, N, Ca, P, K, S, Cl, Na, Mg, Fe ) cấu thành nên các cơ thể sống. Như vậy, ở cấp độ nguyên tử, giới vô cơ và giới hữu cơ là thống nhất. 2. Các nguyên tố đa lượng, vi lượng Nguyên tố đa lượng là các nguyên tố mà lượng chứa trong khối lượng chất sống của cơ thể lớn hơn (hay 0,01%). Các nguyên tố mà lượng chứa ít hơn được gọi là nguyên tố vi lượng. Ví dụ: Các nguyên tố đa lượng: C, H, O, N, P, K, S, Ca, Na Các nguyên tố vi lượng: Mn, Zn, Cu, Mo
  30. 38 Bảng 1. Các nguyên tố chủ yếu trong tế bào cơ thể người Kí hiệu Nguyên tố Phần trăm khối lượng O Ôxi 65,0 C Cacbon 18,5 H Hiđrô 9,5 N Nitơ 3,3 Ca Canxi 1,5 P Phôtpho 1,0 K Kali 0,4 S Lưu huỳnh 0,3 Na Natri 0,2 Cl Clo 0,2 Mg Magiê 0,1 Cacbon là nguyên tố hoá học đặc biệt quan trọng cấu trúc nên các dại phân tử. Lớp vỏ êlectron vòng ngoài cùng của cacbon có 4 êlectron nên nguyên tử cacbon cùng một lúc có thể có 4 liên kết cộng hoá trị với các nguyên tố khác, nhờ đó đã tạo ra một số lượng lớn các bộ khung cacbon của các phân tử và đại phân tử hữu cơ khác nhau. 3. Vai trò của các nguyên tố hoá học trong tế bào Các nguyên tố C, H, O, N là những nguyên tố chủ yếu của các hợp chất hữu cơ xây dựng nên cấu trúc tế bào. Trong chất nguyên sinh các nguyên tố hoá học tồn tại dưới dạng các anion ( ) và cation ( ) hoặc có trong thành phần các chất hữu cơ (như Mg trong chất diệp lục ). Nhiều nguyên tố vi lượng (Mn, Cu, Zn, Mo ) là thành phần cấu trúc bắt buộc của hàng trăm hệ enzim xúc tác các phản ứng sinh hoá trong tế bào. Cơ thể chúng ta chỉ cần một lượng rất nhỏ iôt nhưng nếu thiếu iôt chúng ta có thể bị bệnh bướu cổ. II. NƯỚC VÀ VAI TRÒ CỦA NƯỚC ĐỐI VỚI TẾ BÀO 1. Cấu trúc và đặc tính hoá – lí của nước Phân tử nước được cấu tạo từ một nguyên tử ôxi kết hợp với hai nguyên tử hiđrô bằng các liên kết cộng hoá
  31. 39 trị. Do đôi êlectron trong mối liên kết bị kéo lệch về phía ôxi nên phân tử nước có hai đầu tích điện trái dấu nhau (phân cực).Quan sát cấu trúc hoá học của nước ta thấy hai nguyên tử hiđrô liên kết với một nguyên tử ôxi tạo ra phân tử nước có tính phân cực mang điện tích dương ở khu vực gần mỗi nguyên tử hiđrô và mang điện tích âm ở khu vực gần với nguyên tử ôxi. Sự hấp dẫn tĩnh điện giữa các phân tử nước tạo nên mối liên kết yếu (liên kết hiđrô) tạo ra các mạng lưới nước. Nguyên tố hóa học Vào năm 2004, có tất cả 116 Nguyên Tố hóa học được tìm thấy , trong đó 91 nguyên tố có nguồn gốc tự nhiên, 25 nguyên tố còn lại là nhân tạo. Nguyên tố nhân tạo đầu tiên là Tecnêxi tìm thấy năm 1937. Tất cả các nguyên tố nhân tạo đều có tính phóng xạ với chu kỳ bán rã ngắn vì vậy chúng không thể tồn tại tự nhiên trên Trái Đất ngày nay do sự phóng xạ đã diễn ra ngay từ khi hình thành Trái Đất. Các nguyên tố nhẹ nhất là hyđrô và hêli, là những nguyên tố đầu tiên xuất hiện trong Vụ Nổ Lớn (the Big Bang). Tất cả các nguyên tố nặng hơn được tìm thấy hay sản xuất một cách tự nhiên hay nhân tạo thông qua hàng loạt phương thức khác nhau của tổng hợp hạt nhân. Mổi Nguyên Tố hóa học đều có một tên và ký hiệu riêng để dể nhận biết . Tên gọi chính thức của các nguyên tố hóa học được quy định bởi Hiệp hội quốc tế hóa học lý thuyết và ứng dụng (tiếng Anh: International Union of Pure and Applied Chemistry) (viết tắt: IUPAC). Tổ chức này nói chung chấp nhận tên gọi mà người (tổ chức) phát hiện ra nguyên tố lựa chọn. Điều này có thể dẫn đến tranh luận là nhóm