Quan hệ hợp tác giữa nhà trường với doanh nghiệp trong đào tạo nghề tại tỉnh Bình Thuận

pdf 11 trang phuongnguyen 60
Bạn đang xem tài liệu "Quan hệ hợp tác giữa nhà trường với doanh nghiệp trong đào tạo nghề tại tỉnh Bình Thuận", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfquan_he_hop_tac_giua_nha_truong_voi_doanh_nghiep_trong_dao_t.pdf

Nội dung text: Quan hệ hợp tác giữa nhà trường với doanh nghiệp trong đào tạo nghề tại tỉnh Bình Thuận

  1. JOURNALOFSCIENCEOFHNUE DOI:10.18173/23541075.20160119 Educational Sci., 2016, Vol. 61, No. 6B, pp. 219228 This paper is available online at QUAN HỆ HỢP TÁC GIỮA NHÀ TRƯỜNG VỚI DOANH NGHIỆP TRONG ĐÀO TẠO NGHỀ TẠI TỈNH BÌNH THUẬN Bùi Văn Hồng1, Trần Thị Kim Chung2 1Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh 2Trường Cao đẳng Nghề Bình Thuận Tóm tắt. Giải pháp phù hợp cho quan hệ hợp tác giữa nhà trường với doanh nghiệp trong đào tạo nghề là một trong những yếu tố quan trọng để phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại tỉnh Bình thuận. Theo đó, doanh nghiệp tham gia đào tạo nguồn nhân lực cùng với trường nghề thông qua quan hệ hợp tác giữa hai bên, dưới sự hỗ trợ của cơ chế chính sách phù hợp với luật pháp. Trong đào tạo nguồn nhân lực, nhà trường chú trọng rèn luyện đạo đức nghề nghiệp, kỉ luật lao động và tác phong công nghiệp; giáo dục kiến thức và kĩ năng nghề nghiệp cơ bản. Còn doanh nghiệp,đào tạo năng lực nghề nghiệp nâng cao; phát triển đạo đức nghề nghiệp, kỉ luật lao động và tác phong công nghiệp cho người học phù hợp với đặc điểm sản xuất. Quan hệ hợp tác giữa trường nghề với doanh nghiệp trong đào tạo nguồn nhân lực có sự hỗ trợ về cơ chế chính sách từ cơ quan quản lí nhà nước sẽ đảm bảo được quyền lợi cho người học, nhà trường và doanh nghiệp, góp phần phát triển nguồn nhân lực địa phương trong bối cảnh hiện nay. Từ khóa: Đào tạo nghề, hợp tác giữa nhà trường với doanh nghiệp. 1. Mởđầu Để đào tạo nhân lực chất lượng cao ở nước ta nói chung và tỉnh Bình Thuận nói riêng, nhất thiết phải gắn liền với nhu cầu xã hội, nhu cầu của thị trường lao động và đặc biệt là nhu cầu lao động theo từng vị trí làm việc của doanh nghiệp (DN). Vì vậy, xác lập mối quan hệ hợp tác (QHHT) giữa cơ sở đào tạo với DN sử dụng lao động tại địa phương, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực là cần thiết và hợp quy luật. Tuy nhiên, chất lượng nguồn nhân lực hiện nay vẫn còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất. Điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu suất lao động của địa phương. Một trong những nguyên nhân chính là do công tác đào tạo nguồn nhân lực chưa có sự gắn kết chặt chẽ với thực tế sản xuất của các DN. Chương trình đào tạo nặng tính hàn lâm, thiếu linh hoạt so với so với sự đa dạng về lĩnh vực sản xuất của xã hội. Vì vậy, công tác đào tạo của nhà trường (NT) đòi hỏi phải gắn với nhu cầu của DN, chương trình đào tạo phải linh hoạt theo sự đa dạng của ngành nghề trong sản xuất nhằm tạo ra các sản phẩm lao động có khả năng đáp ứng tốt nhất nhu cầu của xã hội. Điều đó cho thấy cần phải có mối QHHT thật sự hiệu quả giữa NT với DN, thông qua những giải pháp cụ thể và thiết thực. QHHT giữa NT với DN được hình thành từ rất lâu và được nhiều nước trên thế giới nghiên cứu, ứng dụng, mang lại những lợi ích to lớn cho cả NT, DN và nhà nước. Điển hình như ở CHLB Ngày nhận bài: 15/12/2015. Ngày nhận đăng: 13/5/2016. Liên hệ: Bùi Văn Hồng, email: bvhonglg@yahoo.com 219
  2. Bùi Văn Hồng, Trần Thị Kim Chung Đức với mô hình đào tạo kép [1], ở Na Uy với mô hình đào tạo linh hoạt [2] và ở Nhật với mô hình đào tạo nguồn nhân lực cho địa phương [3]. Theo trung tâm Phát triển Đào tạo nghề châu Âu (Cedefop), có hai nhóm lợi ích chính mà chương trình liên kết đào tạo nghề đem lại, đó là: lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội. Cả hai nhóm lợi ích này đều được phân tích cụ thể qua 3 cấp độ: cấp độ vi mô (lợi ích của cá nhân); cấp độ trung gian (lợi ích của DN); cấp độ vĩ mô (lợi ích của xã hội) [4]. Ở nước ta, hợp tác giữa NT với DN trong đào tạo nguồn nhân lực thực sự đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu. Đây được xác định là bước “đột phá” trong chiến lược nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực. Năm 2015, đánh giá sự cần thiết của việc gắn kết bền vững giữa NT với DN trong đào tạo nguồn nhân lực, Nguyễn Đình Luận đã nhận định: Một trong những nguyên nhân dẫn đến bất cập trong mối QHHT giữa NT và DN ở nước ta hiện nay là do “nhà nước chưa có chính sách cụ thể