Quy hoạch phát triển nhân lực ngành du lịch giai đoạn 2011 - 2020
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Quy hoạch phát triển nhân lực ngành du lịch giai đoạn 2011 - 2020", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- quy_hoach_phat_trien_nhan_luc_nganh_du_lich_giai_doan_2011_2.pdf
Nội dung text: Quy hoạch phát triển nhân lực ngành du lịch giai đoạn 2011 - 2020
- BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH GIAI ĐOẠN 2011 - 2020 (Ban hành theo Quyết định số 3066/QĐ-BVHTTDL ngày 29/9/2011 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) Hà Nội, tháng 9 năm 2011 1
- MỤC LỤC Trang PHẦN MỞ ĐẦU 1 A. Sự cần thiết xây dựng Quy hoạch phát triển nhân lực ngành Du lịch thời kỳ 1 2011-2020 B. Mục đích, yêu cầu và phạm vi, đối tượng quy hoạch 1 1. Mục đích của Quy hoạch 1 2. Yêu cầu của Quy hoạch 2 3. Phạm vi và đối tượng quy hoạch 2 C. Những căn cứ chủ yếu xây dựng quy hoạch 2 1. Căn cứ mang tính quan điểm 2 2. Căn cứ pháp lý 2 3. Căn cứ thực tiễn 3 D. Kết cấu và nội dung của Quy hoạch 3 Phần thứ 1. 4 HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH 1. Hiện trạng nhân lực ngành Du lịch 4 1.1. Quy mô nhân lực 4 1.2. Chất lượng nhân lực 5 1.3. Cơ cấu nhân lực ngành Du lịch 6 1.4. Đánh giá chung về thực trạng nhân lực ngành Du lịch 10 2. Hiện trạng phát triển nhân lực ngành Du lịch 12 2.1. Hiện trạng đào tạo, bồi dưỡng nhân lực 12 2.2. Hiện trạng quản lý nhà nước về phát triển nhân lực 16 2.3. Hiện trạng liên kết đào tạo phát triển nhân lực 18 2.4. Đánh giá chung về hiện trạng phát triển nhân lực ngành Du lịch 20 3. Đánh giá tổng quan về những mặt mạnh, hạn chế, cơ hội và thách thức 24 đối với phát triển nhân lực ngành Du lịch 3.1. Những mặt mạnh 24 3.2. Những hạn chế 25 3.3. Những cơ hội 26 3.4. Những thách thức 27 Phần thứ 2. 28 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH GIAI ĐOẠN 2011-2020 1. Phương hướng phát triển ngành Du lịch Việt Nam đến năm 2020 28 1.1. Định hướng 28 1.2. Mục tiêu 28 1.3. Các chiến lược thành hần 29 2. Những yếu tố tác động đến phát triển nhân lực ngành Du lịch giai đoạn 30 2011-2020 2
- 2.1. Các yếu tố quốc tế 30 2.2. Các yếu tố trong nước 33 3. Dự báo nhu cầu nhân lực ngành Du lịch giai đoạn 2011-2020 35 3.1. Dự báo khái quát 35 3.2. Dự báo cụ thể 35 4. Quan điểm, mục tiêu phát triển nhân lực ngành Du lịch giai đoạn 2011-2020 40 4.1. Quan điểm 40 4.2. Mục tiêu 40 Phần thứ 3. 42 CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH GIAI ĐOẠN 2011-2020 VÀ DỰ ÁN ƯU TIÊN 1. Giải pháp phát triển nhân lực ngành Du lịch giai đoạn 2011-2020 42 1.1. Tăng cường quản lý nhà nước về phát triển nhân lực ngành Du lịch 42 1.2. Xây dựng tiêu chuẩn (tập trung vào tiêu chuẩn kỹ năng nghề) và thực hiện chuẩn 43 hóa một bước nhân lực du lịch, phù hợp với các hệ thống tiêu chuẩn quốc tế tạo để điều kiện cho hội nhập quốc tế về lao động trong du lịch 1.3. Phát triển mạng lưới cơ sở đào tạo, bồi dưỡng về du lịch đảm bảo liên kết 44 chặt chẽ và cân đối giữa các bậc đào tạo, ngành nghề đào tạo và phân bố vùng, miền hợp lý phù hợp với Chiến lược phát triển du lịch quốc gia 1.4. Xây dựng, công bố và thực hiện chuẩn trường để nâng cao năng lực đào 44 tạo, bồi dưỡng du lịch 1.5. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học-công nghệ tiên tiến vào công tác nghiên 45 cứu, thống kê phục vụ đào tạo, bồi dưỡng nhân lực ngành Du lịch 1.6. Tăng cường huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực (tài chính, công 46 nghệ, công sức và kinh nghiệm) trong và ngoài nước cho phát triển nhân lực ngành Du lịch 1.7. Tạo môi trường thuận lợi cho phát triển nhân lực ngành Du lịch 47 2. Các Dự án ưu tiên 48 2.1. Hợp phần 1. Hệ thống chính sách, thể chế quản lý và hỗ trợ phát triển nhân 48 lực ngành Du lịch 2.2. Hợp phần 2. Tăng cường năng lực đào tạo du lịch 53 2.3. Hợp phần 3. Đào tạo lại, bồi dưỡng nhân lực 61 3. Dự báo nhu cầu các nguồn lực 63 3.1. Điều kiện thực hiện 63 3.2. Nhu cầu về tài chính 63 4. Lộ trình và tổ chức thực hiện quy hoạch 64 4.1. Lộ trình thực hiện Quy hoạch 64 4.2. Tổ chức thực hiện Quy hoạch 68 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 69 PHỤ LỤC 3
- PHẦN MỞ ĐẦU A. Sự cần thiết xây dựng Quy hoạch phát triển nhân lực ngành Du lịch thời kỳ 2011-2020 Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về đẩy mạnh phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần phát triển bền vững kinh tế, văn hoá, xã hội và môi trường, gắn với bảo vệ an ninh quốc phòng, những năm qua Du lịch Việt Nam có sự tăng trưởng nhanh, đóng góp ngày càng tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những thành tựu phát triển du lịch đạt được vừa qua rất đáng khích lệ, tuy nhiên ngành Du lịch đang gặp những thách thức không nhỏ về nhiều mặt, trong đó có yếu tố về nhân lực. Nhân lực ngành Du lịch có vai trò quyết định không chỉ cho riêng sự phát triển du lịch mà còn góp phần không nhỏ vào việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhiều năm qua, ngành Du lịch đã có những cố gắng huy động cộng đồng, các thành phần kinh tế và sự hỗ trợ của quốc tế cho phát triển nhân lực. Công tác phát triển nhân lực ngành Du lịch mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định, nhưng vẫn còn nhiều bất cập cần giải quyết như: Quản lý còn chồng chéo; mục tiêu đào tạo chưa rõ ràng, đào tạo còn manh mún cả về quy mô và cơ cấu, chất lượng đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra; cơ sở vật chất phục vụ đào tạo, bồi dưỡng còn lạc hậu; chưa đủ cán bộ giảng dạy có chất lượng và kinh nghiệm cho các trình độ; chương trình đào tạo chắp vá; quan điểm phát triển nhân lực mới chỉ tập trung vào đào tạo mới, ít chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nhân lực tại chỗ, đào tạo nhân lực các ngành khác tham gia vào hoạt động du lịch và đào tạo cộng đồng; chưa quan tâm nhiều đến quản lý phát triển nhân lực và sử dụng nhân lực chưa hiệu quả. Những hạn chế yếu kém nêu trên do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là đến nay ngành Du lịch vẫn chưa có quy hoạch, chương trình, kế hoạch dài hạn về phát triển nhân lực để định hướng đúng, có hệ thống và đáp ứng yêu cầu đặt ra. Vì vậy, việc xây dựng Quy hoạch phát triển nhân lực ngành Du lịch giai đoạn 2011-2020 để đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch nhanh và bền vững, thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp tích cực và hiệu quả hơn vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức của đất nước là một việc làm cần thiết, xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn. B. Mục đích, yêu cầu và phạm vi, đối tượng quy hoạch 1. Mục đích của Quy hoạch: - Quy hoạch phát triển nhân lực ngành Du lịch giai đoạn 2011-2020 là bước đi đầu tiên thực hiện Chiến lược phát triển nhân lực quốc gia đến năm 2020 trong lĩnh vực du lịch, làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch phát triển nhân lực ngành Du lịch 5 năm và hàng năm. Đồng thời, trên cơ sở mục tiêu và giải pháp thực hiện quy hoạch, triển khai xây dựng cơ chế, chính sách phát triển nhân lực của ngành Du lịch. - Phát triển nhân lực ngành Du lịch có hệ thống; tăng cường số lượng, nâng cao chất lượng, tính chuyên nghiệp và hợp lý hóa cơ cấu nhân lực ngành 4
- Du lịch; nâng cao năng lực và chất lượng của hệ thống đào tạo du lịch đáp ứng yêu cầu hội nhập khu vực; và nâng cao nhận thức cộng đồng về du lịch và nhân lực ngành Du lịch; tạo động lực và lợi thế thúc đẩy du lịch phát triển nhanh và bền vững, thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. 2. Yêu cầu của Quy hoạch: - Quán triệt những nội dung chủ yếu của Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020. Cụ thể hóa những mục tiêu, phương hướng và giải pháp của Chiến lược vào Quy hoạch trên cơ sở tính toán, cân nhắc những điều kiện và đặc điểm phát triển của ngành Du lịch. - Thể hiện rõ quyết tâm, cam kết mạnh của ngành Du lịch cả nhận thức và hành động trong phát triển nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển ngành Du lịch trong thập kỷ thứ 2 của Thế kỷ XXI. - Thống kê, đánh giá hiện trạng phát triển nhân lực về số lượng, chất lượng và cơ cấu, xác định rõ những điểm mạnh và yếu kém của nhân lực so với nhu cầu phát triển; những biện pháp đã thực thi, rút ra bài học kinh nghiệm và đề xuất hướng hướng khắc phục trong thời gian tới. - Đề xuất định hướng giải pháp, nhất là giải pháp về các nguồn lực và bước đi trong tổ chức thực hiện Quy hoạch phát triển nhân lực ngành Du lịch đảm bảo hiện thực và khả thi. 3. Phạm vi và đối tượng quy hoạch: - Phạm vi: Quy hoạch phát triển nhân lực ngành Du lịch giai đoạn 2011- 2020 tiến hành trên phạm vi cả nước; phần phân tích và đánh giá thực trạng đến 2010; phần nhiệm vụ và giải pháp cho giai đoạn 2011-2020. - Đối tượng: 1) Nhân lực thuộc các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch và đơn vị sự nghiệp trong ngành Du lịch từ trung ương đến địa phương; 2) Nhân lực của các doanh nghiệp du lịch, gồm nhân lực quản trị kinh doanh và nhân lực nghiệp vụ lao động trực tiếp; 3) Hệ thống cơ sở đào tạo du lịch, trong đó tập trung vào các cơ sở đào tạo trung cấp, cao đẳng, đại học; và 4) Tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động du lịch (đề cập ở mức độ nhất định đối tượng này). C. Những căn cứ chủ yếu xây dựng quy hoạch 1. Căn cứ mang tính quan điểm: - Các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế-xã hội, về phát triển du lịch và về phát triển nhân lực. - Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X và dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI; 2. Căn cứ pháp lý: - Nghị quyết số 39/NQ-CP ngày 04/10/2010 của Chính phủ về việc triển khai xây dựng Quy hoạch phát triển nhân lực cho các Bộ, ngành và địa phương giai đoạn 2011-2020. 5
- - Quyết định số 579/QĐ-TTg ngày 19/4/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020. - Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 22/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020. - Luật Du lịch, Luật Giáo dục, Luật Dạy nghề, Luật Cán bộ, công chức và các nghị định của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các luật nêu trên. Quyết định số 221/2005/QĐ-TTg ngày 9 tháng 9 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng Chương trình Quốc gia phát triển nhân lực đến năm 2020. Các văn bản pháp quy có liên quan: Chiến lược phát triển giáo dục 2001- 2010; Quy hoạch mạng lưới trường ĐH-CĐ thời kỳ 2001-2010; Quy hoạch mạng lưới cơ sở dạy nghề thời kỳ 2001-2010; Chương trình đổi mới giáo dục đại học, dạy nghề; - Nghị định số 185/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 12 năm 2007 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch; Quyết định số 149/QĐ-TTg ngày 04 tháng 02 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ về các đơn vị sự nghiệp thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Quyết định số 63/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Du lịch; - Chiến lược phát triển ngành, phát triển các lĩnh vực; quy hoạch cán bộ đến năm 2016 của Tổng cục Du lịch và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; - Các chiến lược, quy hoạch, đề án liên quan đến du lịch và Nghị quyết của Tỉnh ủy, Thành ủy, Quyết định của Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về công tác phát triển du lịch. 3. Căn cứ thực tiễn: - Các báo cáo tổng kết thực tiễn phát triển du lịch nước ta những năm qua của Tổng cục Du lịch trước đây, báo cáo tổng kết công tác năm 2007, 2008, 2009 và 2010 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và của Tổng cục Du lịch; - Các đề án đào tạo phát triển nguồn nhân lực liên quan đến du lịch trong và ngoài ngành; những kết quả nghiên cứu, điều tra, khảo sát về phát triển nhân lực ngành Du lịch; số liệu thống kê về phát triển nhân lực nói chung và nhân lực ngành Du lịch nói riêng; các báo cáo của 63 sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch liên quan đến phát triển nhân lực ngành Du lịch những năm vừa qua. D. Kết cấu và nội dung của Quy hoạch 1. Kết cấu: Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị và phụ lục, nội dung chính của Quy hoạch phát triển nhân lực ngành Du lịch giai đoạn 2011-2020 chia thành 3 phần chính: Phần thứ 1. Hiện trạng phát triển nhân lực ngành Du lịch; Phần thứ 2. Phương hướng và mục tiêu phát triển nhân lực ngành Du lịch giai đoạn 2011-2020; Phần thứ 3. Các giải pháp phát triển nhân lực ngành Du lịch đến năm 2020 và dự án ưu tiên. 2. Nội dung: Quy hoạch phát triển nhân lực ngành Du lịch giai đoạn 2011-2020 tập trung giải quyết 8 vấn đề liên quan đến nhân lực ngành Du lịch, 6