nghiên cứu nào thực sự tìm ra nguyên tố, là câu hỏi mà làm chậm trễ việc đặt tên cho các nguyên tố với số nguyên tử từ 104 trở lên trong một thời gian dài (Xem thêm Tranh luận về đặt tên nguyên tố). Các nguyên tố hóa học cũng được cấp cho một ký hiệu hóa học thống nhất, dựa trên cơ sở tên gọi của nguyên tố, phần lớn là viết tắt theo tên gọi La tinh. (Ví dụ, cácbon có ký hiệu hóa học 'C', natri có ký hiệu hóa học 'Na' từ tên gọi La tinh natrium). Ký hiệu hóa học của nguyên tố được thống nhất và hiểu trên toàn thế giới trong khi tên gọi thông thường của nó khi chuyển sang một ngôn ngữ khác thì phần lớn không giống nhau. Các nguyên tố có thể kết hợp với nhau để tạo thành các Đơn chất hay hợp chất hóa học dưới các trạng thái các khối đơn nguyên tử hay hai nguyên tử hoặc đa nguyên tử. Điều này được gọi là tính đa hình. Ví dụ nguyên tố ôxy có thể tồn tại dưới các trạng thái sau: ôxy nguyên tử (O), ôxy phân tử (O2), ôzôn (O3).Hợp chất vô cơ (như nước, muối, ôxít v.v) và Hợp chất hữu cơ.Trong phần lớn các trường hợp các hợp chất này có thành phần, cấu trúc và thuộc tính đặc trưng cố định. Một vài nguyên tố, phần lớn là các kim loại kết hợp với nhau để tạo thành một cấu trúc mới với các thành phần có thể thay đổi (như hợp kim). Trong trường hợp này có lẽ tốt nhất là nói về trạng thái liên kết hơn là hợp chất. Nói chung, trên thực tế thì các chất hóa học nào đó có thể là hỗn hợp của cả hai dạng kể trên. Các Nguyên Tố hóa học được sắp xếp và liệt kê trong một Bảng tuần hoàn các Nguyên tố hóa học theo thứ tự tăng dần của Số nguyên tử , Z. Bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học cho biết những thông tin về các tính chất cơ bản của một Nguyên tố . Thí Dụ như Dạng Thể, Độ Bay Hơi, Độ Đông Đặc Xem thêm danh sách các nguyên tố theo tên, theo ký hiệu và theo số nguyên tử. Phương thức thuận tiện nhất để tra cứu các nguyên tố là trình bày chúng trong bảng tuần hoàn các nguyên tố, bảng này nhóm các nguyên tố với những thuộc tính hóa học tương tự nhau trong cùng một nhóm [sửa] Bảng tuần hoàn
  32. 40 Bài chi tiết: Bảng tuần hoàn Nhóm 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 → ↓ Chu kỳ 1 2 1 H He 3 4 5 6 7 8 9 10 2 Li Be B C N O F Ne 11 12 13 14 15 16 17 18 3 Na Mg Al Si P S Cl Ar 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 4 K Ca Sc Ti V Cr Mn Fe Co Ni Cu Zn Ga Ge As Se Br Kr 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 5 Rb Sr Y Zr Nb Mo Tc Ru Rh Pd Ag Cd In Sn Sb Te I Xe 55 56 57 * 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 6 Cs Ba La Hf Ta W Re Os Ir Pt Au Hg Tl Pb Bi Po At Rn 11 112 114 115 116 118 87 88 89 104105106107108109110111 113 7 7 Uu Uu Uu Uu Uu Fr Ra Ac Rf Db Sg Bh Hs Mt Ds Rg Uut Uu b q p h o s 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 * Nhóm Lantan Ce Pr Nd Pm Sm Eu Gd Tb Dy Ho Er Tm Yb Lu 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 Nhóm Actini Th Pa U Np Pu Am Cm Bk Cf Es Fm Md No Lr Các nhóm cùng gốc trong bảng tuần hoàn Kim loại kiềm Kim loại kiềm thổ nhóm Lantan nhóm Actini Kim loại chuyển tiếp Kim loại yếu Á kim Phi kim Halôgen Khí trơ Trạng thái ở nhiệt độ và áp suất tiêu chuẩn Màu số nguyên tử đỏ là khí ở nhiệt độ và áp suất tiêu chuẩn Màu số nguyên tử lục là chất lỏng ở nhiệt độ và áp suất tiêu chuẩn Màu số nguyên tử đen là chất rắn ở nhiệt độ và áp suất tiêu chuẩn Tỷ lệ xuất hiện tự nhiên Viền liền: có đồng vị già hơn Trái Đất (chất nguyên thủy) Viền gạch gạch: thường sinh ra từ phản ứng phân rã các nguyên tố khác, không có đồng vị già hơn Trái Đất Viền chấm chấm: tạo ra trong phòng thí nghiệm (nguyên tố nhân tạo) Không có viền: chưa tìm thấy