để phát triển và duy trì mối gắn kết giữa NT và DN” [5]. Theo đó, tác giả khuyến nghị: “Cần phải đổi mới và tăng cường công tác quản lí của nhà nước trong việc xây dựng mối gắn kết bền vững giữa NT và DN”. Khi nghiên cứu về đào tạo nguồn nhân lực trình độ TCCN theo định hướng gắn NT với DN, Bùi Văn Hồng (2015) đã nhận định: “Việc đào tạo nguồn nhân lực cho xã hội không phải chỉ là trách nhiệm của các cơ sở đào tạo, mà còn là trách nhiệm không nhỏ của bản thân các DN sử dụng lao động và cơ quan quản lí nhà nước. Vì vậy, gắn NT với DN trong đào tạo có thể được hiểu là NT và DN cùng tham gia vào quá trình đào tạo nguồn nhân lực, dựa trên sự hỗ trợ của cơ quan quản lí nhà nước, hoặc các quy định của luật pháp” [6]. Với mục tiêu, đề xuất giải pháp cho QHHT giữa NT với DN trong đào tạo nghề tại tỉnh Bình Thuận, bài viết này trình bày kết quả nghiên cứu về cơ sở khoa học của QHHT giữa NT với DN, phân tích mối quan hệ giữa các thành tố, các yếu tố tác động đến tính hiệu quả trong QHHT, các đặc điểm cơ bản về đào tạo nghề và QHHT hiện nay ở Bình Thuận và đề xuất giải pháp cho QHHT giữa NT với DN trong đào tạo nghề tại tỉnh Bình Thuận. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Khái niệm về QHHT tác giữa NT với DN trong đào tạo nghề Quan hệ là sự gắn bó chặt chẽ, có tác động qua lại với nhau. Hợp tác là cùng chung sức làm việc, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau trong một công việc, một lĩnh vực nào đó vì mục đích chung [7]. Đào tạo nghề là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kĩ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khóa học hoặc để nâng cao trình độ nghề nghiệp [8]. Nguồn nhân lực là sức lực, kĩ năng, tài năng và tri thức của những người trực tiếp tham gia hoặc có tiềm năng tham gia vào sản xuất ra sản phẩm hoặc thực hiện các dịch vụ hữu ích [9]. Như vậy, đào tạo nghề thực chất là nhằm phát triển nguồn nhân lực. Hiện nay, trong giáo dục nghề nghiệp, mục tiêu đào tạo cụ thể là đào tạo ở 3 cấp trình độ: Cao đẳng nghề, trung cấp nghề và sơ cấp nghề [8]. Trong thực tế sản xuất, phần lớn các DN khi tuyển dụng người lao động qua đào tạo nghề luôn đặt ra các yêu cầu rất cụ thể, đó là có kỉ luật lao động, đạo đức nghề nghiệp và tác phong công nghiệp; có sức khỏe, có kiến thức, năng lực hành nghề tương ứng trình độ đào tạo; có khả năng sáng tạo, thích ứng với môi trường làm việc trong bối cảnh hội nhập, bảo đảm nâng cao năng suất, chất lượng lao động. Vì vậy, trong phạm vi bài viết này, “QHHT giữa NT với DN trong đào tạo nghề” được hiểu là sự kết hợp giữa một bên là NT và một bên là DN để thực hiện việc trang bị kiến thức, kĩ năng về chuyên môn nghiệp vụ, hình thành thái độ, niềm tin, hành vi đạo đức cho người học, để người học có khả năng đảm đương được các công việc và có được việc làm tại DN khi hoàn thành xong khóa đào tạo. 220
  3. Quan hệ hợp tác giữa nhà trường với doanh nghiệp trong đào tạo nghề tại tỉnh Bình Thuận 2.2. Mối liên hệ giữa các thành tố trong QHHT giữa NT với DN trong đào tạo nghề Các thành tố cơ bản trong QHHT giữa NT với DN trong đào tạo, gồm: NT, DN, và cơ quan quản lí nhà nước về người lao động [6]. Theo đó, quan hệ giữa các thành tố này được minh họa như hình 1 [6], trong đó: Cơ sở đào tạo là các trường nghề có chức năng đào tạo nguồn nhân lực. DN là đơn vị sản xuất, kinh doanh có chức năng sử dụng lao động qua đào tạo theo nhu cầu và đặc điểm sản xuất. Cơ quan quản lí nhà nước về người lao động là đơn vị cầu nối giữa NT với DN và người lao động. Cơ quan này có chức năng xây dựng cơ chế chính sách dựa trên luật pháp nhà nước để bảo vệ người lao động, hỗ trợ NT trong đào tạo và ràng buộc DN tham gia vào quá trình đào tạo nguồn nhân lực với NT, cũng như trả phí đào tạo khi sử dụng lao động mà không tham gia đào tạo. Đồng Hình 1. Các thành tố trong QHHT thời, quy định thời gian làm việc của người lao giữa NT với DN [6] động với DN đã tham gia đào tạo người lao động, . . . Trong mối quan hệ giữa các thành tố trên, thì: Quan hệ giữa NT với DN được thực hiện qua các thỏa thuận hợp tác toàn diện. Qua đó, DN cung cấp nhu cầu lao động, tham gia vào quá trình xây dựng chương trình đào tạo, và phụ trách đào tạo năng lực thực hành nghề nâng cao cho người lao động. NT tuyển sinh, xây dựng chương trình đào tạo theo nhu cầu DN, và tổ chức đào tạo kiến thức, kĩ năng thực hành nghề cơ bản, và rèn đạo đức nghề nghiệp, luyện kỉ luật lao động và tác phong công nghiệp cho người học. Quan hệ giữa NT với cơ quan quản lí nhà nước về người lao động được thực hiện