So sánh chương trình đào tạo cử nhân sư phạm kỹ thuật nông nghiệp của Việt Nam và Hoa Kỳ

pdf 7 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "So sánh chương trình đào tạo cử nhân sư phạm kỹ thuật nông nghiệp của Việt Nam và Hoa Kỳ", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfso_sanh_chuong_trinh_dao_tao_cu_nhan_su_pham_ky_thuat_nong_n.pdf

Nội dung text: So sánh chương trình đào tạo cử nhân sư phạm kỹ thuật nông nghiệp của Việt Nam và Hoa Kỳ

  1. SO SÁNH CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO CỬ NHÂN SƯ PHẠM KỸ THUẬT NÔNG NGHIỆP CỦA VIỆT NAM VÀ HOA KỲ Bài viết này tóm tắt những nét khác biệt cơ bản giữa chương trình đào tạo cử nhân sư phạm kỹ thuật nông nghiệp của Việt Nam và Hoa Kỳ. Những khác biệt này dựa vào kết quả so sánh chương trình đào tạo ngành sư phạm Kỹ thuật nông nghiệp của University of California Davis, Hoa kỳ và chương trình đào tạo sư phạm kỹ thuật nông nghiệp của ĐH Nông nghiệp Hà Nội 1, ĐH Sư phạm Huế và ĐH Nông Lâm Tp.HCM. 1. So sánh mục tiêu đào tạo Các chương trình đào tạo cử nhân sư phạm kỹ thuật nông nghiệp ở các trường Đại học mà tác giả đang nghiên cứu có mục tiêu khá giống nhau là đào tạo giáo viên kỹ thuật nông nghiệp có chuyên môn có phẩm chất đạo đức để giảng dạy các môn kỹ thuật nông nghiệp ở các trường phổ thông, các trường cao đẳng, các trường dạy nghề. Ngoài ra chương trình đào tạo còn cung cấp cho sinh viên những kỹ năng cần thiết để làm việc trong các ngành khoa học xã hội có liên quan đến lĩnh vực kỹ thuật nông nghiệp. Tuy nhiên do quan điểm xây dựng chương trình, các chương trình của Việt Nam và UC Davis, Hoa Kỳ có hai điểm khác biệt: Điểm khác biệt thứ nhất là sự chú trọng trang bị kiến thức về môi trường và bảo vệ tài nguyên môi trường trong các chương trình. Hiện nay vấn đề bảo vệ tài nguyên và môi trường để “phát triển bền vững” là trọng tâm của việc phát triển kinh tế xã hội mà thế giới đang tập trung thực hiện. “Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm đáp ứng được nhu cầu hiện tại và đảm bảo không làm tổn thương khả năng đáp ứng đòi hỏi của thế hệ tương lai”1. Như vậy Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học. Trái ngược với hiểu biết phổ biến, phát triển bền vững không chỉ đơn thuần được hiểu là sự phát triển được duy trì một cách liên tục mà hơn thế phát triển ở đây là sự nỗ lực liên tục nhằm đạt được trạng thái bền vững trên mọi lĩnh vực. Phát triển bền vững không được coi là một mục tiêu được đặt ra để đạt được mà đó là một quá trình duy trì sự cân bằng cơ học của đòi hỏi của con người với tính công bằng, sự phồn vinh, chất lượng cuộc sống và tính bền vững của môi trường tự nhiên. Phát triển bền vững bao gồm ba thành phần cơ bản : + Môi Trường Bền Vững + Xã Hội Bền Vững + Kinh tế Bền Vững Để góp phần phát triển thế giới bền vững, sản xuất nông nghiệp phải đặc biệt chú trọng đến bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Chính vì thế chương trình đào tạo của UC Davis đã chú trọng đến kiến thức môi trường và giáo dục bảo 1