  33. 41 [sửa] Danh sách nguyên tố hóa học Ký hiệu nguyên Nguyên tử Tên tiếng ViệtTên tiếng latinh Số nguyên tử Z Năm phát hiện tố hóa học lượng Ar aktinium actinium Ac 89 227,0277)*1899 americium americium Am 95 243,0614)*1944 antimon stibium Sb 51 121,75 thời thượng cổ argon argonum Ar 18 39,948 1894 arsen arsenicum As 33 74,922 thời trung cổ astat astatium At 85 209,9871)*1940 baryum baryum Ba 56 137,34 1774 berkelium berkelium Bk 97 247,0703)*1950 beryllium beryllium Be 4 9,0122 1797 bismut bismuthum Bi 83 208,980 thời thượng cổ bohrium bohrium Bh 107 264,12)* 1981 bor borum B 5 10,811 1808 brôm bromum Br 35 79,909 1826 cacbon carboneum C 6 12,01115 thời thượng cổ cer cerium Ce 58 140,12 1803 cesium caesium Cs 55 132,905 1860 cín stannum Sn 50 118,69 thời thượng cổ curium curium Cm 96 247,0704)*1944 darmstadtium darmstadtium Ds 110 271)* 1994 kali kalium K 19 39,102 1807 dubnium dubnium Db 105 262,1144)*1970 nitơ nitrogenium N 7 14,0067 1772 dysprosium dysprosium Dy 66 162,50 1886 einsteinium einsteinium Es 99 252,0830)*1952 erbium erbium Er 68 167,26 1843 europium europium Eu 63 151,964 1901 fermium fermium Fm 100 257,0951)*1952 flo fluorum F 9 18,9984 1886 phốtpho phosphorus P 15 30,973 8 1669 francium francium Fr 87 223,0197)*1939 gadolinium gadolinium Gd 64 157,25 1880 gallium gallium Ga 31 69,72 1875 germanium germanium Ge 32 72,59 1886 hafnium hafnium Hf 72 178,49 1923 hassium hassium Hs 108 265,1306)*1984 helium helium He 2 4,0026 1868 nhôm aluminium Al 13 26,9815 1825 holmium holmium Ho 67 164,930 1879
  34. 42 magiê magnesium Mg 12 24,312 1775 chlor chlorum Cl 17 35,453 1774 chrom chromium Cr 24 51,996 1797 indium indium In 49 114,82 1863 iridium iridium Ir 77 192,2 1802 iốt iodum I 53 126,904 1811 kadmium cadmium Cd 48 112,40 1817 kalifornium californium Cf 98 251,0796)*1950 kobalt cobaltum Co 27 58,933 1735 krypton krypton Kr 36 83,80 1898 silic silicium Si 14 28,086 1823 ôxy oxygenium O 8 15,9994 1774 lanthan lanthanum La 57 138,91 1839 lawrencium laurentium Lr 103 262,1097)*1961 lithium lithium Li 3 6,939 1817 lutecium lutetium Lu 71 174,97 1907 mangan manganum Mn 25 54,938 1774 đồng cuprum Cu 29 63,54 thời thượng cổ meitnerium meitnerium Mt 109 268,1388)*1982 mendelevium mendelevium Md 101 258,0984)*1955 molybden molybdaenum Mo 42 95,94 1778 neodym neodymium Nd 60 144,24 1885 neon neon Ne 10 20,183 1898 neptunium neptunium Np 93 237,0482)*1940 niken niccolum Ni 28 58,71 1751 niob niobium Nb 41 92,906 1801 nobelium nobelium No 102 259,1010)*1958 chì plumbum Pb 82 207,19 thời thượng cổ osmium osmium Os 76 190,2 1803 palladium palladium Pd 46 106,4 1803 bạch kim platinum Pt 78 195,09 1738 plutonium plutonium Pu 94 244,0642)*1940 polonium polonium Po 84 208,9824)*1898 praseodym praseodymium Pr 59 140,907 1885 promethium promethium Pm 61 145 1938 protaktinium protactinium Pa 91 231,0359)*1917 radium radium Ra 88 226,0254)*1898 radon radon Rn 86 222,0176)*1900 rhenium rhenium Re 75 186,2 1924 rhodium rhodium Rh 45 102,905 1803 roentgenium roentgenium Rg 111 272)* 1994 thủy ngân hydrargyrum Hg 80 200,59 thời thượng cổ