thông qua các cơ chế chính sách phù hợp với pháp luật. NT tiếp nhận thông tin đào tạo và đào tạo bổ sung cho người lao động thông qua tổ chức này, đồng thời, qua tổ chức này cung cấp người lao động qua đào tạo đến DN. Cơ quan quản lí nhà nước về người lao động có nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi cho người lao động và cơ sở đào tạo đối với những DN sử dụng lao động mà không tham gia đào tạo. Quan hệ giữa cơ quan quản lí nhà nước về người lao động với DN cũng được thực hiện thông qua các cơ chế chính sách phù hợp với pháp luật. DN cung cấp nhu cầu và yêu cầu tuyển dụng đến cơ quan quả lí nhà nước, đồng thời, được phép tuyển dụng lao động thông qua tổ chức này. Cơ quan quản lí nhà nước xây dựng cơ chế chính sách ràng buộc DN trả phí đào tạo khi tuyển dụng lao động mà không tham gia đào tạo, đồng thời ràng buộc thời gian làm việc của người lao động tại DN có tham gia đào tạo. Như vậy, tại vùng giao nhau của ba thành tố trong mô hình chính là quan hệ giữa NT với DN trong đào tạo. Do đó, QHHT giữa NT với DN trong đào tạo nhất thiết phải dựa trên QHHT bình đẳng giữa NT với DN và sự hỗ trợ về cơ chế chính sách của cơ quan quản lí. Mặt khác, thông qua quan hệ giữa các thành tố cho thấy: Vùng “thỏa thuận hợp tác giữa NT với DN” do hai bên (NT và DN) tạo nên. Vậy, NT với DN sẽ tạo hợp tác. Vùng “QHHT giữa NT với DN trong đào tạo” do ba bên (NT, DN và cơ quan quản lí nhà 221
  4. Bùi Văn Hồng, Trần Thị Kim Chung nước) hợp thành. Khi đó, cơ chế chính sách hình thành sẽ tác động vào quá trình hợp tác của NT với DN và được kiểm soát bởi cơ quan quản lí nhà nước. Nhận xét: Từ những phân tích trên cho thấy, cơ chế chính sách cho QHHT được hình thành và luôn tồn tại trong các cặp thành tố “cơ quan quản lí nhà nước với DN” và “cơ quan quản lí nhà nước với NT” để góp phần hình thành cũng như tạo sự bền vững cho mối quan hệ giữa NT với DN trong đào tạo nguồn nhân lực. Cơ chế chính sách này hỗ trợ, bổ sung cho NT và DN, nhằm đáp ứng linh hoạt tiến trình QHHT trong đào tạo, thể hiện ở chỗ vừa giúp cho NT vừa giúp cho DN có thêm những nguồn lực trong quá trình hoạt động. Đồng thời, cơ chế chính sách sẽ tạo ra sự công bằng và bền vững cho QHHT giữa NT với DN trong đào tạo. Theo đó, DN tham gia đào tạo nguồn nhân lực cùng với trường nghề thông qua QHHT giữa hai bên, dưới sự hỗ trợ về cơ chế chính sách phù hợp với luật pháp. 2.3. CácyếutốtácđộngđếntínhhiệuquảtrongQHHTđàotạogiữaNTvớiDN 2.3.1. Sự tác động của cơ chế thị trường Hợp tác đào tạo giữa NT với DN chịu tác động sâu sắc của thị trường sức lao động. Kinh tế xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu về lao động có kĩ năng càng tăng, đào tạo nhân lực càng có điều kiện phát triển và ngược lại. Do vậy, đào tạo nhân lực phải gắn với việc làm của xã hội, gắn với nhu cầu của thị trường lao động. Trong hợp tác đào tạo, NT giữ vai trò là nguồn “cung” lao động, DN giữ vai trò là “cầu”, là “khách hàng”. Quan hệ giữa thị trường lao động và dạy nghề thực chất là mối quan hệ khách hàng đối với NT. DN vừa là khách hàng, vừa là chủ thể của hoạt động đào tạo, vừa là cầu tiếp nhận sử dụng lao động vừa tham gia vào quá trình cung ứng lao động. Ngoài ra hợp tác đào tạo còn tiếp nhận những ảnh hưởng của quy luật cạnh tranh, một quy luật cơ bản của nền kinh tế thị trường, về bản chất, cạnh tranh tạo ra động lực phát triển, trong hợp tác đào tạo, quy luật cạnh tranh có tác động tích cực, xóa bỏ sức ỳ và tâm lí thụ động của NT [10]. Như vậy, giải pháp hợp tác đào tạo giữa NT và DN hiện nay phải xây dựng nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho NT, cho nhân lực đã qua đào tạo đồng thời gia tăng chất lượng sản phẩm cho DN. 2.3.2. Sự tác động của cơ chế chính sách Cơ chế chính sách và thể chế của Đảng và Nhà nước là hành lang pháp lí, tạo điều kiện cho QHHT giữa NT với DN được thực hiện. Trên thực tế, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật tuy có, song những hướng dẫn, quy định cụ thể để thực hiện hợp tác đào tạo còn rất hạn chế, gây khó khăn không nhỏ cho các đơn vị tham gia hợp tác. Mặt khác, cơ chế chính sách nếu có lại chưa đồng bộ, chưa đầy đủ và chưa đi vào thực tiễn [10]. Mối gắn kết giữa NT và DN là mối quan hệ cung cầu và quan hệ nhân quả, mang lại lợi ích cho các bên. Song trong khuôn khổ luật pháp hiện nay, các trường và các DN đang hoạt động với hai thể chế khác nhau: Trường nghề là một cơ sở dịch vụ công không vụ lợi, hoạt động theo Luật Giáo dục nghề nghiệp, còn các DN lại chủ yếu hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, lấy lợi nhuận tối đa làm mục tiêu hoạt động của mình. Hai cơ chế này hầu như hoàn toàn trái ngược nhau [11]. Do vậy, nếu không có những văn bản pháp quy làm cầu nối, dung hòa hai thể chế này thì khó có thể thực hiện được mối QHHT giữa NT và các DN một cách có hiệu quả và bền vững. 2.3.3. Năng lực của các bên và sự thống nhất nhận thức trong tham gia hợp tác đào tạo Năng lực đào tạo và chiến lược phát triển của NT; nhu cầu nhân lực và chiến lược phát triển của DN; năng lực của nhà lãnh đạo và quản lí NT, DN là những yếu tố tác động không nhỏ tới việc thiết lập, duy trì QHHT đào tạo cũng như bảo đảm chất lượng, hiệu quả hợp tác đào tạo. Mặt 222