  2. vệ môi trường. Cụ thể là ở phần kiến thức bắt buộc sinh viên phải học 14 tín chỉ (chiếm 11,7% kiến thức chương trình học) với các môn học: Cảnh quan môi trường, Khoa học môi trường và tài nguyên thiên nhiên, Kinh tế tài nguyên và nông nghiệp. Trong phần kiến thức chuyên ngành tự chọn, sinh viên có thể chọn thêm 15 tín chỉ về các môn chuyên sâu của lĩnh vực nầy. Như vậy kiến thức về môi trường và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường của UC Davis chiếm từ 11,7 đến 24,2% kiến thức của toàn khóa học. Trong khi đó chương trình của ĐH Nông nghiệp Hà Nội có 1 môn bảo vệ môi trường (3 đvht, chiếm 1,15%), ĐH sư phạm Huế có môn khoa học môi trường (2đvht chiếm 0,7%) và ĐH Nông Lâm có môn sinh thái và bảo vệ môi trường (3đvht chiếm 1,08%). Điều nầy cho thấy các chương trình đào tạo sư phạm kỹ thuật nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay vẫn còn theo quan điểm “tiếp cận nội dung” trong việc xây dựng, vẫn còn rất cứng nhắc trong việc phát triển chương trình, cụ thể là các trường chỉ tập trung thực hiện các nội dung đã định sẵn từ khi thiết kế mà không quan tâm thay đổi theo nhu cầu xã hội. Điểm khác biệt thứ hai là ở phần kiến thức cơ sở. Trường UC Davis thì chú trọng đến tính rộng của kiến thức cơ sở ngành. Điều nầy khá phù hợp với năng lực tự học của sinh viên Hoa Kỳ. Họ muốn để sinh viên tự tiếp cận kiến thức chuyên sâu trong chuyên ngành mà sinh viên tự chọn. Ngược lại, ta có thể thấy rằng chương trình đào tạo sư phạm kỹ thuật nông nghiệp của trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội 1, Đại học sư phạm Huế, Đại học Nông Lâm TPHCM chú trọng đến kiến thức cơ bản và kiến thức chuyên ngành khá nhiều. Có lẽ các trường nầy cho rằng do ảnh hưởng từ cách học nhồi nhét thụ động từ thời mẫu giáo đến trung học phổ thông đã ảnh hưởng ít nhiều đến năng lực sáng tạo, tự học của sinh viên nên đây là phương pháp khá phù hợp trong giai đoạn hiện nay. Rõ ràng là chương trình của UC Davis với mục tiêu cao hơn. Đây là chương trình thể hiện mục đích đào tạo những cá nhân có tri thức cơ bản tốt. Từ nền tảng vững chắc từ kiến thức cơ bản sinh viên có phương pháp suy nghĩ và phân tích các vấn đề, có khả năng tự tìm hiểu nghiên cứu chuyên sâu liên ngành để nhìn nhận vấn đề không bị cục diện, bó hẹp vào chuyên môn của mình để nâng cao năng lực tự học tự nghiên cứu, bổ khuyết tri thức đáp ứng tốt hơn với nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của xã hội. 2. So sánh nội dung và thời lương của chương trình đào tạo Bảng tổng hợp khối lượng về nội dung chương trình đào tạo sư phạm KTNN của các trường (Xem phụ lục) Qua bảng tổng hợp khối lượng nội dung các chương trình đào tạo sư phạm KTNN của các trường ta thấy có một số điểm khác biệt như sau: Điểm khác biệt thứ nhất là các chương trình đào tạo sư phạm KTNN của các trường đại học ở Việt nam có lượng kiến thức rất nhiều (Từ 3345 đến 3660 tiết) so với chương trình sư phạm KTNN của UC Davis, Hoa Kỳ (2500 tiết, bao gồm 720 tiết thực tập sư phạm sau khi SV tốt nghiệp). Điều nầy cho thấy các nhà thiết kế chương trình ở Việt Nam muốn trang bị cho sinh viên nhiều kiến thức, có thể tất cả những kiến thức liên quan đến chuyên ngành đang đào tạo vì họ không tin