  35. 43 rubidium rubidium Rb 37 85,47 1861 ruthenium ruthenium Ru 44 101,107 1844 rutherfordium rutherfordium Rf 104 261,1088)*1964 samarium samarium Sm 62 150,35 1879 seaborgium seaborgium Sg 106 263,1186)*1974 selen selenium Se 34 78,96 1817 lưu huỳnh sulphur S 16 32,064 thời thượng cổ skandium scandium Sc 21 44,956 1879 natri natrium Na 11 22,9898 1807 stroncium strontium Sr 38 87,62 1790 bạc argentum Ag 47 107,870 thời thượng cổ tantal tantalum Ta 73 180,948 1802 technecium technetium Tc 43 97,9072 1937 tellur tellurium Te 52 127,60 1782 terbium terbium Tb 65 158,924 1843 thallium thallium Tl 81 204,37 1861 thorium thorium Th 90 232,0381)*1828 thulium thulium Tm 69 168,934 1879 titan titanium Ti 22 47,90 1791 uran uranium U 92 (238) 1789 vanad vanadium V 23 50,942 1830 canxi calcium Ca 20 40,08 1808 hiđrô hydrogenium H 1 1,00797 1766 volfram wolframium W 74 183,85 1781 xenon xenon Xe 54 131,30 1898 ytterbium ytterbium Yb 70 173,04 1878 yttrium yttrium Y 39 88,905 1794 kẽm zincum Zn 30 65,37 thời thượng cổ zirconium zirconium Zr 40 91,22 1789 vàng aurum Au 79 196,967 thời thượng cổ sắt ferrum Fe 26 55,847 thời thượng cổ [sửa] Xem thêm Tên các nguyên tố Hóa học Lịch sử phát hiện các nguyên tố hóa học Sự phổ biến của các nguyên tố hóa học Tên gọi hệ thống của các nguyên tố Các nguyên tố hư cấu Các nguyên tố đặt tên theo danh nhân Các nguyên tố đặt tên theo địa danh Hợp chất
  36. 44 [sửa] Liên kết bên ngoài 2. Vai trò của nước đối với tế bào Trong tế bào, nước phân bố chủ yếu ở chất nguyên sinh. Nước là dung môi phổ biến nhất, là môi trường khuếch tán và môi trường phản ứng chủ yếu của các thành phần hoá học trong tế bào. Nước còn là nguyên liệu cho các phản ứng sinh hoá trong tế bào. Do có khả năng dẫn nhiệt, toả nhiệt và bốc hơi cao nên nước đóng vai trò quan trọng trong quá trình trao đổi nhiệt, đảm bảo sự cân bằng và ổn định nhiệt độ trong tế bào nói riêng và cơ thể nói chung. Nước liên kết có tác dụng bảo vệ cấu trúc của tế bào. Trong số các nguyên tố có trong tự nhiên thì có nhiều nguyên tố tham gia cấu tạo nên cơ thể sống (C, H, O, N, S, P ). Căn cứ vào lượng chứa mỗi nguyên tố trong tế bào mà người ta chia thành các nguyên tố đa lượng (lớn hơn 0,01%) và các nguyên tố vi lượng (nhỏ hơn 0,01%). Các nguyên tố C, H, O, N là các nguyên tố chủ yếu trong tế bào. Nước là thành phần chủ yếu trong mọi tế bào và cơ thể sống. Do phân tử nước có tính phân cực nên nước có những đặc tính hoá – lí đặc biệt làm cho nó có vai trò rất quan trọng đối với sự sống (dung môi hoà tan các chất, môi trường khuếch tán và phản ứng, điều hoà nhiệt ) Đi biển sướng nhất là được ăn tôm, cua, mực, sò Tuy nhiên, khi thưởng thức đồ biển không ít người đã gặp những trục trặc về sức khỏe do nhiều nguyên nhân khác nhau. Bài viết này xin ghi lại một số kinh nghiệm dân gian về việc kiêng kỵ khi ăn đồ biển. Tôm biển: Là loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng rất cao, chứa nhiều chất đạm, các vitamin và nguyên tố vi lượng. So với thịt lợn nạc, lượng đạm của tôm biển cao hơn 20%, ít chất béo hơn khoảng 40%, lượng vitamin A cao hơn chừng 40%. Theo y học cổ truyền, tôm vị ngọt, tính ấm, có công dụng bổ thận tráng dương, thông sữa, khử độc. Tuy nhiên, những người bị dị ứng với tôm, bị viêm da mẫn ngứa, có hội chứng âm hư hỏa vượng (biểu hiện bằng các triệu chứng như người gầy, hay có