  5. Quan hệ hợp tác giữa nhà trường với doanh nghiệp trong đào tạo nghề tại tỉnh Bình Thuận khác, việc gắn đào tạo với nhu cầu DN chỉ thực sự thành công nếu lãnh đạo các bên thống nhất nhận thức, quyết tâm thực hiện [12]. 2.3.4. Lợi ích của các bên tham gia liên kết đào tạo Yếu tố bảo đảm hài hoà lợi ích các bên liên kết là một trong những điều kiện tiên quyết, quyết định sự hình thành, phát triển bền vững của QHHT giữa NTvới DN. QHHT sẽ được thiết lập và bền vững khi và chỉ khi có lợi ích và lợi ích đó được bảo đảm hài hoà, cân đối. Lợi ích trong mối QHHT đào tạo là sự thỏa mãn, đáp ứng được yêu cầu của các bên tham gia. Đảm bảo hài hoà lợi ích là một yếu tố hết sức quan trọng, bởi lẽ, mục tiêu hoạt động của DN là lợi nhuận. Trong khi đó, mục tiêu đào tạo của NT là phát triển chất lượng con người. Như vậy, xét về mục tiêu hoạt động tuy không tương đồng, nhưng xét về đối tượng tham gia vào quá trình đào tạo, sản xuất lại có điểm chung, phụ thuộc lẫn nhau [13]. Tuy nhiên, trên thực tế sợi dây liên kết giữa NT với DN rất mong manh, kết nối liên kết chưa bền chặt. Một trong những nguyên nhân chính xuất phát từ nhận thức và sự thoả mãn về lợi ích. Chỉ khi, tiếng nói giữa hai phía hòa làm một, QHHT mới được thiết lập đồng nghĩa với việc cần phải có sự can thiệp của nhà nước, các cơ quan quản lí nhà nước thông qua các công cụ là cơ chế chính sách để điều tiết, chi phối cho quá trình quan hệ hợp tác này. Đây cũng là quy luật tất yếu. QHHT giữa NT với DN thì lợi ích NT, lợi ích DN, lợi ích xã hội, lợi ích cho bản thân người học phải được xử lí phù hợp trong mối QHHT. Những lợi ích cơ bản đó sẽ được chính các đối tượng: NT, DN, người học, nhà nước thừa hưởng [5]. 2.4. Đặc điểm công tác đào tạo nghề và QHHT giữa NT với DN trong đào tạo nghề tại Bình Thuận Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 26 cơ sở đào tạo nghề gồm: 01 trường Cao đẳng nghề; 01 trường Trung cấp nghề; 10 trung tâm Dạy nghề công lập; 5 trung tâm Dạy nghề ngoài công lập; 9 cơ sở Dạy nghề ngoài công lập. Ngoài ra, 2 trường Cao đẳng Cộng đồng, Cao đẳng Y tế cũng có tham gia hoạt động đào tạo nghề. Đào tạo theo 3 cấp trình độ (cao đẳng nghề, trung cấp nghề, sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng), thuộc các lĩnh vực như kinh tế, kĩ thuật, du lịch, dịch vụ, nông nghiệp, thủy sản, y tế,. . . Trong đó, một số nghề được xác định cấp độ quốc gia và ASEAN. Theo Báo cáo Sơ kết 05 năm thực hiện Quy hoạch phát triển nhân lực tỉnh Bình Thuận thời kì 2011 2020 [14]: Kết quả thực hiện 5 năm (2011 2015) đào tạo nghề cho 68.069 người, đạt 107,12% kế hoạch. Cụ thể: Cao đẳng nghề là 1.349 người, đạt 101,43% kế hoạch; trung cấp nghề là 2.679 người, đạt 58,49% kế hoạch; sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng là 64.041 người, đạt 111,2% kế hoạch (trong đó dạy nghề cho lao động nông thôn là 50.138 người, đạt 100,68% kế hoạch). Tỉ lệ lao động được đào tạo so với tổng số lao động đang làm việc của các ngành nông lâm nghiệp, thủy sản và công nghiệp xây dựng đến năm 2015 chưa đạt mục tiêu quy hoạch đề ra (ngành nông lâm nghiệp, thủy sản chỉ đạt 46,9%/ mục tiêu 49%; ngành công nghiệp xây dựng chỉ đạt 46,19%/ mục tiêu 62%). Tỉ lệ lao động đào tạo ngắn hạn và sơ cấp chiếm khá lớn (chiếm 41,71%). Tỉ lệ lao động chưa qua đào tạo còn lớn (chiếm 45%); thiếu lao động lành nghề, thiếu các chuyên gia kĩ thuật và quản lí giỏi. Đào tạo chưa thật sự gắn kết chặt chẽ với nhu cầu của DN để giải quyết việc làm tại chỗ cho lao động sau đào tạo, đồng thời có rất ít DN sản xuất, kinh doanh trên địa bàn tỉnh có nhu cầu về lao động kĩ thuật có tay nghề. Học sinh, sinh viên (HSSV) ra trường tiếp cận với công việc thực tế còn khó khăn, một bộ phận làm việc trái ngành nghề đào tạo hoặc không được tuyển dụng vào làm việc phù hợp với trình độ đã được đào tạo. Tốc độ phát triển kinh tế xã hội của tỉnh còn hạn chế so với tiềm năng và yêu cầu, chưa tạo ra nhiều chỗ làm việc mới thu hút lao động dẫn đến thị trường lao động kém phát triển. Nhu 223