- gồm: 1) Tăng cường năng lực hệ thống quản lý phát triển nhân lực ngành Du lịch; 2) Đào tạo lại, bồi dưỡng cán bộ quản lý và lao động ngành Du lịch; 3) Phát triển đội ngũ giáo viên, giảng viên, đào tạo viên du lịch; 4) Đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật và tăng cường năng lực của cơ sở đào tạo du lịch; 5) Phát triển chương trình, giáo trình; xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp du lịch; 6) Ứng dụng công nghệ mới trong phát triển nhân lực du lịch; 7) Hợp tác quốc tế về phát triển nhân lực ngành Du lịch; 8) Nâng cao nhận thức cộng đồng về du lịch và phát triển nhân lực ngành Du lịch. Phần thứ 1. HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH 1. Hiện trạng nhân lực ngành Du lịch 1.1. Quy mô nhân lực: Theo kết quả điều tra khảo sát trên toàn quốc năm 2005, nhân lực ngành Du lịch1 khoảng 875.128 người, trong đó có 275.128 nhân lực trực tiếp và trên 600.000 nhân lực động gián tiếp. Cộng số nhân lực tăng thêm trong năm 2006, 2007, 2008 từ báo cáo của các Sở quản lý du lịch, số liệu điều tra thống kê của các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch năm 2009, kết hợp với tính toán kiểm định, nhân lực ngành Du lịch đến cuối năm 2009 khoảng 1.389.600 người (trong đó có 434.240 nhân lực trực tiếp và trên 955.350 nhân lực gián tiếp), chiếm khoảng 2,4% tổng số lao động cả nước. Ước năm 2010, nhân lực của ngành Du lịch khoảng 1,5 triệu người, trong đó có 460.000 lao động trực tiếp. Số lượng nhân lực ngành Du lịch những năm gần đây tăng trưởng mạnh, trong đó nhân lực gián tiếp có xu hướng tăng với quy mô lớn hơn, phản ánh vai trò của ngành Du lịch và tính hiệu quả của việc xã hội hoá hoạt động du lịch. Bảng 1. Quy mô nhân lực ngành Du lịch Đơn vị tính: Người Năm 2000 2005* 2006 2007 2008 2009 2010 Chỉ tiêu Tổng số 450.000 875.128 950.000 1.251.200 1.358.750 1.389.600 1.472.000 Lao động trực tiếp 150.000 275.128 310.675 391.177 424.750 434.240 460.000 Lao động gián tiếp 300.000 600.000 750.000 860.600 934.000 955.350 1.012.000 * Số liệu điều tra toàn quốc Số liệu ước tính Nguồn: Tổng cục Du lịch; Viện Nghiên cứu phát triển Du lịch 1 Là lực lượng nhân lực tham gia vào quá trình phát triển du lịch, bao gồm nhân lực trực tiếp và nhân lực gián tiếp. Nhân lực du lịch trực tiếp là những người làm việc trong các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch, các đơn vị sự nghiệp du lịch và các đoanh nghiệp, cơ sở kinh doanh du lịch. Nhân lực gián tiếp là bộ phận nhân lực làm việc trong các ngành, các quá trình liên quan đến hoạt động du lịch như văn hóa, hải quan, giao thông, xuất nhập cảnh, nông nghiệp, công nghiệp, thương mại, dịch vụ công cộng, môi trường, bưu chính viến thông, cộng đồng dân cư 7
- 1.2. Chất lượng nhân lực: Chất lượng nhân lực được thể hiện ở các mặt như thực trạng sức khoẻ, trình độ học vấn, năng lực thực hiện nhiệm vụ Do chưa thống kê, điều tra về các chỉ tiêu sức khoẻ, nên không có cơ sở đánh giá chi tiết về thực trạng sức khoẻ của nhân lực ngành Du lịch. Vì vậy việc phân tích thực trạng chất lượng nguồn nhân lực ngành Du lịch tập trung vào các tiêu chí về trình độ văn hóa, trình độ đào tạo, kiến thức, kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ và trình độ giao tiếp, ngoại ngữ, kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin. 1.2.1. Trình độ văn hóa và trình độ đào tạo: a) Về trình độ văn hoá phổ thông: Với đặc thù là một ngành dịch vụ, hoạt động chủ yếu là phục vụ, có nhiều lĩnh vực không đòi hỏi trình độ văn hóa cao, do vậy nhân lực lao động trực tiếp bậc thấp (nhân viên phục vụ buồng, tạp vụ, vệ sinh, chăm sóc cây cảnh, bảo vệ ) chiếm tỷ trọng lớn. Nhóm nhân lực này có số người chưa tốt nghiệp phổ thông trung học khá cao, chiếm 30% tổng nhân lực toàn Ngành. Dự báo tỷ lệ này còn tiếp tục giữ ở mức tương đối cao trong thời gian dài nữa. Nhân lực tốt nghiệp trung học phổ thông chủ yếu là nhóm nhân lực có chuyên môn, nhân lực quản trị doanh nghiệp, nhân lực hoạt động sự nghiệp và quản lý nhà nước về du lịch. b) Về trình độ đào tạo: Nhân lực có trình độ đào tạo sơ cấp, trung cấp và cao đẳng du lịch là lực lượng lao động trực tiếp phục vụ khách, cung cấp sản phẩm du lịch, chiếm 47,3% nhân lực được đào tạo, bằng 19,8% tổng nhân lực toàn Ngành. Nhân lực được đào tạo đại học và sau đại học về du lịch chiếm 7,4% số nhân lực có chuyên môn du lịch, bằng 3,2% tổng nhân lực. Số nhân lực có trình độ đại học và trên đại học về du lịch như trên là thấp so với nhu cầu phát triển và hội nhập quốc tế. Nhân lực trình độ dưới sơ cấp nghề (đào tạo truyền nghề, dưới 3 tháng) chiếm 45,3% nhân lực có chuyên môn, bằng 19,4% tổng số nhân lực toàn Ngành. Nếu chỉ tính nhân lực có trình độ sơ cấp trở lên thì nhân lực được đào tạo chiếm khoảng 23% tổng nhân lực toàn Ngành. Nếu tính thêm số nhân lực được đào tạo truyền nghề, dưới 3 tháng, thì nhân lực được đào tạo của ngành Du lịch đạt khoảng 42% tổng nhân lực toàn Ngành Theo lĩnh vực hoạt động, nhân lực là hướng dẫn viên du lịch tốt nghiệp đại học chiếm khoảng 65,5% tổng số hướng dẫn viên; tỷ lệ này trong marketing du lịch là 84,2% và lễ tân là 65,3%. Trong lĩnh vực phục vụ buồng, bar, bàn, bếp lao động có trình độ trung cấp và sơ cấp lại chiếm tỷ lệ lớn: Nhân viên bếp là 85,61%; bàn, buồng, bar tương ứng là: 72,4%, 70,7%, 75,5%. Nhân lực du lịch gián tiếp chưa thống kê được đầy đủ, năm 2009 có khoảng 955.350 người, trong đó trình độ dưới sơ cấp là 521.800 người, chiếm khoảng 54,6%; sơ cấp 170.000 người, chiếm khoảng 17,8%; trung cấp 145.000 người, chiếm khoảng 15,2%; đại học và cao đẳng 116.550 người, chiếm khoảng 12,2%; và trên đại học là 2.000 người, chiếm khoảng 0,2% nhân lực gián tiếp. Du lịch có tính liên ngành và xã hội hoá cao, vì vậy ngoài chuyên môn du lịch, cũng đòi hỏi người lao động phải được đào tạo các chuyên môn khác như 8
- văn hoá, ngoại ngữ, kinh tế, tài chính, kiến trúc, xây dựng, địa lý, điều khiển phương tiện vận chuyển Tuy vậy, với tỷ trọng là 42,3% số nhân lực đã qua đào tạo, bồi dưỡng về du lịch trong hơn mười năm qua và khả năng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phục vụ khách du lịch là một thành tựu đáng khích lệ, là sự cố gắng lớn của Ngành và của các cơ sở đào tạo du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu về nhân lực để phát triển du lịch. 1.2.2. Về trình độ ngoại ngữ và tin học: a) Trình độ ngoại ngữ: Du lịch là ngành có nhân lực sử dụng được ngoại ngữ khá cao, chiếm 60% tổng số nhân lực; tuy nhiên đặc thù của Ngành đòi hỏi tỷ lệ này phải nâng cao hơn nữa. Nhân lực biết ngoại ngữ nhiều nhất là tiếng Anh, chiếm khoảng 42% nhân lực toàn Ngành. Nhân lực sử dụng tiếng Trung, tiếng Pháp và các tiếng khác với tỷ lệ tương ứng là 5%, 4% và 9% nhân lực toàn Ngành. Ngành Du lịch đang tập trung khai thác khách từ Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đức, việc mở rộng đào tạo các ngoại ngữ của các nước nêu trên bên cạnh tiếng Anh là rất cần thiết. Lượng khách từ Trung Quốc và khách nói tiếng Trung vào Việt Nam du lịch hàng năm chiếm khoảng 30-40% tổng lượng khách quốc tế đến Việt Nam, do vậy thông thạo tiếng Trung, hiểu biết về văn hoá, tính cách của người Trung Quốc sẽ là điều kiện thuận lợi và yêu cầu bắt buộc trong việc tiếp tục hấp dẫn thị trường hơn 1,2 tỷ người này. Xét riêng về số nhân lực biết sử dụng tiếng Anh thì 85% nhân lực có trình độ tiếng Anh ở mức cơ sở (A, B, C), có thể giao tiếp bình thường và có 15% số nhân lực có trình độ đại học, đọc, nói và giao tiếp thông thạo. Số này chủ yếu nằm vào nhóm nhân lực làm hướng dẫn du lịch, lễ tân khách sạn. Phân tích theo nghề thì hướng dẫn du lịch, lữ hành, marketing, lễ tân, phục vụ nhà hàng có tỷ lệ sử dụng ngoại ngữ khá cao, đạt khoảng 88,6%. Song, số nhân lực sử dụng thành thạo từ hai ngoại ngữ trở lên còn thấp, chỉ chiếm khoảng 28%. Nhóm nhân lực làm nghề hướng dẫn viên du lịch có số người tốt nghiệp đại học ngoại ngữ chiếm tỷ lệ cao nhất (49,6%), tiếp đến là marketing du lịch (46,8%), lễ tân khách sạn khoảng 40%; trong khi nhóm nhân viên chế biến món ăn hầu như không có người tốt nghiệp đại học ngoại ngữ. b) Tin học: Toàn ngành Du lịch hiện có 296.475 người biết tin học (biết sử dụng máy tính phục vụ được yêu cầu công việc), chiếm khoảng 68,3% tổng số nhân lực là lao động trực tiếp thống kê được của Ngành; có 137.765 người không biết sử dụng máy tính phục vụ yêu cầu công việc. 1.3. Cơ cấu nhân lực ngành Du lịch: 1.3.1. Cơ cấu theo địa giới du lịch: Nhân lực ngành Du lịch phân bổ không đồng đều giữa các địa phương, các địa giới du lịch; tập trung chủ yếu ở các trung tâm du lịch lớn, nơi có nhiều tài nguyên du lịch đã được khai thác và phụ thuộc nhiều vào trình độ phát triển du lịch. Nhân lực ở khu vực phía Nam chiếm 47%, ở khu vực phía Bắc 39% và miền Trung chỉ chiếm khoảng 14% tổng nhân lực du lịch cả nước (tỷ trọng này 5 năm trước đây là 51:40:9). Nhân lực du lịch vùng Đông Bắc chiếm 6% tổng 9
- nhân lực du lịch của cả nước, Tây Bắc chiếm 2,8%, Đồng bằng Sông Hồng chiếm 32,7%, Bắc Trung Bộ chiếm 8,7%, Nam Trung Bộ chiếm 7,3%, Tây Nguyên chiếm 3,5%, Đông Nam Bộ chiếm 34% và vùng Đồng bằng Sông Cửu Long chiếm 5% tổng nhân lực du lịch của cả nước. Thành phố Hồ Chí Minh thu hút được 24% tổng số nhân lực du lịch cả nước, Hà Nội được 14%, 62 tỉnh còn lại chỉ chiếm 62% tổng số nhân lực toàn Ngành (trung bình mỗi tỉnh chiếm khoảng 1%). Hiện tượng thừa, thiếu cục bộ nhân lực giữa các các địa phương đang là khó khăn lớn trong phân bố nhân lực du lịch. Mặc dù đã có sự quan tâm đầu tư phân bổ nhân lực du lịch hướng đến sự hợp lý giữa các vùng trong cả nước, nhưng sự mất cân đối vẫn tồn tại. Sự di chuyển lao động du lịch từ hai trung tâm du lịch lớn Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đến các địa phương lân cận có tiềm năng phát triển mạnh du lịch là cấp thiết. Khu vực du lịch Miền Trung và Tây Nguyên đang có xu hướng tăng trưởng mạnh. Miền Trung là nơi tập trung nhiều di sản thế giới, với bờ biển và bãi tắm đẹp, với sự đa dạng của phong tục, tập quán truyền thống, văn hoá là tiềm năng thu hút và hấp dẫn du khách nhưng số nhân lực du lịch chỉ chiếm một phần mười tổng nhân lực ngành Du lịch. Giai đoạn tới, đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch tiếp tục được cải thiện, đòi hỏi cơ cấu nhân lực du lịch theo vùng, miền sẽ thay đổi nhiều theo chiều hướng phù hợp với tiềm năng phát triển du lịch của các vùng, miền. Bảng 2. Cơ cấu nhân lực ngành Du lịch theo vùng STT Chỉ tiêu Năm 2009 (người) Tỷ trọng (%) 1 Tổng số lao động du lịch trực tiếp 434.240 100 2 Phân theo từng vùng - - 2.1 Đông Bắc 26.050 6,0 2.2 Tây Bắc 12.590 2,9 2.3 Đồng bằng Sông Hồng 142.000 32,7 2.4 Bắc Trung Bộ 37.780 8,7 2.5 Nam Trung Bộ 31.700 7,3 2.6 Tây Nguyên 15.200 3,5 2.7 Đông Nam Bộ 147.210 33,9 2.8 Đồng bằng Sông Cửu Long 21.710 5,0 Nguồn: Viện Nghiên cứu phát triển Du lịch 1.3.2. Cơ cấu theo lĩnh vực hoạt động (khu vực quản lý nhà nước, sự nghiệp và khu vực kinh doanh): Nhân lực ngành Du lịch làm việc ở khu vực quản lý nhà nước và sự nghiệp gồm một phần nhân lực hoạt động liên quan đến du lịch của Cơ quan Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, các đơn vị, tổ chức sự nghiệp thuộc Bộ và các sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch; và toàn bộ nhân lực Tổng cục Du lịch và các đơn 10
- vị và tổ chức sự nghiệp trực thuộc Tổng cục Du lịch. Nhân lực quản lý nhà nước và hoạt động sự nghiệp về du lịch chiếm 1,9%, trong đó 0,7% làm quản lý nhà nước1 và 1,2% làm tại các đơn vị sự nghiệp. Tỷ trọng nhân lực quản lý nhà nước về du lịch chỉ chiếm khoảng 0,7% tổng số lao động là quá thấp, dẫn đến công tác điều hành, giám sát của Ngành chưa hiệu quả, đặc biệt là ở các địa phương có ngành Du lịch chưa phát triển. Ở nhiều địa phương, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Phòng Văn hóa-Thông tin chưa được quan tâm bổ sung, bố trí cán bộ làm công tác quản lý du lịch; số công chức được đào tạo chuyên ngành du lịch hầu như không có, công chức bố trí quản lý du lịch thường theo tiêu chí quen việc hoặc kinh nghiệm công tác. Nhân lực trong các đơn vị sự nghiệp chỉ chiếm 1,2% tổng nhân lực toàn Ngành là một thách thức lớn đối với ngành Du lịch. Bởi các đơn vị này cần tập trung số nhân lực trình độ cao so với các khu vực khác của Ngành để nghiên cứu, đào tạo, làm dự án phát triển du lịch, chuyển giao khoa học kỹ thuật Thế giới đang chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức, hàm lượng tri thức trong mỗi sản phẩm du lịch chiếm tỷ trọng chủ yếu. Để không tụt hậu và đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước, Du lịch Việt Nam đòi hỏi phải có một lực lượng nhân lực tri thức phong phú, đa dạng và toàn diện hơn về trình độ chuyên môn và kỹ năng. Nhân lực làm việc tại khu vực kinh doanh chiếm 98,1% nhân lực toàn Ngành. Nhân lực trực tiếp phục vụ bàn, bar chiếm 15%, phục vụ buồng chiếm 14,8%, chế biến món ăn, đồ uống chiếm 10,6%, điều khiển phương tiện vận chuyển khách chiếm 10,4%, lễ tân chiếm 9%, lữ hành, hướng dẫn du lịch chiếm 4,9% và lao động khác (nhân viên bán hàng lưu niệm, bảo vệ, nhân viên kỹ thuật, sửa chữa, bảo dưỡng trong khách sạn, chăm sóc cây cảnh ) chiếm 35,3%. 1.3.3. Cơ cấu theo ngành nghề chuyên môn: Đặc điểm lao động trong ngành Du lịch có nhiều khác biệt so với ngành nghề khác, do vậy việc xác định cơ cấu nhân lực phù hợp theo trình độ đào tạo cần phải rõ để đảm bảo tính hiệu quả kinh tế-xã hội của hoạt động này, tránh tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ”. Theo kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực du lịch của các nước EU2 (có ngành Du lịch phát triển, đồng thời là thị trường trọng điểm của Du lịch Việt Nam) thì cơ cấu theo trình độ đào tạo của nhân lực ngành Du lịch nước ta hiện đang mất cân đối. Nhân lực quản trị, giám sát trong doanh nghiệp du lịch chiếm 25% là nhiều (tỷ trọng phù hợp khoảng 15% tổng nhân lực). Trong khi đó, tỷ trọng nhân lực kỹ thuật lành nghề chỉ là 75% (phù hợp phải là 85%). Tỷ lệ “thầy/thợ” hiện tại là 1:3 (hợp lý là vào khoảng 1:6). Cơ cấu nhân lực phục vụ trực tiếp trong nghề lễ tân, phục vụ buồng, phục 1 Theo kinh nghiệm của các nước có ngành Du lịch phát triển thì tỷ lệ phù hợp phải vào khoảng 5% tổng số nhân lực cả Ngành. 2 Theo kinh nghiệm của các nước EU, cơ cấu nguồn nhân lực theo trình độ đào tạo được xác định theo tỷ lệ: Lao động quản lý ngành là 5%, được đào tạo ở các trường đại học. Lao động kỹ thuật và giám sát là 10%, được đào tạo ở các trường Cao đẳng vầ các khoa chuyên ngành khách sạn và du lịch ở các trường đại học. Lao động kỹ thuật lành nghề (kỹ năng thực hành) trực tiếp sản xuất là 85%, được đào tạo ở các trường cao đẳng, trung cấp và các trung tâm dạy nghề. 11