cơn bốc hỏa, đau đầu, hoa mắt chóng mặt, sốt nhẹ về chiều, lòng bàn tay và bàn chân nóng, trong ngực rạo rực không yên, họng khô miệng khát, đại tiện táo, tiểu tiện sẻn đỏ ) thì không nên ăn tôm. Ngoài ra, tôm biển không nên ăn cùng thịt dê và khi dùng không được uống vitamin C. Cua biển: Là loại thực phẩm được nhiều người ưa chuộng vì ngon và giàu chất dinh dưỡng. Cứ mỗi 100g cua biển thì có tới 15g chất đạm, 2,6g chất béo, 141mg canxi, 191mg phospho, 0,8mg sắt, cùng nhiều nguyên tố vi lượng và vitamin, đặc biệt là vitamin A. Theo y học cổ truyền, cua tính lạnh, vị hàn có công dụng thanh nhiệt, tán ứ, thông kinh lạc và giúp liền xương nhanh. Tuy nhiên, những người tỳ vị hư yếu (biểu hiện bằng các triệu chứng như dễ bị rối loạn tiêu hóa, ăn kém, hay đầy bụng, chậm tiêu, đại tiện phân lỏng nát ), những người đang bị cảm mạo phong hàn, bị bệnh lý ngoài da (có ngứa dai dẳng) và những người dị ứng cua thì không được dùng. Chú ý: Không nên ăn cua cùng với thịt thỏ, rau kinh giới và quả hồng. Đừng bao giờ ăn cua không được tươi vì chất đạm trong cua rất dễ thối, nát và biến thành chất độc gây hại cho cơ thể. Mực: Là loại đồ biển rất dễ ăn và dễ chế biến. Trong 100g mực có chứa 13g chất đạm, 0,7g chất béo, nhiều canxi, phospho, sắt và các vitamin B1, B2, PP. Theo Đông y, mực vị mặn, tính bình, có công dụng bổ can thận, bổ tâm thông mạch, dưỡng huyết tư âm, dùng rất tốt cho những người có thể chất thiên về âm hư hoặc mắc các chứng
  37. 45 bệnh thuộc thể âm hư, đặc biệt là phụ nữ bị bế kinh, khí hư, rong kinh, thiếu sữa sau sinh. Tuy nhiên, những người tỳ thận dương hư (biểu hiện bằng các triệu chứng như tay chân lạnh, sợ lạnh, hay bị cảm mạo phong hàn, sắc mặt nhợt nhạt, dễ đổ mồ hôi, ăn kém, chậm tiêu, đại tiện lỏng nát, di tinh, liệt dương, suy giảm ham muốn tình dục ) thì không nên dùng. Nên kiêng ăn mực khi dùng những đơn thuốc có phụ tử, bạch liễm, bạch cập. Ngao: Là loại thực phẩm rất giàu chất dinh dưỡng. Trong 100g ngao có chứa 10,8g chất đạm, 1,6g chất béo, 4,6 chất đường, nhiều nguyên tố vi lượng và các vitamin. Theo y học cổ truyền, ngao có công dụng bổ âm, hóa đàm, nhuyễn kiên, là thực phẩm lý tưởng cho những người bị các chứng bệnh thuộc thể âm hư (biểu hiện bằng các triệu chứng như người gầy, hay hoa mắt chóng mặt, ra mồ hôi trộm, lòng bàn tay bàn chân nóng, có cảm giác sốt nóng về chiều, miệng khô họng khát, đại tiện táo, tiểu tiện sẻn đỏ ) Theo dinh dưỡng học hiện đại, ngao là loại thực phẩm rất có lợi cho những người cao huyết áp, rối loạn lipid máu, xơ vữa động mạch, ung thư, u phì đại tiền liệt tuyến lành tính Nhưng vì ngao vị mặn, tính lạnh nên những người tỳ vị hư hàn, ăn kém, chậm tiêu, đại tiện lỏng nát thì không nên dùng. Hàu: Còn gọi là mẫu lệ, là loại đồ biển rất giàu các acid amin cần thiết, các vitamin và các nguyên tố vi lượng, đặc biệt là đồng và kẽm. Theo y học cổ truyền, hàu vị ngọt mặn, tính lạnh, có công dụng tư âm, dưỡng huyết, hoạt huyết, bổ ngũ tạng, rất thích hợp cho những người mắc các chứng bệnh thuộc thể âm hư, các bệnh nhân bị ung thư đã được hóa trị hoặc xạ trị. Tuy nhiên, những người tỳ vị hư hàn, bị bệnh phong và các bệnh da liễu cấp hoặc mạn tính thì không nên dùng. Khi ăn hàu không được dùng tetracyclin. Sứa: Còn gọi là thủy mẫu, thạch kính, bạch bì tử . Trong 100g sứa có chứa 12,3g chất đạm, 0,1g chất béo, 3,9g chất đường, 182mg canxi, 