  6. Bùi Văn Hồng, Trần Thị Kim Chung cầu sử dụng lao động có trình độ tay nghề ít và không ổn định, khó gắn kết giữa cơ sở đào tạo với địa chỉ sử dụng lao động của DN. Nguồn lao động thuộc các lĩnh vực như: Du lịch, dịch vụ vẫn chủ yếu dựa vào lao động phổ thông có tay nghề thấp, chưa qua đào tạo hoặc chỉ đào tạo tại chỗ để đưa vào sử dụng. Sự phối hợp triển khai giữa các sở, ngành, đoàn thể và các địa phương thiếu chặt chẽ. Đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao động chưa thật phù hợp; ngành nghề đào tạo chưa gắn với nhu cầu của xã hội và của người lao động; việc gắn kết giữa đào tạo của cơ sở đào tạo với địa chỉ sử dụng lao động của DN còn hạn chế. Bản thân người lao động chưa nhận thức đúng đắn trách nhiệm và quyền lợi khi tham gia học nghề; một bộ phận người lao động ngại khó khi tham gia học nghề. Có thể rút ra mấy điểm về công tác đào tạo nghề và vấn đề hợp tác giữa NT và DN trong đào tạo ở Bình Thuận [15]: Nguồn nhân lực ở tỉnh khá dồi dào, nhưng chưa được sự quan tâm, khai thác đúng mức. Chất lượng nguồn nhân lực nhìn chung chưa đáp ứng kịp nhu cầu thực tế. Chất lượng, hiệu quả đào tạo nghề chưa cao. Nội dung đào tạo chưa gắn với nhu cầu thực tế. QHHT giữa NT và DN trong đào tạo nguồn nhân lực chưa được thúc đẩy, hoạt động mang tính tự phát, thời vụ, quan hệ kém mặn mà, chưa trở thành hoạt động chung. Các cơ sở đào tạo nghề và DN chưa tích lũy được kinh nghiệm trong hợp tác đào tạo cũng như chưa chưa xây dựng được “văn hóa” hợp tác. Như vậy, có thể nói rằng, cùng với quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường và hội nhập, sự gắn kết giữa đào tạo với sử dụng, giữa NT với xã hội đã có xu hướng tăng lên. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn nhiều bất cập, sản phẩm đào tạo vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của nền kinh tế xã hội, của các nhà tuyển dụng. Nguyên nhân có nhiều, trong đó có cả nguyên nhân từ phía nhà đào tạo, nhà sử dụng và cả nguyên nhân từ phía xã hội. 2.5. Giải pháp thúc đẩy QHHT giữa NT với DN trong đào tạo nghề tại tỉnh Bình Thuận Từ các cơ sở khoa học và thực tiễn đã được phân tích ở mục 2.2, 2.3, 2.4, các giải pháp cho việc thúc đẩy QHHT giữa NT với DN trong đào tạo nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề tại tỉnh Bình Thuận được đề xuất như sau: 2.5.1. ĐốivớiNTvàDN Giải pháp 1. Tăng cường công tác thông tin, trao đổi và các hoạt động liên kết dự báo nhu cầu ngành nghề, nhân lực. Giải pháp này nhằm giúp cho NT nắm bắt được nhu cầu ngành nghề, nhân lực cần có để lập kế hoạch và tổ chức đào tạo cho phù hợp. Ngược lại các DN hiểu được khả năng đào tạo của NT để có được đơn đặt hàng theo nhu cầu. Hạn chế tình trạng đào tạo không gắn nhu cầu sử dụng; HSSV tốt nghiệp không tìm được việc làm trong khi DN không có đủ lao động. Giải pháp 2. Phối hợp đồng bộ và lựa chọn linh hoạt các mô hình, phương thức, nội dung trong hợp tác giữa cơ sở đào tạo nghề và DN trong đào tạo. Giải pháp này nhằm giúp NT và DN lựa chọn phù hợp với đặc thù của từng cơ sở đào tạo, từng DN và từng ngành nghề cụ thể. Giải pháp 3. Giao quyền tự chủ về chương trình đào tạo về cho NT, cơ quan quản lí chỉ nên quản lí mục tiêu, chuẩn đầu ra và tiêu chí kiểm định chất lượng. Như vậy sẽ giúp NT cùng với DN phối hợp với nhau trong việc xây dựng chương trình đào 224
  7. Quan hệ hợp tác giữa nhà trường với doanh nghiệp trong đào tạo nghề tại tỉnh Bình Thuận tạo linh hoạt theo hướng module, tín chỉ nhằm thuận lợi cho việc tổ chức đào tạo song song giữa NT với DN. Giải pháp 4. Đổi mới công tác phát triển chương trình, phương pháp đào tạo; đào tạo và tổ chức đào tạo, kiểm tra đánh giá và công nhận tốt nghiệp theo hướng có sự tham gia của DN. Theo đó, việc xây dựng khung chương trình giảng dạy sẽ đảm bảo tính linh hoạt, tiên tiến, đào tạo ra những con người có khả năng học tập suốt đời; biên soạn và cải tiến chương trình, giáo trình giảng dạy phù hợp với yêu cầu thực tiễn và yêu cầu của từng giai đoạn phát triển, mở được các ngành đào tạo phù hợp với nhu cầu của DN; kiểm tra chặt chẽ, sâu sát chất lượng HSSV, thực hiện phương pháp đánh giá từ bên ngoài (DN) kết hợp với đánh giá bên trong (NT). Theo đó, việc xây dựng chuẩn đầu ra cho người học cần có sự tham khảo nhu cầu thị trường và DN, việc cấp chứng chỉ cho người học DN phải được trao một phần quyền trong đó và DN được tham gia Hội đồng