- vụ bàn-bar, nấu ăn, lữ hành và hướng dẫn du lịch, điều khiển phương tiện vận chuyển du lịch và nghề khác hiện tại tương ứng là 9%, 14,8%, 15%, 10,6%, 4,9%, 10,4% và 35,3%. Như vậy, phục vụ bàn-bar chiếm tỷ lệ cao nhất, tiếp đến là nhân viên phục vụ buồng, điều này thể hiện tính đặc thù cần nhiều lao động của hoạt động kinh doanh khách sạn (hợp lý là cứ 1 buồng cần nhiều nhất đến 1,6 nhân lực). Các nhân lực nghề khác chiếm tỷ lệ cao, khoảng 35,3%, gồm những người bán hàng lưu niệm, bảo vệ, nhân viên kỹ thuật, sửa chữa, bảo dưỡng trong khách sạn, chăm sóc cây cảnh Nhân lực phục vụ chiếm một tỷ lệ lớn trong nhân lực trực tiếp, nhưng nhìn chung trình độ đào tạo thấp, hiểu biết về văn hoá xã hội và văn minh giao tiếp hạn chế. Nhân lực làm lễ tân và hướng dẫn du lịch mặc dù đã có chuyển biến nhiều về chuyên môn du lịch, nhưng hiểu biết về văn hoá, ứng xử của khách và ngoại ngữ còn nhiều hạn chế, thường chỉ biết một ngoại ngữ và tiếng Anh vẫn chiếm tỷ trọng lớn, trong khi nước ta đang mở rộng khai thác thị trường du lịch khác như Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. 1.3.4. Cơ cấu theo giới tính và độ tuổi: a) Về cơ cấu theo giới: Là một ngành đặc thù, sản phẩm chủ yếu là dịch vụ, trong đó nhiều nghề đòi hỏi sự khéo léo và vẻ đẹp của con người, đặc biệt là sự khéo léo và vẻ đẹp phụ nữ. Theo số liệu điều tra nhân lực của ngành Du lịch năm 2000 cho thấy, tỷ trọng nữ cao hơn so với nam (nữ chiếm 55,60%, nam chỉ 44,40%). Với số liệu năm 2005, thì tỷ trọng nhân lực nam và nữ tương đương nhau (nữ chiếm 50,7%, nam chiếm 49,3%). Hiện nay lao động nữ trong ngành Du lịch dần có xu hướng tăng lên, trong khi lao động nam có xu hướng giảm. Tỷ trọng nhân lực nữ cao hơn nam và xu hướng tăng là đặc thù của ngành Du lịch không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước trên thế giới. Mặt khác ở nước ta, do quan niệm bình đẳng về việc làm và về ngành Du lịch cũng đã thay đổi. Một số nghề lễ tân, phục vụ bàn, bar, buồng, tạp vụ hay nhân viên ở các dịch vụ phục vụ sức khoẻ, chăm sóc sắc đẹp đòi hỏi sự duyên dáng, cẩn thận và sự khéo léo của phụ nữ. Trong khi đó ở các nghề như hướng dẫn du lịch, điều khiển phương tiện vận chuyển du lịch, bảo vệ, bếp, sửa chữa kỹ thuật lại đòi hỏi nhân lực phải có sức khoẻ phù hợp với công việc nặng nhọc, nên thu hút nam nhiều hơn. Nhân lực điều khiển phương tiện vận chuyển du lịch hầu như 100% là nam giới, trong khi đó ở lĩnh vực hướng dẫn du lịch và bếp tỷ lệ nhân lực nam tương ứng chiếm khoảng 70,6% và 53,9% tổng nhân lực. Trong công việc phục vụ buồng, bàn, nữ chiếm tỷ trọng lớn, tương ứng 66,7% và 62,1%. b) Về cơ cấu theo độ tuổi: Cơ cấu nhân lực giữa các độ tuổi có xu hướng ổn định, không biến động lớn. Ngành Du lịch hiện có lực lượng nhân lực trẻ, dưới 30 tuổi chiếm tới 40%, từ 31-40 tuổi chiếm 36%, từ 41-50 tuổi chiếm 21% và trên 50 tuổi chiếm 3%. Nhân lực kế cận và nhân lực đang làm việc của ngành Du lịch ở độ “vàng”, đủ đảm bảo gánh vác nhiệm vụ phát triển Ngành; cơ cấu theo độ tuổi hợp lý; đủ có khả năng chuyển giao giữa các thế hệ. Nếu xét theo lĩnh vực hoạt động, thì nhân lực quản lý nhà nước và hoạt động sự nghiệp có độ tuổi trung bình cao hơn độ tuổi trung bình của nhân lực 12
- khối kinh doanh. Công chức có độ tuổi trên 50 chiếm 18%, từ 41-50 chiếm 41%, từ 30-40 là 20% và dưới 30 tuổi chiếm 21%. Hiện tượng này do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do thời gian làm việc trung bình của nhân lực quản lý nhà nước cao hơn các lĩnh vực khác. Nhân lực quản lý nhà nước có thể đi làm từ khi ra trường cho đến lúc nghỉ hưu, nhưng các lĩnh vực khác như hướng dẫn viên du lịch thời gian làm việc trung bình chỉ là 6,5 năm; nhân viên lễ tân là 8,6 năm, nhân viên bar là 12,5 năm 1.4. Đánh giá chung về thực trạng nhân lực ngành Du lịch: a) Về ưu điểm: Số lượng nhân lực ngành Du lịch có xu hướng tăng, phản ánh vai trò ngày càng tăng của Ngành và tính hiệu quả của công tác xã hội hoá hoạt động du lịch. Nhìn chung, nhân lực ngành Du lịch được rèn luyện, thử thách, có bản lĩnh chính trị vững vàng; năng động, sáng tạo, khắc phục khó khăn, nỗ lực vươn lên thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách đổi mới và phát triển du lịch của Đảng và Nhà nước; có ý thức trách nhiệm, nhiệt tình và tâm huyết với nghề nghiệp, gắn bó với cơ quan, đơn vị, với ngành và đất nước. Đã đóng góp vào thành tựu xây dựng phát triển Ngành trong 50 năm qua; bước đầu xây dựng được thương hiệu Du lịch Việt Nam và những sản phẩm du lịch mang lại giá trị mới cho đất nước và xã hội. Trình độ kiến thức, kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ và năng lực quản lý nhà nước, nghiên cứu, đào tạo, quản trị kinh doanh ngày một nâng cao. Số đông được rèn luyện và thử thách trong thực tiễn, có vốn sống, giàu lòng yêu nước; trước những biến động của thời cuộc và những khó khăn của đời sống vẫn kiên định, giữ được đạo đức, phẩm chất cách mạng, có lối sống lành mạnh. Bên cạnh những cán bộ công tác lâu năm, có nhiều cống hiến và những nhà khoa học, chuyên gia, nghệ nhân tuy tuổi cao, vẫn tiếp tục sự nghiệp sáng tạo và cống hiến, đã xuất hiện những lao động trẻ, được đào tạo cơ bản, năng động, tự tin, dám nghĩ, dám làm, trình độ nhiều mặt và năng lực, cống hiến ngày một nâng cao, cố gắng tìm tòi cái mới, hoàn thành tốt nhiệm vụ, tiếp thu nhanh kiến thức mới và có ý chí vươn lên lập thân, lập nghiệp. b) Về hạn chế: Nhân lực ngành Du lịch còn nhiều mặt chưa đáp ứng nhiệm vụ phát triển du lịch khi hội nhập quốc tế ngày một sâu, toàn diện và yêu cầu phát triển nền kinh tế tri thức. Số lượng nhân lực còn ít, cơ cấu chưa đồng bộ và năng lực thực tiễn chưa tương xứng với bằng cấp. Nhân lực có trình độ, tay nghề cao chưa nhiều và ngày càng thiếu những cán bộ đầu đàn làm nòng cốt đào tạo nhân lực trẻ. Kiến thức hội nhập, ngoại ngữ, tin học; năng lực sáng tạo, lãnh đạo, quản lý, quản trị và kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế chưa tương ứng với yêu cầu phát triển của Ngành. Một bộ phận nhỏ chưa tích cực tự học, còn ngại học, kết quả làm việc không cao. Nhiều lĩnh vực chuyên môn sâu còn thiếu nhiều nhân lực. Đang thiếu nhiều cán bộ quản lý nhà nước, quản lý doanh nghiệp, quản trị kinh doanh, chuyên gia hoạch định chính sách, nghiên cứu chiến lược phát triển Ngành; đặc biệt thiếu chuyên gia đầu ngành giỏi kỹ thuật, nghiệp vụ du lịch. Chất lượng nhân lực quản lý ở địa phương còn nhiều bất cập; nhân lực thuộc các ngành nghề kinh doanh mới, doanh nghiệp mới chưa được đào tạo đầy đủ và bài bản. Bên cạnh sự mất cân đối và thiếu cán bộ có chuyên môn giỏi ở nhiều lĩnh vực, sự mất cân đối theo vùng, miền cũng là vấn đề lớn. 13
- Ngoài ưu điểm, hạn chế chung nêu trên, nhân lực khối quản lý nhà nước, sự nghiệp và kinh doanh có những ưu điểm và hạn chế riêng. Nhân lực khối quản lý nhà nước và sự nghiệp du lịch đã phát huy được năng lực, sử dụng kiến thức được đào tạo và kinh nghiệm tích luỹ trong quá trình công tác vào nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn phát triển du lịch trên thế giới và trong nước để hoạch định chính sách, xây dựng hoặc góp ý xây dựng, tuyên truyền phổ biến, hướng dẫn và tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách phát triển du lịch của Đảng và Nhà nước; văn bản quy phạm pháp luật; chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển ngành, lĩnh vực; quy hoạch vùng, trung tâm, quy hoạch phát triển du lịch các địa phương; kế hoạch, đề án và chương trình hành động quốc gia về du lịch đạt hiệu quả. Nghiên cứu, phát hiện và đề xuất khá kịp thời với Đảng, Nhà nước, chính quyền địa phương và hệ thống chính trị thông qua các đề án, đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước, cấp bộ, cấp tỉnh và các biện pháp tháo gỡ khó khăn, đẩy mạnh phát triển du lịch, nhất là vào những thời điểm cần thiết và khó khăn. Mặc dù vậy, số cán bộ làm việc có hiệu quả cao và say mê, tận tụy với công việc chưa nhiều, thiếu những công chức, viên chức giỏi. Không ít cán bộ trình độ kiến thức, năng lực lãnh đạo, quản lý hạn chế, việc cập nhật thông tin lý luận và thực tiễn chưa kịp thời nên đuối tầm và chưa gắn bó thường xuyên với cơ sở. Một số chưa mạnh dạn trong phản biện xã hội, thiếu tinh thần hợp tác và phối hợp. Có hiện tượng công chức, viên chức giỏi bỏ ra làm ở doanh nghiệp; bị thu hút hoặc bỏ đi tìm việc ở địa phương có điều kiện kinh tế thuận lợi hơn hoặc các trung tâm đô thị lớn, tạo thêm sự thiếu hụt về nhân lực trình độ cao cho địa phương còn khó khăn. Nhân lực khối kinh doanh du lịch cần cù, năng động; từng bước được đào tạo và tự đào tạo nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học và kiến thức pháp luật quốc tế để kinh doanh, hội nhập; thích ứng nhanh với cơ chế mới, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao hiệu quả làm việc; gắn bó với doanh nghiệp, đóng góp tích cực trong xây dựng hình ảnh, thương hiệu, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Nhưng một bộ phận nhân lực còn ít kinh nghiệm, năng lực hạn chế, kinh doanh kém hiệu quả. Không ít người chưa quán triệt đầy đủ và thấu suốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và của Ngành, nặng về kinh doanh đơn thuần, đôi khi còn sơ hở, mất cảnh giác trước đối tác nước ngoài, gây những hậu quả đáng tiếc; chưa khai thác mang tính bền vững những lợi thế của đất nước về du lịch để nâng cao năng lực cạnh tranh và xây dựng văn hoá doanh nghiệp; một số có biểu hiện lãng phí. Nhân lực du lịch trong doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau có độ chênh trình độ kỹ năng khá lớn. Nhân lực trong các doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài thường được đào tạo bài bản, trình độ chuyên môn nghiệp vụ hầu hết đạt tiêu chuẩn quốc tế, trình độ ngoại ngữ cũng đáp ứng yêu cầu của công việc. Nhân lực trong các doanh nghiệp nhà nước, nhìn chung cũng đã được đào tạo hoặc bồi dưỡng nghiệp vụ, tuy nhiên trình độ ngoại ngữ còn rất hạn chế. Vấn đề cần quan tâm 14