9,5mg sắt, 132mg iode và nhiều vitamin, nên đây cũng là loại thực phẩm giàu chất dinh dưỡng. Đông y cho rằng, sứa có công dụng thanh nhiệt giải độc, hóa đàm, hạ áp, khu phong, trừ thấp, tiêu ích, nhuận tràng, là thực phẩm thích hợp cho những người bị hen suyễn, táo bón, viêm khớp, viêm loét đường tiêu hóa, cao huyết áp, trúng độc không rõ nguyên nhân Tuy nhiên, những người tỳ vị hư hàn thì không nên dùng vì sứa chứa nhiều nước, rất dễ biến chất nên khi ăn phải chọn lựa hết sức cẩn thận. Hải sâm: Là loại đồ biển có giá trị dinh dưỡng rất cao, rất giàu chất đạm, các acid amin, vitamin và các nguyên tố vi lượng, đặc biệt là sắt và iode. Hàm lượng cholesterol trong hải sâm rất thấp, hầu như không có, nên hải sâm là thực phẩm bổ dưỡng rất tốt cho những người bị cao huyết áp, rối loạn lipid máu, xơ vữa động mạch, ung thư hoặc có bệnh lý mạch vành Theo y học cổ truyền, hải sâm vị mặn, tính ấm, có công dụng bổ thận tráng dương, tư âm dưỡng huyết, ích tinh nhuận táo, thường dùng cho những người bị suy nhược, lao lực, thiếu máu, phụ nữ sau khi sinh, thận dương hư nhược gây nên tình trạng liệt dương, di tinh, xuất tinh sớm, di niệu Tuy nhiên, những người bị lỵ, viêm đại tràng cấp tính, hoạt tinh thì không nên dùng. Khi ăn hải sâm không dùng các đơn thuốc có cam thảo. Khi đến độ tuổi "gió heo may đã về", cơ thể thường mệt mỏi theo dấu ấn của thời gian. Việc dùng thêm vitamin bổ sung là điều cần thiết. Nhưng trước giữa "rừng" vitamin chủng loại, nhiều tên gọi, chọn nhóm vitamin nào cho thích hợp?
  38. 46 Lão suy là triệu chứng suy nhược chức năng ở người cao tuổi. Từ chỗ ăn ít, nhai khó, tiêu hóa chậm, hấp thu dưỡng chất kém dẫn đến các hệ thống bài tiết, đào thải chất độc suy giảm làm nảy sinh nhiều bệnh của tuổi già. Vì thế thuốc bổ cần thiết cho người cao tuổi thường bao gồm những chất làm trẻ lại tế bào, tăng khả năng biến đổi thức ăn thành chất nuôi dưỡng cơ thể đồng thời bồi bổ hệ xương khớp để phòng chống loãng xương gây tai nạn gãy xương. 5 MÓN SINH TỐ GIÚP PHÒNG TRỊ CAO HUYẾT ÁP VÀ BỆNH TIỂU ĐƯỜNG Ít người biết rằng ớt xanh Đà Lạt có tác dụng tốt cho những người béo phì trong việc ngăn chặn nguy cơ mắc các bệnh rối loạn chuyển hóa, chẳng hạn như tiểu đường. Nên thường xuyên dùng nó như một loại sinh tố. Ớt xanh Đà Lạt chứa khá nhiều protid, đường, canxi, phospho, sắt, beta-caroten, vitamin B1, B2, PP. Nó là loại rau quả chứa nhiều vitamin C nhất. Các chất trong loại quả này có tác dụng kích thích tuyến dịch vị, gia tăng sự bài tiết, vì thế tăng cường tác dụng tiêu hóa. Ngoài ra, còn kích thích tim đập nhanh, làm tăng tốc tuần hoàn, có tác dụng làm ấm, ức chế tích tụ mỡ, phòng ngừa béo phì. Ớt tính nóng, vị cay, có tác dụng tán hàn, kiện vị, tiêu thực, trị đau bụng do lạnh, nôn ói, tả lỵ. Một số loại sinh tố khác cũng có ích cho bệnh nhân tiểu đường và cao huyết áp: Táo: Có hàm lượng đường fruitose cao nhất trong các loại trái cây. Ngoài ra, nó còn có acid malic, acid tannic, chất xơ, canxi, phospho, sắt, pectin, kali, lipid, protid và nhiều loại vitamin rất tốt cho cơ thể. Theo Đông y, táo tính mát, vị ngọt chua, có công hiệu kiện tỳ, ích vị, trị các chứng buồn nôn, chán ăn, bổ dưỡng tâm khí, dùng trong chứng tinh thần uể oải. Nó còn có tác dụng sinh tân, nhuận táo, chỉ khát, dùng trị ho, tâm phiền miệng khát do nhiệt. Táo còn có tác dụng hấp thu vi khuẩn và độc tố, trị tiêu