chấm khoá luận tốt nghiệp vì họ là người sử dụng lao động. Giải pháp 5. Thành lập các tổ chức, dịch vụ gắn kết nhà trường với doanh nghiệp và tăng cường các hoạt động phối hợp, liên kết. Thành lập bộ phận quan hệ hợp tác DN trong các trường; tăng cường chặt chẽ hơn nữa về mối quan hệ giữa cựu sinh viên với NT; tổ chức các Hội nghị giao lưu DN, NT và HSSV, các cuộc thi theo những chủ đề nhất định, nhằm phát hiện năng lực của HSSV vì mục đích phát triển DN, xây dựng kế hoạch cụ thể để đưa và tiếp nhận cán bộ quản lí, giáo viên (GV), HSSV tham quan học tập kinh nghiệm tại DN theo từng năm học. Giải pháp 6. Quan tâm hỗ trợ tài chính, cơ sở vật chất (CSVC) và lực lượng GV dạy thực hành, đồng thời, xây dựng các kế hoạch, chiến lược gắn với hoạt động hợp tác giữa NT với DN, cũng như các chế độ đãi ngộ khác, cụ thể như sau: Đối với DN: Hỗ trợ học bổng cho HSSV, kí kết các hợp đồng tư vấn, nghiên cứu khoa học, hợp đồng tuyển dụng với HSSV hiện đang học với những điều kiện cụ thể; cử các chuyên viên, chuyên gia, kĩ sư, công nhân lành nghề tham gia trực tiếp giảng dạy hoặc hướng dẫn thực hành tại NT phù hợp với năng lực và thế mạnh của DN; xây dựng kế hoạch cụ thể và lâu dài trong việc phát triển nguồn nhân lực bằng việc gắn kết chặt chẽ giữa DN với NT trong việc đào tạo và sử dụng. Đồng thời, với giải pháp này, DN có trách nhiệm hỗ trợ NT về CSVC, máy móc thiết bị khi mà mức độ đầu tư của NT chỉ ở mức tương đối, điều đó nhằm giảm bớt chi phí cho NT và lãng phí từ DN. Đối với NT: Xây dựng cơ chế để các DN tham gia vào quá trình biên soạn chương trình đào tạo; cải thiện chính sách đối với GV hướng dẫn thực hành; ưu tiên tuyển dụng, có chế độ đãi ngộ phù hợp đối với những GV có kinh nghiệm làm việc trong các DN, xây dựng tiêu chuẩn đứng lớp đối với GV; tạo cơ chế để Hội cựu HSSV những cựu HSSV đang làm việc tại DN tham gia hiệu quả vào hoạt động hợp tác giữa NT và DN. Giải pháp 7. Đẩy mạnh hợp tác nghiên cứu khoa học và thương mại hóa các kết quả nghiên cứu. Đây là giải pháp có hình thức hợp tác cao nhất giữa NT với DN. 2.5.2. Đối với nhà nước Các giải pháp về cơ chế chính sách Giải pháp 1: Thành lập cơ quan quản lí nhà nước về quan hệ DN, điều phối hoạt động hợp tác giữa NT với DN, đại diện nhà nước bảo vệ quyền lợi cho NT, cho DN và cho người lao động tham gia vào hoạt động hợp tác đào tạo. Cơ quan này là đơn vị cầu nối giữa NT với DN và người lao động, có trách nhiệm theo dõi, quản lí quá trình hợp tác đào tạo, xây dựng bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng hoạt động hợp tác giữa NT với DN và xây dựng các cơ chế chính sách dựa trên luật pháp để tạo ra sự công bằng và bền vững cho quan hệ giữa NT với DN trong đào tạo nghề. Giải pháp 2: Xây dựng hệ thống văn bản pháp quy hướng dẫn thi hành và thể chế hóa mối 225
  8. Bùi Văn Hồng, Trần Thị Kim Chung quan hệ NT với DN trong Luật Giáo dục nghề nghiệp, Luật DN. Theo đó, quy định cụ thể quyền và trách nhiệm, phương thức hợp tác, tránh những xung đột lợi ích, hay những mâu thuẫn từ mục tiêu phát triển giữa hai bên. Trên cơ sở đó, NT và DN sẽ tìm kiếm những con đường riêng phù hợp với đặc thù của mình. Giải pháp 3: Xây dựng các chính sách khen thưởng, kỉ luật, kiểm tra việc thực hiện trách nhiệm của các bên liên quan trong việc thực thi các quy định về hợp tác NT với DN. Ciải pháp này nhằm động viên, khuyến khích, ràng buộc và tăng cường trách nhiệm của các bên trong hợp tác đào tạo và nâng cao chất lượng hoạt động QHHT giữa NT với DN. Cụ thể hóa các chính sách theo từng lĩnh vực Cụ thể hóa các chính sách theo từng lĩnh vực, đó là những giải pháp cụ thể về cơ chế chính sách, gồm: Một là, xây dựng quy định về sử dụng lao động sau đào tạo Ở nước ta, một nghịch lí là trong cơ chế thị trường nhưng người sử dụng lao động lại không trả tiền cho người cung ứng lao động, cho các cơ sở đào tạo nghề. Vì vậy, cần có chính sách thuế trong sử dụng lao động sau đào tạo, có chế độ miễn trừ đối với những DN có hợp tác đào tạo với cở sở đào tạo nghề dưới mọi hình thức. Theo đó, sẽ tạo sự ràng buộc các DN hoặc tham gia đào tạo nguồn nhân lực, hoặc trả phí đào tạo khi sử dụng lao động mà không tham gia đào tạo, tạo sự công bằng giữa NT và DN. Đồng thời giải pháp này cũng tạo ra cơ chế bảo vệ quyền lợi người lao động, cũng như ràng buộc thời gian làm việc của người lao động với DN đã tham gia đào tạo ra họ. Mặt khác, để có nguồn nhân lực chất lượng trong sản xuất kinh doanh, tránh lãng phí nhân lực đã qua đào tạo, cần có cơ chế cho việc tuyển dụng lao động phải qua đào tạo