- đặc biệt là trình độ nghiệp vụ của nhân lực thuộc các doanh nghiệp tư nhân, có nơi đến 80% nhân lực chưa qua đào tạo chuyên sâu về du lịch. 2. Hiện trạng phát triển nhân lực ngành Du lịch 2.1. Hiện trạng đào tạo, bồi dưỡng nhân lực: 2.1.1. Hệ thống cơ sở đào tạo du lịch: Đến tháng 8/2010 cả nước có 284 cơ sở tham gia đào tạo du lịch, gồm: 62 trường đại học; 80 trường cao đẳng (trong đó có 8 trường cao đẳng nghề); 117 trường trung cấp (trong đó có 12 trường trung cấp nghề); 02 công ty đào tạo và 23 trung tâm, lớp đào tạo nghề. Theo quy định, các cơ sở đào tạo có thể đào tạo các bậc đào tạo thấp hơn; cơ sở đào tạo du lịch chuyên nghiệp có thể tham gia đào tạo nghề, vì thế hiện nay cả nước có 346 lượt cơ sở đào tạo tham gia đào tạo du lịch các cấp đào tạo từ dưới sơ cấp đến sau đại học. Trong đó 115 lượt cơ sở tham gia đào tạo đại học và cao đẳng du lịch, 144 lượt cơ sở đào tạo trung cấp chuyên nghiệp và 87 lượt cơ sở đào tạo nghề du lịch (trường cao đẳng nghề, trường trung cấp nghề, trung tâm dạy nghề). Số liệu cơ sở tham gia đào tạo du lịch tăng hơn 4 lần so với năm 20051 do nguyên nhân chính: Một là năm 2005 chưa thống kê đầy đủ cơ sở đào tạo du lịch; hai là một số cơ sở được đầu tư xây dựng mới trước đây, nay đi vào hoạt động; ba là do nâng cấp hoặc phát triển thêm một khoa hoặc tổ bộ môn đào tạo du lịch. Theo loại hình sở hữu có cơ sở đào tạo công lập và ngoài công lập, cơ sở đào tạo đầu tư trong nước và các cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài; Hình thức tổ chức đào tạo chính quy và không chính quy, các hệ ngắn hạn và dài hạn. Mạng lưới đào tạo, bồi dưỡng nhân lực hiện có (các trường, trung tâm đào tạo của doanh nghiệp, của các địa phương và Bộ Văn hóa. Thể thao và Du lịch) cũng đã bước đầu được hình thành, nâng cấp và tăng cường năng lực đào tạo, bồi dưỡng. Trường Bồi dưỡng cán bộ quản lý văn hóa, thể thao và du lịch đảm nhiệm đào tạo lại, bồi dưỡng công chức, viên chức ngành Du lịch. Hầu hết các tỉnh, thành phố đều có trung tâm chuyên đào tạo, bồi dưỡng nghề du lịch ngắn hạn hoặc trung tâm đào tạo đa ngành nghề tham gia đào tạo, bồi dưỡng du lịch. 2.1.2. Năng lực đào tạo của hệ thống cơ sở đào tạo du lịch: a) Cơ sở vật chất kỹ thuật: 8 cơ sở đào tạo du lịch trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã được hoặc đang xây dựng mới, nâng cấp; cơ sở vật chất- 1 Theo thống kê không đầy đủ, đến cuối năm 2005, cả nước đã có 69 cơ sở đào tạo du lịch, trong đó 14 trung tâm dạy nghề, 29 trường trung cấp, cao đẳng và 26 cơ sở đào tạo du lịch hệ đại học. Nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trung tâm đào tạo, bồi dưỡng nghề du lịch ngắn hạn (dạy nghề du lịch riêng hoặc đào tạo đa ngành nghề trong đó có dạy nghề du lịch, trung tâm đào tạo thường xuyên). Đến cuối năm 2007 mới có 82 cơ sở tham gia đào tạo du lịch, trong đó có 30 cơ sở đào tạo du lịch hệ dạy nghề và trung cấp, 52 cơ sở đào tạo du lịch hệ đại học và cao đẳng. Trước năm 2000 cả nước chỉ có 03 trường đại học có đào tạo chuyên ngành du lịch là: Khoa Ăn uống công cộng- Trường Đại học Thương mại, thành lập năm 1977; Bộ môn Du lịch trong Khoa Vật giá thuộc Trường Đại học kinh tế quốc dân Hà Nội, thành lập năm 1989; Khoa Du lịch thuộc Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, thành lập năm 1989. Có 03 trường nghề chuyên đào tạo du lịch là: Trường Du lịch Hà Nội, thành lập năm 1972; Trường Du lịch Vũng Tàu, thành lập năm 1975 và Trường nghiệp vụ Du lịch-Khách sạn thuộc Tổng Công ty Du lịch Sài Gòn, thành lập năm 1975. Ngoài ra, còn có một số trường trung cấp và dạy nghề nấu ăn như Trường Trung cấp nấu ăn Cẩm Bình-Hải Dương (nay là trường Cao đẳng kỹ thuật Du lịch và Khách sạn Hải Dương). 15
- kỹ thuật được tăng cường, từng bước đổi mới, hiện đại hoá. Một số cơ sở đào tạo chuyên về du lịch được xây dựng, mở rộng khá khang trang, nhất là các trường trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề, đặc biệt là bốn trường được thụ hưởng dự án do Luxembourg tài trợ1. Trong khuôn khổ Dự án đào tạo phát triển nhân lực ngành Du lịch do EU tài trợ, cơ sở vật chất kỹ thuật của 14 trường thụ hưởng Dự án được tăng cường và các trung tâm thẩm định kỹ năng nghề du lịch được trang thiết bị hiện đại, đạt tiêu chuẩn EU. Công tác đầu tư nâng cấp và xây dựng mới cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ đào tạo ở một số cơ sở đào tạo du lịch khác được các Bộ, ngành, địa phương và các cơ sở đào tạo quan tâm. Cơ sở đào tạo được mở rộng, nâng cấp, trang thiết bị phục vụ giảng dạy, thí nghiệm và thực hành được nâng cấp, từng bước đồng bộ hoá và hiện đại hoá. Một số cơ sở đào tạo đã đầu tư xây dựng cơ sở thực hành (xưởng trường, khách sạn trường ) tương đối hiện đại. Một số trường đã có trung tâm thực hành nghề. b) Đéi ngò gi¶ng viªn, gi¸o viªn, đào tạo viên và cán bộ quản lý: Hiện nay cả nước có khoảng 5.000 người tham gia đào tạo du lịch, trong đó có 2.000 giáo viên, giảng viên du lịch (cả cơ hữu và thỉnh giảng), 540 cán bộ quản lý, phục vụ đào tạo các cấp và 2.579 đào tạo viên du lịch (có chứng chỉ đào tạo của Hội đồng cấp chứng chỉ Du lịch Việt Nam). Giảng viên, giáo viên cơ hữu là 1.460 người, chiếm khoảng 28% tổng số nhân lực tham gia đào tạo mới về du lịch; giảng viên thỉnh giảng là 600 lượt người, chiếm 11,6%. (Thực tế con số này cao hơn nhiều, có khoa đào tạo du lịch giảng viên thỉnh giảng chiếm đến 73% tổng số giáo viên: 82 giảng viên thỉnh giảng/29 giảng viên cơ hữu); cán bộ quản lý, phục vụ đào tạo 540 người, chiếm 10%; đào tạo viên du lịch khoảng 2.600 người, chiếm 49%. Giáo viên, giảng viên ở độ tuổi dưới 30 tuổi chiếm khoảng 29%, từ 31-50 tuổi chiếm 60%, trên 50 tuổi chiến 11%. Hầu hết giảng viên, giáo viên đều biết ngoại ngữ (khoảng 100 người biết 2 ngoại ngữ trở lên) và tin học phục vụ nghiên cứu, giảng dạy. Trong số giảng viên, giáo viên du lịch có 2 giáo sư, 11 phó giáo sư, 1 tiến sĩ khoa học, 36 tiến sĩ, 210 thạc sĩ và 5 chuyên gia, nghệ nhân. Các khoa, bộ môn đào tạo đại học du lịch đã huy động được các chuyên gia ngành Du lịch làm giáo viên kiêm nhiệm, thỉnh giảng. Thông qua các dự án do Luxembourg và EU tài trợ, nhiều giảng viên, giáo viên du lịch đã được đào tạo nghiệp vụ tại Luxembourg, Singapore, Malaysia, Áo, Úc New Zealand, đang phát huy tốt kiến thức đã học. Nhiều giảng viên đã và đang được học tập, nghiên cứu du lịch tại các nước có du lịch phát triển. Đội ngũ giảng viên, giáo viên du lịch đang được trẻ hóa, chính quy và hiện đại hóa để đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Dự án EU đã tổ chức 178 khoá do chuyên gia quốc tế và trong nước đào tạo được 3.337 học viên, chủ yếu là giảng viên, giáo viên du lịch, trong đó có 2.579 học viên được nhận chứng chỉ Đào tạo viên du lịch của Hội đồng cấp chứng chỉ Du lịch Việt Nam. Đã đào tạo 40 giảng viên kỹ năng đào tạo, trong đó 18 người đã được Hội đồng cấp chứng chỉ Du lịch Việt Nam (VTCB) công nhận là giảng viên của Hội đồng. 1 Trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội, Trường Cao đẳng nghề Du lịch Huế, Trường Trung cấp nghiệp vụ Du lịch Khách sạn Saigontourist (Tổng công ty Du lịch Sài Gòn ) và Trường cao đẳng nghề Du lịch Vũng Tàu. 16
- c) Chương trình, giáo trình và phương pháp đào tạo: Năm 2004 đã ban hành chương trình khung trung học chuyên nghiệp ngành Du lịch. Được Tổng cục Dạy nghề Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội hỗ trợ, hướng dẫn, đến nay đã xây dựng và ban hành 8 Chương trình khung đào tạo nghề trình độ cao đẳng nghề và trung cấp nghề1. Trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội thí điểm xây dựng danh mục ngành đào tạo du lịch trình độ trung cấp và cao đẳng. Các chương trình khung đào tạo nghề và 14 chương trình đào tạo chuyên nghiệp được biên soạn trước đây trong khuôn khổ Chương trình hành động quốc gia về du lịch2 được phổ biến và tổ chức thực hiện, tạo cơ sở tốt cho các cơ sở đào tạo du lịch trong toàn quốc. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức 8 trường du lịch trực thuộc Bộ biên soạn 16 giáo trình đào tạo chuyên ngành3 (8 giáo trình đã nghiệm thu). Đây là những cơ sở quan trọng tiến tới có chương trình, giáo trình chuẩn, sử dụng chung trong cả nước. Được các Bộ liên quan thống nhất, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành tạm thời chương trình khung bồi dưỡng ngắn hạn nghiệp vụ hướng dẫn du lịch và ngoại ngữ du lịch. 2.1.3. Kết quả đào tạo: a) Đào tạo mới: Hiện nay, mỗi năm cả nước tuyển sinh khoảng 22.000 học sinh, sinh viên du lịch (tăng 46,7% so với năm 2005), trong đó có 3.870 sinh viên (1.770 sinh viên đại học, cao đẳng chuyên nghiệp và 2.100 sinh viên cao đẳng nghề du lịch); 18.190 học sinh (gồm 14.495 học sinh trung học chuyên nghiệp và 3.695 học sinh trung cấp nghề du lịch); sơ cấp nghề và đào tạo du lịch dưới 3 tháng chưa có số liệu thống kê đầy đủ, ước khoảng 5.000 học viên. Số lượng học sinh, sinh viên tốt nghiệp hàng năm khoảng 20.000. Đào tạo nghề sơ cấp và đào tạo ngắn hạn có xu hướng tăng. Từ năm 2003, một số trường đại học đã bắt đầu đào tạo thạc sỹ, nhưng quy mô còn hạn chế. Hiện nay chưa có cơ sở đào tạo tiến sĩ chuyên ngành Du lịch với mã số riêng. Tuyển sinh thạc sỹ và tiến sĩ với các đề tài về du lịch tăng nhưng quy mô còn hạn chế. Nhìn chung, quy mô tuyển sinh các chuyên ngành du lịch ở tất cả các bậc đào tạo ngày càng tăng. Chất lượng đào tạo có tiến bộ. Ước khoảng 70% sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng du lịch và 80% học sinh tốt nghiệp trung cấp du lịch tìm được việc làm đúng nghề được đào tạo, cơ bản đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của công việc và làm việc có hiệu quả, có khả năng tiếp tục tự đào tạo, hoà nhập với tập thể lao động và cộng đồng. Một số trường, chủ yếu là các trường du lịch của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, có học sinh, sinh viên đạt giải quốc gia và quốc tế trong các cuộc thi quốc gia về du lịch, thi tay nghề quốc gia, thi tay nghề ASEAN và thế giới. Trong điều kiện còn khó khăn, các cơ sở đào tạo du lịch đã có cố gắng đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo. Đào tạo lý thuyết gắn với 1 Gồm Chương trình khung nghề Quản trị khách sạn, nghề Kỹ thuật chế biến món ăn, nghề Quản trị Lữ hành, nghề Hướng dẫn Du lịch, nghề Dịch vụ nhà hàng, nghề Quản trị dịch vụ giải trí, thể thao, nghề Quản trị du lịch MICE và nghề Quản trị khu Resort. 2 6 chương trình trung cấp, 2 chương trình cao đẳng, 2 chương trình đại học, 2 chương trình liên thông trung cấp lên cao đẳng và 2 chương trình cao đẳng lên đại học. 3 Giáo trình cao đẳng: Quản trị khu Resort; Quản trị kinh doanh khách sạn; Quản trị kinh doanh nhà hàng. Giáo trình trung cấp: Nghiệp vụ kế toán du lịch; Nghiệp vụ đại lý lữ hành; Quản trị lưu trú (buồng); Quản lý khách sạn, nhà hàng vừa và nhỏ; Nghiệp vụ hướng dẫn; Điều hành tour du lịch. 17
- thực hành được quan tâm hơn, khắc phục cơ bản tình trạng dạy “chay”. Hầu hết các trường trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề và các khoa, tổ bộ môn du lịch của các trường đại học, cao đẳng đã tổ chức cho học sinh, sinh viên thực hành, kiến tập, thực tập, tham gia các hoạt động du lịch và các hoạt động xã hội theo định hướng nghề nghiệp. Việc xây dựng và công bố chuẩn đầu ra và thực hiện 3 công khai1 có tiến bộ. Hiện nay các cơ sở đào tạo về du lịch của cả nước đào tạo 2 55 ngành, 123 chuyên ngành, nghề du lịch và liên quan đến du lịch . b) Đào tạo lại, bồi dưỡng: Công chức hành chính của Tổng cục Du lịch được bồi dưỡng kiến thức quản lý hành chính nhà nước tiền công vụ và ngạch chuyên viên, chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp tương ứng với cơ cấu, cương vị công tác; cập nhật kiến thức tin học, ngoại ngữ và quản lý nhà nước về du lịch. Bồi dưỡng ngoại ngữ, tin học chuyển hướng mạnh từ đại trà, phong trào sang chiều sâu, nâng cao theo yêu cầu công vụ. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chỉ đạo Trường Bồi dưỡng cán bộ quản lý văn hoá, thể thao và du lịch phối hợp với các đơn vị thuộc Bộ và các địa phương 3 năm vừa qua tổ chức các lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước về du lịch cho 699 lượt học viên và 1 lớp về tài chính cho 180 lượt học viên du lịch trong toàn quốc. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chỉ đạo tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ và phương pháp giảng dạy cho 61 giáo viên của 3 trường Trung cấp Du lịch mới thành lập. Trên cơ sở Chương trình khung bồi dưỡng ngắn hạn cho hướng dẫn viên du lịch đã huy động các cơ sở đào tạo du lịch biên soạn chương trình chi tiết, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng hướng dẫn viên du lịch. Xây dựng 2 đề án đào tạo 1.000 Giám đốc khách sạn và đào tạo bồi dưỡng 1.000 hướng dẫn viên du lịch cho toàn ngành Du lịch. Dự án Phát triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam do EU tài trợ xây dựng và đưa vào vận hành hệ thống thẩm định và cấp chứng chỉ nghề theo hệ thống Tiêu chuẩn kỹ năng 13 nghề du lịch Việt Nam (VTOS). Tổ chức 30 khoá đào tạo Đào tạo viên cho 700 cán bộ nghiệp vụ của các khách sạn thuộc các loại hình sở hữu tại các trung tâm du lịch lớn (8 khóa do chuyên gia quốc tế giảng bằng tiếng Anh); 4 khóa do chuyên gia quốc tế thực hiện cho 140 cán bộ quản lý nhà nước về du lịch; 4 khóa đào tạo nâng cao nhận thức về du lịch cho 80 cán bộ của ngành Hải quan và Công an về tạo điều kiện thuận lợi cho khách du lịch quốc tế đến Việt Nam; 15 khóa đào tạo cho 600 cán bộ quản lý doanh nghiệp cấp phòng trở lên; 4 khóa tiếng Anh và 4 khóa đào tạo phương pháp giảng dạy hiện đại cho 160 giáo viên. Gửi 15 giáo viên và 5 cán bộ quản lý nhà nước đi học 3 tháng ở Malaysia; 10 giáo viên học chế biến món ăn Âu 1 tháng ở Áo. Công tác đào tạo lại, bồi dưỡng viên chức quản lý và người lao động trong các doanh nghiệp du lịch cũng có tiến bộ. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du 1 Công khai chất lượng đào tạo; công khai điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo; và công khai về tài chính. 2 Các chuyên ngành chủ yếu được đào tạo ở trình độ trung cấp và dạy nghề là kỹ thuật chế biến món ăn, kỹ thuật phục vụ buồng, bàn, bar và lễ tân; ở trình độ cao đẳng và đại học chủ yếu đào tạo các chuyên ngành như quản trị kinh doanh khách sạn, du lịch, hướng dẫn du lịch và marketing du lịch. 18