chảy. Bên cạnh đó, chất xơ, acid hữu cơ lại kích thích đường ruột, làm mềm phân nên giúp đại tiện thông. Táo chứa chất kali có lợi cho việc bài tiết natri, tốt cho người cao huyết áp. Acid hữu cơ trong táo còn kích thích bài tiết dịch vị, trợ giúp tiêu hóa. Mướp đắng: Chứa nhiều chất xơ thô, canxi, phospho, sắt, beta-caroten, vitamin B1, B2, PP, C, nhiều loại acid amin, 5-HT , đều là những chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể. Mướp đắng tính hàn, vị đắng, có công dụng dưỡng huyết, bổ gan, thanh nhiệt, sáng mắt, giải độc, dùng trị các chứng bệnh nhiệt phiền khát, trúng nắng phát sốt, kiết lỵ, ung nhọt, đau mắt đỏ do nhiệt Các thử nghiệm đã chứng minh loại quả này chứa một chất tựa như insulin, làm giảm đường huyết rõ rệt, có thể dùng làm thuốc trị bệnh tiểu đường. Cần tây Đà Lạt: Chứa canxi, sắt, phospho, giàu protid - gấp đôi so với các loại rau khác. Cần tây còn chứa nhiều acid amin tự do, tinh dầu, mannitol, inositol, nhiều loại vitamin, giúp tăng cảm giác thèm ăn, xúc tiến tuần hoàn máu và bổ não. Cần tây tính mát, vị ngọt, tác dụng thanh nhiệt, lợi thủy, trị đàm nhiều đầy ngực, lao hạch Thử nghiệm đã chứng minh rau cần có tác dụng giảm áp rõ rệt, thời gian duy trì tùy theo liều lượng. Dưa leo: Chứa canxi, phospho, sắt, nhiều muối kali, chất nhầy, các acid amin, chất thơm, vitamin A, B1, B2, PP và C. Dưa leo tính mát, vị ngọt, tác dụng thanh nhiệt, tiêu viêm, lợi tiểu, trừ thấp, tiêu sưng. Các món sinh tố trên đều có thể giúp phòng trị bệnh cao huyết áp và tiểu đường. Tuy nhiên, nên cách 3 ngày dùng 1 lần vì hầu hết các loại trái cây đều mang tính mát (trừ ớt xanh). Việc dùng quá nhiều sẽ gây mất cân bằng hàn - nhiệt của cơ thể. Nên dùng cả phần vỏ của các loại trái cây trên để giữ được đầy đủ các hoạt chất. MỤN TRỨNG CÁ Mụn trứng cá gây ra là do cơ thể dư axit và không đủ dương để tống xuất các cặn bã là các gốc axit dư thừa này ra hẳn khỏi cơ thể nên nó tạm giữ lại ở da. Theo Thực Dưỡng, bệnh thuộc âm mà càng ở vị trí cao trên cơ thể thì càng dễ chữa, cho nên trứng cá là loại bệnh dễ chữa, chữa đúng cách là thấy biến chuyển nhanh và rõ ngay. 1. Bỏ những thức ăn tạo ra nhiều độc tố trong máu như đường sữa bánh kẹo và đạm động vật, các chế phẩm sữa như pho mát, bánh ngọt, kem Hạn chế dùng dầu ăn và chất béo 2. Ăn dương hơn để tăng khả năng đào thải độc tố của cơ thể. Bệnh này thường xảy ra ở tuổi dậy thì do đây
  39. 47 là lứa tuổi cơ thể rất âm, thể hiện ở sự cao lớn lên nhanh chóng, bành trướng giãn nở là tướng của âm. Những thực phẩm được quảng cáo là giúp phát triển chiều cao không nên dùng vì chúng đều âm, không những giúp cao lên mà còn to ra, nhìn thô kệch rất xấu. Muốn cao hơn và có thân hình đẹp thì chú ý ăn uống đủ chất và tập 1 môn thể thao nào đó có nhiều động tác vươn dài thân hình như bơi lội, bóng chuyền, bóng rổ, tập xà. Thể thao làm cơ thể dương hóa lên nhanh chóng, và sự đổ mồ hôi cũng giúp đào thải độc tố trong da. 3. Chọn ăn những thức ăn nhiều canxi và những thức ăn có đủ 9 axit amin cơ bản như gạo lứt, vừng, tương để làm cơ thể tăng hấp thu và đồng hóa các axit amin từ các nguồn đạm khác. Những axit amin dư thừa này nếu không được cơ thể đồng hóa rất dễ biến thành các axit vô cơ, lấy mất canxi và vitamin B dự trữ của cơ thể, làm đầu óc kém sáng suốt và tất nhiên là gây ra trứng cá khi bị tống xuất ra trên da mặt. 4. Cà rốt, bí