  3. tưởng vào khả năng tự học của sinh viên. Nhận định trên không phải không có cơ sở khi tham khảo chương trình học ở phổ thông ta thấy chương trình đào tạo còn rất nặng, cứng nhắc, phương pháp học nhồi nhét, thụ động. Điểm khác biệt thứ hai là các chương trình của Việt Nam quan tâm đến khối lượng kiến thức chuyên sâu rất nhiều (từ 705 tiết đến 930 tiết) trong khi chương trình của UC Davis, Hoa Kỳ chỉ dành 150 tiết cho thời lượng kiến thức chuyên môn. Đây có lẽ là do ảnh hưởng của lối dạy truyền thống còn nặng nề đối với giáo dục Việt Nam, điều gì cũng muốn mang vào lớp để giảng dạy. Điểm khác biệt thứ ba là chương trình đào tạo của Hoa Kỳ chú trọng đến việc thực tập giảng dạy hơn chương trình đào tạo của Việt Nam (chương trình của Hoa Kỳ là 720 tiêt thực tập, chương trình của Việt Nam dao động trong khoảng 210 đến 540 tiết). Thiết nghĩ các trường đều muốn dành nhiều thời gian để đào tạo kỹ năng sư phạm nhưng vì chương trình quá dài nên các trường Ở Việt Nam không cho phép họ dành nhiều thời gian cho kỹ năng này. Đây là một hạn chế bất khả kháng. Điểm khác biệt thứ tư là chương trình của Hoa kỳ chú trọng đến việc giáo dục môi trường vì “phát triển bền vững” hơn chương trình của Việt Nam khi họ dành nhiều thời gian đào tạo cho kiến thức về bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường.(UC Da vis, Hoa Kỳ dành thời gian đào tạo kién thức này là 190tiết, trong khi các trường Ở Việt Nam chỉ dành 45 tiết). Có thể lý giải rằng khi mà người ta đã làm tốt một điều gì đó thì người ta trông đợi làm điều gì đó cao hơn. Còn khi người ta chỉ mới đạt được tầm trung bình thì chỉ cố gắng hoàn thiện. Các chương trình đào tạo sư phạm KTNN của Việt Nam chưa chú trọng mặt giáo dục môi trường vì còn lo hoàn thiện những phần kiến thức chuyên ngành. Điểm tương đồng trong chương trình sư phạm KTNN của các trường Việt Nam và UC Davis, Hoa kỳ là ở việc chú trọng kiến thức giáo dục đại cương và kiến thức cơ sở ngành. Nhưng trong kiến thức cơ bản thì các môn học về chính trị - lịch sử của Việt Nam lại rất nhiều hơn chương trình của UC Davis, Hoa Kỳ. (các chương trình của Việt Nam khoảng 300 tiết, chương trình của Hoa kỳ là 60 tiết). Hiện nay chương trình của các trường Việt Nam rất nhiều thời gian nên việc cắt giảm kiến thức về chính trị - lịch sử xem ra là một hướng thích hợp. 3. So sánh phương pháp đào tạo Trong bốn chương trình đào tạo thì chỉ có duy nhất chương trình của UC Davis là đào tạo theo học chế tín chỉ, các trường ĐH Nông Nghiệp Hà nội 1, ĐH sư phạm Huế, ĐH Nông Lâm Tp.HCM đều đạo tạo theo niên chế. Một nét mới của ĐH sư phạm Huế là mặc dù đào tạo theo niên chế nhưng trong chương trình vẫn có những học phần tự chọn ở kiến thức chuyên ngành. Những ưu điểm mà phương pháp đào tạo theo tín chỉ mang lại là cho phép thực hiện nội dung đào tạo linh hoạt. Thích hợp với nhu cầu của mọi SV và nhu cầu xã hội. Ngoài ra đào tạo theo hệ thống tín chỉ còn có những ưu điểm cho chức năng quản lý của trường đại học, của Nhà nước Nên việc chuyển sang phương pháp đào tạo theo tín chỉ là phù hợp cho các trường ĐH lớn đa ngành của Việt Nam. Về việc phân bố thời điểm thực tập sư phạm có thể xem là một ưu điểm của