- lịch, trực tiếp là Tổng cục Du lịch và Hiệp hội Du lịch quan tâm định hướng, hỗ trợ tổ chức các khoá bồi dưỡng, ưu tiên nội dung quản trị kinh doanh lữ hành, nhà hàng, lễ tân, phục vụ ăn uống, quản trị lưu trú, tiếp thị sản phẩm du lịch, tin học Nhiều khoá bồi dưỡng chuyên đề về du lịch được tổ chức cho giám đốc, phó giám đốc khách sạn, công ty lữ hành; hướng dẫn viên; nhân viên lễ tân; nhân viên bếp. Các khách sạn, khu du lịch liên doanh với nước ngoài rất chú trọng đào tạo lại và bồi dưỡng người lao động, có trung tâm đào tạo, bồi dưỡng. Các doanh nghiệp du lịch đã quan tâm bồi dưỡng cán bộ, nhân viên, liên kết với các cơ sở đào tạo để bồi dưỡng, huấn luyện đội ngũ lao động; tổ chức các phòng hoặc trung tâm đào tạo của doanh nghiệp, đầu tư nhiều cho đào tạo, bồi dưỡng ngoại ngữ, tin học và chuyên môn nghiệp vụ. Một số doanh nghiệp đã xây dựng chiến lược phát triển nhân lực, tập trung đầu tư đào tạo bộ máy khung bằng cách gửi đi học nước ngoài, mời chuyên gia của các chuỗi khách sạn quốc tế lớn đến huấn luyện hoặc gửi đi học ở các cơ sở đào tạo du lịch ở trong nước. Nhiều doanh nghiệp tập trung đào tạo đội ngũ giám sát, sử dụng các đào tạo viên đã được VTCB cấp chứng chỉ để đào tạo lại, huấn luyện nhân viên tại chỗ. 2.2. Hiện trạng quản lý nhà nước về phát triển nhân lực: 2.2.1. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về phát triển nhân lực: Hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực du lịch đã từng bước được hình thành. Ở Trung ương, Vụ Đào tạo, Vụ Tổ chức cán bộ của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Vụ Tổ chức cán bộ của Tổng cục Du lịch là cơ quan tham mưu quản lý nhà nước về phát triển nhân lực ngành Du lịch. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với Bộ Nội vụ, Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội thực hiện chức năng quản lý nhà nước về phát triển nhân lực du lịch. Ở địa phương, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với Sở Nội vụ, Sở Giáo dục và Đào tạo và Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tham mưu cho UBND cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về phát triển nhân lực du lịch trên địa bàn. Hội đồng cấp chứng chỉ Du lịch Việt Nam (VTCB) đã được thành lập để chuẩn hóa các yêu cầu đối với đào tạo các nghề du lịch, là cơ quan cấp chứng chỉ nghiệp vụ du lịch quốc gia của ngành Du lịch. Hội đồng có nhiệm vụ xác định nhu cầu đào tạo; hướng dẫn chương trình và kế hoạch đào tạo tương ứng với chứng chỉ quốc gia; tổ chức kiểm tra, đánh giá, thi và cấp chứng chỉ nghiệp vụ du lịch quốc gia. VTCB đã thiết lập hệ thống kiểm tra, đánh giá và cấp chứng chỉ nghiệp vụ du lịch trong toàn quốc; làm việc với các doanh nghiệp và cơ sở đào tạo để tăng cường số lượng tổ chức, cá nhân đăng ký tham gia Hệ thống VTOS; tổ chức thẩm định để phát Sổ kỹ năng nghề, chứng chỉ VTCB. Đã tổ chức, hướng dẫn thực hiện Tiêu chuẩn kỹ năng nghề cho 336 khách sạn và 33 công ty lữ hành có thẩm định viên với 5.064 học viên đăng kí tham gia hệ thống VTOS, trong đó có 4.784 học viên đã được cấp Sổ kỹ năng nghề. Đã thành lập 14 trung tâm thẩm định tại 14 trường cho các nghề du lịch và hơn 47 trung tâm thẩm định tạm thời tại các doanh nghiệp cho nghề phục vụ buồng, chế biến món ăn và an ninh khách sạn. Cấp trang thiết bị cho phòng dạy và kiểm tra lý thuyết, 48 phòng thực hành của 14 trường. Trong đó có 23 phòng 19
- thuộc 9 trung tâm thẩm định tại các trường du lịch đã được VTCB chính thức phê duyệt, công nhận để tiến hành thẩm định tất cả nghiệp vụ. 1.806 thẩm định viên 12 kỹ năng nghề đã được đào tạo. Hoàn thành xây dựng ngân hàng đề thi với hơn 1.600 câu hỏi lý thuyết và thực hành ở trình độ cơ bản cho 12 kỹ năng nghề. Xây dựng phương án thành lập Hội đồng tiêu chuẩn kỹ năng nghề du lịch Việt Nam trực thuộc Tổng cục Du lịch để vận hành hệ thống VTOS. 2.2.2. Hệ thống chính sách phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch1: Liên quan đến phát triển nhân lực ngành Du lịch có Luật Lao động, Luật Giáo dục 2005, Luật Du lịch 2005, Luật Dạy nghề 2006 và các nghị định của Chính phủ quy định chi tiết thi hành các luật nêu trên. Các văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục và đào tạo được cụ thể hóa thành quy chế tổ chức và hoạt động của cơ sở đào tạo du lịch; tiêu chuẩn hướng dẫn viên du lịch quốc tế, nhân viên phục vụ khách sạn, quy trình đào tạo lại, bồi dưỡng nhân lực của Ngành. Việc bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân chuyển, từ chức, miễn nhiệm công chức, viên chức lãnh đạo được tiến hành đúng tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục theo quy định của Thủ tướng Chính phủ và các quy định tại các văn bản hướng dẫn của các Bộ, ngành liên quan. Công tác kiểm tra, thanh tra đào tạo du lịch được quan tâm: Thanh tra việc sử dụng và cấp văn bằng, chứng chỉ không hợp pháp; tổ chức kiểm tra, thanh tra công tác tuyển sinh hàng năm. Chiến lược phát triển nhân lực ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch đến năm 2020, tầm nhìn 2030 đang được xây dựng; 63 Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã được tập huấn xây dựng Chương trình phát triển nhân lực văn hóa, thể thao và du lịch của địa phương, trong đó có nhân lực du lịch. Các điều kiện tạo thuận lợi cho xã hội hóa đào tạo nhân lực du lịch được đề xuất để tổng hợp chung vào Nghị định Chính phủ về xã hội hóa các lĩnh vực văn hóa, thể thao và đào tạo. Hệ thống Tiêu chuẩn kỹ năng 13 nghề (VTOS)2, quy định tiêu chuẩn hướng dẫn viên du lịch quốc tế, tiêu chuẩn giám đốc và nhân viên khách sạn được xây dựng làm cơ sở cho việc sử dụng và đào tạo nhân lực gắn kết với nhau và với nhu cầu xã hội; người có nhu cầu đào tạo có thể tự học, góp phần nâng cao và công nhận tiêu chuẩn phục vụ cho nhân lực có trình độ cơ bản. Đã đề xuất với Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội danh mục 24 nghề và vị trí làm việc thuộc lĩnh vực Khách sạn và Lữ hành phải sử dụng lao động qua đào tạo3. 1 Hệ thống chính sách của Nhà nước liên quan đến phát triển nhân lực ngành Du lịch bao gồm: Chính sách về quản lý phát triển du lịch; quy định những tiêu chuẩn nghề nghiệp du lịch, chương trình đào tạo chuyên ngành; Chính sách về giáo dục, đào tạo Du lịch: về cơ sở đào tạo Du lịch, chương trình đào tạo, tiêu chuẩn giáo viên, chế độ đối với giáo viên và người học, học phí; Chính sách về lao động du lịch: Quy định chế độ làm việc, thời gian làm việc, chế độ bảo hiểm, tiền lương, đào tạo nghề. 2 13 nghề gồm : Nghiệp vụ phục vụ buồng, lễ tân, nhà hàng, chế biến món ăn Âu, chế biến món ăn Việt Nam, làm bánh Âu, đặt giữ chỗ buồng khách sạn, quản lý khách sạn vừa và nhỏ, an ninh khách sạn, đại lý lữ hành, điều hành tour, hướng dẫn du lịch, đặt giữ chỗ trong lữ hành) và chuẩn tiếng Anh TOEIC trong du lịch. 3 Đối với ngành Khách sạn có 8 nghề, vị trí công việc: Lễ tân; Phục vụ buồng; Phục vụ nhà hàng; Phục vụ bar; Chế biến món ăn; Đặt giữ buồng; An ninh khách sạn; Quản lý khách sạn nhỏ và vừa. Đối với ngành Lữ hành có 16 nghề, vị trí công việc: Hướng dẫn viên du lịch quốc tế; Hướng dẫn viên du lịch nội địa; Thuyết minh viên du lịch; Điều hành tour du lịch; Điều hành phương tiện vận chuyển du lịch; Xúc tiến du lịch và phát triển thị trường; Phát triển sản phẩm du lịch; Bán sản phẩm du lịch; Quản lý khu, tuyến, điểm, đô thị du lịch; Quản lý, phát triển tài nguyên du lịch; Đại lý lữ hành; Đặt giữ chỗ lữ hành; Quản trị lữ hành; Quản trị du lịch MICE; Quản trị dịch vụ giải trí, thể thao và dịch vụ du lịch khác. 20
- Tăng cường xây dựng tiêu chuẩn kỹ năng nghề và đánh giá thẩm định kỹ năng nghề. Đề nghị và được Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội cho xây dựng và đã nghiệm thu tiêu chuẩn kỹ năng 8 nghề1, đang chờ thỏa thuận để ban hành theo quy định của Luật Dạy nghề. Đây là những nghề sử dụng nhiều lao động, đã có chương trình khung đào tạo trình độ cao đẳng nghề và trung cấp nghề và cần đánh giá để cấp phép hành nghề. 2.3. Hiện trạng liên kết đào tạo phát triển nhân lực: 2.3.1. Liên kết, hợp tác quốc tế: Trong lĩnh vực du lịch đã ký kết 44 hiệp định song phương và văn bản hợp tác cấp chính phủ với các nước, Hiệp định hợp tác du lịch 10 nước ASEAN, tham gia các tổ chức quốc tế liên quan đến du lịch, các chương trình và dự án hợp tác khu vực, liên khu vực. Trong các cam kết quốc tế đó hợp tác phát triển nhân lực du lịch luôn là nội dung được ưu tiên. Tổng cục Du lịch đã tham gia xây dựng và ký tiêu chuẩn nghề du lịch ASEAN và cơ chế thừa nhận lẫn nhau, công nhận kỹ năng 37 nghề du lịch, khách sạn và liên quan. Đây là cơ sở quan trọng để các nước ASEAN thống nhất ký hiệp định chung về hợp tác đào tạo và sử dụng lao động du lịch. Việc huy động nguồn lực quốc tế cho phát triển nhân lực ngành Du lịch trong những năm qua đã thu được những kết quả đáng kể cả về kinh phí, kinh nghiệm, công nghệ. Chính phủ Luxembourg tài trợ 4 Dự án đào tạo nhân lực du lịch - khách sạn với tổng số gần 15 triệu USD, Liên minh châu Âu (EU) tài trợ Dự án phát triển nguồn nhân lực du lịch 12 triệu EURO là những dự án lớn với mục tiêu phát triển toàn diện nguồn nhân lực du lịch Việt Nam. Dự án ADB “Phát triển Du lịch bền vững Tiểu vùng Sông Mekong mở rộng” đang triển khai Hợp phần “Phát triển nhân lực Du lịch Việt Nam” với kinh phí 2,5 triệu USD (đào tạo cán bộ quản lý nhà nước về du lịch và liên quan; đào tạo lao động của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong du lịch). Bên cạnh đó còn có các dự án hỗ trợ kỹ thuật của Tây Ban Nha, Singapore, Bỉ, Tổ chức Du lịch thế giới (UNWTO), Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), Thái Lan, Hàn Quốc, Pháp, Đức, Áo, EU, GMS, ESCAP, ASEAN, ASEAN+1, ASEAN+3 ; nhiều chương trình nghiên cứu, khảo sát, tư vấn, cấp học bổng đào tạo dài hạn, ngắn hạn và các khóa đào tạo về nghiệp vụ du lịch, ngoại ngữ, tin học được tổ chức. Phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo chuẩn bị Đề án đề nghị Thụy Sĩ hỗ trợ đào tạo du lịch cho cán bộ quản lý nhà nước, cán bộ quản trị kinh doanh và lao động có tay nghề cao; với Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (Tổng cục Dạy nghề) đề nghị Hungaria hỗ trợ Dự án ODA cho Trường Cao đẳng nghề Du lịch Đà Nẵng. Đến nay, tổng vốn ODA đã thu hút được cho công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch ước khoảng 50 triệu USD, không kể số vốn ODA mà các nước, các tổ chức quốc tế hỗ trợ dưới nhiều hình thức cho các khoa, bộ môn đào tạo du lịch của các trường đại học trong cả nước. 1 Gồm: Nghề Quản trị Khách sạn, nghề Kỹ thuật chế biến món ăn, nghề Quản trị Lữ hành, nghề Hướng dẫn Du lịch, nghề Dịch vụ nhà hàng, nghề Quản trị Du lịch MICE, nghề Quản trị Khu Resort và nghề Quản trị dịch vụ thể thao giải trí. 21
- Các đối tác liên kết chủ yếu là các cơ sở đào tạo du lịch trong ASEAN, Trung Quốc, Úc, Canada và một số nước Châu ÂU. 20 cơ sở đào tạo du lịch nước ta tham gia mạng lưới cơ sở đào tạo du lịch châu Á-Thái Bình Dương (APETIT), 06 cơ sở tham gia mạng lưới cơ sở đào tạo du lịch ASEAN. Hình thức liên kết đào tạo đa dạng như kết hợp đào tạo trong nước và học chuyển tiếp tại nước ngoài, đào tạo qua mạng, trao đổi sinh viên thực tập, mời chuyên gia vào giảng dạy. Một số cơ sở đào tạo mời tình nguyện viên quốc tế vào làm việc, hỗ trợ đào tạo nhân lực ngành Du lịch. Một số doanh nghiệp du lịch có vốn đầu tư nước ngoài có nhiều chuyên gia quốc tế giỏi vào đào tạo, bồi dưỡng tại chỗ, góp phần đáng kể nâng cao chất lượng nhân lực ngành Du lịch. 2.3.2. Liên kết trong nước: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã chỉ đạo, hướng dẫn và tuyên truyền phổ biến, xây dựng kế hoạch hành động thực hiện các thỏa thuận liên kết đào tạo. Tổ chức điều tra nhân lực và xây dựng trang thông tin nhân lực ngành Du lịch, giúp các cơ sở đào tạo và các doanh nghiệp du lịch tiếp cận thị trường lao động và hình thành cơ sở liên kết xuất phát từ thị trường lao động. Đã phối hợp hướng dẫn đánh giá năng lực đào tạo trong các cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng và trung cấp về các mặt: Đội ngũ giảng viên, giáo viên, chương trình đào tạo, cơ sở vật chất. Nắm lại và thông tin giữa Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội về thực trạng nguồn nhân lực ngành Du lịch đã được đào tạo thời gian qua. UBND cấp tỉnh tăng cường chỉ đạo các cơ sở đào tạo du lịch trên địa bàn và các hiệp hội nghề nghiệp thực hiện chủ trương đào tạo nhân lực theo nhu cầu xã hội. Từng địa phương đang xây dựng Chương trình phát triển nhân lực ngành Du lịch đến năm 2020, tầm nhìn 2030. Các Sở liên quan ở địa phương đã phối hợp thúc đẩy công tác phát triển nhân lực ngành Du lịch; có bước chuyển trong việc cung cấp thông tin về xu hướng và cơ cấu đầu tư để đào tạo và cung ứng nhân lực đáp ứng sự phát triển; về nhu cầu lao động các lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý của Sở; về nhu cầu vốn và khả năng các nguồn vốn cho triển khai các chương trình đào tạo nhân lực của Ngành trên địa bàn. Nhiều cơ sở đào tạo du lịch liên kết với nhau, với doanh nghiệp, Hiệp hội Du lịch và các Sở để xây dựng chương trình đào tạo, cấp chứng chỉ các trình độ, ngành nghề do đối tác đặt hàng, tham gia đóng góp xây dựng và đánh giá chương trình đào tạo, tạo điều kiện cho các cơ sở đào tạo tiếp cận tốt hơn với nhu cầu đào tạo, khảo sát doanh nghiệp để đánh giá chất lượng đào tạo và hoàn thiện, đổi mới chương trình đào tạo cho phù hợp thực tiễn. Các trường du lịch trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Trường Trung cấp Du lịch và Khách sạn Saigontourist đã thành lập Câu lạc bộ Hiệu trưởng các trường du lịch để giao lưu, học tập chia sẻ kinh nghiệm trong quản lý đào tạo, trao đổi chương trình, giáo trình, giảng viên, giáo viên, sinh viên, hợp tác hỗ trợ nhau đào tạo, nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế, liên kết đào tạo chặt chẽ hơn. Một số cơ sở đào tạo du lịch đã thành lập Ban Hướng nghiệp và Tư vấn việc làm để tư vấn, giới thiệu ngành nghề, chuyên ngành đào tạo, cơ hội việc làm sau khi tốt nghiệp cho đối tượng tuyển sinh của trường; tư vấn phương pháp 22