đỏ, củ cải, củ sen, rong biển phổ tai, sắn dây, ngưu bàng, rễ bồ công anh, sâm, mơ muối, tương đậu nành lâu năm tạo kiềm dương trong máu, giúp trung hòa axit máu và tăng khả năng thải độc, dùng thường xuyên sẽ có làn da đẹp, sạch mụn. Chú ý chọn loại rau củ sạch, không phân hóa học, không thuốc trừ sâu, rửa sạch, ăn cả vỏ và rễ (ăn toàn phần), thường xuyên ăn vỏ rau củ quả sẽ làm da khỏe. (Tất nhiên là áp dụng linh hoạt, tôi không cổ súy việc ăn cả vỏ trong trường hợp đó là vải, nhãn, dứa, mít ) 5. Các thực phẩm khuyên dùng ở trên đã bao gồm các thức ăn bổ thận. Rửa mặt thường xuyên để tránh viêm nhiễm là cần thiết, nhưng nếu điều chỉnh ăn uống triệt để thì mụn biến mất rất nhanh nên theo tôi không cần nghĩ nhiều về loại mặt nạ đắp khi da còn mụn. Sau khi da sạch mụn, các vết thâm còn lại sẽ tự biến mất nếu tiếp tục kiên trì ăn uống đúng cách. Trong 10 thực đơn của Thực Dưỡng có tổng cộng 5 thực đơn cho phép ăn thịt và trong 5 thực đơn đó có tới 3 thực đơn cho phép trái cây nên theo tôi 1 người bình thường có thể áp dụng dễ dàng để có sức khỏe, nhưng pho mát, sữa, đường và các thực phẩm có đường hay sữa ở trong (bánh gatô, chè, kem, sữa chua, kem caramen ) nên dứt khoát bỏ hẳn. Tuy nhiên, người thật khỏe mạnh, tháng có thể ăn 1 lần mà không có tác hại. 6. Tôi từng thử dùng dentie rải đều lên gạc ướt gói lại rồi đắp lên vùng mụn (tôi luôn nổi mụn ở mũi nếu ăn bắp rang bơ, trứng hay kem), hiệu quả rất tốt, các tổn thương khép miệng nhanh chóng, lành lặn sớm mà không để lại sẹo nhưng lúc đắp thấy rất xót, nói thật là không dễ chịu tý nào. Dentie rất dương nên có tác dụng tốt với các tổn thương da, còn cao đậu phụ rất âm, theo tôi không nên dùng. Có thể chọn một giải pháp hòa bình hơn cho vùng mụn là rửa thật sạch, sau đó đắp gạc tẩm nước chè xanh hoặc tốt nhất là trà bancha. Trà bancha có tính kháng sinh nhẹ, còn được dùng súc miệng và rửa mũi, họng khi xảy ra viêm nhiễm. Tôi thường xuyên dùng 1 cốc nhỏ trà này đổ vào nồi nước phở để giữ nó khỏi thiu mỗi lần lỡ nấu quá nhiều và phải để dư đến bữa sau. 7. Đối với các tổn thương đã lành nhưng để lại vết thâm, bạn có thể thử dùng cám gạo trộn với sữa chua cho sệt sệt rồi đắp lên. Muốn da bớt ăn nắng thì chú ý chọn ăn những thực phẩm giàu vitamin E, tất nhiên là bạn nên đeo găng tay và khẩu trang để tự vệ nữa, trường hợp ăn nắng dữ quá có thể dùng các loại rau củ nhiều vitamin E xay nhuyễn trộn với cám gạo rồi đắp lên Nhu cầu sinh tố trong sự biến dưỡng của cơ thể. Trong cơ thể, sinh tố đóng vai trò chất xúc tác cho các phản ứng biến dạng để biến thức ăn thành chất bổ với nhu cầu không nhiều. Sinh tố B1: cần thiết cho sự đồng hóa glucid, chuyển hóa năng lượng và các chức năng thần kinh. Nếu thiếu thì bị bệnh tê phù. Nhu cầu trung bình (NCTB) 2-3mg/ ngày. Sinh tố B2: tham gia vào các phản ứng oxy hóa-khử oxy giúp tăng trưởng tế bào. Nếu thiếu sẽ bị tổn thương da, thị giác, rối loạn tiêu hóa. NCTB: 1-2mg/ngày. Sinh tố B3 (PP, Niacin): ngừa bệnh pellagra, rối loạn ngoài da. NCTB: 15-25mg/ngày. Sinh tố B5: tạo coenzym A, thúc đẩy nhiều phản ứng sinh học trong cơ thể, bồi dưỡng da tóc. NCTB: 10-12mg/ngày. Sinh tố B6: phòng các thương tổn ngoài da và hệ thần kinh, nếu thiếu thì bị viêm da, viêm lưỡi, rối loạn thần kinh. NCTB: 1,5- 2mg/ngày. Sinh tố B8 (vitamin H, biotin): phòng niêm mạc khô, tóc rụng, mệt mỏi, đau cơ. NCTB: 0,1- 0,2mg/ngày.