  4. các chương trình đào tạo sư phạm KTNN của các trường Việt Nam. Trường ĐH Nông Nghiệp Hà Nội 1, trường ĐH Nông Lâm và ĐH sư phạm Huế phân bố thời điểm kiến tập là ở học kỳ 5 và thực tập ở học kỳ 8 của khóa học là khá hợp lý. Đợt kiến tập nầy mang lại hiệu quả tốt cho SV trong việc xây dựng động cơ nghề nghiệp và kinh nghiệm giáo dục để học những môn giáo dục chuyên ngành ở học kỳ 6, học kỳ 7 và thực tập sư phạm ở học kỳ 8. Trường UC Davis, Hoa Kỳ phân bố thời điểm thực tập sau khi sinh viên có bằng cử nhân có ưu điểm là làm cho SV không bị gò bó về mặt thời gian nhưng khuyết điểm ở đây là không xây dựng động cơ nghề nghiệp cho sinh viên vì SV chưa được tiếp xúc sớm với các em học sinh khi làm công tác chủ nhiệm, hướng dẫn. 4. So sánh cách đánh giá kết quả đào tạo Cách đánh giá chương trình đào tạo là điểm chung duy nhất trong các chương trình khảo sát. Tất cả bốn chương trình đều sử dụng cách đánh giá thường xuyên, đánh giá quá trính và đánh giá tổng kết để đánh giá kết quả học tập của SV. Cách đánh giá tiến trình được cho là tối ưu trong giai đoạn hiện nay khi mà đa số các trường ĐH đều áp dụng, tuy nhiên để có kết quả tốt hơn thì cần phân bố mốc thời gian đánh giá một cách hợp lý. Cần phân chia thời gian đánh giá ngắn hơn và cho sinh viên biết trước vào đầu khóa học. Kết thúc khóa học các sinh viên phải qua kỳ thi hoặc làm luận văn tốt nghiệp. Trong khi trường ĐH sư phạm Huế cũng như UC Davis, Hoa Kỳ cho phép sinh viên tự chọn một trong hai cách trên thì ĐH Nông Nghiệp và ĐH Nông Lâm không cho phép sinh viên lựa chọn. Sinh viên của ĐH Nông Nghiệp Hà Nội 1 và ĐH Nông Lâm Tp.HCM muốn tiếp cận phương pháp nghiên cứu khoa học một cách thực tế hơn thì điểm tích lũy phải lớn hơn 7. Để sinh viên bước đầu làm quen với nghiên cứu khoa học thì nên chăng chúng ta cho tất cả Sinh viên đều làm luận án tốt nghiệp mà không thi tốt nghiệp.
  5. PHỤ LỤC Bảng tổng hợp nội dung chương trình đào tạo sư phạm Kỹ thuật nông nghiệp ở các trường2 ĐH NÔNG ĐH ĐH NÔNG KIẾN THỨC NGHIỆP HÀ ĐH SƯ PHẠM CALIFORNIA LÂM TPHCM NỘI HUẾ (ĐVHT) DAVIS (ĐVHT) (ĐVHT) (Tín chỉ) Bắt Tự Bắt Tự Bắt Tự Bắt Tự buộc chọn buộc chọn buộc chọn buộc chọn I. Kiến thức GD đại cương 1. Chính trị -Lịch LT 20 22 4 22 sử TH 3 2. KHTN -Công LT 25 26 30 29 nghệ TH 3 4 4 LT 15 13 16 12 3. Khoa học xã hội & nhân văn TH LT 16 10 14 4. Ngoại ngữ TH II. Kiến thức chuyên ngành 1. Kiến thức cơ LT 46 32 39 10 - 24 22 sở ngành TH 7 12 8 2. Kiến thức LT 41 38 10 10 42 chuyên sâu TH 6 14 6 3. Kiến thức LT 14 9 9 10 2 Nguồn: Các trang web:www.hcmuaf.edu.vn www.Dhsphue.edu.vn www.hua.edu.vn www.ucdavis.edu
  6. nghiệp vụ 720 TH 7 12 18 sư phạm Tiết 4. Điều kiện Tốt LV 10 10 LV Thi 10 nghiệp ( LV/Thi ) Thi Thi Tổng số 210 212 120 202 Ý KIẾN CỦA CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
  7. BÀI BÁO KHOA HỌC THỰC HIỆN CÔNG BỐ THEO QUY CHẾ ĐÀO TẠO THẠC SỸ Bài báo khoa học của học viên có xác nhận và đề xuất cho đăng của Giảng viên hướng dẫn Bản tiếng Việt ©, TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH và TÁC GIẢ Bản quyền tác phẩm đã được bảo hộ bởi Luật xuất bản và Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam. Nghiêm cấm mọi hình thức xuất bản, sao chụp, phát tán nội dung khi chưa có sự đồng ý của tác giả và Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh. ĐỂ CÓ BÀI BÁO KHOA HỌC TỐT, CẦN CHUNG TAY BẢO VỆ TÁC QUYỀN! Thực hiện theo MTCL & KHTHMTCL Năm học 2016-2017 của Thư viện Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Tp. Hồ Chí Minh.