- học tập, nội dung, đặc điểm ngành, nghề và trình độ đang được đào tạo; chính sách, pháp luật Nhà nước liên quan đến ngành, nghề cho người học; tham gia với địa phương về công tác hướng nghiệp và tư vấn việc làm, đào tạo theo yêu cầu xã hội; thiết lập hệ thống thông tin về việc làm, thông tin hai chiều giữa nhà trường và đơn vị sử dụng lao động; về học sinh, sinh viên tốt nghiệp theo từng năm học để cung cấp cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng lao động. Doanh nghiệp du lịch đã tạo điều kiện cho cán bộ quản lý cao cấp và chuyên gia giỏi tham gia giảng dạy tại các cơ sở đào tạo, làm giáo viên thỉnh giảng hoặc báo cáo chuyên đề; hỗ trợ trang thiết bị dạy, học và tài liệu học tập; tư vấn thiết kế các phòng thực hành (buồng, bàn bar, bếp) và mua sắm trang thiết bị, tài liệu học tập chuyên ngành cho cơ sở đào tạo. Đã tạo điều kiện để sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh thực tập, nghiên cứu thực hiện các đề tài khóa luận, luận văn và luận án liên quan đến hoạt động doanh nghiệp. Doanh nghiệp đối tác đã tài trợ hàng tỷ đồng, hàng trăm nghìn đô la cho cơ sở đào tạo du lịch; tạo điều kiện cho giảng viên, giáo viên kiến tập tại doanh nghiệp, cấp học bổng cho sinh viên đạt kết quả cao trong học tập; nhận sinh viên, học sinh học giỏi, xuất sắc vào làm việc ngay sau tốt nghiệp. Việc các cơ sở đào tạo đạo tạo, bồi dưỡng người lao động theo đơn đặt hàng của các doanh nghiệp, hiệp hội và cơ quan quản lý nhà nước về du lịch đã phổ biến hơn. Quan hệ phối hợp giữa cơ sở đào tạo và các đối tác được tăng cường trong thẩm định đề tài, dự án mang tính chuyên môn và khả năng ứng dụng trong ngành Du lịch; tổ chức hội thảo khoa học, giới thiệu việc làm; hỗ trợ cơ sở đào tạo luyện kỹ năng “mềm” cho học sinh, sinh viên, gắn đào tạo trong trường với hoạt động thực tiễn của doanh nghiệp. 2.4. Đánh giá chung về hiện trạng phát triển nhân lực ngành Du lịch: 2.4.1.Ưu điểm: Mạng lưới cơ sở đào tạo du lịch các trình độ từ sơ cấp, trung cấp, cao đẳng đến đại học được hình thành và mở rộng. Số lượng cơ sở đào tạo tăng nhanh, phủ kín hầu hết các tỉnh1; cơ cấu đa dạng về loại hình sở hữu, cấp đào tạo và ngành nghề đào tạo; phần lớn tập trung ở các đô thị, trung tâm du lịch trọng điểm, địa bàn đông dân cư, tạo thuận lợi cho người học và gắn với nhu cầu sử dụng nhân lực, đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội và nhu cầu khách du lịch. Hầu các tỉnh, thành phố đã có trung tâm đào tạo, bồi dưỡng nghề du lịch ngắn hạn hoặc trung tâm đào tạo đa ngành nghề tham gia đào tạo du lịch. Năng lực đào tạo, bồi dưỡng của hệ thống cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch trong toàn quốc từng bước được nâng cao. Đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật (cả nơi dạy lý thuyết và thực hành) và trang thiết bị giảng dạy tuy còn khó khăn về kinh phí, nhưng đã có tiến bộ. Đội ngũ giảng viên, giáo viên và cán bộ quản lý đào tạo du lịch tăng về số lượng và từng bước được chuẩn hóa. Các cơ sở đào tạo chuyên về du lịch đã chủ động xây dựng chương trình, giáo trình. Một số khoa và bộ môn du lịch ở các trường đại học, cao đẳng và trung cấp 1 10 tỉnh chưa có cơ sở đào tạo du lịch là Lai Châu, Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Hà Nam, Ninh Thuận, Bình Phước, Tây Ninh, Sóc Trăng. 23
- chuyên nghiệp, trường dạy nghề đã và đang xây dựng chương trình các chuyên ngành, các nghề du lịch; biên soạn giáo trình và tài liệu tham khảo, chuyên khảo. Quy mô đào tạo, bồi dưỡng hàng năm tăng dần. Quy mô đào tạo mới tăng mạnh, chất lượng cơ bản đảm bảo, dần gắn với nhu cầu xã hội. Cơ cấu ngành, nghề đào tạo từng bước chuyển dịch theo hướng tích cực. Nhiều ngành, nghề đào tạo mới xuất hiện đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch, nhu cầu đào tạo du lịch nói riêng và phát triển kinh tế-xã hội trong hội nhập quốc tế nói chung. Công tác đào tạo lại, bồi dưỡng được Tổng cục Du lịch chú trọng; từ khi Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch được thành lập, công tác đào tạo lại và bồi dưỡng nhân lực ngành Du lịch tiếp tục được quan tâm và có thêm điều kiện cả về bộ máy, nhân lực và kinh phí để thực hiện, có Trường Bồi dưỡng cán bộ quản lý văn hóa, thể thao và du lịch chuyên trách đảm nhiệm. Đào tạo tại chỗ, truyền nghề và bồi dưỡng nhân lực của doanh nghiệp được đầu tư. Quản lý nhà nước về phát triển nhân lực có tiến bộ. Hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực du lịch đã từng bước được hình thành từ trung ương đến địa phương, phối hợp thường xuyên và chặt chẽ với các Bộ, ngành và địa phương thực hiện chức năng quản lý nhà nước về phát triển nhân lực ngành Du lịch. Hệ thống văn bản quản lý nhà nước về phát triển nhân lực du lịch dần được xây dựng hoàn thiện, được phổ biến, tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện, tạo khuôn khổ pháp lý thuận lợi cho các bên tham gia phát triển nhân lực ngành Du lịch. Liên kết và hợp tác quốc tế về đào tạo nhân lực ngành Du lịch đạt được những kết quả đáng khích lệ, thu hút được vốn tài trợ, kinh nghiệm và công nghệ cho phát triển nhân lực. Liên kết đào tạo du lịch ở trong nước đã khắc phục dần tính tự phát, liên kết đào tạo giữa Nhà nước-Nhà trường-Nhà sử dụng lao động đạt những kết quả tốt. 2.4.2. Hạn chế: Phân bổ mạng lưới cơ sở đào tạo du lịch còn bất hợp lý. Nhu cầu đào tạo nhân lực ngành Du lịch trong cả nước rất lớn, nhưng các cơ sở tham gia đào tạo du lịch lại chủ yếu chỉ tập trung ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Nha Trang1. Khu vực Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nam bộ và Tây Nguyên là các trọng điểm du lịch hoặc đang trở thành các trung tâm du lịch còn thiếu cơ sở đào tạo du lịch, trước mắt là trường trung cấp nghề du lịch. Do điều kiện khó khăn, học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông, trung học cơ sở ở các vùng này ít có điều kiện tiếp tục học cao hơn và học nghề du lịch tại các trường ngoại tỉnh. Năng lực đào tạo của mạng lưới cơ sở đào tạo còn nhiều hạn chế. Cơ sở vật chất kỹ thuật và trang thiết bị của đa số cơ sở đào tạo du lịch thiếu, cũ kỹ, lạc hậu, không đồng bộ và còn khoảng cách khá lớn so với các khách sạn (nhất là khách sạn liên doanh, khách sạn từ 3 sao trở lên), các khu nghỉ dưỡng cao cấp 1 Hà Nội có 15 trường đại học, 18 trường cao đẳng, 27 trường trung cấp, 10 trung cấp nghề, 1 trung tâm dạy nghề và 01 chi nhánh đào tạo nghề; TP. Hồ Chí Minh có 16 trường đại học, 12 cao đẳng, 22 trường trung cấp và 6 trung tâm dạy nghề; Đà Nẵng có 5 trường đại học, 7 trường cao đẳng chuyên nghiệp, 2 trường cao đẳng nghề, 5 trường trung cấp chuyên, 1 trung cấp nghề, 2 trung tâm dạy nghề; Nha Trang (Khánh Hòa) có 2 trường đại học, 4 trường cao đẳng, 2 trường cao đẳng nghề, 3 trường trung cấp chuyên nghiệp và 1 trường trung cấp nghề). 24
- (resort), công ty lữ hành, vận chuyển. Chương trình, giáo trình đào tạo chuyên ngành Du lịch ở các cấp đào tạo đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện, chưa cập nhật lý luận và thực tiễn. Hiện mới có chương trình khung đào tạo trung cấp, chưa có chương trình khung cao đẳng chuyên nghiệp và đại học du lịch; có những giáo trình ở một số trường chưa đạt tiêu chuẩn. Tính liên thông của chương trình đang là vấn đề cần giải quyết; phương pháp đào tạo còn nặng thuyết trình, độc thoại. So với chuẩn quy định và nhu cầu đào tạo, đội ngũ giáo viên, giảng viên và đào tạo viên du lịch còn hạn chế về số lượng, chất lượng và cơ cấu, đặc biệt thiếu giáo viên tay nghề cao. Kiến thức chuyên sâu về du lịch của giảng viên, giáo viên tích lũy chủ yếu qua các lớp bồi dưỡng và tự học; số giảng viên giáo viên sử dụng thành thạo ngoại ngữ không nhiều; lực lượng giáo viên cơ hữu mỏng và rất khác nhau giữa các nhóm trường1. Đội ngũ giảng viên, giáo viên được đào tạo chính quy chuyên ngành du lịch có trình độ, chuyên môn vững về du lịch chiếm tỷ lệ rất thấp (khoảng 30%), phần lớn còn lại có chuyên môn không phải là du lịch. Các doanh nghiệp chưa sử dụng tốt đội ngũ đào tạo viên du lịch để đào tạo tại chỗ2. Đây là khó khăn rất lớn cho công tác hội nhập của các cơ sở đào tạo chuyên ngành, hạn chế sức cạnh tranh. Quy mô đào tạo mới tuy tăng mạnh, nhưng chưa đáp ứng nhu cầu xã hội. Tuyển sinh hàng năm ở các bậc đào tạo mới đáp ứng được hơn 65% nhu cầu đào tạo du lịch của xã hội (đã loại trừ nhu cầu ảo), khoảng 75% nhu cầu nhân lực làm việc trực tiếp của Ngành. Các doanh nghiệp thiếu nhân lực lành nghề, nhưng sau tuyển dụng những người vừa tốt nghiệp lại phải đào tạo lại. Đào tạo nghệ nhân, giám đốc, chức danh quản lý cao cấp (như nhân viên tiếp thị, Maitre d’Hotel ) và chuyên gia chưa được chú trọng, chưa có cơ sở đào tạo nào làm việc này. Đào tạo lại và bồi dưỡng chưa theo kịp yêu cầu. Số lượng lao động du lịch phải đào tạo lại và bồi dưỡng rất lớn, nhưng các trung tâm đào tạo ở các doanh nghiệp và các lớp đào tạo lại, bồi dưỡng do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Tổng cục Du lịch và các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức đáp ứng thấp. Chất lượng đào tạo mới chưa đảm bảo. Tình trạng phổ biến hiện nay là các doanh nghiệp du lịch thiếu nhân lực tay nghề cao trong khi nhiều cử nhân du lịch phải làm những công việc đòi hỏi chỉ cần đào tạo ở trình độ thấp hơn, nhưng kỹ năng phải lành nghề. Nhiều doanh nghiệp du lịch rất cần đội ngũ nhân lực kỹ thuật thực hành có trình độ cao đẳng, nhưng các trường cao đẳng nghề Du lịch mới có khóa sinh viên đầu tiên ra trường, chưa đáp ứng kịp. Trường Bồi dưỡng cán bộ văn hóa, thể thao và du lịch đang trong quá trình củng cố, gặp nhiều khó khăn trong đào tạo lại, bồi dưỡng về du lịch. Chất lượng đào tạo lại, bồi dưỡng hạn chế, chưa theo kịp yêu cầu ngày càng cao của ngành Du lịch trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Một số khoá đào tạo lại, bồi dưỡng cán bộ, công chức thiên về coi trọng chứng chỉ, nhằm mục tiêu “xoá nợ”, để có đủ chứng chỉ xét bổ nhiệm vào ngạch, nâng lương, nâng ngạch, chưa thực hiện được mục tiêu 1 Các trường công lập và đào tạo chuyên về du lịch hầu hết có tỷ lệ giáo viên cơ hữu cao, còn các trường ngoài công lập, trường mới thành lập và trường mở thêm chuyên ngành Du lịch tỷ lệ giáo viên cơ hữu thấp (thường dưới 50%). 2 Theo VTCB thì mới có 28% số đào tạo viên được EU đào tạo tức là khoảng 700 đào tạo viên trong số 2.500 đào tạo viên du lịch, được thực hiện đào tạo tại chỗ trong doanh nghiệp. 25
- nâng cao trình độ. Một số khoá bồi dưỡng ở nước ngoài hoặc do chuyên gia nước ngoài dạy phần lớn phải qua phiên dịch, tốn thời gian, hiệu quả thấp. Việc đào tạo lại, bồi dưỡng lao động tại doanh nghiệp còn nhiều bất cập, thiếu giáo viên và tài liệu học tập. Nhiều doanh nghiệp (nhất là khách sạn, nhà hàng) tuyển dụng lao động phổ thông vào làm việc, chưa được đào tạo kỹ năng nghề, nhưng không quan tâm đào tạo tại chỗ. Bộ máy quản lý nhà nước về phát triển nhân lực ngành Du lịch chưa đủ mạnh. Vụ Đào tạo và Vụ Tổ chức cán bộ của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phải kiêm nhiệm công tác quản lý nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng cả 3 khối ngành Văn hóa nghệ thuật, Thể dục thể thao và Du lịch. Tổng cục Du lịch chỉ có một bộ phận phụ trách công tác đào tạo thuộc Vụ Tổ chức cán bộ. Nhiều địa phương, ngay cả địa phương là trọng điểm du lịch, chưa có bộ phận chuyên trách quản lý phát triển nhân lực ngành Du lịch. Tổ chức quản lý về phát triển nhân lực ngành Du lịch phân tán, thiếu sự phối hợp dẫn đến chồng chéo, bỏ sót, buông lỏng, làm giảm hiệu lực và hiệu quả quản lý. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về dạy nghề du lịch ở các địa phương còn mỏng, thiếu về số lượng và yếu về chất lượng, chưa tương xứng nhiệm vụ được giao. Biên chế công chức quản lý nhà nước về phát triển nhân lực ngành Du lịch hạn hẹp. Chưa có chính sách dài hạn về cơ cấu đào tạo theo cấp trình độ và ngành, nghề; thiếu giải pháp điều chỉnh sự bất hợp lý và không có tính hệ thống về cơ cấu đào tạo, chưa quan tâm và tập trung tăng đào tạo nghề dài hạn. Một số chính sách hiện hành vẫn mang tính bao cấp của Nhà nước, làm cho các cơ sở đào tạo du lịch công lập tiếp tục ỷ lại, trông chờ kinh phí cấp phát. Cơ chế cấp ngân sách nhà nước cho đào tạo nhân lực chậm đổi mới, cải tiến; định mức thấp nên không đáp ứng yêu cầu đảm bảo chất lượng đào tạo. Chưa có chính sách thoả đáng và hiệu quả để gắn kết cơ sở đào tạo với cơ sở sử dụng nhân lực và với hoạt động nghiên cứu khoa học về phát triển nhân lực ngành Du lịch. Chưa có cơ chế huy động sự tham gia tích cực, thiết thực và hiệu quả của doanh nghiệp vào đào tạo nhân lực ngành Du lịch. Chính sách khuyến khích phát triển đào tạo nhân lực ngành Du lịch ở vùng nông thôn, miền núi (nơi có nhiều tiềm năng, tài nguyên du lịch) chưa đủ, lại tổ chức triển khai chưa tốt, còn có sự buông lỏng quản lý. Sự cách biệt về chất lượng đào tạo giữa các cơ sở đào tạo nhân lực du lịch ở đô thị, ở một số vùng đồng bằng và các cơ sở đào tạo du lịch ở vùng sâu, vùng xa còn lớn, nhưng chưa có biện pháp giải quyết. Cơ chế tạo cạnh tranh trong đào tạo nhân lực ngành Du lịch còn thiếu, không có động lực thúc đẩy nâng cao chất lượng đào tạo và người có nhu cầu đào tạo chịu thiệt. Chưa kiểm soát được chất lượng đào tạo và chưa thực hiện được vai trò định hướng đào tạo, liên kết đào tạo và sử dụng nhân lực Ngành. Thiếu những quy định và cơ chế phối hợp, liên kết giữa cơ quan quản lý với nhau và với các cơ sở đào tạo, cơ sở sử dụng nhân lực ngành Du lịch. Tình trạng cơ sở đào tạo du lịch còn độc quyền, chưa gắn với nhu cầu xã hội; cơ sở sử dụng nhân lực không quan tâm thỏa đáng đến đào tạo, bồi dưỡng nhân lực còn phổ biến. Danh mục ngành, nghề đào tạo du lịch lạc hậu, còn quá ít so với yêu 26