vào làm việc tại các DN. Hai là, chính sách về xây dựng, trao đổi và sử dụng hệ thống thông tin đào tạo việc làm trong NT và DN và việc sử dụng CSVC, tài chính của DN cho đào tạo. Trong cơ chế thị trường, NT và DN có mối quan hệ cung cầu, vì vậy nhà trường và DN cần có một hệ thống thu thập và trao đổi thông tin được cập nhật thường xuyên về khả năng đào tạo và nhu cầu việc làm, nếu không có hệ thống thông tin hai chiều này một cách kịp thời, chính xác thì đào tạo không gắn được với sử dụng, với nhu cầu xã hội, người học tốt nghiệp không tìm được việc làm trong khi các DN không có đủ lao động để phát triển sản xuất là điều không tránh khỏi. Vì vậy, cần thiết phải có chính sách để khuyến khích và hỗ trợ NT và DN trong việc xây dựng hệ thống thông tin về đào tạo, việc làm, dự báo nhu cầu ngành nghề, nhân lực, cũng như thành lập các tổ chức, dịch vụ gắn kết giữa NT với DN. Một trở ngại trong mối quan hệ giữa trường và DN là mỗi bên đều phải thực hiện nhiệm vụ chủ yếu của mình. DN phải thực hiện sản xuất theo kế hoạch đã hoạch định hàng năm, khi nhận người học từ các trường, DN cần bố trí nguồn lực cho việc tham gia đào tạo, nên ít nhiều sẽ ảnh hưởng đến kế hoạch sản xuất. Nhiều DN thường phải chạy đua với kế hoạch sản xuất nên không mấy mặn mà với việc thực hiện hợp tác với NT trong đào tạo. Mặt khác, vì NT chỉ đào tạo người lao động ở một mức nào đó về năng lực nghề nghiệp, nên việc đầu tư trang thiết bị cũng chỉ ở mức tương đối, nhưng cần đầy đủ về số lượng cho người học luyện tập thực hành. Như vậy, để tránh việc đầu tư vào thiết bị đắt tiền, số lượng ít, nhưng không sử dụng được trong đào tạo, cần có chính sách tạo hành lang pháp lí cho việc huy động CSVC của DN cho các kế hoạch đào tạo, theo phương thức giao nghĩa vụ, cũng như ở NT việc đầu tư trang thiết bị phục vụ đào tạo nên ở mức độ cơ bản và đầy đủ. Ba là, xây dựng chính sách thu hút chuyên gia, công nhân lành nghề từ DN đến NT tham gia giảng dạy và chính sách tài chính đối với người học nghề trong quá trình thực tập sản xuất tại DN. Lực lượng lao động ở các DN hiện là những quản lí, kĩ sư, công nhân, . . . có trình độ lí 226
  9. Quan hệ hợp tác giữa nhà trường với doanh nghiệp trong đào tạo nghề tại tỉnh Bình Thuận thuyết và tay nghề cao, đặc biệt họ được tiếp cận thường xuyên với công nghệ mới và kĩ thuật tiên tiến, đây là nguồn lao động quý đối với các trường. Nhà nước đã có chủ trương về việc cơ sở đào tạo nghề sử dụng GV kiêm nhiệm từ các cơ sơ sản xuất, tuy nhiên, trên thực tế đang có nhiều vướng mắc cần được tháo gỡ, đặc biệt là quy định về chế độ lao động và đãi ngộ của đội ngũ GV kiêm nhiệm này. Do vậy, việc xây dựng các chế độ, chính sách phù hợp để thu hút họ là hết sức cần thiết. Mặt khác, người học từ NT đến các DN thực tập một mặt là để rèn luyện kĩ năng theo chương trình học tập của nhà trường, mặt khác là để tham gia cùng các công nhân của DN sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội. Bởi vậy, họ cần được đối xử với cả 2 tư cách: Vừa là người học vừa là người lao động, nên phải được trả tiền công tương xứng. Vì vậy cần có cơ chế ràng buộc cũng như kiểm tra giám sát việc thực hiện nghĩa vụ này của DN. Bốn là, xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ của nhà nước, các cấp, các ngành cho các DN và NT để giải quyết các khó khăn nảy sinh trong quá trình triển khai thực hiện QHHT đào tạo và đối với DN có các hình thức hợp tác chặt chẽ với NT Trong việc triển khai thực hiện hợp tác đào tạo với NT, bên cạnh những lợi ích thu được, các DN thường cũng gặp không ít khó khăn về nguồn lực và thời gian. Việc tham gia hợp tác đào tạo với NT dẫn đến việc phân tán nguồn lực của sản xuất và ít nhiều cũng ảnh hưởng đến kế hoạch và tiến độ sản xuất. Hiện nay, các DN chưa có điều kiện để xây dựng những phân xưởng dành riêng để đào tạo nghề và bố trí công nhân, kĩ sư giỏi tham gia đào tạo liên kết với các trường. Do vậy, cần có chính sách để hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện tốt hợp tác đào tạo với NT, đặc biệt là khi DN gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh. Mặt khác, để tạo công bằng trong hoạt động đối với các DN, thúc đẩy QHHT giữa NT và DN cần có chính sách hỗ trợ đối với DN có các hình thức hợp tác chặt chẽ với NT và chế độ đãi ngộ cho các trường như: Bổ sung biên chế, chế độ tiền lương, tiền công, đầu tư các nguồn lực khác phục vụ cho hoạt động QHHT với DN được hiệu quả. 3. Kết luận Trong bối cảnh hiện nay, khi mà người học chưa thật sự quan tâm đến đào tạo nghề, công tác đào tạo nghề chưa đáp ứng nhu cầu xã hội, thì hoạt động đào tạo nghề cần phải dựa trên QHHT giữa NT với DN được xem là một trong những hướng đi hợp quy luật cả về lí luận và thực tiễn. Vì vậy, xây dựng các giải pháp phù hợp cho QHHT tác giữa NT với DN trong đào tạo nghề là một trong những yếu tố quan trọng để phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại tỉnh Bình thuận nói riêng và cả nước nói chung. Theo đó, QHHT giữa trường nghề với DN trong đào tạo nguồn nhân lực nhất thiết phải có sự hỗ trợ về cơ chế chính sách từ cơ quan quản lí nhà nước nhằm đảm bảo được quyền lợi cho người học, NT và DN. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nguyễn Văn Cường, 2012. Tổng quan hệ thống giáo dục CHLB Đức, [2] tc/giaoduckhoahoc/35kinhnghimtmohinh daotovadynghuutucanauy. [3] [4] Cedefop, 2011. The benefits of vocational education and training. Publications office of the European Union, Luxembourg. 227
  10. Bùi Văn Hồng, Trần Thị Kim Chung [5] Nguyễn Đình Luận, 2015. Sự gắn kết giữa nhà trường và doanh nghiệp trong đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị. Tạp chí phát triển và hội nhập Giáo Dục và Đào Tạo, 22 (32), tr. 8287. [6] Bùi Văn Hồng, 2015. Đào tạo nguồn nhân lực trình độ TCCN theo hướng gắn nhà trường với doanh nghiệp. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Số 60(8D), tr. 6471. [7] Đại Từ điển Tiếng Việt. NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2000. [8] Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, 2014. Luật Giáo dục nghề nghiệp. số 74/20014/QH 13 [9] Nguyễn Lộc, 2010. Những vấn đề lí luận cơ bản về phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam. Đề tài KHCN cấp Bộ, mã số: B20063702TĐ. [10] Nguyễn Tuyết Lan, 2015. Quản lí liên kết đào tạo giữa Trường CĐN với doanh nghiệp ở tỉnh Vĩnh Phúc đáp ứng yêu cầu phát triển nhân lực. Luận án Tiến sĩ, Viện Khoa học giáo dục Việt Nam. [11] Nguyễn Xuân Mai, 2010. Hoàn thiện chính sách để phát triển liên doanh, liên kết giữa các trường dạy nghề và doanh nghiệp đào tạo. Tạp chí Giáo dục, 57, tr. 5557. [12] Phùng Xuân Nhạ, 2009. Mô hình đào tạo gắn với nhu cầu của doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay. Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, 25, tr. 18. [13] Đặng Quốc Bảo Bùi Đức Tú, 2007. Mối liên kết giữa Trung tâm hướng nghiệp dạy nghề và doanh nghiệp. Tạp chí Khoa học, Đại học Đà Nẵng, 19, tr. 106110. [14] UBND tỉnh Bình Thuận, 2015. Báo cáo sơ kết 05 năm thực hiện Quy hoạch phát triển nhân lực tỉnh Bình Thuận thời kỳ 2011 – 2020. [15] Tỉnh ủy Bình Thuận, 2015. Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ lần thứ XIII (nhiệm kỳ 2015 – 2020). ABSTRACT Schoolenterprise collaboration in vocational training in Binh Thuan Province Bui Van Hong1, Tran Thi Kim Chung2 1Ho Chi Minh City University of Technology and Education 2Binh Thuan Province Vocational College Increasing schoolenterprise cooperation in vocational training is one way to develop and improve the quality of human resources in Binh Thuan Province. Accordingly, enterprises could join with vocational schools to train human resources in compliance with supportive legal policies. In training, the schools would teach professional ethics, labor discipline and industrialstyle production while providing basic knowledge and professional skills. The enterprises would teach the students that which is needed for particular jobs, professional ethics and industrialstyle production. The vocational schoolenterprise cooperation, with the support of governmental policies, would ensure the interests of the students, vocational schools and enterprises, thus contributing to the development of local human resources. Keywords: Vocational training; SchoolEnterprise cooperation in vocational training. 228
  11. BÀI BÁO KHOA HỌC THỰC HIỆN CÔNG BỐ THEO QUY CHẾ ĐÀO TẠO THẠC SỸ Bài báo khoa học của học viên có xác nhận và đề xuất cho đăng của Giảng viên hướng dẫn B n ti ng Vi t ©, T NG I H C S PH M K THU T TP. H CHÍ MINH và TÁC GI Bản quếy n táệc ph mRƯ ãỜ cĐ bẠ o hỌ b Ưi Lu tẠ xu t Ỹb n vàẬ Lu t S hỒ u trí tu Vi t Nam. NgẢhiêm c m m i hình th c xu t b n, sao ch p, phát tán n i dung khi c a có s ng ý c a tác gi và ả ng ề i h ẩ pđh đưm ợK thuả tộ TP.ở H ậChí Mấinh.ả ậ ở ữ ệ ệ ấ ọ ứ ấ ả ụ ộ hư ự đồ ủ ả Trườ Đạ ọCcÓ Sư BÀI BạÁO KHỹ OA ậH C T ồT, C N CHUNG TAY B O V TÁC QUY N! ĐỂ Ọ Ố Ầ Ả Ệ Ề Th c hi n theo MTCL & KHTHMTCL h c 2017-2018 c a T vi n ng i h c S ph m K thu t Tp. H Chí Minh. ự ệ Năm ọ ủ hư ệ Trườ Đạ ọ ư ạ ỹ ậ ồ