- cầu sử dụng, chậm được sửa đổi, bổ sung, chưa tính hết yêu cầu của thị trường nên không đáp ứng yêu cầu nhân lực của thực tiễn. Danh mục ngành, nghề đào tạo chuyên nghiệp và đào tạo nghề liên quan đến du lịch gần đây có được bổ sung, sửa đổi, nhưng còn lạc hậu so với yêu cầu phát triển của khoa học - công nghệ, hội nhập quốc tế và chưa tiếp cận được với những xu thế đào tạo du lịch mới, nên thiếu nhiều nghề so với yêu cầu của thực tế, nhất là những nghề mới. Liên kết quốc tế trong đào tạo phát triển nhân lực ngành Du lịch mới dừng ở việc ký hiệp định hợp tác. Nội dung hợp tác phát triển nhân lực ngành Du lịch chưa được cụ thể hóa để thực hiện và chưa đạt hiệu quả mong muốn. Mới tập trung vào khai thác vốn tài trợ, chưa chú trọng khai thác công nghệ, kinh nghiệm và chất xám của chuyên gia quốc tế và người Việt Nam ở nước ngoài. Các cơ sở đào tạo chưa chuẩn bị được chương trình hợp tác quốc tế, lúng túng trong tìm đối tác và thường là thụ động trông chờ hỗ trợ của Nhà nước, của Bộ và Tổng cục Du lịch. Đã có những cơ sơ đào tạo có các quan hệ hợp tác với cơ sở đào tạo ngoài nước, nhưng triển khai khó khăn do còn hạn chế về nhiều mặt cả về nhân lực, trang thiết bị và các điều kiện khác. Liên kết đào tạo nhân lực ngành Du lịch theo nhu cầu xã hội ở trong nước chưa tốt. Liên kết giữa 3 nhà (Nhà nước-Nhà trường-Nhà sử dụng lao động) tuy đã khắc phục được một số hạn chế, bất cập, nhưng vẫn còn rời rạc, chưa bài bản. Liên kết giữa các cơ sở trong mạng lưới đào tạo về du lịch chưa hiệu quả. Thông tin của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Tổng cục Du lịch và chính quyền địa phương về định hướng phát triển nhân lực du lịch (nhất là thông tin dự báo nhu cầu lao động, các chuẩn ngành, nghề) đến các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp chưa thường xuyên; cơ sở đào tạo và doanh nghiệp tự tìm tòi là chính, nên không biết đầy đủ nhu cầu đào tạo và nhu cầu nhân lực (cả số lượng, chất lượng và cơ cấu), làm cho cung không gặp cầu. 3. Đánh giá tổng quan về những mặt mạnh, hạn chế, cơ hội và thách thức đối với phát triển nhân lực ngành Du lịch 3.1. Những mặt mạnh: 1) Đảng và Nhà nước xác định giáo dục là quốc sách hàng đầu, được thể chế hóa trong Luật Giáo dục, Luật Dạy nghề và các chính sách ưu tiên, khuyến khích, hỗ trợ phát triển nhân lực nói chung và nhân lực du lịch nói riêng. Luật Du lịch, các chính sách, chương trình, đề án phát triển du lịch đều coi phát triển nhân lực du lịch là một trong những trọng tâm ưu tiên. Các ngành, các cấp đã từng bước nhận thức đúng mức về vai trò của nhân lực trong quản lý phát triển du lịch và là yếu tố then chốt quyết định chất lượng dịch vụ du lịch. 2) Thị trường lao động mới nổi với nguồn cung lao động dồi dào là điều kiện thuận lợi để những năm qua ngành Du lịch đã xây dựng được lực lượng lao động đông đảo với độ tuổi nghề trẻ, cần cù, chịu khó, năng động, ham học hỏi, thông minh, khéo léo, ứng xử linh hoạt trước các biến động của thị trường và yêu cầu hội nhập. Thời gian qua, nhân lực du lịch được đào tạo từ nhiều nguồn trong hệ thống giáo dục đặc trưng của cơ chế bao cấp trước đây đã nhanh chóng, linh hoạt thích ứng với cơ chế thị trường, hội nhập và cạnh tranh. 27
- 3) Mạng lưới giáo dục, đào tạo du lịch và liên quan từ sơ cấp, trung cấp, cao đẳng đến đại học và sau đại học được hình thành và nhanh chóng khẳng định vai trò cung cấp nhân lực được đào tạo chuyên sâu về du lịch để từng bước đáp ứng nhu cầu nhân lực du lịch ở từng thể loại. Hệ thống cơ sở đào tạo được tăng cường cả về số lượng và năng lực đào tạo. Tỷ lệ nhân lực được đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn du lịch ngày càng cao; chất lượng đào tạo được cải thiện thể hiện ở tỷ lệ tìm được việc làm đúng chuyên ngành sau tốt nghiệp ngày càng cao. 4) Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học, đặc biệt là đào tạo kỹ năng nghề tại các cơ sở đào tạo chuyên về du lịch hoàn thiện dần. Hệ thống chương trình khung các nghề du lịch chính ở trình độ cao đẳng trở xuống được xây dựng và áp dụng thống nhất; 13 tiêu chuẩn kỹ năng nghề VTOS được ban hành và ứng dụng; hệ thống thẩm định và chứng nhận VTCB được thiết lập sẽ đẩy nhanh quá trình đào tạo, truyền nghề và chứng nhận nghề du lịch. 5) Lực lượng giáo viên, giảng viên, đào tạo viên du lịch ngày càng tăng về số lượng và tăng cường về trình độ chuyên môn, ngoại ngữ và kiến thức, kỹ năng hội nhập. Chương trình liên kết trong nước và quốc tế, các chương trình bồi dưỡng, chương trình phát triển đào tạo viên và các diễn đàn trao đổi chuyên môn đã liên tục tiến hành để xây dựng một thế hệ giáo viên, giảng viên, đào tạo viên du lịch lớn mạnh cả về lượng và chất. 6) Sự năng động và đa dạng hóa các hình thức đào tạo, xã hội hóa việc huy động nhiều nguồn lực cho đào tạo, bồi dưỡng du lịch, đặc biệt là đào tạo tại chỗ tại doanh nghiệp, tự đào tạo và truyền nghề thông qua đội ngũ giám sát, đào tạo viên đã nhanh khắc phục đáng kể sự hẫng hụt, yếu kém về kiến thức, kỹ năng chuyên nghiệp ở một số lĩnh vực và khu du lịch, điểm du lịch. 7) Kinh nghiệm phát triển nhân lực trong nước và quốc tế được chuyển giao và tiếp thu có chọn lọc, nhanh chóng thông qua nhiều dự án phát triển nhân lực và dự án phát triển du lịch, dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài; khả năng tiếp nhận chuyển giao kỹ thuật, cộng nghệ, kiến thức của người Việt Nam nói chung và nhân lực du lịch nói riêng được đánh giá là điểm mạnh trong phát triển nhân lực du lịch những năm qua. 3.2. Những hạn chế: 1) Một số chính sách của Nhà nước chưa thực sự phù hợp yêu cầu thực tiễn, chưa thực sự khuyến khích giáo dục đào tạo, đặc biệt trong đào tạo du lịch, như quy định về học phí đối với đào tạo nghề, chưa có mã ngành đào tạo du lịch riêng ; sự phối hợp liên ngành, liên vùng trong chính sách phát triển nhân lực du lịch chưa hiệu quả. 2) Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với giáo dục nói chung và phát triển nhân lực du lịch nói riêng chưa được cụ thể hóa thành chiến lược, quy hoạch, chương trình cụ thể; tư duy, nhận thức và hành động trong quản lý và tác nghiệp còn nhiều hạn chế, bật cập và non yếu trong cơ chế thị trường; nguồn lực đầu tư cho các chương trình, hoạt động phát triển nhân lực còn thiếu thốn, mạnh mún và cơ quan cấp kinh phí thiếu mạnh dạn, lưỡng lự. 28
- 3) Hệ thống trường, lớp, nhất là hệ chuyên nghiệp, mở ồ ạt trong khi sự chuẩn bị về nguồn lực con người (thầy), nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy, trang thiết bị cơ sở vật chất sơ sài, tùy tiện, ảnh hưởng chất lượng đào tạo và tinh thần người học. Nhiều cơ sở đào tạo vẫn dạy “chay”, lực lượng giảng viên cơ hữu quá mỏng, chương trình chắp vá ít hàm lượng thực tế, ít yếu tố mới; thiên về việc chạy theo số lượng để tăng thu, chạy theo thành thích, hình thức và thiếu nghiêm túc trong kiểm tra, đánh giá kết quả đào tạo; sự phối hợp chia sẻ trách nhiệm giữa nhà trường và doanh nghiệp trong đào tạo thực hành còn yếu dẫn tới chất lượng đào tạo hạn chế. 4) Lực lượng giáo viên, giảng viên từ nhiều nguồn khác nhau; một bộ phận lớn trưởng thành từ hệ thống giáo dục trong cơ chế cũ, nếu học ở nước ngoài chủ yếu từ các nước Đông Âu cũ; một bộ phận mới được đào tạo từ các nước có du lịch phát triển những năm qua thì còn trẻ và ít kinh nghiệm. Nhìn chung giáo viên, giảng viên du lịch rất đa dạng, thiếu chuyên môn và phương pháp giảng dạy; yếu về ngoại ngữ và phương pháp sư phạm hiện đại trong khi du lịch yêu cầu cao về kiến thức, kỹ năng hội nhập. 5) Tỷ lệ nhân lực du lịch được đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu du lịch còn tương đối thấp (dưới 45%), trong khi chất lượng đào tạo du lịch còn hạn chế và phần đông là lao động phổ thông và qua truyền nghề, huấn luyện tại chỗ. Vì vậy, mặc dù có tinh thần ham học hỏi, năng động và linh hoạt ứng phó, thích nghi trong công việc, nhưng tính chuyên nghiệp của nhân lực ngành Du lịch còn thấp so với yêu cầu hội nhập và cạnh tranh của ngành dịch vụ hướng ngoại. Tính kỷ luật trong lao động của người Việt Nam nói chung, nhân lực du lịch nói riêng còn kém; tuy nhiệt tình, cởi mở, hiếu khách nhưng tùy tiện và thiếu nguyên tắc ảnh hưởng tới chất lượng, hiệu suất công việc. 6) Nhân lực du lịch còn non yếu trong cơ chế thị trường cả trong nhận thức, tư duy và hành động. Việc đầu tư cho đào tạo của người học chưa thực sự hướng đích nghề nghiệp mà vẫn còn nặng về bằng cấp. Mức độ yêu nghề, gắn bó với nghề thấp mà chủ yếu xác định du lịch là nghề kiếm sống nhanh nhất, dễ nhất và tìm cách tận thu, tăng thu nhập trong quá trình phục vụ nhờ những mánh khóe, chộp dật, bưng bít thông tin mà không chuyên tâm học tập. 7) Nguồn lực đầu tư cho phát triển nhân lực ngành Du lịch còn hạn chế, đặc biệt ở những khu du lịch mới ở vùng sâu, vùng xa chưa có cơ sở đào tạo du lịch; trình độ mức sống dân cư thấp, rất khó khăn trong tổ chức đào tạo, huấn luyện nghề du lịch hoặc tuyển sinh vào các cơ sở đào tạo kể cả theo hệ cử tuyển. Tỷ lệ học sinh, sinh viên sau tốt nghiệp trở về địa phương làm việc thấp trong khi các vùng sâu, vùng xa, các khu du lịch mới rất thiếu nhân lực được đào tạo. 3.3. Những cơ hội: 1) Ngành Du lịch tiếp tục tăng trưởng nhanh và bền vững theo định hướng chiến lược trong thời gian tới cùng với xu hướng tăng trưởng du lịch của khu vực. Du lịch tăng trưởng kéo theo nhu cầu nhân lực du lịch lớn, vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với phát triển nhân lực du lịch. 29
- 2) Đảng và Nhà nước tiếp tục quan tâm tới giáo dục nói chung và phát triển nhân lực du lịch nói riêng, thể hiện trong các chính sách, đặc biệt là việc tập trung chỉ đạo xây dựng quy hoạch phát triển nhân lực du lịch, mở ra cơ hội triển khai một cách bài bản, hệ thống. 3) Kinh nghiệm hơn 20 năm đổi mới và công tác phát triển nhân lực du lịch thời gian qua là bài học quý báu cho giai đoạn tới; sự hỗ trợ của quốc tế về tài chính và kinh nghiệm tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho công tác phát triển nhân lực du lịch. Thành tựu phát triển những năm qua của ngành Du lịch vừa có thêm kinh nghiệm vừa tăng cường nguồn lực vật chất, tài chính cho công tác phát triển nhân lực nâng tầm cao mới với tính chuyên nghiệp cao hơn, đáp ứng tốt hơn yêu cầu hội nhập và cạnh tranh. 4) Sự đầu tư nhiều mặt của Nhà nước và nguồn lực xã hội hóa những năm gần đây trong việc mở rộng mạng lưới cơ sở đào tạo du lịch, tăng cường năng lực cả phần cứng và phần mềm sẽ phát huy hiệu quả những năm tiếp theo; thế hệ giáo viên, giảng viên mới được hình thành đại diện cho thế hệ hiện đại với kiến thức, kỹ năng cập nhật, hội nhập và ngang tầm khu vực là cơ hội tốt để nâng cao chất lượng đào tạo du lịch. 5) Việt Nam ngày càng hội nhập sâu và toàn diện, kinh nghiệm hội nhập và cạnh tranh được củng cố, cơ chế thị trường ngày càng phát huy tác dụng cùng với sức hấp dẫn thu hút đầu tư nước ngoài kèm theo du nhập công nghệ và thị trường trong du lịch là cơ hội cho nhân lực du lịch phát triển và trưởng thành. Cơ hội hợp tác quốc tế và năng lực hội nhập của các cơ sở đào tạo du lịch cũng sẽ có có cơ hội nâng cao. 3.4. Những thách thức: 1) Du lịch tăng trưởng tạo thêm nhiều việc làm và nhu cầu nhân lực ngày càng tăng, đòi hỏi nhân lực có trình độ kiến thức và kỹ năng cao. Nhu cầu du lịch ngày càng đa dạng, đòi hỏi chất lượng sản phẩm, dịch vụ rất khắt khe đặt ra yêu cầu cao đối với nhân lực du lịch cần đào tạo. Nhiều kỹ năng hiếm, ngôn ngữ hiếm yêu cầu cần đáp ứng trong thời gian ngắn hạn là rất khó khăn, hoặc không thể được, dẫn tới hiện tượng giành giật nhân lực khi có khu du lịch mới, sản phẩm mới, thị trường mới. 2) Thu nhập của nghề du lịch có xu hướng giảm, hình ảnh nghề nghiệp có xu hướng mai một, không còn ở vị trí cao (danh giá) như giai đoạn đầu hội nhập nên kém hấp dẫn người học, khó thu hút được đầu vào; mức độ tận tâm, yêu nghề sẽ giảm; nguy cơ chuyển nghề, chuyển khỏi ngành Du lịch xu hướng tăng. 3) Đào tạo thực hành nghề du lịch đòi hỏi công phu, hao tốn về nguyên vật liệu, thời gian, không gian dẫn tới chi phí đào tạo cao, chất lượng đào tạo khó đảm bảo. 4) Sự thiếu hụt giáo viên, giảng viên giỏi cả trình độ chuyên môn, kinh nghiệm thực tiễn và phương pháp giảng dạy hiện đại tiếp tục là thách thức lớn trong việc nâng cao chất lượng đào tạo du lịch trong các cơ sở đào tạo du lịch. 30
- 5) Những xu hướng du lịch mới, du lịch ra nước ngoài và đầu tư du lịch ra nước ngoài tăng lên đòi hỏi hệ thống cơ sở đào tạo du lịch phải thích ứng và đáp ứng nhân lực trong ngắn hạn là rất khó khăn. 6) Nhân lực được đào tạo du lịch tại các vùng sâu, vùng xa tiếp tục thiếu, yếu sẽ là thách thức lớn khi phát triển các khu du lịch mới; việc đào tạo cho dân tộc thiểu số gặp nhiều trở ngại về ngôn ngữ, văn hóa. 7) Môi trường kinh doanh không lành mạnh dẫn tới sự khác biệt giữa nội dung đào tạo với việc áp dụng trong thực tế từ đó gây trở ngại sự phối hợp giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp trong việc đào tạo thực hành; chuẩn mực kiến thức, kỹ năng cần đào tạo và sử dụng trong thực tế khác biệt nhau dẫn tới chất lượng nhân lực khó đảm bảo. Phần thứ 2. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH GIAI ĐOẠN 2011-2020 1. Phương hướng phát triển ngành Du lịch Việt Nam đến năm 2020 1.1. Định hướng: Xuất phát từ Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước giai đoạn 2011-2020, nắm bắt xu thế của thời đại, tranh thủ những cơ hội và phát huy các nguồn lực, bài học rút ra từ giai đoạn trước, Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn 2011-2020 xác định: Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn có tính hiện đại, góp phần quan trọng thúc đẩy các ngành khác phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và mang lại tiến bộ xã hội. Tập trung phát triển du lịch theo hướng chất lượng, có thương hiệu, có trọng tâm, trọng điểm; phát triển đồng thời du lịch nội địa và quốc tế. Phát triển du lịch bền vững, đảm bảo tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa, gắn với an ninh, quốc phòng, trật tự an toàn xã hội; khai thác tối ưu lợi thế quốc gia, các nguồn lực trong và ngoài nước; phát huy mạnh vai trò nòng cốt của doanh nghiệp. 1.2. Mục tiêu: a) Mục tiêu tổng quát: Phấn đấu đến năm 2020, du lịch cơ bản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tính chuyên nghiệp, hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật tương đối đồng bộ, hiện đại; sản phẩm du lịch chất lượng cao, đa dạng, có thương hiệu, có sức cạnh tranh; mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc, thân thiện với môi trường; đưa Việt Nam trở thành điểm đến có đẳng cấp trong khu vực. Đến năm 2030, đưa Việt Nam thành một trong những điểm đến du lịch ưa chuộng, có đẳng cấp trên thế giới. b) Mục tiêu cụ thể: - Về kinh tế: Năm 2015 thu hút 7 - 8 triệu lượt khách du lịch quốc tế, phục vụ 32 - 35 triệu lượt khách nội địa; Tốc độ tăng trưởng khách quốc tế đạt 8,2%/năm và nội địa đạt 7,2%/năm. Năm 2020 thu hút 11-12 triệu lượt khách quốc tế, phục vụ 45 - 48 triệu lượt khách nội địa. Tăng trưởng khách quốc tế là 31
- 8,9%/năm, nội địa là 6,7%/năm. Phấn đấu năm 2030 thu hút 19 - 20 triệu lượt khách quốc tế và 70 triệu lượt khách nội địa. Tăng trưởng tương ứng 5,4% và 4,1%/năm. Năm 2015 thu nhập du lịch đạt 10 - 11 tỷ USD, tăng 16,5%/năm; Năm 2020 thu nhập du lịch đạt 18 - 19 tỷ USD, giai đoạn này tăng trung bình 12,5%/năm. Phấn đấu năm 2030 thu nhập du lịch đạt gấp hơn 2 lần năm 2020. Năm 2015, tỷ trọng GDP du lịch chiếm 5,5 - 6% tổng GDP cả nước, tăng trưởng trung bình giai đoạn này đạt 15,1%/năm. Năm 2020, tỷ trọng GDP du lịch chiếm 6,5 - 7% tổng GDP cả nước, tăng trung bình 12,8%/năm. Tăng cường năng lực cơ sở vật chất kỹ thuật ngành du lịch để đáp ứng nhu cầu phát triển. Số lượng cơ sở lưu trú cần có vào năm 2015: 390.000 buồng lưu trú; năm 2020: 580.000 buồng lưu trú; năm 2030 có khoảng 900.000 buồng lưu trú du lịch. - Về xã hội: Phát triển du lịch nhằm góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa Việt Nam. Tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội, góp phần xoá đói giảm ngh o. Năm 2015 tạo việc làm cho khoảng trên 2,2 triệu lao động (trong đó 620 ngàn lao động trực tiếp), năm 2020 là trên 3 triệu lao động (trong đó 870 ngàn lao động trực tiếp). Góp phần phát triển thể chất, nâng cao dân trí và đời sống văn hoá tinh thần cho nhân dân, tăng cường đoàn kết, hữu nghị, nêu cao tinh thần tự hào dân tộc; mọi thành phần xã hội đều có cơ hội bình đẳng thụ hưởng những giá trị tinh hoa thông qua hoạt động du lịch. - Về môi trường: Phát triển du lịch “xanh”, góp phần giữ gìn các giá trị tài nguyên và bảo vệ môi trường. Đảm bảo môi trường du lịch là yếu tố hấp dẫn du lịch và là tiêu chí cơ bản đánh giá chất lượng, thương hiệu du lịch 1.3. Các chiến lược thành hần Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020 tập trung vào các chiến lược thành phần sau: a) Phát triển sản phẩm và định hướng thị trường: Tập trung xây dựng hệ thống sản phẩm, loại hình du lịch đặc trưng và chất lượng cao trên cơ sở phát huy giá trị tài nguyên du lịch độc đáo, đặc sắc, có thế mạnh nổi trội. Thu hút khách du lịch theo các phân đoạn thị trường, tập trung khai thác thị trường có khả năng chi trả cao. b) Phát triển thương hiệu: Tạo dựng được thương hiệu du lịch Việt Nam và một số thương hiệu du lịch nổi bật được biết đến rộng rãi trong khu vực và trên thế giới. c) Xúc tiến quảng bá: Tập trung đẩy mạnh và chuyên nghiệp hóa hoạt động xúc tiến quảng bá nhằm vào thị trường mục tiêu theo hướng lấy sản phẩm du lịch và thương hiệu du lịch làm trọng tâm. d) Phát triển nguồn nhân lực: Xây dựng lực lượng lao động ngành du lịch đủ về số lượng và đáp ứng yêu cầu về chất lượng, cân đối về cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo để đảm bảo tính chuyên nghiệp, đủ sức cạnh tranh và hội nhập khu vực, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch. đ) Phát triển du lịch theo vùng: Định hướng và tổ chức phát triển du lịch trên bảy vùng lãnh thổ phù hợp với đặc điểm tài nguyên du lịch gắn với vùng kinh tế, vùng văn hoá, vùng địa lý, khí hậu và các hành lang kinh tế, trong đó có 32
- các địa bàn trọng điểm du lịch tạo thành các cụm liên kết phát triển mạnh về du lịch. Phát triển một số loại hình du lịch chuyên đề gắn với vùng ưu tiên. Tổ chức phát triển du lịch theo vùng với không gian và quy mô phù hợp đặc điểm tài nguyên, địa lý và hiện trạng phát triển du lịch; tăng cường khai thác yếu tố tương đồng và bổ trợ trong vùng, yếu tố đặc trưng của vùng và liên kết khai thác sản phẩm có yếu tố liên vùng để phát triển mạnh sản phẩm đặc thù, tạo các thương hiệu du lịch theo vùng. Quy hoạch và đầu tư phát triển du lịch có trọng tâm, trọng điểm theo 7 vùng lãnh thổ sau: Vùng trung du, miền núi phía Bắc; Vùng đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông Bắc ; Vùng Bắc Trung Bộ; Vùng duyên hải Nam Trung Bộ; Vùng Tây Nguyên; Vùng Đông Nam Bộ; Vùng Đồng bằng Sông Cửu Long (Tây Nam Bộ). e) Đầu tư phát triển du lịch: Tập trung đầu tư nâng cao năng lực và chất lượng cung ứng du lịch, tăng cường đầu tư cho cơ sở hạ tầng, xúc tiến quảng bá và xây dựng thương hiệu du lịch. 2. Những yếu tố tác động đến phát triển nhân lực ngành Du lịch giai đoạn 2011-2020 2.1. Các yếu tố quốc tế: - Trên thế giới, cuộc cách mạng khoa học-công nghệ tiếp tục có những bước tiến nhảy vọt, thúc đẩy kinh tế tri thức phát triển, tác động tới tất cả các lĩnh vực và các nước, làm biến đổi nhanh chóng và sâu sắc đời sống vật chất và tinh thần của xã hội. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ và sâu rộng hơn, cuốn hút tất cả các quốc gia, dân tộc tham gia trong thế vừa hợp tác vừa phải cạnh tranh, vừa tạo ra cơ hội, vừa đưa lại nhiều thách thức. Các yếu tố trên tác động rộng, lớn đến cơ cấu và sự phát triển của kinh tế thế giới, mở ra triển vọng mới cho mỗi nền kinh tế tham gia vào phân công lao động toàn cầu; đồng thời mỗi biến động của kinh tế thế giới đều tác động đến các nền kinh tế, nhiều hay ít tùy thuộc vào mức độ hội nhập và trình độ thích ứng của nền kinh tế mỗi nước. Hoạt động du lịch và phát triển nhân lực du lịch không nằm ngoài những tác động đó. - Phát triển du lịch gắn chặt chẽ với việc xây dựng con người, xây dựng gia đình đang là xu thế thời đại. Các quốc gia đều nhận thức lấy phát triển nguồn lực con người làm mục tiêu trung tâm; thông qua du lịch để cân bằng nhịp sống và nâng cao sự hiểu biết của người dân, giáo dục lòng yêu quê hương đất nước, nâng cao dân trí. Ngành Du lịch cần nhân lực đảm đương được nhiệm vụ này. - Giao lưu và hội nhập quốc tế đang diễn ra thuận lợi và nhanh chóng, nhưng cũng là cuộc đấu tranh gay gắt để bảo tồn tính đa dạng và bản sắc văn hóa dân tộc. Quá trình giao lưu, hội nhập quốc tế có khả năng tạo ra những biến đổi lớn về diện mạo, đặc điểm, loại hình du lịch; đồng thời, sự bùng nổ của các phương tiện và công nghệ truyền thông, của công nghệ giải trí cũng tạo nên những tác động cả tích cực và tiêu cực đến đời sống xã hội và công chúng, kéo theo tác động về du lịch và sự phát triển nhân lực du lịch. 33
- - Toàn cầu hoá kinh tế ngày càng rộng và sâu, trong đó các hoạt động kinh tế liên kết giữa các quốc gia tạo thành chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu. Các nước đều muốn và buộc phải tham gia sâu vào quá trình phân công lao động quốc tế. Để tránh tụt hậu và được hưởng lợi nhiều hơn từ kết quả toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế đem lại, các nước phải tham gia vào chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu. Trong một “thế giới phẳng”, “nhỏ dần và chật chội hơn”, mọi quốc gia đều có thể tiếp cận, tham gia trực tiếp vào các khâu, các chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu nếu có nguồn nhân lực được chuẩn bị và đào tạo tốt. Đây là yếu tố đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực du lịch vì tự thân du lịch đã mang tính quốc tế. - Quan hệ song phương, đa phương giữa các quốc gia ngày càng sâu rộng cả trong kinh tế, văn hóa, bảo vệ môi trường và cả trong việc phòng chống các đại dịch thúc đẩy sự di chuyển lao động quốc tế phát triển mạnh, trong đó có nhân lực trình độ cao từ các nước phát triển đến các nước đang phát triển để chiếm giữ những vị trí then chốt về khoa học-công nghệ, quản lý, kinh doanh. Các nước đang phát triển phải phát triển nhân lực để chủ động tiếp cận tri thức, tiếp nhận chuyển giao công nghệ để nắm bắt và tiến tới làm chủ kiến thức và công nghệ, cạnh tranh thắng lợi ngay tại thị trường trong nước; đồng thời chuẩn bị nhân lực cho xuất khẩu lao động, trong đó đặc biệt là xuất khẩu dịch vụ, xuất khẩu tại chỗ thông qua du lịch. Hội nhập quốc tế trong khu vực và trên toàn thế giới ngày càng sâu, rộng thúc đẩy du lịch phát triển. Để đáp ứng yêu cầu đàm phán, hoạch định chính sách chung đến việc tổ chức thực hiện các cam kết, hạn chế những rủi ro, bất lợi và thu lợi nhiều hơn từ các quá trình hợp tác du lịch đòi hỏi Việt Nam phải có nhân lực chất lượng cao. - Sự chuyển giao khoa học kỹ thuật và các công nghệ mới từ nơi nghiên cứu ra thực tế được rút ngắn khoảng cách về không gian và thời gian. Hầu hết thời gian sử dụng của mọi thứ trên lý thuyết chỉ còn từ chín đến mười hai tháng1. Chính việc phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật và công nghệ đã phá vỡ hàng rào ngăn cách địa giới hành chính và các rào cản khác trong giao dịch của con người trên tất cả các lĩnh vực giữa các quốc gia. Internet đã kết nối cả thế giới lại với nhau và ảnh hưởng sâu sắc đến phương thức sản xuất và sinh hoạt của loài người, làm cho bất cứ người nào, bất kể ở đâu đều có thể xây dựng được mối liên lạc với nhau, internet được thay thế bằng evernet2. Phương pháp tổ chức công việc được thay đổi (làm việc tại nhà và cùng một lúc phối hợp với nhiều người trên khắp thế giới). Đời sống xã hội được toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện, kể cả trong đào tạo phát triển nhân lực du lịch. Đây là yếu tố vừa tạo cơ hội vừa là thách thức lớn đối với phát triển nhân lực ngành Du lịch. - Nhu cầu hội nhập quốc tế trong du lịch là tăng cường quan hệ để phát triển; tiếp thu kinh nghiệm; xác lập vị thế trên trường quốc tế; phát triển du lịch và góp phần phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Hội nhập quốc tế trong du lịch sẽ 1 Khách hàng chưa phải là thượng đế, Hal F.Rosenbluth, Diane McFerrin Peters, bản dịch tiếng Việt, Nhà xuất bản Tri thức, năm 2009. 2 Dự báo Thế kỷ 21, Nhà xuất bản Thống kê, năm 1998. 34